Guigliemo Carchedi có một cuốn sách đáng chú ý về chủ nghĩa duy vật lịch sử tên là Behind The Crisis, trong đó có một chương bàn về vai trò của tri thức trong xã hội tư bản.
Trước hết cần phải hiểu là Carchedi phủ nhận lối phân chia lao động trí óc và lao động chân tay, ông phân chia thành hai loại lao động là lao động tinh thần (mental labour) và lao động vật chất (objective labour), và cả hai loại lao động này đều cấu thành từ lao động trừu tượng và lao động cụ thể, ông phủ nhận lao động trí óc hay lao động chân tay thuần túy, mà coi mọi loại lao động đều bao gồm cả chân tay và trí óc.
Carchedi đặt vấn đề tri thức là vật chất, dựa trên cơ sở quá trình sản xuất ra tri thức cũng là quá trình vật chất, do có sự hao phí sức lao động của con người. Song không phải mọi loại tri thức đều là vật chất, trong quá trình sản xuất ra tri thức thì người lao động sử dụng tri thức chủ quan (công cụ lao động) để biến đổi tri thức khách quan (đối tượng lao động), đã được vật chất hóa, ví dụ một sáng kiến được lưu trong máy tính, thành tri thức mới. Theo quan điểm của Carchedi thì tri thức khách quan mới là vật chất, hay nói cách khác, tri thức đã được vật chất hóa.
Tại sao điều đó lại cần thiết? Bởi vì nó là cơ sở để giải thích quá trình sản xuất và tích lũy tri thức xã hội, nó bác bỏ quan niệm của giới tri thức về việc đồng nhất tri thức chủ quan với khách quan và dẫn đến quan niệm kiểu workerism.
Trong chương về tri thức, G. Carchedi phê phán quan niệm của phái workerism, phái này dựa vào một đoạn trích dẫn Marx nói về vai trò của tri thức chung, tức là tri thức chung trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Họ lập luận rằng dưới chủ nghĩa tư bản thì tri thức xã hội tăng lên không ngừng, được khuếch tán rộng rãi khiến cho nhà tư bản không còn dựa vào lao động trực tiếp được nữa mà ngày càng phải dựa vào tri thức chung của xã hội để tồn tại, mà tri thức này lại nằm trong tay công nhân. Do đó xã hội tư bản sẽ tự biến đổi thành xã hội của công nhân. G. Carchedi chỉ ra rằng các nhà kinh tế chính trị theo phái workerism đã lảng tránh vấn đề sản xuất tri thức trong chủ nghĩa tư bản. Dựa trên phân tích về sản xuất tri thức theo phương pháp phân tích hàng hóa của Marx, tức là phân tích giá trị sử dụng và giá trị, quá trình sản xuất giá trị đồng thời là sản xuất giá trị thặng dư, G. Carchedi chỉ ra rằng, tri thức xã hội chung là món quà tặng miễn phí mà chủ nghĩa tư bản chiếm được, nó chỉ tạo ra giá trị sử dụng, không tạo ra giá trị, rất nhiều tri thức được tạo ra nhằm phục vụ trực tiếp cho sản xuất hoặc phi sản xuất nhưng không bán được cũng không phải là sản xuất giá trị. Bên cạnh đó, việc sản xuất tri thức để bán, tức là sản xuất giá trị ngày càng phát triển, tức là trái ngược với hình dung của phái workerism, việc sản xuất tri thức lại ngày càng rơi vào sự kiểm soát của tư bản, thay vì công nhân.
G. Carchedi nhấn mạnh vào phần sản xuất tri thức trở thành sản xuất giá trị, tức là để đem bán. Việc sản xuất đó hoàn toàn diễn ra trong các điều kiện của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và không cần đến sự thay thế nó. Phái workerism hình dung rằng việc tri thức xã hội trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội theo tiến trình tự nhiên. Carchedi phê phán quan niệm này và chỉ ra là chủ nghĩa tư bản có khả năng kiểm soát việc sản xuất tri thức.
Tóm lại, trong chủ nghĩa tư bản thì sản xuất tri thức ngày càng trở thành sản xuất giá trị, tức là để đem bán lấy tiền. Các nhà khoa học, kỹ sư vĩ đại ngồi trên ngai vàng lấp lánh của chúng ta luôn mơ đến ngày họ sẽ biến thế giới này thành một cỗ máy do họ điều khiển, thay cho những nhà tư bản béo mập, nhưng thực tại đập vào mặt họ là cần phải bán những tri thức họ tạo ra lấy tiền đã, còn không thì về mặt giá trị xã hội họ còn thua cả anh chàng dọn vệ sinh bẩn thỉu mà họ vẫn thường gọi một cách khinh bỉ là đám lao động chân tay hạ đẳng.
Criticism has torn up the imaginary flowers from the chain not so that man shall wear the unadorned, bleak chain but so that he will shake off the chain and pluck the living flower.
Sunday, October 7, 2018
Sản xuất tri thức và sản xuất vật chất
Labels:
Chủ Nghĩa Xã Hội,
Đời sống,
Khoa học,
Kinh Tế,
Kinh tế chính trị học,
Tư bản,
Văn hóa,
Văn minh,
Xã hội
Sunday, August 26, 2018
Tin tức về một tay giặc lái
Ảnh: Bia John McCain ở hồ Trúc Bạch Nguồn: Internet |
-Tôi có tin tốt lành cho các vị đây: McCain đang được bay lên thiên đường với đức Chúa Trời.
- Ông ấy đã tới nơi chưa, thưa cha? Một người hỏi.
Mục sư nói tiếp:
- Còn đây là tin xấu: Tụi Việt Cộng đã bắn rơi máy bay của ông ấy.
(Chuyện bịa, nhưng không nhất thiết phải khác với sự thật)
P/s: Nhiều năm nữa người ta sẽ quên John McCain, như đã quên Bill Clinton, nhưng tấm bia hồ Trúc Bạch sẽ luôn còn đó, nhắc nhở người Việt Nam về những gì họ đã phải làm để giành lấy độc lập, tự do và phẩm giá.
Labels:
Chiến tranh,
Chính trị,
Hoa Kỳ,
John McCain,
Nhà tù,
Nhân Đạo,
Nhân quyền,
Quốc tế,
Thời Sự,
Việt Nam,
Xã hội
Friday, August 24, 2018
Chuyện thành phố được gọi theo tên người
Chuyện thành phố được đặt tên theo một nhân vật nào đó, hoặc là trong huyền thoại hoặc là có thật trong lịch sử, chẳng phải là hiếm có trên thế giới. Người ta chỉ cần tra mạng internet thôi cũng đã ra hàng sa số, ví dụ như nước Úc hoặc Hoa Kỳ đều từng là thuộc địa của nước Anh nên phải gánh cái vinh dự có rất nhiều thành phố mang tên mấy ông quý tộc hay chính khách cha căng chú kiết người Anh, những người chả có tí gì công trạng với địa phương và giờ cũng chả còn ai nhớ đến nữa. Những cái tên nổi tiếng như Sydney (một chính khách người Anh), Melbourne (một thủ tướng Anh) ở Australia, hoặc New York (đặt theo tên James of York and Albany, vua James II của Anh, công tước xứ York và Albany), bây giờ chỉ còn là những cái tên văn minh phương Tây, chẳng phải tên người nào hết.
Ở Việt Nam lắm kẻ đòi bỏ tên thành phố Hồ Chí Minh vì lý do phải văn minh như Tây, không nên lấy tên người đặt tên cho thành phố nào hết. Thật là cái gì vừa ý người ta thì người ta lấy Tây ra để dọa, còn Tây làm gì trái ý thì người ta lờ đi. Văn minh như Hoa Kỳ lẽ ra không lấy tên ông tổng thống Washington để đặt tên cho thủ đô.
Lại có đám khác tán nhảm ra rằng sở dĩ Việt Nam đặt tên là thành phố Hồ Chí Minh ấy là học theo Liên Xô, lấy tên lãnh tụ đặt tên cho thành phố này thành phố kia để thỏa cái bệnh sùng bái cá nhân. Điều này cũng nhảm nhí nốt, Liên Xô không phải nước hay đặt tên thành phố theo tên người, các nước theo truyền thống quý tộc phong kiến lâu đời của châu Âu như Anh, Pháp, Bỉ, Đức, Tây Ban Nha mới làm việc đó, sau này còn có các nước Nam Mỹ chịu ảnh hưởng từ văn hóa của thực dân Tây Ban Nha/Bồ Đào Nha cũng hay làm vậy. Philippines, cái tên của một quốc gia Đông Nam Á, hẳn là người văn minh đã quên mất là tên của một ông vua Tây Ban Nha. Ở Việt Nam người ta thường hay nhắc đến thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cũng lại hay quên mất rằng đó không phải là thành phố đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam mang tên một con người. Tấm ảnh và bài thơ ở trên nhắc đến nguồn gốc cái tên của một thành phố ở miền Tây Nam Bộ, đó là thành phố Cao Lãnh, trung tâm của tỉnh Đồng Tháp. Cái tên đó đã có từ hồi đầu thế kỷ 19, vốn ghép từ chức vụ và tên tục của người lập ra chợ vườn quít và sau này trở thành thành phố Cao Lãnh.
Suốt từ thời phong kiến cho đến Pháp thuộc rồi sau này được giải phóng, không ai có ý định hay dám đổi cái tên ấy cả. Trong thành phố Cao Lãnh hiện nay còn có một tấm bia đá ghi rõ sự tích cái tên ấy. Cái tên đó không phải là tâm điểm chính trị để người ta bày tỏ sự thù địch với chế độ cộng sản nên cũng không bị coi là xuất phát từ một truyền thống lạc hậu kém văn minh hay do chế độ cộng sản áp đặt. Điều đáng chú ý nữa là thành phố Cao Lãnh có khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, trong đó có mộ phần của cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã sinh sống ở vùng này sau khi bị bãi chức quan. Vậy là "long mạch" của chế độ cộng sản Việt Nam chẳng phải nằm ở miền Bắc mà lại nằm ở miền Tây Nam Bộ, được bao bọc bởi truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn trọng người biết xả thân vì nước vì dân, đã có từ lâu đời.
P/s: Ngoài Cao Lãnh thì miền Nam còn có Thủ Thiêm ở Bình Dương, cũng là tên người kiểu như Cao Lãnh vậy.
Friday, September 22, 2017
Đấu tranh giai cấp là mấu chốt của chiến tranh ở Việt Nam: Một bình luận phê phán về bộ phim tài liệu của Burns và Novick
Vẫn luôn có những người Mỹ nhìn nhận khác về cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam và họ nhìn nhận thấy bản chất của vấn đề: đấu tranh giai cấp gắn liền với độc lập dân tộc. Điều căn bản này đã bị lảng tránh, sự lảng tránh mang tính ý thức hệ nhưng luôn núp dưới bình phong khách quan và phi ý thức hệ.
Dưới đây là bản dịch bài viết " Ideology as History: a Critical Commentary on Burns and Novick’s “The Vietnam War”" của CHUCK O’CONNELL được đăng trên tạp chí Counterpunch.
Hệ tư tưởng đóng vai trò lịch sử: một bình luận phê phán về bộ phim "Chiến Tranh Việt Nam" của Burns và Novick
Sau khi xem tập 1 và 2 trong bộ phim nhiều tập của Burns và Novick về Chiến Tranh Việt Nam, tôi nhớ đến một câu cách ngôn cũ kỹ nói về một điều đáng giá cho sinh viên khoa lịch sử: giai cấp nào kiểm soát tư liệu sản xuất vật chất thì cũng kiểm soát tư liệu sản xuất tinh thần. Kỳ vọng của tôi hạ dần khi nghe người thuyết minh trong khi cuộn xuống danh sách các nhà tài trợ, khó có thể trông đợi bộ phim nhiều tập này thoát khỏi lối tường thuật kiểu chủ nghĩa tự do đã thống trị cuộc tranh luận về Chiến Tranh Việt Nam.
Tường thuật kiểu chủ nghĩa tự do là gì? Đó là một tập hợp các khẳng định gắn chặt với nhau: Việt Nam chống lại Pháp và sau đó Hoa Kỳ bị khát vọng độc lập quốc gia lôi kéo, ngụy quyền Sài Gòn ở miền Nam là một chính phủ hợp pháp, sự nổi loạn của Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc chống lại chính quyền được Hoa Kỳ ủng hộ là do chính quyền cộng sản Hà Nội ở miền Bắc chỉ đạo, xung đột quân sự ở Việt Nam là một cuộc nội chiến, một loạt sai lầm của các lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đã dẫn đến việc quân đội Hoa Kỳ tham gia để hỗ trợ miền Nam. Đó là lối tường thuật nghe có vẻ có lý vì nó đã được lặp đi lặp lại suốt hơn năm mươi năm.
Khi nghiên cứu lịch sử một cách khoa học hơn thì một tường thuật chính xác hơn đã được đưa ra: Thứ nhất, bên cạnh sự quan trọng của chủ nghĩa quốc gia đối với xã hội Việt Nam, một yếu tố quan trọng của cuộc chiến tranh là mục tiêu của cuộc cải cách ruộng đất mà những người cộng sản hứa hẹn với nông dân, chiếm đại đa số dân chúng. Xung đột quân sự là một phần của cuộc cách mạng xã hội chống lại giai cấp địa chủ và những kẻ hỗ trợ ngoại bang của họ. Thứ hai, ngụy quyền Sài Gòn, xuất hiện sau khi Pháp thất bại trong việc tái chiếm Việt Nam, là sản phẩm của Hoa Kỳ, được Hoa Kỳ tài trợ và tổ chức quân đội để ném vào cuộc chiến chống lại lực lượng cách mạng Việt Nam. Khi quân đội Nam Việt Nam được thế lục ngoại quốc tài trợ và huấn luyện để phục vụ cho sự thống trị ở quốc gia này thì quân đội đó không chiến đấu trong một cuộc nội chiến – đó là chiến tranh phản cách mạng và là quân đội tay sai. Thứ ba, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam là một lực lượng chính trị độc lập xuất hiện sau khi chính quyền Hà Nội không tiến hành cuộc chiến chống lại chế độ Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Lực lượng chủ chốt trong Mặt Trận là những người cộng sản, do vậy có mối liên hệ với Hà Nội và được miền Bắc hỗ trợ trong nỗ lực nổi dậy. Thứ tư, sự tham chiến của Hoa Kỳ không phải là kết quả của những sai lầm nối tiếp nhau, trái lại là kết quả của sự lừa dối và khiêu khích có hệ thống mà chính quyền Hoa Kỳ từ thời Harry Truman cho đến Richard Nixon đã thực hiện để phục vụ cho tham vọng kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện đại ở Đông Nam Á. Tôi sẽ làm rõ những luận điểm này.
Vấn đề đất đai – Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam
Trong tác phẩm phân tích về thảm kịch chiến tranh Việt Nam, Anatomy of a War, Gabriel Kolko khẳng định rằng yếu tố cốt yếu trong sự ủng hộ của nông dân đối với phong trào cộng sản là vấn đề ruộng đất. Câu hỏi đơn giản là ai sẽ kiểm soát đất đai – địa chủ hay nông dân, kẻ bóc lột hay người bị bóc lột? Người cộng sản nói nông dân bị bóc lột sẽ kiểm soát đất đai bởi vì đó là cách duy nhất giải phóng họ khỏi những kẻ bóc lột. “Ruộng đất cho người cày” là khẩu hiệu cách mạng của họ. Kolko khẳng định rằng không thể hiểu được chiến tranh nếu không hiểu rõ động lực này, động lực của đấu tranh giai cấp, điều này đã bị bỏ qua trong hai tập đầu của bộ phim và có vẻ như sẽ tiếp tục như vậy trong cả bộ phim. Đây là lối tường thuật lịch sử điển hình kiểu chủ nghĩa tự do; ưu ái các phân tích dựa trên chủ nghĩa quốc gia để loại bỏ các phân tích dựa trên đấu tranh giai cấp. Mặc dù vậy, do kẻ thù là cộng sản nên quan điểm của họ cần phải được xem xét nếu bạn muốn thấu hiểu chiến lược và chiến thuật cũng như khả năng thu hút sự ủng hộ sâu rộng của đại đa số dân chúng – nông dân. Hãy để tôi nói vấn đề theo cách khác, hãy suy nghĩ về điều này: làm sao mà một đất nước kém phát triển với đại đa số là nông dân đã đánh bại cường quốc kinh tế và quân sự hùng mạnh nhất thế giới với dân số đông gấp năm lần, cường quốc này đã triển khai hơn 500.000 bính lính của họ cùng một triệu quân đồng minh (chủ yếu là quân đội miền Nam Việt Nam), kiểm soát hoàn toàn không phận và hải phận, rải 19 triệu gallon chất khai quang ở miền Nam Việt Nam và sử dụng 7,5 triệu tấn bom trong đó có 400.000 tấn bom cháy? Như James William Gibson đã chỉ ra trong cuốn sách The Perfect War: Technowar in Vietnam (1988, p. 9), đỉnh điểm của việc triển khai quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam vào năm 1969, “40% các sư đoàn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu của Hoa Kỳ, hơn một nửa các sư đoàn hải quân, 1/3 lực lượng thủy quân, một nửa máy bay chiến đấu và khoảng từ ¼ đến ½ tổng số máy bay B52 của Bộ Tư Lệnh Không Quân Chiến Lược USAF” đã tham chiến. Hoa Kỳ kiểm soát không phận và hải phận, sử dụng hết các khu vực an toàn và tập kết (Thái Lan, Philippine, Guam), ném bom bốn nước (Bắc Việt Nam, Nam Việt Nam, Lào và Campuchia), xâm lược hai nước (Nam Việt Nam, Campuchia). Trái lại, phe đối lập cộng sản chiến đấu ở miền Nam không có cả không quân lẫn hải quân hay các khu vực an toàn và tập kết. Họ sống trong rừng rậm và dưới hệ thống hầm ngầm, mạng lưới cung cấp chính của họ (“Đường mòn Hồ Chí Minh”) thường xuyên bị Hoa Kỳ ném bom. Nếu có quân đội nào phải chiến đấu với “một cánh tay bị trói phía sau lưng” thì đó chính là quân đội cộng sản Việt Nam.
Để hiểu được chiến thắng của cộng sản Việt Nam, chúng ta cần phải nhớ tới câu cách ngôn rằng chiến tranh là chính trị với phương tiện khác và đối với những người cộng sản bị áp đảo về vũ khí thì chiến lược quân sự duy nhất là chiến tranh nhân dân mà “chính trị là tiên quyết”.
Sự thể hiện về đạo đức của lực lượng chiến đấu đã chứng minh điều cốt yếu của đấu tranh quân sự. Người cộng sản giành được sự ủng hộ của đại đa số nông dân với học thuyết hai cuộc cách mạng song song. Lý tưởng của họ là: Việt Nam có hai vấn đề gắn chặt với nhau: Thứ nhất là người dân bị ngoại quốc bóc lột, thứ hai là cấu trúc giai cấp đã giúp cho các địa chủ bản địa bóc lột nông dân. Địa chủ không thể bị lật đổ nếu đế quốc ủng hộ họ không bị đánh bại. Mặc dù vậy, đánh bại đế quốc thực dân mà không lật đổ quyền lực của địa chủ Việt Nam thì chỉ là thay đổi khuôn mặt của kẻ áp bức nắm giữ quyền lực nhà nước. Do đó, hai cuộc cách mạng đồng thời phải diễn ra – một cuộc nổi dậy chống lại sự thống trị của đế quốc và một cuộc đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp địa chủ. Cuộc đấu tranh giai cấp hứa hẹn sự giải phóng (“ruộng đất cho người cày”) đã thúc đẩy nông dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân.
Chế độ thực dân Pháp và đấu tranh giai cấp
Khi xem phim của Burns và Novick, bạn sẽ không thực sự hiểu được hiện thực của chế độ thực dân Pháp. Bằng các luật lệ thực dân, Pháp chuyển kinh tế từ tự cấp tự túc sang xuất khẩu vào thị trường thế giới, chuyển của cải của nông dân vào túi giai cấp địa chủ-đầu tư thông qua địa tô, rất cao đối với tá điền, khoảng 40-60% thu hoạch kỳ vọng, cho nông dân nghèo vay với lãi suất 50-70% và đánh thuế người Việt Nam để chi trả cho việc khai thác thuộc địa. Sau nhiều thập kỷ, người Pháp sở hữu hầu hết của cải ở Việt Nam. Nhà báo Hoa Kỳ Robert Shaplen đã viết trong cuốn sách The Lost Revolution: The U.S. in Vietnam, 1946-1966 (1966, p.80): Trên thực tế, người Pháp sở hữu mọi của cải thực của Đông Dương và khoản đầu tư của họ là gần hai tỷ dollar; họ sở hữu mọi đồn điền cao su, vốn vẫn hoạt động ngay cả trong chiến tranh – như chúng vẫn hoạt động hiện nay, vào năm 1965 – và họ sở hữu 2/3 sản lượng gạo, tất cả các mỏ, tất cả tàu thuyền, gần như toàn bộ công nghiệp và ngân hàng.”
Chế độ thực dân Pháp có nghĩa gì đối với người Việt Nam? Điều đó có nghĩa là nông dân không ruộng đất, một giai cấp công nhân nhỏ bị bóc lột tàn tệ và một giai cấp tay sai bản địa. Thông qua việc cấp đất và nhượng quyền, người Pháp đã phân bổ lại ruộng lúa, vào cuối những năm 1930, dưới 2% dân số miền Nam sở hữu hơn 80% đất đai và 60% cư dân nông thôn ở miền Nam không có ruộng đất. Khi Thế Chiến Thứ Hai bắt đầu (1939), đa số nông dân rất nghèo. Công nhân Việt Nam được tuyển mộ từ nông dân vào khoảng 221.000 vào năm 1931. Điều kiện làm việc của các công nhân này tại các công ty Pháp rất tồi tệ: khoảng 30% công nhân xây dựng đường sắt từ Hà Nội đến biên giới Trung Quốc đã chết khi làm việc và rất nhiều công nhân Việt Nam làm việc trong các đồn điền của hãng Michelin chết vì làm việc quá sức hay sốt rét, công nhân Việt Nam gọi mình là “phân bón cho cây cao su”. Những người Việt Nam hợp tác với Pháp và được hưởng lợi từ sự hợp tác đó là doanh nhân thành thị, địa chủ ở nông thôn, trí thức và các viên chức hành chính trong chính quyền thuộc địa. Họ tạo thành cơ sở xã hội cho lực lượng chống cộng sản trong các cuộc chiến tranh với Pháp và Hoa Kỳ.
Việc bỏ qua đấu tranh giai cấp và sự đóng góp đạo đức tập thể mà những người nông dân đòi hỏi dĩ nhiên là sai lầm nghiêm trọng của bộ phim về Chiến Tranh Việt Nam.
Điều đó đã bị bỏ qua trong tập 1 về chế độ thực dân Pháp và tiếp tục bị bỏ qua trong phần tường thuật về chế độ chống cộng sản Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Do không hiểu rõ cuộc đấu tranh cách mạng dựa trên giai cấp nên lối tường thuật mặc định là nói về chủ nghĩa quốc gia và nhiệm vụ giải phóng người Việt Nam khỏi đế quốc nước ngoài.
Ngụy quyền Sài Gòn – một sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc
Một sự lảng tránh nghiêm trọng khác cũng xuất hiện trong tập 1 và tập 2 – đã che dấu hiện tượng không được nhìn nhận trong bộ phim của Burns và Novicks: chủ nghĩa đế quốc. Chính Chiến Tranh Việt Nam đã khơi lại cuộc tranh luận chính trị về khái niệm chủ nghĩa đế quốc, với vai trò là yếu tố chủ chốt giải thích cho chính sách đối ngoại của các quốc gia tư bản phát triển. Quan điểm nhìn nhận việc Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam là để duy trì nguồn tài nguyên và lao động giá rẻ của Đông Nam Á cho tái thiết công nghiệp hậu chiến ở nước Nhật Bản tư bản và duy trì trật tự quốc tế: không quốc gia nhỏ nào được phép thoát khỏi sự kiểm soát của các nước tư bản phát triển hùng mạnh. Nếu họ thử thì họ phải trả giá rất đắt.
Burns và Novick làm cho tham nhũng, bất lương, ngu dốt và ngạo mạn dễ thấy nhưng chủ nghĩa đế quốc thì khó thấy. Một điểm thất bại nữa là họ đã không tường thuật về nguồn gốc của Diệm, vốn được Hoa Kỳ dựng lên ở miền Nam để đồng thời chống lại cả cộng sản lẫn Pháp. Chính Hoa Kỳ đã buộc vua Bảo Đại chỉ định Diệm làm thủ tướng ở miền Nam vào năm 1954, sau khi Hiệp Định Geneva kết thúc cuộc chiến của Pháp được ký kết. Chính là Hoa Kỳ đã thúc đẩy Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý gian lận vào năm 1955 để ông ta thay thế Bảo Đại nắm chính quyền. Cả Burns cũng như Novick đều không chỉ ra rằng trước khi Ngô Đình Diệm từ Hoa Kỳ đến Sài Gòn vào ngày 25/6/1954 thì CIA đã dọn đường, đại tá Edward Lansdale, đã đến Sài Gòn trước đó ba tuần vào ngày 1/6/1954. Lansdale được bổ nhiệm vào Ủy Ban Quân Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn với hai mục tiêu. Thứ nhất, thiết lập một chính quyền thân Hoa Kỳ ở miền Nam với Diệm là người nắm quyền, thứ hai, ông ta tiến hành các chiến dịch bí mật gây ra sự bất ổn và rối loạn để chống lại chính quyền miền Bắc. Hãy lưu ý rằng Lansdale đến Sài Gòn không chỉ trước Diệm mà còn trước cả khi Hiệp Định Geneva được ký kết. Hãy lưu ý rằng Burns và Novick đã không đề cập đến việc Hoa Kỳ từ chối ký vào hiệp định quốc tế kết thúc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất để không bị ràng buộc. Hay nói cách khác, Hoa Kỳ đã bắt đầu quá trình phá vỡ Hiệp Định Geneva ngay khi nó đang được đàm phán.
Burns và Novick đã không chỉ không truyền tải nguồn gốc của chế độ Diệm, một bộ máy của Hoa Kỳ để củng cố quyền lực của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, mà họ còn không truyền tải sự tàn bạo và tính chất độc tài cũng như cơ sở giai cấp của chế độ đó – tính chất và cơ sở đã tạo ra một cuộc nổi dậy, một cuộc nổi dậy đã khiến Hoa Kỳ phải đổ một lực lượng quân sự khổng lồ vào để bảo vệ chế độ Sài Gòn. Ngô Đình Diệm và em trai ông ta, cố vấn chủ chốt, Ngô Đình Nhu, đã thành lập và kiểm soát đảng chính trị hợp pháp duy nhất ở miền Nam: Đảng Cần Lao. Thông qua đó, hai anh em họ kiểm soát cảnh sát, sĩ quan quân đội và viên chức hành chính. Hoa Kỳ huấn luyện cảnh sát và quân đội Nam Việt Nam theo các phương pháp đàn áp được sử dụng với những ai chống lại chế độ tay sai của Hoa Kỳ. Việc huấn luyện cảnh sát Nam Việt Nam được thực hiện ở Đại Học Bang Michigan để che dấu sự tài trợ của CIA.
Một sự bỏ sót khác của Burns và Novick là không đề cập đến việc di cư khoảng 1 triệu người từ Bắc vào Nam từ năm 1954 đến 1955, nguyên nhân của sự kiện này không chỉ là nỗi sợ hãi cộng sản mà còn là chiến tranh tâm lý của CIA thực hiện, Chiến Dịch Hành Trình Tới Tự Do được thực hiện để đe dọa những người Thiên Chúa Giáo chống cộng sản và khiến họ di cư vào Nam để tạo ra cơ sở xã hội cho chế độ Ngô Đình Diệm, tay sai của Hoa Kỳ.
Ngô Đình Diệm, nhà cầm quyền tay sai của Hoa Kỳ ở miền Nam, mắc phải 3 sai lầm khiến chế độ của ông ta bị căm ghét. Thứ nhất, ông ta từ chối tuân thủ yêu cầu tổng tuyển cử thống nhất vào năm 1956 của Hiệp Định Geneva với lý do ông ta không ký Hiệp Định nên ông ta không buộc phải tuân thủ. Hoa Kỳ đã khuyến khích ông ta từ chối. Thứ hai, Diệm khởi sự một chương trình cải cách ruộng đất nhằm tước ruộng đất của những nông dân đã chiếm đất dưới sự hỗ trợ của Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp. Quân đội của Diệm trục xuất nông dân ra khỏi đất đai và trả chúng cho các địa chủ, địa chủ đòi nông dân phải nộp tô cho cả những năm đất đai bị chiếm. Cuối cùng, khi biết rằng nhiều cựu Việt Minh sống ở miền Nam Việt Nam, vào năm 1955, Diệm bắt đầu làn sóng đàn áp họ. Khoảng 12.000 người bị bắt giữ và xử tử, khoảng 50.000 người bị tống giam. Diệm theo đuổi chiến dịch thanh trừng chính trị bằng cách cố gắng kiểm soát khu vực nông thôn. Ông ta giải tán các hội đồng làng (phá hủy nền dân chủ truyền thống của làng xã) và bổ nhiệm những người trung thành với ông ta làm “trưởng làng”; cảnh sát tiến hành các chiến dịch lục soát, đột kích, bắt giam, thẩm vấn, tra tấn, trục xuất, di cư cưỡng bức, bỏ tù và xử tử. Vào tháng 5 năm 1959, Diệm thông qua Luật 10/59 cho phép bắt giữ, xét xử và xử tử bất cứ ai bị cáo buộc (tình nghi) phá hoại an ninh quốc gia trong vòng 3 ngày. Các chính sách đàn áp đã khiến cho cựu Việt Minh (cùng với một số dư đảng của đạo Cao Đài và Hòa Hảo cũng như băng nhóm Bình Xuyên) trốn vào khu vực đồng bằng Châu Thổ Sông Mekong và tự tổ chức thành lực lượng tự vệ vào năm 1958.
Vào tháng 12 năm 1960, họ thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, hay còn được gọi là NLF. Diệm và Hoa Kỳ gọi nhóm hỗn hợp này là “Việt Cộng”.
Trong tập 2, khi Burns và Novick sự bất mãn đối với Diệm bằng cuộc khủng hoảng đạo Phật, họ đã bỏ qua việc Diệm đàn áp nông dân và cựu binh Việt Minh vào những năm 1950 cũng như việc ông ta ủng hộ giai cấp địa chủ. Một lần nữa, xung đột giai cấp biến mất trong câu chuyện của họ.
Những lãng quên khác – Sự xâm lược được Hoa Kỳ hậu thuẫn để chống lại chính quyền Hà Nội
Ngay từ năm 1954, Hoa Kỳ đã vi phạm các điều khoản của Hiệp Định Geneva về việc cấm sự can thiệp quân sự của nước ngoài ở Việt Nam, bằng cách thực hiện các hoạt động xâm lược chống lại chính quyền Hà Nội. Hoa Kỳ tổ chức một nhóm bán quân sự (được gọi là “Binh”) trực thuộc Ủy Ban Quân Sự Sài Gòn dưới quyền đại tá Edward Lansdale và trợ lý Lucien Conein, để làm bẩn nguồn cung cấp dầu của công ty xe bus Hà Nội, nhằm mục đích phá hỏng động cơ của xe bus, phá hoại đường sắt ở Bắc Việt Nam và đánh dấu mục tiêu cho hoạt động phá hoại tương lai. Các hoạt động này được thực hiện vào tháng 9 và tháng 10 năm 1954.
Vào tháng 2 năm 1956, CIA thành lập và tài trợ cho “Nhóm Quan Sát Thứ Nhất”. Do quân đội Hoa Kỳ trang bị song được CIA điều hành, người miền Nam Việt Nam và 9 chuyên gia bán quân sự được CIA bổ nhiệm vào Sở Chỉ Huy của Nhóm Quan Sát, mục đích của nhóm là tham gia vào các chiến dịch bí mật chống lại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Được Cố Vấn Đặc Nhiệm Quân Sự Hoa Kỳ huấn luyện ở Nha Trang trong 7 năm (1956-1962), nhóm “Quan Sát” bao gồm khoảng 20 nhóm 15 người. Các nhóm này thực hiện các hoạt động bắt cóc, ám sát, phá hoại và thu thập thông tin tình báo ở Bắc Việt Nam (cả Lào và Campuchia), thường xuyên được nhân sự Hoa Kỳ hộ tống. Sau năm 1960, với sự lớn mạnh của lực lượng nổi dậy cộng sản ở miền Nam, Nhóm Quan Sát Thứ Nhất được chuyển sang các hoạt động bí mật chống lại NFL. Vào năm 1963, nhóm được chuyển thành Lực Lượng Biệt Kích Nam Việt Nam.
Để bày tỏ sự tôn kính đối với hành động của tổng thống Kennedy trong Chiến Tranh Việt Nam, Burns và Novick cũng nên chỉ ra rằng vào mùa xuân năm 1961 Kennedy đã phê chuẩn các chiến dịch bí mật chống lại Bắc Việt Nam bằng cách gửi các đội Nam Việt Nam vượt qua vĩ tuyến 17 để tấn công đồng thới các mục tiêu quân sự và dân sự. Ông ta cũng cho phép CIA tiến hành một cuộc chiến tranh bí mật ở Lào bằng cách vũ trang cho khoảng 9.000 người Hmong để tấn công đường mòn Hồ Chí Minh. Cuối cùng, chính là dưới thời Kennedy, vào năm 1961, Hoa Kỳ đã bắt đầu cuộc chiến sinh hóa kéo dài một thập kỷ, rải 19 triệu gallon chất độc (chủ yếu là chất độc màu da cam với dioxin) xuống miền Nam Việt Nam. Ban đầu chiến dịch này có tên là “Chiến Dịch Diêm Vương” sau đó được đổi tên thành “Chiến Dịch Bàn Tay Mục Phu”. Dị tật bẩm sinh vẫn tiếp tục cho đến ngày nay ở Việt Nam và là một trong những di sản chiến tranh của Hoa Kỳ.
Bằng cách xóa bỏ các sự kiện đó khỏi câu chuyện, Burns và Novick tránh phải đối mặt với vấn đề chủ nghĩa đế quốc – khái niệm mà chính sách đối ngoại Hoa Kỳ đã đóng góp vào việc bóc lột nông dân và công nhân khắp thế giới, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã ở phía sai trái của đấu tranh giai cấp. Không có khái niệm về xung đột giai cấp và chủ nghĩa đế quốc, Burns và Novick không thể hiểu được cội nguồn của sự chia rẽ chính trị ở Việt Nam. Rất nhiều điểm đáng chú ý có thể nêu ra nhưng bất kể là điều gì, họ cũng sẽ lẩn tránh trong lối tường thuật kiểu chủ nghĩa tự do về thảm kịch xung đột trong một thế giới ngạo mạn và thù địch giữa các quốc gia – một câu chuyện cần thiết để che dấu hiện thực của Chiến Tranh Việt Nam.
Chuck O’Connell là giảng viên xã hội học tại at UCI.
Sources
William J. Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam (2ndedition)
William J. Duiker, Sacred War: Nationalism and Revolution in a Divided Vietnam
James William Gibson, The Perfect War: Technowar in Vietnam
John G. Gurley, Challengers to Capitalism (3rd edition)
James P. Harrison, The Endless War: Vietnam’s Struggle for Independence
George C. Herring, America’s Longest War: The United States and Vietnam, 1950-1975 (4th and 5th editions)
Huynh Kim Khanh, Vietnamese Communism, 1925-1945
Gabriel Kolko, Anatomy of a Wa
Mark Atwood Lawrence and Frederik Logevall (editors), The First Vietnam War: Colonial Conflict and Cold War Crisis
Robert Shaplen, The Lost Revolution: The U.S. in Vietnam, 1946-1966
Marilyn Young, The Vietnam Wars, 1945-1990
More articles by:CHUCK O’CONNELL
Thursday, September 21, 2017
Bộ phim tài liệu của Ken Burns & Lynn Novick và sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Người Việt Nam từ lâu đã khép lại cuộc kháng chiến chống Mỹ để thống nhất đất nước, song nước Mỹ vẫn không ngừng bị ám ảnh về cuộc chiến mà một siêu cường như họ đã thua đau đớn một quốc gia nhỏ bé nghèo nàn. Mỗi khi nước Mỹ lao mình vào một cuộc phiêu lưu quân sự mới thì cuộc chiến xâm lược Việt Nam lại được đem ra mổ xẻ. Người Việt Nam không kỳ vọng người Mỹ sẽ trung thực về những điều họ đã làm ở Việt Nam nhưng luôn hy vọng rằng họ sẽ hiểu rõ cái giá phải trả cho chiến tranh lớn như thế nào.
Dưới đây là bản dịch bài báo về bộ phim tài liệu của Ken Burns và Lynn Novick trên tạp chí Counterpunch.
JAMES M. WILLIAMSON
Vào mùa xuân năm ngoái, tôi tham gia một buổi ghi hình trước các trích đoạn trong bộ phim tài liệu về cuộc chiến tranh Mỹ-Việt Nam của Ken Burns và Lynn Novick tại Havard, cả hai đều có mặt, cùng với vài gã “an ninh quốc gia” của trường Kennedy, những người được thuê dưới danh nghĩa “cố vấn”. (Tôi vui mừng thấy Peter Davis, giám đốc của bộ phim đánh giá “Trái tim và Tâm hồn”, trong số khán giả, tôi đã chào ông trước khi ra về. Peter là một người tốt nghiệp Havard, hiện giờ đanh viết tiểu thuyết và được Ken Burns nhắc đến khi ông ta bắt đầu cuộc thảo luận sau ghi hình.)
Tôi ngạc nhiên khi nghe thấy “người thuyết minh” trong một trích đoạn nhắc đến việc “trả đũa sự kiện Vịnh Bắc Bộ”. Tôi càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe thấy Burns nói chính câu đó – “trả đũa sự kiện Vịnh Bắc Bộ” – trong cuộc thảo luận và màn hỏi đáp sau buổi ghi hình và trong một bối cảnh khác. [Ông ta nghĩ đến việc đó vì lý do gì?]
Ông ta muốn nói gì?
“Trả đũa” sự kiện Vịnh Bắc Bộ?
Giáo sư Sut Jhally đã cùng với Media Education Foundation (MEF) ở Western Mass đã góp công lớn vào việc mổ xẻ khái niệm “trả đũa” trên đa số truyền thông Hoa Kỳ. MEF đã sản xuất ít nhất là một đĩa DVD phân tích về việc mọi cuộc tấn công của Israel vào Palestine đều được gọi là “trả đũa”. Dĩ nhiên, trên thực tế điều đó không đúng. Dĩ nhiên, nếu bạn “tin” rằng một số thực thể (cá nhân, chính quyền, “quốc gia”, “nhân dân…”) đang “trả đũa” (vì cho là bị tấn công) – thay vì khởi xứng các cuộc tấn công – thì hầu như mọi thứ mà “người trả đũa” làm đều hợp lý?
Mô tả việc Hoa Kỳ tấn công Bắc Việt là “trả đũa” trong bộ phim tài liệu của PBS, vốn có ý định nói sự thật về cuộc chiến kinh hoàng đó, là một sai lầm căn bản và nghiêm trọng, người ta sẽ phải đặt ra câu hỏi tại sao, sau chừng ấy năm – và sau khi sự thật về “sự cố” Vịnh Bắc Bộ đã được làm rõ từ lâu – Ken Burns và Lynn Novick lại tham gia (mặc dù rất muộn màng) vào kiểu tuyên truyền ủng hộ chiến tranh này (Hay có thể được hiểu là một kiểu tẩy não).
Burns và Novick được ghi nhận về khả năng truyền tải các “câu chuyện” đầy cảm xúc. Liệu họ có được phép biến các sự thật căn bản về cuộc chiến của Hoa Kỳ thành một “câu chuyện”? Nhưng các câu chuyện thúc đẩy cảm xúc trong loạt phim của PBS được gắn với một siêu tự sự về *lịch sử* chiến tranh ở Việt Nam. Trong siêu tự sự này chúng ta có thể phân định và đánh giá xem Burns và Novick (và PBS) có tiết lộ sự thật hữu ích để đối mặt với lịch sử “của chúng ta” – lịch sử của cuộc chiến này – hay không.
Ba ngày sau “sự cố thứ hai” của hai sự kiện được gọi là “những sự cố” Vịnh Bắc Bộ, chính quyền LBJ đã nhận được sự chấp thuận của Quốc Hội Hoa Kỳ cho “Nghị Quyết Vịnh Bắc Bộ” đầy tai tiếng, kể từ đó luôn luôn được sử dụng làm chiếc lá nho che đậy cho sự leo thang can thiệp quân sự ở Việt Nam, “hợp pháp” cả về hiến pháp lẫn chính trị, với bạo lực đẫm máu, hủy diệt và chết chóc.
Liệu một mẩu “lịch sử” đó có quan trọng không? Liệu có nó có quan trọng đến mức phải sửa lại cho đúng?
Chỉ ba tuần sau “sự cố”, I. F. Stone đã tường thuật hầu hết câu chuyện thực tế trong I. F. Stone’s Weekly, chủ yếu dựa trên các bình luận có cơ sở của thượng nghị sĩ Wayne Morse tại phòng họp Thượng Viện, Wayne Morse, thượng nghị sĩ của bang Oregon, là một trong hai thượng nghị sĩ duy nhất bỏ phiếu chống lại Nghị Quyết Vịnh Bắc Bộ; người còn lại dĩ nhiên là Ernest Gruening của bang Alaska.
Như đã được khám phá, Cục Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ đã tiến hành các cuộc tấn công lén lút vào khu vực bờ biển Bắc Việt trong nhiều tháng (OPLAN 34-A). Cuối cùng, vào đầu tháng 8 năm 1964, một sĩ quan cấp trung của hải quân Bắc Việt đã ra lệnh cho thuyền tuần tra Bắc Việt theo đuôi tàu USS Maddox ra tận lãnh hải quốc tế, do nghi ngờ tàu này đã hỗ trợ các cuộc tấn công vào bờ biển Bắc Việt (điều đó là đúng; tàu Maddox có một đơn vị giám sát đặc biệt [và bất thường] của NSA trên bong tàu và cũng tham gia vào cái được gọi là “Tuần tra DeSoto”, ra vào vùng lãnh hải mà chính quyền Bắc Việt tuyên bố chủ quyền). Ngoài ra, các cuộc tấn công của Hoa Kỳ/CIA còn được thiết kế để đánh giá và thu thập thông tin về radar cũng như phòng không của Bắc Việt.
Do đó, nếu có “sự trả đũa”, thì cần nói chính xác hơn là lực lượng hải quân Bắc Việt đã “trả đũa” các cuộc xâm lược liên tục của Hoa Kỳ. (Ý đồ chính của giới lãnh đạo Hoa Kỳ chính là khiêu khích rồi dùng sự trả đũa của Bắc Việt làm cớ cho việc leo thang can thiệp). Nhờ vào sự giám sát hiện đại của đơn vị NSA trên tàu Maddox, họ biết trước rằng thuyền tuần tra đang tiến tới gần “với tốc độ cao”. Ba thuyền tuần tra đã bị phá hủy hoàn toàn và Maddox chỉ bị “một phát đạn” trong sự cố. [Nguồn tài liệu rất lớn về chủ đề này có tại trang web National Security Archive]
Hai ngày sau, vào đêm 4/8/1964, “cuộc tấn công thứ hai” diễn ra, lần này là tàu USS Turner Joy.
Tuy vậy, không có “cuộc tấn công” thứ hai nào hết.
Một bài báo tương đối gần của Viện Hải Quân Hoa Kỳ đã tường thuật như sau:
Phân tích bằng chứngTừ lâu, các nhà sử học đã hoài nghi rằng cuộc tấn công thứ hai ở Vịnh Bắc Bộ chưa bao giờ xảy ra và nghị quyết dựa trên một bằng chứng ngụy tạo. Nhưng không có thông tin giải mật nào cho thấy McNamara, Johnson, hay bất cứ ai tham gia quá trình ra quyết định đã xuyên tạc thông tin tình báo liên quan đến sự cố ngày 4/8. Hơn 40 năm sau sự cố, mọi thứ thay đổi với việc công bố gần 200 tài liệu liên quan đến sự cố Vịnh Bắc Bộ và các đoạn rã bang từ thư viện Johnson.Các tài liệu và băng ghi âm mới này tiết lộ điều mà các nhà sử học không thể chấp nhận: Không có cuộc tấn công thứ hai vào tàu chiến của Hoa Kỳ trên Vịnh Bắc Bộ vào đầu tháng 8 năm 1964.Hơn nữa, bằng chứng cho thấy một sự gây rối và cố ý của bộ trưởng bộ Quốc Phòng McNamara trong việc xuyên tạc bằng chứng và đánh lừa Quốc Hội. [Xem: https://www.usni.org ]
I.F. Stone đã đề cập câu chuyện này nhiều năm trước khi một số nhà sử học sử dụng các tài liệu giải mật được công bố một cách muộn màng và miễn cưỡng để xác nhận sự dối trá, sự lừa dối và xuyên tạc. [Xem: I. F. Stone’s Weekly, sau “lời khai” của McNamara vào năm 1968.]
Xao động của vùng nước có thể đã bị xuyên tạc – hoặc phán đoán sai – thành việc thuyền tuần tra Bắc Việt phóng thủy lôi. James Stockade, sau này là đô đốc và là người đồng tranh cử Ross Perot khi ông này tranh cử tổng thống, đã bay phía trên tàu Maddox và kể lại là không thấy bằng chứng nào về “cuộc tấn công”. Sau này, Stockdale nhấn mạnh rằng từ trên không ông ta có thể theo dõi bất cứ “sự tấn công nào”, trong mọi trường hợp.
Việc công bố điện tín trao đổi của NSA được các nhà sử học coi là sự phân tích quan trọng đối của sự cố này, tập hợp hàng trăm tài liệu liên quan đến các bức điện được giải mật. [Xem nghiên cứu bên ngoài cơ sở NSA của Robert J. Hanyok.]
Cuối cùng, John Prados, người viết những câu chuyện quan trọng về các hoạt động bí mật của CIA và Hoa Kỳ ở nước ngoài, đã cung cấp một bài báo hữu ích nhân dịp kỷ niệm 40 năm sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” cho Washington – dựa trên National Security Archive vào năm 2004.
Dĩ nhiên, nếu bạn quan tâm đến việc “kể chuyện”, bạn có thể không cần quá chú trọng vào sự thật lịch sử và bối cảnh mà “các câu chuyện” diễn ra.
Nhưng chúng ta có nên yêu cầu Burns và Novick (và PBS) kể đúng về điều đã diễn ra hay không diễn ra tại Vịnh Bắc Bộ - và được sử dụng để biện minh cho cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm?
Tuesday, April 11, 2017
Làm thế nào để khỏi bị cảnh sát Mỹ bắn chết vô cớ?
Một Việt Kiều ba que xứ Cali hoa lệ về thăm nhà vào đúng dịp 8/3, tình cờ gặp một dư luận viên ba củ.
Việt Kiều ba que khoa trương: Mày biết không, ở Mỹ con chó đứng thứ nhất, trẻ con đứng thứ hai, phụ nữ đứng thứ ba, còn đàn ông đứng thứ tư. Phụ nữ Mỹ được tôn trọng vậy nên không cần ngày lễ hay hoa hoét rình rang gì hết. Xứ văn minh đâu có chuyện coi thường phụ nữ rồi vẽ vời lễ lạt này nọ như ở đây.
Dư luận viên ba củ liền hỏi lại: Mỗi năm cảnh sát Mỹ lỡ tay bắn chết vài ngàn mạng vô cớ mà chả sao, giữ kỷ lục thế giới về việc bắn chết người vô cớ luôn. Mày biết làm sao để khỏi bị cảnh sát bắn chết khi đi đường ở Mỹ không?
Việt Kiều ba que lúng túng hồi lâu rồi trả lời: Ờ tao không biết, mày nói thử cái coi.
Dư luận viên ba củ nói: Hãy bò ra đường và sủa gâu gâu!
(Chuyện bịa, chỉ để giải trí, nhưng không nhất thiết khác với sự thật.)
Wednesday, September 7, 2016
Hàn Quốc: Tham nhũng cộng sinh với sự phát triển kinh tế thần kỳ
Tham nhũng gắn liền với sự tăng trưởng thần tốc là vấn
đề bế tắc của cả nghiên cứu về tham nhũng cũng như mô hình tăng trưởng kinh tế
của các nước công nghiệp mới (NIC). Tuy vậy, điều này không quá xa lạ khi được
đối chiếu với lịch sử hình thành của các nước tư bản phương Tây. Hàn Quốc là một
trường hợp điển hình ở Đông Á cho thấy tham nhũng gắn liền với công nghiệp hóa
và phát triển kinh tế thần tốc. Hiện nay, Hàn Quốc đã trở thành một nước phát
triển nhưng vẫn tiếp tục phải đối mặt với nạn tham nhũng trong cả chính quyền
cũng như doanh nghiệp tư nhân. Trong quá khứ, chính quyền Hàn Quốc đã trực tiếp
can thiệp vào kinh tế, chỉ đạo các doanh nghiệp phát triển theo định hướng,
cung cấp tín dụng ưu đãi, ưu đãi về các điều kiện hành chính và kinh doanh, đổi
lại sẽ nhận được những khoản lại quả hậu hĩnh của doanh nghiệp để đầu tư cho mạng
lưới bảo trợ về chính trị, tức là doanh nghiệp và chính quyền cùng nhau củng cố
sự thống trị và đàn áp người lao động. Trong tình hình đó thì nạn tham nhũng
cũng gạt bỏ các tổ chức chính trị của người lao động và vì vậy nó gắn liền với
sự tích lũy tư bản nhanh chóng của Hàn Quốc. Các nhóm tài phiệt lớn của Hàn Quốc
đều được hình thành trong giai đoạn đầy tham nhũng của Hàn Quốc và vươn lên trở
thành các đế chế tư bản quốc tế, mặc dù họ vẫn tuân thủ theo các truyền thống
quan hệ dựa trên địa phương, gia tộc hoặc cá nhân. Điều này cho thấy chủ nghĩa
tư bản trên một góc độ nào đó đã thích nghi với những truyền thống lâu đời của
xã hội phương Đông.
Dưới đây là bản dịch bài báo “Corruption
and NIC development: A case study of South Korea” của Jonathan Moran, Khoa
Kinh Doanh, Đại học John Moores Liverpool, Anh Quốc.
Tham nhũng và sự phát
triển của NIC: Một nghiên cứu điển hình về Hàn Quốc
Tóm
lược. Cuộc tranh luận về tham nhũng và thành tích kinh tế
đã nghiêng ngả từ lập trường này sang lập trường khác trong nhiều thập kỷ. Vào
những năm 1960, trường phái tư tưởng gắn với lý thuyết hiện đại hóa cho rằng
tham nhũng thường có quan hệ tích cực với tăng trưởng kinh tế (Huntington,
1968: Leff, 1964). Sau đó, tham nhũng bị coi là tai hại đối với sự tăng trưởng
do phá hoại cơ sở của các chính sách công ổn định, duy lí cũng như sự phân bổ
thông qua thị trường (Rose-Ackerman, 1978; Theobald, 1990), tham nhũng vẫn được
đánh giá theo tình huống đó cho đến hiện nay, đặc biệt là sau “sự bùng nổ tham
nhũng” của những năm 1990 (Alam, 1989; Leiken, 1997; Naim, 1995). Các nước Đông Á
đóng vai trò là các nghiên cứu điển hình quan trọng về vai trò của tham nhũng
trong công nghiệp hóa: bài báo này tập trung vào Hàn Quốc. Thứ nhất là do tham
nhũng đồng tồn tại với sự phát triển. Thứ hai, tham nhũng ở Hàn Quốc vào nhiều thời điểm khác nhau là thực dụng,
gây hại, phi lý và hợp lý, nhưng luôn luôn hiện diện trong thời kỳ công nghiệp
hóa thần tốc. Dĩ nhiên điều này không hàm ý cho rằng tham nhũng nuôi dưỡng tăng
trưởng hay khuyến nghị tham nhũng như là một lựa chọn chính sách cho các nền
kinh tế đang phát triển hay đang chuyển đổi, do có bằng chứng cho thấy trong
nhiều trường hợp thì tham nhũng là có hại cho sự phát triển. Bài báo này tìm hiểu
vai trò của tham nhũng trong sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc để hiểu rõ hơn
về bản thân hiện tượng tham nhũng.
Dẫn nhập
Đông
Á có một vị trí ngoại lệ trong cuộc tranh luận về tham nhũng và thành tích
kinh tế. Thứ nhất, bằng chứng cho thấy mức độ tham nhũng cao bất thường đã đồng
tồn tại với sự tăng trưởng kinh tế thần tốc. Câu trả lời thường là giả định
không có sự tồn tại của hiện tượng này, ví dụ như Alam khẳng định: “Hàn Quốc,
Đài Loan và Singapore là những nước không có tham nhũng mang tính hệ thống”
trong khi Indonesia dường như chỉ tham nhũng dưới thời Sukarno (Alam, 1989,
p.444). Logic ở đây là rõ ràng: do những nước này đã phát triển về kinh tế nên
họ không thể có tham nhũng mang tính hệ thống. Hay nói cách khác, tham nhũng được
giải thích là xảy ra ở mức độ không nghiêm trọng hoặc không tập trung (Wade,
1990) hoặc không phù hợp với quá trình phát triển kinh tế chủ đạo. Tuy vậy, những
bê bối gần đây ở Hàn Quốc, Đài Loan và Indonesia cũng như những bê bối hiện tại
ở Nhật Bản đã cho thấy một quá trình đã tồn tại – và là hệ thống – trong nhiều
thập kỷ.
Thứ
hai, kết quả là mọi phân tích triệt để về tham nhũng hầu như đều vắng mặt trong
các công trình về tăng trưởng kinh tế Đông Á. Trong công trình nổi bật về sự
phát triển của Châu Á, Robert Wade chỉ dành 5 trong số 393 trang cho tham
nhũng, coi tham nhũng chỉ là thứ diễn ra ở cấp độ thấp (Wade, 1990). Các bộ
sách tăng lên nhanh chóng của các cựu kỹ trị đã từng thi hành các chính sách cấp
cao trong thời kỳ công nghiệp hóa cũng lảng tránh tham nhũng, thường là theo
nguyện vọng của họ về việc không tiết lộ các hành động phi pháp và/hay mong muốn
được tái tuyển dụng trong tương lai. Trong nhiều năm gần đây, nhiều nhà kỹ trị
- một số người đã viết những tác phẩm về sự phát triển kinh tế không có tham
nhũng của Hàn Quốc – đã bị cáo buộc về liên quan đến tham nhũng và tiết lộ
thông tin.
Thứ
ba, một phần lý do của việc phân tích hiện tượng này một cách miễn cưỡng là mức
độ tham nhũng cao tạo ra các vấn đề cho những mô hình phát triển cố gắng giải
thích sự tăng trưởng thần tốc. Nhiều công trình cổ điển về công nghiệp hóa Hàn
Quốc của cả cánh tả và cánh hữu đều dựa vào các khái niệm (của Weber hay Khổng
Tử) về một giới hành chính duy lý, độc lập, trong việc triển khai các kế hoạch
phát triển quốc gia. Nếu như tham nhũng tồn tại thì đó là do giới thượng lưu
chính trị, họ nhận các khoản lại quả lớn còn các công chức thì không nhận được
gì. Điều này đã hoàn toàn bỏ qua (a) hoàn cảnh chính trị tổng thể của sự phát
triển và (b) cách thức mà giới công chức, kinh tế và thượng lưu chính trị ở Hàn
Quốc (cũng như Đông Á) đã tham gia sâu vào các hoạt động phi pháp, bóp hầu bóp
cổ, tìm kiếm đặc lợi, vân vân. Các công trình gần đây đã bắt đầu mô tả vai trò
của tham nhũng trong sự tăng trưởng kinh tế thành công và chỉ ra sự quan trọng
của việc phân phối quyền lực chính trị đối với tác động kinh tế tích cực hay tiêu
cực của tham nhũng (Khan, 1996; 1998). Tuy vậy, việc áp dụng một tầm nhìn lịch
sử/theo bối cảnh vẫn là cần thiết.
Bài
báo này lập luận rằng mức độ tham nhũng cao đã đồng tồn tại với sự tăng trưởng
kinh tế và cho rằng giới công chức đã (a) bện chặt với giới lãnh đao chính trị,
(b) bản thân giới công chức là tham nhũng, (c) việc xây dựng chính sách kinh tế
không chỉ là duy lý/Khổng Giáo mà còn bị chính trị hóa sâu sắc và (d) sự hiện
diện của tham nhũng có tác động đến tăng trưởng kinh tế, nếu không rõ ràng
trong ngắn hạn, tức là sự ổn định dài hạn.
Nhà
nước, sự phát triển và hoàn cảnh tham nhũng ở Hàn Quốc
Sự
phát triển kinh tế của Hàn Quốc đã thể hiện hai đặc trưng sau: công nghiệp hóa
thần tốc gắn với sự biến đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang một nền công nghiệp
đa dạng với công nghiệp nặng, hóa chất, điện tử, chế tạo máy và công nghệ cao,
vài trò to lớn của nhà nước trong việc tạo dựng, củng cố thị trường và kiểm
soát đầu tư, cuối cùng là vai trò của xuất khẩu trong việc định hướng tăng trưởng.
Nhà
nước là một biến số quan trọng trong các cuộc tranh luận về phát triển. Chủ đề
đã thay đổi từ giải thích mô hình tăng trưởng theo định hướng thị trường của
Hàn Quốc sang nghiên cứu vai trò to lớn của nhà nước, nhưng bản thân điều này
này lại bị thay thế bằng chủ đề về cách thức nhà nước tương tác với thị trường.
Tuy vậy, vai trò của nhà nước là trung tâm, bất kể là sửa chữa các méo mó của
thị trường hay các chính sách củng cố. Bên cạnh đó, vai trò chính trị/cưỡng bức
của nhà nước cũng không thể đặt ra ngoài sự phát triển. Các thức mà nhà nước
đàn áp cả người lao động cũng như giới kinh doanh là nhân tố sống còn, như là bản
chất chính trị của việc lập chính sách nói chung.
Mặc
dù các di sản của chế độ thực dân Nhật Bản và thời kỳ hậu chiến là quan trọng
song sự phát triển của kinh tế Hàn Quốc hiện đại có thể coi là bắt nguồn những
thay đổi kinh tế được áp dụng sau cuộc đảo chính quân sự năm 1961, vốn được coi
là sự trỗi dậy của một nhà nước mạnh, độc lập với các lợi ích cục bộ. Nhà nước
kiểm soát kinh doanh, người lao động và các nhóm xã hội dân sự trong một hệ thống
gần như hợp tác xã mà quân đội đóng vai trò là xương sống của chế độ và các cơ
quan tình báo kiểm soát hoàn toàn sự bất đồng. Trên phương diện kinh tế, các Kế
Hoạch Năm Năm liên tiếp được xây dựng dựa trên sự kiểm soát toàn diện của nhà
nước đối với hệ thống tài chính. Nhà nước cung cấp sự hỗ trợ và phần thưởng cho
doanh nghiệp thường xuyên – nếu không nói là luôn luôn – kết hợp với các tín hiệu
của thị trường. Hơn nữa, uy tín của chính sách kinh tế chủ yếu dựa trên quyền lực
chính trị của tổng thống và Cục Tình Báo Trung Ương Hàn Quốc (KCIA).
Về
tham nhũng thì nhà nước cũng quan trọng song không phải là biến số duy nhất. Sự
tham nhũng ở Hàn Quốc bắt nguồn từ sự tác động qua lại của nhiều nhân tố lịch sử
và cấu trúc. Nhà nước mạnh là sống còn nhưng các lực lượng xã hội (cụ thể là
các nhóm doanh nhân mới) yếu và truyền thống về mạng lưới bảo trợ-thân hữu (guanxi) của các gia đình, trường học,
các mối liên hệ địa phương, vân vân. Phần tiếp theo sẽ giải thích ngắn gọn những
điểm này.
Ngay
cả trước khi được thành lập như một nhà nước có chủ quyền vào năm 1948, Hàn Quốc
đã mang đặc trưng là quyền lực trung ương mạnh. Thời kỳ cai trị tàn bạo của đế
quốc Nhật Bản 1910-1945 gắn liền với chương trình hiện đại hóa cưỡng bức theo
cái được gọi là một nhà nước “phát triển thái quá”, tức là các chức năng chính
trị, hành chính, cưỡng bức và kinh tế quá lớn so với quốc tế (Cumings, 1984).
Mô hình nhà nước mạnh đã sống sót qua các cuộc nội loạn hậu chiến và Chiến
Tranh Triều Tiên. Một phần là nhờ vào Chính Quyền Quân Sự Hoa Kỳ (AMG) trong
khoảng thời gian 1945-48, duy trì các chức năng cưỡng bức của nhà nước để đàn
áp các hoạt động dân túy, cánh tả và cộng sản. Syngman Rhee, tổng thống từ năm
1948 đến 1960, đã tuyển mộ lực lượng cảnh sát, mật vụ và các nhóm du kích cánh
hữu để đe dọa các đối thủ và thao túng các cuộc bầu cử cho đến khi ông ta bị
các cuộc biểu tình của sinh viên lật đổ. Tuy vậy, nhà nước quyền lực đã mở rộng và hồi
phục sau cuộc đảo chính năm 1961 của Park Chung Hee. Dân chủ “có quản lý” được
áp dụng sau cuộc đảo chính chỉ chấm dứt vào năm 1972 để nhường chỗ cho một nhà
nước an ninh quốc gia trưởng thành hoàn toàn, khi mà Park dường như sẽ thất bại
trong bầu cử. Một cuộc đảo chính khác vào năm 1980 sau vụ ám sát Park đã đưa một
chính quyền do quân đội hậu thuẫn khác dưới sự lãnh đạo của Chun Doo Hwan lên cầm
quyền. Do đó, trong giai đoạn 1961-1987, nhà nước quân sự đã thống trị sự phát
triển chính trị ở Hàn Quốc. Sự yếu đuối của các nhóm xã hội dân sự là một đặc
trưng quan trọng liên quan tới hoàn cảnh tham nhũng. Ví dụ, so với Mỹ Latin thì
tổ chức của người lao động yếu và hoàn toàn bị AMG cũng như chính quyền Rhee vô
hiệu hóa. Các nhóm xã hội dân sự khác cũng yếu do các cấu trúc tiền thuộc địa
hoặc sự biến đổi hiện đại của chế độ thuộc địa và Chiến Tranh Triều Tiên. Các
nhóm kinh doanh/doanh nhân (cũng giống như Đông Bắc Á – ngoại trừ Nhật Bản – và
Đông Nam Á) rất nhỏ bé về quy mô, nguồn lực và sự hợp pháp chính trị. Tầng lớp
kinh doanh ở Hàn Quốc rất yếu và không được ưa thích do sự hợp tác của họ với
người Nhật. Những tính chất đó được củng cố thêm bằng những thỏa thuận tham
nhũng của họ với chính quyền Rhee và việc họ kiếm lợi trong Chiến Tranh Triều
Tiên.
Nhiều
mạng lưới bảo trợ-thân hữu phi chính thức đan kết với quan hệ đó, ví dụ các mối
liên hệ địa phương. Tỉnh phía nam Kyongsang là căn cứ của nhóm sĩ quan quân sự
tổ chức đảo chính vào năm 1961, trong đó có Park Chung Hee và cháu vợ của ông
ta là Kim Jong Pil, người sáng lập tổ chức KCIA. Cuộc đảo chính đã củng cố sự
thống trị của Kyongsang. Cả Chun Doo Hwan, người tổ chức đảo chính năm 1979-80
sau vụ ám sát Park, lẫn Roh Tae Woo (người giúp Chun lên nắm quyền, sau này vào
những năm 1980 đổi phe thành dân chủ và thắng cử tổng thống năm 1987) đều có
liên quan đến tỉnh này. Trong số 20 tập đoàn doanh nghiệp lớn nhất (chaebol), chín người sáng lập xuất thân
từ Kyongsang, ba trong số năm tập đoàn doanh nghiệp lớn nhất cũng vậy (Chon,
1992, p.168). “Số lượng người lớn bất thường có xuất thân từ tỉnh Kyongsang
tham gia vào các vị trí có ảnh hưởng sâu sắc trong chính quyền và công nghiệp” (Chon,
1992, p.166). Kim Woochoong, người sáng lập tập đoàn Daewoo đã được tham gia
vào mạng lưới quyền lực do bố ông ta đã dạy Park Chung Hee ở trường Kỹ Thuật
Taegu. Trong Kyongsang, “phái T-K” (trường Kỹ Thuật Taegu/trường Sư Phạm Trung
Học Kyongbuk) là mối quan hệ quan trọng nhất, các thành viên của chúng và hậu
duệ của họ đã thống trị các thiết chế quân sự/an ninh và chính trị. Các mối
quan hệ khác cũng được thiết lập, thường là các liên minh địa phương trong trường
học, Học Viện Quân Sự, cựu sinh viên. Một mạng lưới các mạng lưới được mở rộng,
kết nối quân đội, chính trị và kinh doanh, thường xuyên được bổ sung bằng các hội
nhóm bí mật hoặc phi chính thức. Ví dụ, trước cuộc cải cách dân chủ, quân đội
kiềm chế khoảng 40 hội nhóm bí mật, nổi tiếng nhất là Hanahoe (Một Tư Duy), cơ sở mà Chun Doo Hwan dùng để tổ chức đảo
chính vào năm 1980. Giới thượng lưu nhà nước là các nhân tố chủ chốt trong những
quan hệ đó.
Động
lực khiến tham nhũng nở rộ cả trong nền dân chủ yếu (1948-1961) lẫn chế độ quân
sự (1961-1987) bắt nguồn từ tác động qua lại của nhiều yếu tố: nhà nước mạnh,
các nhóm xã hội dân sự yếu và hoạt động của các nhóm có mối liên hệ “bí ẩn” (della
Porta and Pizzorno, 1996). Mối quan hệ đã phát triển, coi dấu hiệu của các thể
chế hiện đại là năng lực, sự lập kế hoạch và tổ chức, mà tổ chức lại được thâm
nhập bằng quan hệ cá nhân, các hội nhóm và các mạng lưới phi chính thức. Động lực
này đã thường xuyên bị bỏ qua khi xem xét sự tăng trưởng và tham nhũng của Hàn
Quốc.
Vấn
đề tham nhũng ở Hàn Quốc: chính quyền Rhee 1948-1960
Để
giải thích cách tham nhũng đồng tồn tại với sự tăng trưởng kinh tế thì cần phải
nghiên cứu Hàn Quốc trong những năm 1950, khi tham nhũng đã gây tổn hại rõ ràng
cho sự phát triển kinh tế. Các chính sách chính trị và hệ tư tưởng của Syngman
Rhee dựa trên việc duy trì sự cai trị của bản thân ông ta, sự thống nhất bán đảo
Triều Tiên và một lập trường chống Nhật Bản. “Chính sách” kinh tế của ông ta thể
hiện khát vọng nắm quyền lực vĩnh viễn. Kinh tế Hàn Quốc có đặc trưng là sự kiểm
soát chặt chẽ đối với sản phẩm nội địa và sự phân bổ tài chính bắt nguồn từ Chiến
Tranh Triều Tiên. Hơn nữa, nền kinh tế cũng được bảo vệ trước sự cạnh tranh quốc
tế, hàng nhập khẩu được kiểm soát bằng giấy phép và các khoản viện trợ quốc tế
cần thiết được cung cấp dưới dạng không hoàn lại, viện trợ kỹ thuật và lương thực,
vân vân. “Mục tiêu chủ chốt của kinh tế đối ngoại Hàn Quốc dưới thời Rhee là tối
đa hóa dòng viện trợ kinh tế và quân sự từ các nguồn công ích; dòng tư bản từ
các nguồn lực tư nhân không được khuyến khích” (Westphal et al., 1979: 360).
Rhee hoàn toàn nằm trong sự điều khiển của chính quyền Hoa Kỳ, nhất là khi họ cần
ông ta trong vai trò của một đồng minh chống cộng.
Rhee
sử dụng ảnh hưởng của ông ta đối với viện trợ nước ngoài và kinh tế nội địa để
tạo ra cấu trúc bảo trợ-thân hữu liên kết cộng đồng kinh doanh yếu của Hàn Quốc.
Những người kinh doanh thân hữu nhận được các hãng trước đây thuộc về người Nhật
với giá thấp, các giấy phép nhập khẩu hàng hóa khan hiếm, các khoản vay bằng đồng
dollar cũng như các lợi thế khác giúp cho họ độc quyền trên thị trường. “Tỷ lệ
chênh lệch 3:1 của tỷ giá thị trường ngoại hối chính thống và chợ đen có thể
khiến bất cứ ai cũng có thể tức thì trở nên giàu có nếu như anh ta tiếp cận được
việc trao đổi ngoại tệ” và vào lúc đó Rhee phê chuẩn mọi khoản giao dịch ngoại
tệ lớn hơn 500 dollar (Kim, 1971, p.24). Đảng Tự Do được cho là đã thu được 50%
giá trị của mọi dự án tư nhân nhận viện trợ của Hoa Kỳ (Kim, 1976, p.152). Nền
kinh tế bị bóp nặn thông qua việc phân bổ lợi tức đã tài trợ cho Rhee, đảng Tự
Do và giới cảnh sát. Rhee đã tẩy chay việc lập kế hoạch và phát triển một giới
công chức kinh tế độc lập.
Trong
môi trường này, sự tăng trưởng chủ yếu xuất phát từ các hoạt động kinh tế “tổng
bằng 0”, sự hình thành lợi nhuận thông qua các hoạt động tìm kiếm lợi tức phi sản
xuất (Jones&Sakong, 1980). Việc kinh doanh được phát triển thông qua độc
quyền nguồn cung tài chính, đầu vào và hàng hóa tiêu dùng. Samsung và nhiều doanh
nghiệp khác đã mở rộng hoạt động trong thời kỳ này, nhưng có thể nói rằng không
có viện trợ của Hoa Kỳ thì nền kinh tế sẽ sụp đổ (Mason, 1980, pp.192–205) [1].
Lĩnh vực kinh doanh vẫn yếu về kinh tế và không được ủng hộ về chính trị, đặc
biệt là do các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận trong Chiến Tranh Triều Tiên và thời
kỳ thắt lưng buộc bụng những năm 1950. Nói chung, “Hàn Quốc vào những năm 1950
thể hiện đặc trưng chính trị rõ ràng là thù địch với việc lập kế hoạch phát triển.
Chính quyền kém được bảo vệ trước các đòi hỏi của khu vực tư nhân và bị các mạng
lưới bảo trợ-thân hữu thâm nhập. Bộ phận quản lý kinh tế là đối tượng can thiệp
chính trị của cả bộ phận hành pháp cũng như giới hành chính.” (Haggard, Moon
& Kim, 1991, p.855). Người ta có thể nói một cách có lý rằng nếu Hàn Quốc
tiếp tục đi theo quỹ đạo đó thì họ sẽ lặp lại kịch bản của Philippines. Trong
các khảo sát về triển vọng phát triển tốt nhất vào những năm 1950, Hàn Quốc hiếm
khi xuất hiện so với những nước như (nực cười thay) Philippines, Thổ Nhĩ Kỳ và
Lebanon.
Cuộc
đảo chính quân sự của Park Chung Hee đã đem tới những sự thay đổi quan trọng
nhưng cũng vẫn tiếp tục với tham nhũng và tăng trưởng. Park cũng thu gom các viện
trợ quốc cần thiết, tạo ra sự độc quyền, cung cấp các khoản vay giá rẻ, các tiếp
cận đặc quyền đối với trao đổi ngoại tệ và cấp miễn phí các lợi ích phi chính
thống cho doanh nghiệp. Giới hành chính bị chính trị hóa. Tuy vậy, chính quyền
mới cũng tạo ra những thay đổi quan trọng. Đó là sự kết hợp của những điều cần
thiết cho việc giải thích sự cộng sinh giữa tham nhũng và tăng trưởng. Tham
nhũng bị giới hạn bởi những nhân tố cụ thể, cho tới mức độ nhất định mà nhà nước
quốc hữu hóa hoàn toàn tham nhũng.
Tham
nhũng và chủ nghĩa quốc gia dưới chính quyền Park Chung Hee
Thực
tiễn tham nhũng đã tuân thủ khuynh hướng phát triển quốc gia. Bốn nhân tố sẽ được
xem xét để giải thích quá trình này:
Hệ
tư tưởng nhà nước
Mối
quan hệ giữa hệ tư tưởng và tổ chức vật chất là phức tạp nhưng có thể chấp nhận
rằng hệ tư tưởng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển xã hội,
một quá trình rõ ràng ở Hàn Quốc. Cuộc đảo chính năm 1961 đã không chỉ mang đến
sự thay đổi mạnh mẽ trong tổ chức chính trị - từ nền dân chủ trục trặc đến
chính quyền do quân đội hậu thuẫn – nó cũng mang đến sự thay đổi chủ chốt trong
hệ tư tưởng, với hệ quả tác động đến sự phát triển kinh tế và tham nhũng. Park
Chung Hee, lãnh đạo của cuộc đảo chính, cũng như một số các sĩ quan trẻ khác đều
chịu ảnh hưởng và trộn lẫn các hệ tư tưởng thu được từ kinh nghiệm của người Nhật.
Park thể hiện rõ ràng sự thán phục các nhà lãnh đạo Trung Hưng Minh Trị ở Nhật
Bản và công thức “Nước giàu, Quân mạnh”, có nghĩa là mối liên hệ chặt chẽ giữa
an ninh quốc gia và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, người Nhật cũng khẳng định
khái niệm phát triển quốc gia dựa trên sự gắn kết xã hội và quay trở lại củng cố
sự gắn kết đó. Trung tâm của dạng hợp tác xã này là quan niệm cho rằng các lợi
ích cục bộ phải bị đàn áp: cả lao động và doanh nghiệp đều phải chấp nhận quyền
lực của nhà nước và phục vụ cho sự phát triển của quốc gia. Park Chung Hee (nực
cười thay khi là người quốc gia Hàn Quốc) đã phục vụ quân đội Hoàng Gia Nhật Bản
ở Mãn Châu Lý, chứng kiến trước hết quá trình công nghiệp hóa do nhà nước chỉ đạo
để phục vụ cho an ninh quốc gia. [2]
Park
triển khai những ý tưởng đó sau cuộc đảo chính. Doanh nghiệp đối mặt với một
nhà nước chuẩn bị cưỡng ép và quấy rối cũng như hỗ trợ. Chỉ những doanh nghiệp
hành động theo lợi ích quốc gia bằng cách tuân thủ sự hướng dẫn của nhà nước và
chuyển sang sự tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu mới nhận được các lợi ích.
Tham nhũng vốn tràn lan dưới thời Syngman Rhee, vẫn tiếp tục trong phạm vi một
khuôn khổ mới. Doanh nghiệp nhận được trợ cấp nhờ vào nguồn gốc địa phương của
họ hay họ có quan hệ với tầng lớp thượng lưu nhà nước hoặc với Park (Clifford,
1994; Chon, 1992) và có thể nhận được sự đảm bảo bổ sung khi đóng góp tiền bạc.
Tuy vậy, nếu họ không thực hiện thì sự hỗ trợ bị cắt giảm hay hủy bỏ: các khoản
tiền của doanh nghiệp đảm bảo thái độ thân thiện hoặc tốt đẹp của nhà nước,
nhưng hiếm khi là sự đáp ứng tự động và thường xuyên. Khi sao chép cách tiếp cận
kiểu doanh nghiệp, các khoản đóng góp sẽ thường xuyên được dựa trên các nguyên
nhân xã hội có thể chấp nhận được, như “nạn nhân lũ lụt và các thảm họa tự
nhiên khác…tổ chức Chữ Thập Đỏ, quốc phòng, tổ chức USO kiểu Hàn Quốc, liên
đoàn chống cộng sản, các tổ chức phúc lợi, các tổ chức thể thao, các quỹ thể
thao, các quỹ giáo dục, xây dựng đường tàu điện ngầm” và vân vân (Woo, 1991,
p.236 n.82), trên thực tế là sự bổ sung cho hệ thống thuế chưa hoàn chỉnh. [3]
Do
đó, vai trò của hệ tư tưởng, tập trung vào sự ảnh hưởng và sự hấp dẫn của hệ tư
tưởng “hiện đại” từ các nguồn cụ thể (Nhật Bản và Hoa Kỳ) và hiện thực lịch sử
đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng về một khái niệm phát triển cụ thể,
cũng như vai trò của tham nhũng trong sự phát triển, của giới thượng lưu quân sự
ở Hàn Quốc.
Kinh
nghiệm của Hàn Quốc có thể hữu ích khi so sánh với các quốc gia khác trong khu
vực. Không giống quân đội Hàn Quốc, có tổ chức cấp bậc bắt nguồn từ lý tưởng về
chủ nghĩa tư bản quốc gia của Nhật Bản và hệ tư tưởng quản lý của Hoa Kỳ (Lee,
1968), quân đội Thái Lan áp dụng nghệ thuật lãnh đạo nhà nước truyền thống Đông
Nam Á trong chính sách đối ngoại, trong lĩnh vực đối nội thì dựa trên thuốc phiện
và một số lĩnh vực kinh tế năng động nhất định để đảm bảo sự cai trị của quân đội
(McCoy, 1991, pp.180–192). Việc Hoa Kỳ sử dụng Thái Lan làm căn cứ logistic khổng
lồ cho Chiến Tranh Việt Nam đã củng cố kịch bản này. Những năm 1960 là đỉnh điểm
của sự hậu thuẫn cho các tướng lĩnh Thái Lan, với việc Hoa Kỳ viện trợ chính thức
2 tỷ dollar từ năm 1965 đến 1975 1975 (Girling, 1981, p.96 n.85) để đảm bảo “một
hệ thống phù hợp với Hoa Kỳ sẽ được duy trì ngay cả khi có sự thay đổi về nhân
sự (Girling, 1981, p.94). Một sư đoàn Thái Lan tham chiến ở Việt Nam nhưng đóng
góp chủ yếu của nước này là căn cứ logistic mà Hoa Kỳ dùng để vận chuyển cho
chiến trường Miền Nam Việt Nam, bao gồm đường sá, doanh trại, hậu cần, các cơ sở
nghỉ ngơi và giải trí cho lính Mỹ (khoảng 50.000 vào năm 1968-69). Việc đó kéo
theo một sự gia tăng lớn bất ngờ về gái bán dâm (Girling, 1981, p.236 n.15). Miền
Nam Việt Nam, cũng được Hoa Kỳ tạo ra và hậu thuẫn, lặp lại những kịch bản đó ở
cấp độ rất cao. Các ngành thuốc phiện và mại dâm bùng nổ cùng với sự hiện diện
quy mô lớn của người Mỹ. Vào năm 1967, một người quan sát đã viết “hoạt động
kinh tế ở miền Nam thực tế đã ngừng lại ngoại trừ phục vụ cho chiến tranh; Sài
Gòn là một nhà thổ khổng lồ; nằm giữa những người Mỹ, đang cố gắng ít nhiều
thúc đẩy một bản sao xã hội của họ ở đất Việt Nam, và đám đông dân chúng đang cố
gắng “tái thiết” là những con mèo béo ú ở Sài Gòn” (Sayle được trích dẫn trong
Knightley, 1989, p.384). Tham nhũng và chủ nghĩa bè phái quân sự/hành chính trở
nên phổ biến, chế độ đã tan rã từ trước khi Bắc Việt thống nhất đất nước (McCoy,
1991, p.260).
Nếu
việc Syngman Rhee tiếp tục nắm quyền ở Hàn Quốc, điều đó có thể được coi như là
một sự hối lộ khổng lồ và vô ích tại nhà nước chống nổi loạn ở Đông Nam Á. Rhee
và Diệm, lãnh tụ Nam Việt Nam từ năm 1955 đến 1962, có sự tương đồng. Cả hai đều
cho rằng họ có thể dựa vào sự ủng hộ quân sự của Hoa Kỳ để bảo vệ nền dân chủ yếu
kém tham nhũng của họ. Mặc dù Rhee bị sinh viên lật đổ và không có sự can thiệp
quân sự, Diệm bị quân đội lật đổ, song quỹ đạo phát triển của hai nước này rất
khác nhau. Như đã nói, các sĩ quan trẻ ở Hàn Quốc có nhiều lý tưởng khác nhau về
sự phát triển chính trị và kinh tế của Hàn Quốc. Mặc dù các chính sách bắt nguồn
từ những lý tưởng này thường mờ nhạt vào lúc đầu và phản ánh sự khác biệt nội bộ
của những người đảo chính quân sự, song cùng với thời gian thì họ đã phát triển
gắn kết hơn và kết hợp đầu vào từ Hoa Kỳ và Nhật Bản. Do vậy, ở Hàn Quốc, những
sĩ quan dưới thời Park Chung Hee đã bắt đầu ngập ngừng và sau đó quyết đoán tái
cấu trúc kinh tế, mối quan hệ chính quyền-doanh nghiệp và thậm chí là cả xã hội.
Ở Nam Việt Nam và Thái Lan, chính quyền quân sự đã củng cố thêm các thực tiễn
trong kinh tế và xã hội. “Giống như ở phần còn lại của Đông Nam Á, các dạng
quan liêu lạc hậu của phương Tây đã bám chặt lấy tầng lớp thượng lưu quyền lực
truyền thống, tạo ra một sự kết hợp của tham nhũng, truyền thống và hiện đại” (McCoy,
1991, p.200) [4], với những nước như Thái Lan và Nam Việt Nam, chịu tác động bởi
sự giao thoa của những ảnh hưởng văn hóa/tư tưởng và tiến trình lịch sử khác
nhau, với những liên hệ quốc tế đang thúc đẩy kịch bản quyền lực và thực tiễn chính
trị hiện tồn.
Sự
độc lập của nhà nước
Sự
độc lập của nhà nước đối với các nhóm xã hội có tổ chức là một nhân tố quan trọng
để giải thích các quỹ đạo phát triển. Tuy vậy, trong thực tế điều này thường được
sử dụng theo cách quá “gọn gàng” trong các phân tích cánh tả hoặc cấu trúc, vốn
tập trung vào việc nhà nước/giới hành chính duy lí tách biệt triển khai các chiến
lược dài hạn (Haggard, 1990). Sau cuộc đảo chính, giới hành chính được bảo vệ
khỏi sức ép xã hội. Tuy vậy, các cơ quan nhà nước và hành chính ở Hàn Quốc vẫn
có đặc trưng tham nhũng – trên thực tế việc họ bóp nặn tiền từ doanh nghiệp và cung
cấp các lợi ích cho những nhóm nhất định chính
là dấu hiệu của sự độc lập mà nhiều tác giả đã tập trung làm rõ. Độc lập với
các nhóm xã hội dân sự cho phép nhà nước đặt ra các khuôn khổ của quan hệ bảo
trợ-thân hữu và các quy tắc cho tham nhũng, có nghĩa là quốc hữu hóa thực tiễn tham nhũng.
Sau
thời kỳ mở rộng nhanh chóng vào những năm 1950, quân đội đã mở rộng về tổ chức,
nguồn lực và năng lực. Cuộc đảo chính năm 1961 – được một số chính khách Hàn Quốc
coi là không thể tránh khỏi – đã xác nhận các cơ quan quân sự và an ninh là lực
lượng thống trị ở Hàn Quốc. Các nhóm xã hội dân sự là tương đối yếu. “Quan hệ
trường đại học-báo chí” đã lật đổ Rhee không thể tiếp tục hoạt động như là một
nhà nước thay thế hay vận động trong thời gian dài.
Người
lao động thì suy yếu và không được tổ chức. Tầng lớp kinh doanh – một trong những
nguyên nhân là – bất chấp mối quan hệ với nhà nước dưới thời Rhee, vẫn yếu đuối
về chính trị và văn hóa. “Do các doanh nhân truyền thống không có được địa vị
đáng kính trọng trong xã hội Hàn Quốc, sự trỗi dậy của họ vào những năm 1950 tạo
ra một sự oán giận và nghi ngờ được củng cố thêm bằng mức độ tham nhũng hiện
hành” (Cole&Lyman, 1971, p.83). Khi chế độ do quân đội hậu thuẫn được hình
thành, một sự tái tổ chức các mối quan hệ nhà nước-xã hội đã diễn ra và sự kiểm
soát đối với kinh tế được củng cố, cải cách hay mở rộng. Điều quan trọng là sự
kiểm soát nhà nước đối với hệ thống tài chính thông qua quốc hữu hóa đã đạt tới
mức độ rất lớn, [5] và dòng tư bản quốc tế từ Hoa Kỳ và từ Nhật Bản vào cuối những
năm 1960 chảy vào hệ thống đã giúp cho tầng lớp thượng lưu nhà nước độc lập về
tài chính đối với giới kinh doanh bản địa. Tuy vậy, cũng cần phải ghi nhận rằng
sự độc lập của nhà nước không đủ để làm cơ sở cho một chiến lược phát triển hiệu
quả. Năng lực của nhà nước, tầm ảnh hưởng và phạm vi của nhà nước, phải được kết
hợp với tính chất hợp tác của nhà nước; có nghĩa là khả năng tạo dựng và thi
hành chính sách thành công (Evans and Rueschemeyer, 1985).Tham nhũng hoạt động
trong phạm vi cấu trúc nhà nước này.
Sự
độc lập và chính sách
Sức
mạnh chính trị bắt nguồn từ các mối liên hệ bảo trợ-thân hữu được tổ chức để phục
vụ cho sự phát triển quốc gia. Doanh nghiệp không thể đảo ngược các ưu tiên
phát triển của nhà nước trong khi nhà nước có thể quyết định nhóm nào sẽ được cấp
nguồn lực để đổi lấy sự ủng hộ. Quá trình tham nhũng trong việc kinh doanh nói
chung là trả một khoản tiền lớn mà không có đảm bảo về sự trợ giúp, chỉ là đảm
bảo chọn đúng phe nhà nước, trả các khoản lại quả cho nhà nước vì sự trợ giúp trong
các dự án phát triển kinh tế hay đóng góp chính trị cho giới thượng lưu nhà nước
về các dự án từ thiện hoặc cho phép giới thượng lưu nhà nước xây dựng các căn cứ
quyền lực. Tuy vậy, những khoản chi này không được coi là khinh suất do chúng
là một phần của quan hệ động lực tổng thể.
Mặc
dù cả Chung Ju Yung (Hyundai) và Kim Woo-choong (Daewoo) đều có quan hệ cá nhân
với tổng thống Park và nhận được sự hỗ trợ rộng rãi nhưng Park được cho là sẽ
chọn người thắng cuộc. Chung xuất sắc trong việc phát triển công nghiệp xây dựng
ở Hàn Quốc và nhận được sự hỗ trợ phi chính thống cần thiết khi đáp ứng được mục
tiêu phát triển công nghiệp đóng tàu của Park. Kim phất lên nhờ cải cách các
ngành thua lỗ. Cho Chung-hun của Hanjin nhận được sự hỗ trợ lớn hơn sau khi
thay đổi tình hình của hãng hàng không Hàn Quốc từng thuộc về nhà nước vào những
năm 1960. Mặc dù các hãng khác cũng nhận được sự bảo trợ nhưng nếu thất bại thì
sự bảo trợ sẽ bị thu hồi. Yonhap Steel, một trong những doanh nghiệp lớn nhất
Hàn Quốc vào những năm 1960, có sự bảo trợ của Lee Hu Rak, giám đốc KCIA, nhưng
thất bại khi chuyển đổi sang tăng trưởng theo định hướng xuất khẩu, dẫn đến sự
suy thoái của họ (Clifford, 1994, p.57). Các hãng cần phải có hiệu quả bởi vì họ
sẽ thực hiện để nhận được sự hỗ trợ tiếp theo và phải trả một khoản phần trăm
trên sự hỗ trợ nhận được cho nhà nước dưới dạng quỹ chính trị. Các khoản vay được
cấp cho doanh nghiệp với điều kiện khoản lại quả được trả cho tổng thống và đảng
cầm quyền [6] nhưng đáng chú ý là hành vi này phải tuân thủ hiệu quả về kinh tế.
Một
nhà kinh tế học ước lượng rằng khoản lại quả thêm vào mà các hãng xuất khẩu phải
trả cho việc được vay với lãi suất ưu đãi đã khiến cho lãi suất vay vốn tương
đương với lãi suất thông thường (Patrick, 1994, p.337). Điều tương tự cũng áp dụng
với thuế. Các công ty có thành tích cảm thấy sự mập mờ của nhà nước hoặc thậm
chí được khuyến khích né tránh đóng thuế. Nói chung là “hệ thống tín dụng và
thuế khóa tạo ra một cơ chế tặng thưởng cho thành tích tốt và trừng phạt thành
tích tồi. Trong khi sự ảnh hưởng của ủng hộ chính trị hầu như bị xóa bỏ trong hệ
thống thuế khóa, các trừng phạt kinh tế vẫn tiếp tục là một phần của việc thu
thuế, cả phần thưởng cũng như sự trừng phạt đều là những khía cạnh quan trọng của
hệ thống tín dụng” (Mason et al., 1980, p.322). Nói tóm lại, mối quan hệ bảo trợ-thân
hữu, sự trợ giúp phi chính thức tiếp đó và sự khuyến khích trong các hoạt động
phi pháp đã tồn tại, nhưng trên cơ sở sự hiệu quả thay vì chỉ dựa trên sự ủng hộ
chính trị. Sự tương phản sâu sắc với mối quan hệ nhà nước-doanh nghiệp của Châu
Phi là rõ ràng.
Ngay
cả sự tham nhũng phổ biến dưới thời Chun Doo Hwan cũng tuân thủ khuôn khổ hiệu
quả. Ví dụ vào năm 1985, tập đoàn Kukje, là tập đoàn lớn thứ bảy của Hàn Quốc,
bị nhà nước giải tán, bề ngoài là do cấu trúc nợ quá hạn nhưng trên thực tế là
do chủ tịch của tập đoàn này thể hiện thái độ không sẵn sàng đóng góp cho các
quỹ “từ thiện” của Chun, như Ilhae. Tuy vậy, tập đoàn này được tái phân
phối cho các tập đoàn khác đã đóng góp hào phóng và nhiều doanh nghiệp nói
chung tiếp tục có lợi nhuận dưới trướng của chủ nhân mới (Clifford, 1994,
Chapter 16). Trong mối quan hệ mà nhà nước thu gom các khoản đóng góp khổng lồ
từ doanh nghiệp, các chiến dịch chống tham nhũng không đóng vai trò như là
chính sách theo dõi thường trực để đảm bảo giới hành chính hay nền kinh tế
trong sạch, trái lại để “kiểm soát” doanh nghiệp, và cụ thể là những doanh nghiệp
kém hiệu quả hay hành động theo cách phá hoại quyền lực nhà nước. Quan hệ tham
nhũng nhà nước-doanh nghiệp cần được xem xét trên góc độ động lực.
Tham
nhũng đã là một phần tích hợp của mối liên hệ nhà nước-doanh nghiệp và quá
trình phát triển thay vì là một hiện tượng bất thường. Doanh nghiệp thường
xuyên phàn nàn về “khoản thuế thứ cấp” khổng lồ mà họ buộc phải trả, và vào năm
1992, sau cuộc dân chủ hóa mà Chung Ju Yung của Hyundai đứng về phe tổng thống
cũng như tạo ra tư bản chính trị bằng cách chấm dứt khoản đóng góp khổng lồ mà
chaebol được “khuyến khích” trả cho các tổng thống Park, Chun và Roh trong nhiều
thập kỷ. Tuy vậy, sự trợ giúp phi chính thống/phi pháp mà nhà nước cung cấp cho
những công ty thành công như Hyundai là thiết yếu đối với sự phát triển của họ.
Quyền
lực chính trị của nhà nước cũng không thể tránh khỏi việc điều chỉnh và triển
khai chính sách phát triển. Như Woo đã nói thẳng thừng: “nhà nước làm tiền trở
thành mặt trái của nhà nước phát triển tốt lành” (1991, p.199-200). Động lực
này phải được phân tích trong câu chuyện về sự phát triển của Hàn Quốc cho dù
là từ góc độ kinh tế vĩ mô hay nghiên cứu chính sách công hoặc lịch sử kinh
doanh tư nhân (xem Kirk, 1994 hay sau đó). Lập luận được phác thảo ở đây dẫn đến
một sự khác biệt nhỏ so với Michell. Ông khẳng định rằng “hệ thống các quan hệ
cá nhân phi chính thống đan xen các cấu trúc chính thống (và) quan hệ chính quyền/doanh
nghiệp theo cách thức mà ở quốc gia khác sẽ dẫn đến sự phổ biến tham nhũng” đã
không hoạt động ở Hàn Quốc bởi vì “kẻ thù bên ngoài và sự hấp thụ mạnh mẽ chủ
nghĩa quốc gia kinh tế” (1984, p.36). Trái lại, sự tham nhũng phổ biến ở đây đã
được quốc hữu hóa.
Những
sức ép bên ngoài
Hai
sức ép có tác dụng củng cố khuôn khổ quốc gia đã được mô tả phía trên. Thứ nhất,
mối quan hệ bên ngoài với Hoa Kỳ và Nhật Bản tạo thuận lợi cho cả sự phát triển
cũng như tham nhũng. Viện trợ bên ngoài và sức ép ngoại giao của Hoa Kỳ đã thúc
đẩy Hàn Quốc chuyển từ chiến lược phát triển vốn tạo thuận lợi cho loại tham
nhũng làm suy yếu – Công Nghiệp Hóa Bằng Thay Thế Nhập Khẩu – sang một dạng có
trật tự hơn – Công Nghiệp Định Hướng Xuất Khẩu (Haggard,Moon & Kim, 1991).
Viện trợ của Hoa Kỳ được hứa hẹn khi Hàn Quốc chuyển hướng từ chiến lược sang tự
lực cánh sinh và qua đó giảm thiểu viện trợ của Hoa Kỳ. Các khoản tài trợ công không
hoàn lại giảm xuống và bị thay thế bằng các khoản cho vay. Mặc dù các khoản cho
vay tiếp tục đổ vào Hàn Quốc cho tới cuối những năm 1960 song sự thay đổi đáng
kể là sự gia tăng mạnh mẽ của tài chính tư nhân từ Hoa Kỳ, Nhật Bản (do Hoa Kỳ
khuyến khích) và Châu Âu, theo sau sự thay đổi trong chiến lược phát triển (Wade
& Kim, 1977; Chang, 1982). Nực cười là mức độ gia tăng viện trợ tài chính
và các viện trợ khác cho Thái Lan và Nam Việt Nam lại khiến Hoa Kỳ tìm cách tạo
ra nền kinh tế tự cường ở Hàn Quốc.
Sự
hấp thụ và tăng trưởng kinh tế trong những năm 1960 đã thu hút tài chính tư
nhân quốc tế và kết hợp với sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc đã tạo ra một
nhóm đoan chính mà tham nhũng đóng vai trò nổi bật trong đó. Nhật Bản quan tâm
tới sự phát triển của Hàn Quốc vì mục tiêu của họ, cũng giống như các doanh
nghiệp và tổ chức Hoa Kỳ đang cho vay hoặc đầu tư. Khoản lại quả khổng lồ là một
phụ phẩm của những mối liên hệ tích cực này. Khoảng 2 tỷ dollar tiền lại quả được
tạo ra cho nhà cầm quyền Hàn Quốc từ thỏa thuận với các hãng Nhật Bản trong việc
xây dựng hệ thống đường tàu điện ngầm Seoul, giám đốc KCIA Lee Hu Rak nhận được
500.000 triệu dollar (Kim, 1978, p.53). Các mối liên hệ giữa công ty Nhật Bản,
doanh nghiệp Hàn Quốc và giới thượng lưu nhà nước Hàn Quốc được gọi là yuchaku (cùng nhau phát triển). Một lần
nữa, động lực lại là tham nhũng tích cực, cũng như đối với các công ty Hoa Kỳ đầu
tư ở Hàn Quốc, không chỉ là tập trung vào hợp đồng của chính quyền mà còn tham
gia vào việc mở rộng có lợi nhuận các cơ sở công nghiệp. Do đó, “ít nhất 8,5 tỷ
dollar từ quỹ hợp tác của Hoa Kỳ đã chảy vào túi đảng cầm quyền ở Hàn Quốc
trong cuộc bầu cử năm 1971” (Congressional Quarterly Almanac, 1978, p.811). Các
công ty dầu lửa Hoa Kỳ và các doanh nghiệp lớn khác đã có mối quan hệ đầy lợi
nhuận với các quan chức chủ chốt của Hàn Quốc (Kim, 1978, pp.51–52).
Thứ
hai, mối đe dọa bên ngoài từ Bắc Triều Tiên cũng làm nổi bật động lực phát triển
quốc gia. Ít nhất vào những năm 1950, có thể nói rằng Bắc Triều Tiên hợp pháp
hơn Nam Triều Tiên và hơn nữa nếu miền Nam tiếp tục tình trạng mạo hiểm thì miền
Bắc có thể tiếp tục tấn công. Một trong những động cơ của cuộc đảo chính năm
1961 là an ninh quốc gia: sự tham nhũng của Rhee không chỉ cản trở các quân
nhân chuyên nghiệp, nó còn làm kinh tế đình đốn. Sau cuộc đảo chính, miền Bắc tấn
công, mối đe dọa trở thành thường trực, trong đó có việc cử đội ám sát tới ám
sát tổng thống Hàn Quốc vào năm 1968 và suýt thành công trong việc ám sát tổng
thống Chun Doo Hwan vào năm 1983. Nhưng sự hùng mạnh của kinh tế Hàn Quốc đã củng
cố tình hình an ninh quốc gia của họ cũng như ngăn cản chiến lược lật đổ và thống
nhất đất nước của miền Bắc.
Những
mối liên hệ bên ngoài
Cách
thức mà các nhà nước-quốc gia tham gia vào kinh tế thế giới là sống còn trong
việc xác định các ưu tiên, nhận thức và quỹ đạo phát triển của nhà nước. Như đã
đề cập trước đây trong sự kết hợp với lập luận về hệ tư tưởng và thực tiễn nhà
nước, sự tham gia của Thái Lan vào thị trường toàn cầu trong Chiến Tranh Việt
Nam đã dựa trên du lịch (và ít lãng mạn hơn là gái mại dâm) như là nguồn thu nhập
quốc tế. Tương tự, viện trợ của Hoa Kỳ đã khuyến khích sự tiếp tục cầm quyền của
một quân đội trung thành với lợi nhuận của việc buôn bán ma túy toàn cầu
(McCoy, 1991). Hàn Quốc không có đặc điểm đó. Mặc dù là một quốc gia hấp dẫn
song các cơ hội du lịch và “nghỉ ngơi” dường như là không khả thi trên bán đảo
bị chiến tranh tàn phá và một cuộc chiến khác có thể tiếp diễn vào bất cứ lúc
nào. Với một ít tài nguyên tự nhiên (không có thuốc phiện và rừng nhiệt đới của
Thái Lan) và triển vọng về sự cắt giảm viện trợ của Hoa Kỳ, chiến lược phát triển
được áp dụng là hướng tới việc hội nhập quốc tế trên lĩnh vực thương mại. [7] “Chiến
lược” kinh tế Công Nghiệp Hóa Thay Thế Nhập Khẩu được theo đuổi dưới thời
Syngman Rhee đã thúc đẩy tham nhũng do nó bảo vệ công nghiệp nội địa khỏi sự cạnh
tranh đồng thời tạo ra các thiên đường thuận lợi cho việc tìm kiếm lợi tức.
Công Nghiệp Hóa Định Hướng Xuất Khẩu (EOI) lại giúp nền kinh tế Hàn Quốc hội nhập
vào trật tự kinh tế quốc tế tự do. Tác động của việc đó là các doanh nghiệp Hàn
Quốc được đặt vào kỷ luật thị trường thế giới. Các doanh nghiệp nhận được các
khoản vay nhờ vào các quan hệ địa phương hoặc cá nhân phải thành công trên thị
trường thế giới để tiếp tục nhận được sự trợ giúp (cũng như thiên đường lợi nhuận
của họ dưới dạng độc quyền nội địa) do những sự trợ giúp chính thức và phi
chính thức của chính quyền được cấp trên cơ sở các lệnh xuất khẩu được đáp ứng
(Lim 1981). “Các nhà xuất khẩu có thành tích nổi bật được miễn thế chấp cho các
nghĩa vụ hải quan đặc biệt cũng như các nghĩa vụ hải quan nói chung, không phải
chịu các cuộc thanh tra thuế bất thường và được ưu tiên trong việc phân bổ ngoại
tệ cho các hoạt động kinh doanh” (Kim, 1975, p.272).
Kết luận
Viêc
tập trung vào các chi tiết lịch sử cho thấy sau cuộc đảo chính năm 1961 một loạt
các nhân tố đan xen với nhau tạo ra một động lực và một khuôn khổ có thể “kiềm
chế” tham nhũng. Tham nhũng không giải thích được sự phát triển kinh tế ở Hàn
Quốc bằng bất cứ sự liên tưởng nào, nhưng nó cộng sinh với sự tăng trưởng thần
tốc và ở một số lĩnh vực thì tạo ra sự linh hoạt cho chính sách kinh tế vốn coi
sự chuyển giao nguồn lực cho một số doanh nghiệp có khả năng nhất là cách sử dụng
chúng tốt nhất. Người ta có thể lập luận rằng tham nhũng làm chậm sự phát triển
kinh tế ở Hàn Quốc – điều này là đúng trong trường hợp những năm 1950 – nhưng điều
này sẽ là võ đoán trong trường hợp công nghiệp hóa cực nhanh và thành công của
những năm 1960.
Rõ
ràng là tham nhũng là sự bế tắc trong các nghiên cứu về sự phát triển của Đông
Á dựa trên các khái niệm “thuần khiết” về sự độc lập của nhà nước, các mối liên
hệ nhà nước-xã hội và vai trò của chính sách công đối với sự phát triển. Bài
báo này cố gắng thúc đẩy các nghiên cứu tiếp theo thể hiện phân tích lịch sử
xuyên suốt về các thức hình thành chính sách một cách chính xác và sự triển
khai được thực hiện trong môi trường mang tính chính trị. Đây là tính chất
chung cho hoàn cảnh của tham nhũng tại các nước NICs ở Đông Á (nhà nước mạnh,
giới kinh doanh bản địa yếu, sự phổ biến của các mạng lưới phi chính thống).
Tuy vậy, kinh nghiệm không điển hình của Hàn Quốc ở đây không phải là sự biện
minh cho lập luận chung rằng tham nhũng vừa tích cực vừa tiêu cực. Hơn nữa,
tham nhũng luôn đi kèm với những phí tổn cụ thể, ngay cả khi nó cộng sinh với sự
phát triển nhanh thần tốc: “tham nhũng có thể được kiểm soát bằng cách thay đổi
đặc tính của nó nhưng quan trọng nhất là không bị phá hủy” (Werner, 1983,
p.638). Bằng chứng về phí tổn của tham nhũng là rõ ràng, như hệ thống tài chính
đang cần có sự tái cấu trúc và là cốt lõi của các bê bối chính trị và trên góc
độ phát triển chính trị nói chung. Trong hiện tại, bằng chứng cho thấy rất khó
có thể xóa bỏ tham nhũng mang tính cấu trúc trong kinh tế chính trị Hàn Quốc và
nhấn mạnh sự thật rằng sự cộng sinh của tham nhũng và phát triển kinh tế có những
tác động dài hạn mà giờ mới bộc lộ rõ ràng, nếu không nói đến những tác động ngắn
hạn.
Chú
thích
1.
Theo các công trình mới được điều chỉnh (Michell, 1981; Lie, 1997), sự tăng trưởng
kinh tế nghèo nàn không chỉ là lỗi của chính quyền Rhee mà còn do chính quyền Hoa Kỳ,
vốn đang kiểm soát các lĩnh vực quan trọng của chính sách kinh tế Hàn Quốc, thúc giục
ổn định hóa và tiêu dùng thay vì đầu tư, vốn có thành tích nghèo nàn dưới thời
Rhee. Tuy vậy, điều vẫn còn gây tranh cãi là nếu không có ảnh hưởng của Hoa Kỳ
thì giới hành chính, vẫn mong muốn một chính sách công nghiệp và phát triển
tích cực, có ảnh hưởng gì không, khi mà Rhee quyết định sử dụng kinh tế để đảm
bảo cho sự tồn tại của ông ta thông qua các quan hệ bảo trợ-thân hữu với các
doanh nhân đầu cơ trục lợi.
2.
Quân đội Quan Đông Nhật Bản đã xâm lược Mãn Châu Lý, đổi tên thành tỉnh Manchukuo.
Quốc gia độc lập trên hình thức này trên thực tế do quân đội điều hành như là một
thực thể độc lập và hoạt động như phòng thí nghiệm cho quá trình phát triển
kinh tế và tập trung hóa chính trị dưới sự kiểm soát của nhà nước.
3.
Vào đầu những năm 1970, thuế của nhà nước chiếm 14% GPD (Wade and Kim, 1977,
p.118) Vào năm 1987 giảm xuống còn 2% (Kwack and Lee, 1991, p.14).
4.
Quan hệ bảo trợ-thân hữu đặc trưng của Đông Nam Á thời thuộc địa và độc lập là
một hỗn hợp của “hiện đại” – quan hệ đảng phái, các chương trình phát triển,
các doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, vân vân, và các mạng lưới huyết thống và quê
quán truyền thống. “Ở bất kỳ dạng cụ thể nào của chúng, mạng lưới bảo trợ-thân
hữu vẫn đóng vai trò là cơ sở chính của các hệ thống liên minh giữa những người
không phải họ hàng khắp Đông Nam Á” (Scott, 1972, p.105). Các quan hệ bảo trợ-thân
hữu vận hành trong các xã hội và kinh tế kém hiện đại (trên góc độ sự phát triển
tổ chức và thể chế) cũng được đặt dưới thống trị của những ảnh hưởng hệ tư tưởng
và văn hóa khác nhau ở Đông Nam Á.
5.
Khoản tài chính nước ngoài lớn đã tạo ra cho quân đội các quỹ lớn và sự ảnh hưởng
thông qua hệ thống ngân hàng nhà nước. “Không có nhà nước nào ngoài khối xã hội
chủ nghĩa có thể đạt được biện pháp kiểm soát đó đối với các nguồn lực có thể đầu
tư của nền kinh tế” (Datta-Chaudhuri được trích dẫn trong Harris, 1987, p.212
n.9). Viện trợ/khoản vay của Hoa Kỳ cho Hàn Quốc vào giai đoạn 1946-1976 là
12,6 tỷ dollar; viện trợ/khoản vay của Nhật Bản là 1 tỷ dollar; các tổ chức tài
chính quốc tế cung cấp 1,9 tỷ dollar E. Mason et al. (eds. 1980, p.165). Đảng
Dân Chủ Tự Do, được quân đội thành lập ngay sau cuộc đảo chính đã nhận được 2/3
ngân quỹ từ các doanh nghiệp Nhật Bản trong giai đoạn 1961-1965 (Woo, 1991, p.86).
6.
“Do các khoản vay tư nhân đều phải được chính quyền phê chuẩn và đảm bảo trả nợ,
phía Hàn Quốc nhận được các khoản vay nước ngoài phải trả một tỷ lệ nhất định
(phổ biến được cho là 10-15% và đôi khi là 20% tổng số tiền) để nhận được sự bảo
lãnh của chính quyền”
(Kim,
1976, p.264).
7.
Mặc dù Hàn Quốc đi theo con đường tăng trưởng nhờ thương mại, mức độ hội nhập của
nền kinh tế nội địa – chịu ảnh hưởng rõ ràng của con đường này – vẫn ở mức thấp:
tư bản nước nước ngoài được tìm kiếm bằng con đường vay mượn thay vì FDI và hiếm
thấy đầu tư nước ngoài được phê duyệt.
Tài
liệu tham khảo
M.
Alam (1989) Anatomy of Corruption: An Approach to the Political Eonomy of
Underdevelopment. American Journal of Economics and Sociology Vol.48
No.4.
D.-J.
Chang (1982) Japanese Corporations and the Political Economy of South
Korea-Japanese Relations 1965–1979. PhD Diss. University of California:
Berkeley.
S.
Chon (1992) Political Economy of Regional Development in Korea. in R.
Appelbaum and J. Henderson (eds.), “States and Development in the Asian Pacific
Rim.” London: Sage.
M.
Clifford (1994) Troubled Tiger: Businessmen. Bureaucrats and Generals in
South Korea. East Gate Press: ME Sharpe.
D.
Cole and P. Lyman (1971) Korean Development: the Interplay of Politics and
Economics. Cambridge Mass: Harvard University Press.
Congressional
Quarterly Almanac (1978) “Congress Ends ‘Koreagate’ Lobbying Probe.” Congressional
Quarterly Almanac Vol. 34.
B.
Cumings (1984) The Origins and Development of the Northeast Asian Political
Economy.International Organisation Vol. 38 No. 1.
D.
della Porta and A. Pizzorno (1996) The Business Politician: Reflections from
a Study ofPolitical Corruption. in M. Levi and D. Nelken (eds.), “The
Corruption of Politics and the Politics of Corruption.” Oxford: Blackwell.
P.
Evans and D. Rueschemeyer (1985) The State and Economic Transformation. in
T. Skocpol, P. Evans and D. Rueschemeyer (eds.), “Bringing the State Back In” Cambridge:
Cambridge University Press.
J.L.
Girling (1981) Thailand: Society and Politics. Ithaca: Cornell
University Press.
S.
Haggard (1990) Pathways from the Periphery. Ithaca: Cornell University
Press.
S.
Haggard, B-K Kim and C. Moon (1991) The Transition to Export-Led Growth in
South Korea. The Journal of Asian Studies Vol. 50, No. 4.
N.
Harris (1987) The End of the Third World. London: Penguin.
S.
Huntington (1968) Political Order in Changing Societies. New Haven: Yale
University Press.
L.
Jones and I. Sakong (1980) Government, Business and Entrepreneurship in
Economic Development: the Korean Case. Cambridge: Harvard.
M.
Khan (1996) The Efficiency Implications of Corruption. Journal of
International Development Vol. 8, No. 5.
M.
Khan (1998) Patron-Client Networks and the Economic Effects of Corruption in
Asia Paper presented at the UNDP-PACT and OECD Conference, Corruption and
Integrity Improvement Initiatives in the Context of Developing Countries,
Paris.
J.
Kim(1975) Recent Trends in the Government’s Management of the Economy. in
E.R. Wright (Ed) “Korean Politics in Transition” Seattle: University of
Washington Press.
J.A.
Kim (1976) Divided Korea: the Politics of Development. Cambridge Mass:
Harvard University Press.
H.
Kim (1978) Statement of Kim Hyung Wook, Former Director Korean Central
Intelligence Agency to US Congress Subcommittee on International Organisations,
Investigation of Korean-American Relations Part 7.
D.
Kirk (1994) Korean Dynasty: Hyundai and Chung Ju Yung. Hong Kong: East Gate
Press.
P.
Knightley (1989) The First Casualty. London: Pan.
T.W.
Kwack and K.S. Lee (1991) Tax Reform in Korea. Korea Development Institute
Paper No. 9103.
H.B.
Lee (1968) Korea: Time, Change and Administration. Honolulu: East-West
Center Press.
N.
Leff (1964) Economic Development Through Bureaucratic Corruption. American
Behavioural Scientist Vol. 8.
R.
Leiken (1997) Controlling the Global Corruption Epidemic. Foreign Policy No.105.
J.
Lie (1997) Aid Dependence and the Structure of Corruption: The Case of
Post-Korean War South Korea International Journal of Sociology and Social
Policy Vol. 17, No. 11–12.
Y.
Lim (1981) Government Policy and Private Enterprise: Korean Experience in
Industrialisation. Centre for Korean Studies, Berkeley: California.
A.
McCoy (1991) The Politics of Heroin. CIA Complicity in the Global Drug
Trade. Lawrence Hill Books: USA.
E.
Mason et al. (eds. 1980) The Economic and Social Modernisation of the
Republic of Korea. Cambridge Mass: Harvard University Press.
T.
Michell (1984) Administrative Traditions and Economic Decision-making in South
Korea. IDS Bulletin Vol. 15, No. 2.
T.
Michell (1989) Control of the Economy During the Korean War: the 1952
Coordination Agreement and its Consequences. in J. Cotton and I. Neary (eds.),
“The Korean War in History.” Manchester: Manchester University Press.
M.
Naim (1995) The Corruption Eruption. Brown Journal of World Affairs Vol.II,
No.2.
H.T.
Patrick (1994) Comparisons, Contrasts and Implications. in H.T. Patrick
and Y.C.
Park
(eds.), ‘The Financial Development of Japan, Korea and Taiwan.’ Oxford: Oxford University
Press.
S.
Rose-Ackerman (1978) Corruption: A Study in Political Economy. New York:
Academic Press.
J.C.
Scott (1972) Patron-Client Politics and Political Change in Southeast Asia. The
American Political Science Review Vol. 66, No. 1.
R.
Theobald (1990) Corruption, Development and Underdevelopment. Durham:
Duke University Press.
L.
Wade and B. Kim (1977) The Political Economy of Success. Seoul: Kyung
Hee Press.
R.
Wade (1990) Governing the Market. Princeton: Princeton University Press.
S.B.Werner
(1983) The Development of Political Corruption: a Case Study of Israel. Political
Studies Vol.XXXI.
L.
Westphal et al. (1979) Foreign Influences on Korean Industrial Development Oxford
Bulletin of Economics and Statistics Vol. 41, No. 4.
J.-E.Woo
(1991) Race to the Swift: State and Finance in Korean Industrialisation. Columbia:
Columbia University Press.
Jon
Moran is
Senior Research Assistant, DFD Corruption Project on corruption and
anti-corruption strategies, Liverpool Business School, Liverpool John Moores University.
Labels:
Chính trị,
Đấu tranh,
Đế quốc,
Đông Nam Á,
Hàn Quốc,
Kinh Tế,
Mại dâm,
Quốc tế,
Tham nhũng,
Thế giới,
Truyền thông,
Việt Nam,
Vô sản
Subscribe to:
Posts (Atom)