Saturday, June 7, 2014

Người ta có thể hiểu sai Marx đến mức nào?

Trong bài viết phân tích về khủng hoảng kinh tế của của ông Vũ Quang Việt, một chuyên gia về thống kê, đăng trên tạp chí Thời Đại Mới số 27 tháng 3 năm 2013 có một đoạn ở trang 2 và 3 như sau: 

Karl Marx trong tư bản luận xuất bản trong thời kỳ 1867-1894 cho rằng khủng hoảng có nguyên nhân nội tại trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Thặng dư lao động là do bóc lột công nhân, đẩy tư bản đến việc dùng máy thay người, do đó không còn chỗ để bóc lột, lợi nhuận sẽ giảm và đưa đến khủng hoảng. Nguyên nhân Marx đưa ra rõ ràng là sai vì ngày nay dù tư bản vẫn dùng máy thay người nhưng lợi nhuận lại tăng vì lợi nhuận của tư bản phát triển phần lớn không đi từ bóc lột lao động mà đi từ sản phẩm tri thức (và sẵn sàng biến tri thức thành tư bản để cùng chia lợi nhuận) dù qua phát triển đẩy lao động tay chân vào thất nghiệp hoặc vào hoạt động dịch vụ không cần tri thức.

Xem phần chú thích thì được biết ông Vũ Quang Việt tham khảo cuốn Crisis Economics của Nouriel Roubin và Stephen Mihm trong nhận xét về các lý thuyết khủng hoảng, do không có cuốn sách đó trong tay nên tạm thời chưa biết đây là quan điểm của ông Việt hay được trích dẫn từ cuốn sách đã nêu.

Nhưng cần phải nói là đoạn được trích dẫn cho thấy người viết nó hoàn toàn hiểu sai hoàn toàn về kinh tế chính trị học của Marx.

Thứ nhất, lý thuyết của Marx trình bày về sự bóc lột giá trị thặng dư chứ không phải lao động thặng dư, cái được gọi là lao động thặng dư là mục tiêu bóc lột của thời phong kiến, khi đó nông dân phải làm việc không công một số ngày nhất định trong năm cho lãnh chúa.

Thứ hai, việc bóc lột giá trị thặng dư không thúc đẩy nhà tư bản (chứ không phải tư bản vì tư bản là quan hệ sản xuất, không phải là người) đến việc buộc phải sử dụng máy móc thay người. Như Marx đã lập luận trong chương 13 quyển 3 bộ "Tư Bản", việc nâng cao cấu tạo hữu cơ tức là sử dụng nhiều tư liệu sản xuất (không chỉ máy móc mà còn cả nguyên vật liệu) hơn so với lao động là xu hướng tất yếu thể hiện sự tiến bộ sức sản xuất xã hội, nhà tư bản buộc phải tuân theo xu hướng ấy. Một điều cần nhắc nữa là tác giả hiểu sai hoàn toàn về vấn đề giảm số lượng lao động một cách tuyệt đối. Theo Marx giá trị của máy móc nguyên vật liệu sẽ tăng lên so với tiền lương, còn số lượng lao động tuyệt đối có thể tăng lên, giảm xuống hoặc giữ nguyên. Ví dụ một nhà tư bản có một cái máy trị giá 10 triệu đồng và 2 triệu đồng để thuê nhân công thì khi nhà tư bản đầu tư tăng giá trị máy móc lên gấp đôi, số tiền thuê nhân công sẽ không tăng thêm tương ứng là 2 triệu đồng mà có thể chỉ là 1 triệu đồng thôi. Với 20 triệu tiền máy và 3 triệu tiền thuê nhân công thì số lượng nhân công nhà tư bản thuê còn tùy thuộc vào mức tiền lương cho mỗi nhân công nữa, nếu tiền công được giữ nguyên thì số lượng công nhân sẽ tăng gấp rưỡi nhưng nếu tiền công tăng gấp rưỡi thì số nhân công được thuê sẽ không tăng thêm. Lập luận là dùng máy móc thay thế nhân công thì sẽ đến lúc không còn nhân công để bóc lột nữa để phản bác Marx chỉ là sự hiểu sai Marx.

Thứ ba, Marx đã chứng minh rất rõ trong chương viết về xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận bình quân ở quyển 3 bộ "Tư Bản" là khi sử dụng nhiều tư liệu sản xuất hơn so với lao động thì thứ bị giảm sút là tỷ suất lợi nhuận bình quân, trong khi khối lượng lợi nhuận vẫn tăng lên. Lập luận trong đoạn trích hoàn toàn không phải là của Marx.

Thứ tư, lý thuyết của Marx không có gì sai khi ngày nay máy móc được sử dụng thay cho người mà khối lượng lợi nhuận vẫn tăng, bởi vì chính Marx cũng đã lập luận như vậy. Tỷ suất lợi nhuận bình quân suy giảm mới là tai họa của chủ nghĩa tư bản. Khủng hoảng là do tỷ suất lợi nhuận bình quân giảm sút chứ không phải là do khối lượng lợi nhuận giảm sút như tác giả gán cho Marx.

Thứ năm, tác giả đã đưa quan niệm lợi nhuận là không chỉ do lao động mà phần lớn do sản phẩm tri thức tạo ra. Nhưng cách nói này cũng sai nốt, vì các nhà kinh tế học tư sản từ hàng trăm năm nay đã cố gắng chứng minh rằng tri thức tạo ra lợi nhuận, hay lợi nhuận là sản phẩm của tri thức, nói sản phẩm tri thức tạo ra lợi nhuận thì thật vô nghĩa. Mặt khác, khi cả lao động và tri thức cùng tạo ra lợi nhuận mà tri thức có thể được biến thành tư bản để cùng thu lợi nhuận thì lao động cũng có thể biến thành tư bản để cùng chia sẻ lợi nhuận. Người công nhân sẽ tự thuê bản thân mình thay vì làm việc cho nhà tư bản.

Thứ sáu, Marx khẳng định lao động tạo ra giá trị, nhưng lao động đó không phải là lao động cụ thể như chân tay hay trí óc mà là lao động trừu tượng, tức là sự tiêu hao sinh lực của con người. Gán cho Marx cái quan niệm chỉ có lao động chân tay mới tạo ra giá trị để phủ nhận bằng quan niệm lao động trí óc mới tạo ra giá trị lớn hơn chính là xuyên tạc Marx.

Hiện nay phong trào nghiên cứu kinh tế chính trị Marxist rất phát triển ở các nước phương Tây. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ năm 2008 đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu kinh tế chính trị Marxist như Fred Moseley, Andrew Kliman, Deepankar Basu, Micheal Thomas, Guglielmo Carchedi sử dụng lý thuyết của Marx để giải thích khủng hoảng kinh tế rất thành công, một trong những tác phẩm đáng chú ý là cuốn "The Failure of Capital Production" xuất bản năm 2009 của giáo sư người Mỹ Andrew Kliman. Nhưng có lẽ chưa có nhiều người Việt được tiếp cận với những thành tựu trên. Còn về phía phản bác lý thuyết khủng hoảng của Marx thì đã có hàng sa số các lập luận kể từ Ladislaus von Bortkiewiecz tới định lý của Nobuo Okishio đã được giới học giả phương Tây bàn thảo rộng rãi trong suốt nửa thế kỷ qua, phần lớn sự phản bác Marx về sau này đều dựa trên các lập luận đó, song có lẽ những người phản bác Marx ở Việt Nam cũng không hề biết tới.

Wednesday, May 21, 2014

Chiến tranh và hòa bình ở Triều Tiên và Việt Nam

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "War and Peace in Korea and Vietnam" của nhà hoạt động hòa bình Hoa Kỳ David Hartsough, bài viết cung cấp nhiều cảm nhận chân thực của một người Mỹ về Việt Nam sau những ấn tượng kinh hoàng của chiến tranh.

Tôi mới quay trở lại sau 3 tuần ở Triều Tiên và Việt Nam, những đất nước trong quá khứ đã phải chịu đựng và đang tiếp tục phải chịu đựng sự tàn phá của chiến tranh.

Hàn Quốc

Bắc và Nam đang bị giam hãm trong trạng thái bi kịch của chiến tranh lạnh với đất nước bị chia rẽ mà Hoa Kỳ áp đặt (và không có Liên Bang Soviet phản đối) từ năm 1945 và được củng cố vào năm 1948. Mười triệu gia đình bị chia rẽ bởi sự chia cắt của miền Bắc và miền Nam. Người dân ở Nam Triều Tiên không thể gọi điện, viết thư hay thăm viếng người thân hay bạn bè ở Bắc Triều Tiên và ngược lại. Một giáo sĩ Catholic từ Nam Triều Tiên mà tôi gặp đã trải qua ba năm rưỡi ngồi tù ở Nam Triều Tiên vì thăm viếng Bắc Triều Tiên trong một sứ mạng hòa bình. Biên giới giữa Bắc và Nam Triều Tiên là khu vực chiến tranh, nơi mà chiến tranh súng đạn có thể nổ ra bất cứ khi nào. Quân đội Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên thường xuyên tập trận bắn đạn thật với 300,000 lính đóng vai phòng thủ và tấn công với các chiến đấu cơ ở biên giới Bắc Triều Tiên. Bắc Triều Tiên cũng thường xuyên đe dọa chiến tranh. Liên Bang Soviet không còn tồn tại và đây là lúc Hoa Kỳ cầu khẩn sự tha thứ của người dân Nam và Bắc Triều Tiên vì đã áp đặt trạng thái chiến tranh lên hai đất nước, ký kết một thỏa thuận hòa bình với Bắc Triều Tiên để chính thức chấm dứt chiến tranh Triều Tiên, công nhận chính quyền của Bắc Triều Tiên và đồng ý đàm phán về mọi xung đột trên bàn hội thảo, không phải trên chiến trường.

Tôi dành phần lớn thời gian ở Triều Tiên trên đảo Jeju, một hòn đảo xinh đẹp ở cách đất liền phía nam của Nam Triều Tiên 50 dặm, nơi đó đó có khoảng từ 30,000 đến 80,000 ngượi bị sát hại kể từ năm 1948 theo mệnh lệnh của chỉ huy quân đội Hoa Kỳ. Người dân đảo Jeju đã phản kháng mạnh mẽ sự chiếm đóng của Nhật Bản trong thế chiến thứ hai và cùng với phần lớn người dân ở Triều Tiên, trông mong một quốc gia tự do và độc lập. Mặc dù vậy, thay vì một quốc gia thống nhất, Hoa Kỳ đã áp đặt một chính quyền chống cộng sản cực đoan ở Nam Triều Tiên và đặc biệt là ở đảo Jeju. Tất cả những người phản kháng một Nam Triều Tiên chống cộng sản và quân sự hóa đều bị sát hại (hơn một phần ba dân số thời đó). Bởi vì chế độ độc tài chống cộng sản kéo dài nhiều thập kỷ sau năm 1948, nên người dân đảo Jeju thậm chí không được phép nói về quá khứ hoặc họ sẽ bị tình nghi là thân cộng sản và bị trừng phạt. Chỉ đến năm 2003, tổng thống Roh Moo-huyn mới xin lỗi theo lệnh của chính quyền Hàn Quốc về việc thảm sát người dân đảo Jeju vào năm 1948. Đảo Jeju hiện nay được công bố là “Đảo Hòa Bình” và cũng được coi là “Vùng Di sản Thế giới” do có những dải san hô ngầm và vẻ đẹp tự nhiên.

Nhưng hiện nay chính quyền Hoa Kỳ quyết định “xoay trục sang châu Á” và lập kế hoạch chuyển tâm điểm của các chiến dịch quân sự sang châu Á – có lẽ là để bao vây Trung Quốc với các căn cứ quân sự và chuẩn bị cho cuộc chiến tiếp theo. Làng Gangjeong được lựa chọn làm cảng cho một căn cứ quân sự quy mô lớn, ở đó hiện nay chính thức là một căn cứ quân sự Hàn Quốc, nhưng thực tế được coi là nơi để các tàu chiến Hoa Kỳ giúp “bao vây” Trung Quốc. Do vậy, đảo Jeju có nguy cơ lại trở thành tâm điểm trong một cuộc chiến mới - thậm chí là cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Kể từ khi kế hoạch về căn cứ được thông báo lần đầu tiền bẩy năm trước đây, người dân Gangjeong đã phản đối việc xây dựng căn cứ và trong bốn năm qua đã ngăn chặn phi bạo lực các máy ủi và các xe tải xi măng đi vào căn cứ. Các nhà hoạt động Nam Triều Tiên (nhiều người thuộc các nhà thờ Catholic) đã tham gia phong trào phản kháng phi bạo lực. Hàng ngày có một đám đông tín đồ Catholic trong đó các thầy tu và nữ tu chặn đường chính vào căn cứ và mỗi ngày bị cảnh sát giải tán khi nhiều xe tải chở xi măng xếp hàng để đi vào căn cứ. Khi cảnh sát rút lui sau khi những xe tải tiến vào căn cứ, các thầy tu và nữ tu lại mang ghế ngồi ra tiếp tục chặn lối vào căn cứ - họ cầu nguyện suốt. Tôi tham gia với họ trong hai ngày cuối cùng trên đảo Jeju. Sau khi đám đông duy trì mỗi ngày khoảng hai giờ, các nhà hoạt động tới và khiêu vũ để chặn cửa chính khoảng một giờ. Một số người hành động theo lương tâm bằng cách chặn lối vào đã phải ngồi tù hơn một năm. Những người khác bị áp đặt các án phạt tiền nặng nề vì những hành động xuất phát từ lương tâm. Nhưng phong trào phản kháng phi bạo lực vẫn tiếp tục.

Một số người Triều Tiên làm việc chăm chỉ cho hòa giải và hòa bình giữa Bắc và Nam Triều Tiên. Nhưng các chính quyền Hoa Kỳ, Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên vẫn tiếp tục đối đầu quân sự và hiện nay nếu căn cứ được xây dựng, sẽ là một căn cứ rất lớn khác ở Nam Triều Tiên. Những người Mỹ quan ngại cần phải hỗ trợ phong trào phi bạo lực của người dân đảo Jeju để chấm dứt xây dựng căn cứ quân sự ở đó.

Tôi tin rằng người dân Mỹ cần phải yêu cầu chính quyền của chúng ta chấm dứt lối hòa bình theo kiểu Mỹ đối với phần còn lại của thế giới. Chúng ta cần xử lý xung đột với Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và tất các các quốc gia bằng đàm phán trên bàn họp, chứ không phải triển khai quân đội hay đe dọa và xây dựng nhiều căn cứ quân sự hơn.

Và giờ tới Việt Nam.

Việt Nam

Vào tháng tư tôi đã dành ra hai tuần ở Việt Nam với tư cách là một thành viên trong đoàn đại biểu Cựu chiến binh vì Hòa bình do một nhóm cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ sống ở Việt Nam tổ chức. Tâm điểm trong chuyến viếng thăm của chúng tôi là tìm hiểu xem người dân Việt Nam tiếp tục phải chịu đựng đau khổ của cuộc chiến tranh đã kết thúc cách đây 39 năm ra sao.

Một số ấn tượng/điểm nhấn trong chuyến viếng thăm Việt Nam của tôi như sau:

*Sự thân thiện của người dân Việt Nam, những người chào đón chúng tôi, mời chúng tôi tới nhà họ và tha thứ cho chúng tôi mọi đau khổ, thương tích và chết chóc mà đất nước của chúng ta đã bắt họ phải gánh chịu trong cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Việt Nam, với hy vọng rằng họ và chúng ta có thể sống trong hòa bình với nhau. 

*Sự đau khổ, thương tích và chết chóc khủng khiếp do cuộc chiến ở Việt Nam gây ra. Nếu Hoa Kỳ tôn trọng hiệp định Geneva, theo đó kết thúc cuộc chiến tranh với Pháp-Việt Nam vào năm 1954 và cho phép bầu cử tự do trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1956, ba triệu người Việt Nam (trong đó có hai triệu thường dân) đã không phải chết trong chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Quân đội Hoa Kỳ đã ném hơn tám triệu tấn bom (nhiều hơn tất cả các bên trong thế chiến thứ hai cộng lại) giết hại, gây thương tật và buộc người dân phải bỏ nhà cửa chạy trốn và nhiều người trong số họ phải sống dưới hầm. Ở tỉnh Quảng Trị, bốn tấn bom được ném xuống mỗi đầu người trong tỉnh (tương đương với tám quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima).

*Người dân Việt Nam vẫn tiếp tục đau khổ và chết bởi bom chưa nổ và chất độc màu da cam được Hoa Kỳ ném xuống Việt Nam trong cuộc chiến. Mười phần trăm số bom ném xuống Việt Nam chưa nổ ngay và vẫn tiếp tục nổ trên sân vườn của người dân, trên cánh đồng và trong làng của họ, dẫn đến người dân ở mọi độ tuổi, có cả trẻ em bị mất chi, bị mù hay bị chết hoặc bị các thương tật khác. Tám trăm ngàn tấn bom chưa nổ vẫn nằm trên mặt đất Việt Nam. Kể từ khi kết thúc cuộc chiến, ít nhất có 42,000 người chết và 62,000 người khác bị thương hay tàn phế vĩnh viễn do bom chưa nổ. Chúng tôi đã chứng kiến một quả bom bướm chưa nổ được cho nổ an toàn sau khi được tìm thấy cách mười feet ở phía sau một căn nhà trong ngôi làng khi họ phát quang cỏ dại một ngày trước khi chúng tôi tới đó.

*Hơn 20 triệu gallon thuốc diệt cỏ đã được phun xuống con người và đất nước Việt Nam, trong đó có 15 triệu gallon chất độc màu da cam hủy diệt cây cối và mùa màng. Có ba triệu người Việt Nam là nạn nhân của chất độc màu da cam với cơ thể và trí óc dị dạng, ba thế hệ tiếp theo vẫn chịu đựng đau khổ do chất hóa học cực độc này gây ra, nó làm biến đổi gen và di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên trẻ em vẫn tiếp tục bị dị dạng bẩm sinh trong trí óc và cơ thể. Chúng tôi thăm viếng một trại trẻ mồ côi bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam, những đứa trẻ không bao giờ có khả năng sống một cuộc đời bình thường. Chúng tôi tới thăm một gia đình nơi những đứa trẻ nằm trên giường hay sàn nhà không có khả năng điều khiển cơ thể hay thậm chí nhận ra những người xung quanh. Một người mẹ hay người bà dành 24 giờ một ngày để chăm sóc chúng. Điều đó vượt quá sức chịu đựng của trái tim chúng ta.

*Tổ chức Cựu chiến binh (Hoa Kỳ) vì Hòa Bình Hiến Chương 160 ở Việt Nam đang trợ giúp các dự án giống như dự án Renew, trong đó người Việt Nam được hướng dẫn cách vô hiệu hóa hay cho nổ an toàn những quả bom chưa nổ mà họ tìm thấy ở cộng đồng. Họ cũng hỗ trợ các trại trẻ mồ côi và gia đình mà có một hay nhiều thành viên không thể lao động bằng cách mua cho gia đình ấy một con bò hay lợp mái nhà và hỗ trợ gia đình ấy. Đoàn của chúng tôi đóng góp 21,000 dollar cho trại trẻ mồ côi và hỗ trợ các gia đình bị nhiễm chất độc màu da cam và bị ảnh hưởng của bom chưa nổ - một giọt nhỏ so với nhu cầu, nhưng cũng rất đáng giá.

*Chính quyền Hoa Kỳ nên gánh trách nhiệm giải phóng sự đau khổ và thương tích mà cuộc chiến của chúng ta vẫn đang gây ra cho người dân Việt Nam và đóng góp hàng trăm triệu dollar cần thiết để làm sạch cả chất độc màu da cam lẫn bom chưa nổ và hỗ trợ các gia đình cũng như nạn nhân đang phải chịu đau khổ của chiến tranh. Người Việt Nam đã sẵn sàng làm việc, nhưng cần sự trợ giúp tài chính. Người Mỹ chúng ta đã gây ra thảm kịch này. Chúng ta có trách nhiệm -đạo đức phải dọn sạch nó.

*Ấn tượng rất mạnh mẽ với các cựu chiến binh Hoa Kỳ, những người đã tham gia giết chóc và phá hủy Việt Nam và giờ đang tìm thấy sự hồi phục những chấn thương trong chiến tranh cách đây 40 năm hoặc nhiều hơn, qua việc tiếp xúc với những người Việt Nam vẫn đang phải chịu đựng đau khổ của chiến tranh. Một cựu chiến binh Hoa Kỳ kể với tôi là sau chiến tranh ông ấy đã không thể sống với bản thân hay với bất cứ ai khác và sống xa cách mọi người đến chừng nào ông ấy có thể - khoảng hàng trăm dặm về phía bắc Anchorage, Alaska, làm việc với đường ống dẫn dầu ngày qua ngày, uống nhiều rượu hoặc sử dụng chất gây nghiện trong phần thời gian còn lại để trốn tránh khỏi những ấn tượng đau thương về chiến tranh. Ông ấy nói có hàng trăm cựu chiến binh khác cũng như vậy trong các cánh rừng ở Alaska. Chỉ sau ba mươi năm trong địa ngục, ông ấy cuối cùng cũng quyết định quay trở lại Việt Nam để hiểu người Việt Nam và tìm thấy cách chữa lành vết thương chiến tranh – bằng cách cố gắng chữa lành vết thương cho những người Việt Nam cũng như bản thân. Ông ấy nói rằng quyết định tồi tệ nhất trong cuộc đời là đến Việt Nam như một người lính và quyết định tốt nhất là trở lại Việt Nam như một người bạn của người dân Việt Nam.

*Có một đạo luật được quốc hội thông qua phân bổ 66 triệu dollar để kỷ niệm chiến tranh Việt Nam vào năm 2015, lễ kỷ niệm 40 năm kết thúc chiến tranh. Nhiều người ở Washington muốn làm đẹp hình ảnh của cuộc chiến ở Việt Nam – coi đó là một “cuộc chiến tốt” và thứ gì đó mà người Mỹ nên tự hào. Sau chuyến viếng thăm mới đây tới Việt Nam, tôi cảm thấy rằng chúng ta phải không cho phép chính phủ làm đẹp hình ảnh chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến khủng khiếp như mọi cuộc chiến. Chúng ta có thể học được từ lịch sử cũng như từ bài giảng tôn giáo của chúng ta rằng chiến tranh không phải là câu trả lời, rằng chiến tranh không giải quyết xung đột mà gieo mầm cho các cuộc chiến tương lai. Chiến tranh là thảm họa đọa đức đối với mọi người nhất là đối với những người tham gia giết chóc. (Có một số lượng lớn các vụ tự tử do các binh lính đang làm nghĩa vụ và cựu binh thực hiện, và linh hồn của tất cả những người còn lại trong số chúng ta cũng bị tổn thương).

*Hoa Kỳ có thể là quốc gia được yêu mến nhất trên thế giới nếu chúng ta chuyển từ hòa bình kiểu Mỹ trong quan hệ với thế giới sang một tầm nhìn thế giới về gia đình nhân loại toàn cầu. Chúng ta cần làm việc vì “an ninh được chia sẻ” cho mọi người dân trên trái đất và hành động theo niềm tin đó bằng cách hiến hàng trăm tỷ dollar mà chúng ta đang chi cho các cuộc chiến và chuẩn bị chiến tranh cho nhu cầu nhân đạo và môi trường ở Hoa Kỳ cũng như khắp thế giới. Chúng ta có thể giúp kết thúc nạn đói thế giới, xây dựng trường học cũng như bệnh xã trong các cộng đồng quanh thế giới – tạo dựng một cuộc đời tử tế cho tất cả mọi người trên hành tinh. Điều đó sẽ là biện pháp chiến đấu chống khủng bố hiệu quả hơn những nỗ lực hiện nay để duy trì an ninh bằng nhiều vũ trang hơn, nhiều bom nguyên tử hơn hay nhiều doanh trại quân đội bao quanh hành tinh hơn.

Saturday, May 17, 2014

Những vị chúa doanh nghiệp của Hoa Kỳ

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết ngắn "The Corporate Gods of America" của Robert Fatina. Bài viết bày tỏ những ưu tư về một xã hội đặt lợi nhuận của doanh nghiệp lên trên hết.

Có ai hoài nghi rằng Hoa Kỳ được cai trị vì lợi ích của doanh nghiệp? Công thức cao quý “vì nhân dân” đã biến mất trong đám bụi thần diệu tưởng tượng nhiều thế hệ trước đây.

Trong thiên niên kỷ mới, bất cứ yêu sách nào phục vụ nhân dân, hơn là doanh nghiệp, bị loại bỏ ngay; dường như, những người được lựa chọn, hay còn được gọi là đại diện, và các doanh nghiệp sở hữu họ, được thuyết phục rằng 99% đã hoàn toàn bị ru ngủ bởi niềm tin gà gật kiểu như Hoa Kỳ là quốc gia vĩ đại nhất thế giới, và điều gì tốt cho kinh doanh thì cũng tốt cho họ. Những người còn mang niềm tin kỳ quái ấy xin hãy xem qua những sự thật rất cơ bản và sơ đẳng:

* Luật an toàn. Bị doanh nghiệp chống lại, các luật an toàn lỏng lẻo hay không-tồn tại đem lại lợi ích cho những doanh nghiệp nhỏ với chi phí do các cá nhân gánh chịu. Nhồi nhét nhiều công nhân hơn vào một nhà máy có thể gây ra nhiều nguy hiểm cho sức khỏe của họ, nhưng nhiều công nhân hơn thì sản xuất nhiều hàng hóa hơn, và điều đó tốt cho doanh nghiệp

* Các tiêu chuẩn về xả thải. Các tiêu chuẩn đó cho phép hàng triệu người được sống trong một bầu không khí ít nhất là chấp nhận được, cũng như có nguồn nước uống dễ chịu. Nhưng việc doanh nghiệp buộc phải phải giảm lượng chất thải mà họ xả vào không khí và/hay nguồn nước lại tốn tiền, mà không đem lại bất cứ khoản thu nào. Khi không có doanh thu cho khoản đầu tư, doanh nghiệp chống lại các tiêu chuẩn đó. 

* Lương tối thiểu. Duy trì lương tối thiểu thấp làm gia tăng lợi nhuận doanh nghiệp trong khi buộc hàng sa số cá nhân và gia đình phải sống trong sự nghèo đói, một sự cộng thêm cho doanh nghiệp. Điều đó cho phép các giám đốc doanh nghiệp nhận được hàng triệu dollar tiền lương và thưởng, trong khi công nhân của họ chỉ đủ tiền mua thực phẩm, những người giàu có ấy dành riêng các hàng hóa xa xỉ như giáo dục cấp cao hơn cho bản thân hay cho con cái họ. Thêm vào chi phí cắt cổ của giáo dục cấp cao hơn là các khoản cho vay sinh viên với lãi suất cao đến nản lòng, và một lực lượng lao động thiếu giáo dục, tuyệt vọng sẽ hài lòng vớ lấy bất kỳ công việc nào với lương tối thiểu, và sẽ lưỡng lựu khi yêu cầu bất cứ thứ gì tốt hơn.

* Nước ngoài. Rất nhiều, nếu không phải là phần lớn, các doanh nghiệp lớn chuyển việc làm tới các quốc gia có mức lương gần như lương của nô lệ, không có tiêu chuẩn an toàn, giúp ích cho những kẻ tìm kiếm lợi nhuận, trong khi lấy đi của công dân Mỹ hàng triệu việc làm. Sự hủy hoại đối với sức khỏe và hạnh phúc của công nhân ngoại quốc không phải là mối bận tâm của các doanh nghiệp đang thuê họ làm việc.

* Phá hủy hay làm suy yếu các công đoàn. Trong nhiều thế hệ, các công nhân liên hiệp có thể tăng phần của mình thông qua đàm phán tập thể. Hiện nay, mặc dù vậy, các doanh nghiệp, cùng với quan chức chính phủ được họ mua và trả tiền, đang cố gắng làm suy yếu hay phá hủy các công đoàn. Ví dụ, ở Wincosin trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm năm 2012, có khoảng 66% nguồn tài trợ của thống đốc chống công đoàn Scott Walker đến từ bên ngoài bang, nhiều trong số đó là từ các nhóm kinh doanh bảo thủ, bao gồm anh em nhà Koch và Sheldon Anderson. Tổng cộng khoản đóng góp của ông Walker là 30,5 triệu dollar. Đối thủ của ông ta, Tom Barrett, nhận được khoảng 26% trong số 4 triệu dollar từ các nhóm bên ngoài.

* Doanh nghiệp kiểm soát truyền thông. Vào năm 1983, khoảng 15 công ty sở hữu 90% truyền thông Hoa Kỳ. Ngày nay, chỉ có sáu công ty sở hữu 90% truyền thông. Điều đó có nghĩa là 232 giám đốc truyền thông kiểm soát cái mà 277 triệu công dân Hoa Kỳ xem. Tại sao họ lại không muốn công dân chỉ xem những “tin tức” và “thông tin” sẽ nâng cao giá trị của các cổ đông, và cùng với điều đó là lương của họ? 

Tòa án tối cao đồng lõa với tất cả những điều đó. Một pháo đài cuối cùng của việc giải thích hiến pháp, công lý ngày nay, đôi khi dường như đã bị đốn hạ, sùng bái bàn thờ doanh nghiệp mà tòa án ủng hộ. Vào năm 2010, trong vụ Liên minh Công dân kiện Ủy ban bầu cử Liên bang, tòa án đã phán quyết rằng Tu chính án thứ nhất cấm các biện pháp giới hạn của chính phủ đối với quyên góp của “doanh nghiệp, hiệp hội hay công đoàn”. Điều đó mở ra cánh cổng tài chính cho phép những doanh nghiệp giàu có quyên góp không giới hạn cho các ứng cử viên sẽ phục vụ họ, trong khi chỉ mang lại lợi ích ít ỏi cho những người lao động bình thường.

Tất cả những điều đó không phải là hạt nhân chính của chủ nghĩa phát xít? Các mục tiêu của doanh nghiệp không phải là vị chúa tối cao, cùng với mối ưu tư cuồng tín về an ninh quốc gia, trong những cột trụ của nhà nước phát xít?

Mặc dù gần như tất cả các chính khách, tả, hữu và trung, quấn mình trong lá cờ Hoa Kỳ và tuyên bố về sự vĩ đại của điều tồi tệ Hoa Kỳ, dường như có nhiều công dân – động vật gặm nhấm, khi họ nhìn lá cờ, mở to đôi mắt ứa lệ và ủng hộ các chính sách cũng như chương trình phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp mà nhu cầu cơ bản của họ phải gánh chịu chi phí.

Phong trào “Chiếm đóng” tạo ra một bước chống lại thói quen tự hủy hoại đó, nhưng bất cứ phong trào nào cũng phụ thuộc vào việc phát hành, và truyền thông do doanh nghiệp sở hữu sẽ không chú ý tới những vấn đề không phục vụ cho lợi ích của bản thân. Truyền thông xã hội có thể là công cụ cuối cùng có thể, nhưng doanh nghiệp không quay lưng với giá trị đồng dollar của họ, hay các tác động tiềm tàng có thể nếu “nhân dân chúng ta” được phép kiểm soát. Mạng internet trung lập, nguyên tắc mà theo đó mọi website, dịch vụ và ứng dụng được nhà cung cấp dịch vụ Internet đối xử bình đẳng, đã thu hút sự chú ý của những người tìm kiếm sự giàu có cho bản thân, những cái két tiền đã phồng to. Với đề xuất mới của chính phủ Hoa Kỳ, các website sẽ nhận được dịch vụ tương ứng với khoản tiền mà họ sẵn sàng chi trả. Một lần nữa, những doanh nhân nhỏ, độc lập dựa vào sự nhân từ của những kẻ cạnh tranh lớn, và trong phần lớn các trường hợp không có cơ hội thành công.

Đó là cuộc sống ngày nay ở “xứ sở của cơ hội” được ca tụng nhiều nhất. Nếu ai đó đã giàu có sẵn, cơ hội có thừa. Mặc dù vậy, đối với 99% không có cơ hội, ồn ào tạo ra cơ hội cuối cùng có thể là điều tốt nhất.

Monday, May 12, 2014

Người Indonesia cần cuộc cách mạng!

Nếu có một ngày nào đó, bạn thấy người dân Indonesia đổ ra đường giương cao những khẩu hiệu như: "Đả đảo chế độ độc tài đa đảng", "Chủ nghĩa xã hội muôn năm", "Thoát Mỹ để phát triển", "Độc lập và Dân chủ"; thì có thể bạn sẽ không thấy ngạc nhiên, bởi vì bạn đã đọc bản dịch này.  Người trả lời phỏng vấn trong bài "Indonesians needs revolution", Andre Vlcheck là nhà văn, nhà làm phim, nhà báo điều tra, nghiên cứu về các cuộc chiến tranh ở nhiều nước trên thế giới. Andre Vlcheck đã đưa ra một cái nhìn độc đáo và khác biệt về hệ thống chính trị Indonesia, một quốc gia láng giềng trong khối ASEAN với Việt Nam.

Sau đây là bản dịch.

Ở Indonesia, sự lạ thường và đầy hy vọng đang xuất hiện. Sau một mùa đông trí tuệ kéo dài, những mầm xanh đang trồi lên khỏi mặt tuyết (nếu được phép sử dụng phép ẩn dụ này cho một đất nước miền nhiệt đới).

Một nhà xuất bản tiến bộ Indonesia – Badak Merah (“Tê giác đỏ”) – đang phát hành đầu sách đầu tiên, cuốn sách của Andre Vltchek’s “Indonesia – Quần đảo của nỗi sợ hãi”, được dịch từ tiếng Anh sang ngôn ngữ bản địa là ‘Indonesia: Untaian Ketakutan di Nusantara’. Một sự phê phán mạnh mẽ về Indonesia thời kỳ trước năm 1965, thời kỳ mà cả Andre Vlchek và Naomi Klein tin rằng không có gì hơn là một cuộc thí nghiệm của phương Tây trên con người, sau đó được sao chép lại tại nhiều nơi trên thế giới.

Nhà văn và nhà xuất bản người Indonesia Rossie Indira (RI) phỏng vấn Andre Vltchek (AV) cho báo CounterPunch:

RI: Anh có thể nói gì về tình hình hiện tại ở Indonesia? Anh so sánh tình hình hiện tại với tình hình thời kỳ mà anh sản xuất và đạo diễn bộ phim tài liệu “Terlena – Breaking of a Nation” như thế nào?

AV: Hiện giờ tình hình còn tồi tệ hơn 10 năm trước đây. Bởi vì trước đây còn có chút ít hy vọng. Nhà lãnh đạo tiến bộ Hồi giáo Abdurrahman Wahid (được gọi là Gus Dur) vẫn còn sống và Pramoedya Ananta Toer cũng vậy. Ngài Wahid, cựu tổng thống Indonesia, là một người xã hội chủ nghĩa bí mật. Ông ấy bị tầng lớp tinh hoa và quân sự Indonesia lật đổ bằng một cuộc đảo chính tư pháp, nhưng nhiều người Indonesia vẫn tin rằng ông ấy chuẩn bị quay lại.

Sau nữa, có một số nhóm nhà hoạt động, vẫn thuần khiết và chưa “bị tẩy não”, chiến đấu cho nước Indonesia mới. Nhân dân, ít nhất là nhiều người trong số họ, quan sát và tìm ra những cách thức mới để thay đổi đất nước.

Giờ đây chế độ độc tài hay còn gọi là “chính phủ Indonesia”, đã thống nhất hoàn toàn quyền lực… Bạn thấy đấy, phương Tây nói với người Indonesia, tất nhiên là gián tiếp, rằng “dân chủ” là khi bạn có nhiều đảng phái chính trị, và nhân dân ít nhất cũng được bỏ phiếu vào lúc nào đó. Nhưng điều đó hoàn toàn là vô nghĩa. Dân chủ là khi bạn bỏ phiếu và lá phiếu của bạn có thể thay đổi hoàn toàn đường lối của quốc gia: giống như Venezuela. “Quyền lực của nhân dân” thực sự … Có quá nhiều đảng phái chính trị và nhét những mẩu giấy vào một cái hộp chả đảm bảo điều gì hết. Ở Indonesia có rất nhiều đảng phái, nhưng tất cả bọn họ đều ủng hộ doanh nghiệp và tầng lớp tinh hoa, và mọi ứng cử viên của họ, gồm cả Jokowi, đều được chính phủ lựa chọn cũng như chấp nhận trước. Vậy nên bất kể mọi người bầu cử ra sao, chẳng có gì thay đổi hết.

Thực tế, bỏ phiếu ở những quốc gia như Indonesia là không yêu nước, chỉ để hợp pháp hóa chính phủ, thứ phục vụ cho lợi ích kinh tế và chính trị của ngoại bang, cũng như lũ điếm “tinh hoa”. Indonesia giờ đây là không thể phủ nhận là một quốc gia đang bị tàn phá. Đất nước này đã rơi xuống cấp độ của các quốc gia châu Phi cận Sahara (Tôi làm việc ở châu Phi và có thể dễ dàng so sánh). Có những khách sạn nhỏ và sang trọng ở một số thành phố, nhưng ở giữa chúng là ác mộng thực sự, thiếu hay hoàn toàn không có những dịch vụ căn bản.

Thậm chí Rwanda còn có đường xá tốt hơn Indonesia. Ngay cả Zimbabwe cũng có trường công tốt hơn. Ngay cả Kenya cũng có mạng thông tin di động và Internet tốt hơn. Ngay cả Botswana cũng có các bệnh viện công tốt hơn. 

Chính phủ dối trá về mọi thứ, gồm cả dân số, và số người nghèo (chiếm đa số dân chúng trong thực tế). Giáo dục hầu như không tồn tại. Cái được gọi là hệ thống giáo dục chỉ là sự tẩy não, và để duy trì tình trạng nguyên thủy. Và đây: một quốc gia với hơn 300 triệu người (con số thực) không có lấy một nhà khoa học hay tư tưởng lớn nào, trái ngược với những nơi như Nigeria, ở đó có rất nhiều.

Và không có sự đối lập thật sự.

Tất nhiên là nhà nước thất bại được giới hàn lâm và truyền thông phương Tây hoàn toàn ủng hộ; bởi vì nó làm những gì được sai bảo: trở thành một đất nước bị tẩy não khổng lồ, bị cướp bóc và xuất khẩu sự giàu có, trong khi không có lấy một người từng trải thấy rằng nhiều nơi trên thế giới đang đấu tranh cho sự độc lập thật sự, thoát khỏi kẻ độc đoán phương Tây, và đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội.

RI: Trong cuốn sách “Quần đảo của nỗi sợ hãi” của anh, đã được nhà xuất bản Pluto ở London phát hành, và sẽ có mặt trong hai tuần nữa ở Bahasa Indonesia: tại sao anh mô tả Indonesia là một “quần đảo của nỗi sợ hãi”? Nhiều người ở đây hỏi tôi điều này và dường như họ không nhận thấy hay không chấp nhận những gì anh mô tả?

AV: Nhân dân Indonesia sống trong nỗi sợ hãi thường trực, trong sự kinh hoàng. Họ thường xuyên không nhận thấy điều đó, bởi vì tâm trạng, “sống trong nỗi sợ hãi”, vốn là “biasa” (sự bình thường). Nỗi sợ hãi, cũng có thể giải thích tại sao hầu như không có những người nổi loạn, hay sẵn lòng khơi dậy sự nổi loạn chống chính phủ. Nhân dân bị chia rẽ bởi nỗi sợ hãi vô hình, thứ bắt nguồn từ sự thờ ơ và thiếu an toàn.

Chỉ có những kẻ cướp và tha hóa mới được bảo vệ và tôn trọng. Những người còn lại là các nạn nhân. Họ là các nạn nhân bị dọa nạt, bị làm nhục và không được biết tới. Công nhân sợ hãi vì họ không được bảo vệ: nông dân sợ hãi, các cô gái (pembantus) sợ hãi (và trốn chạy để tìm việc làm sang tận Trung Đông, một bến đỗ khắc nghiệt cho phụ nữ), và ngay cả những người quản lý thuê cho doanh nghiệp cũng sợ hãi. Trẻ em sợ hãi bởi vì chúng là tài sản của cha mẹ và bị đối xử như tài sản. Phụ nữ sợ hãi bởi vì họ bị hạ nhục trong hoạt động thường ngày và bị coi như miếng thịt, như đối tượng tình dục, như nô lệ. Nhiều phụ nữ phải chịu đựng việc cắt môi âm đạo (một số người nói phần lớn họ bị), bị tấn công tình dục, cưỡng hiếp (thậm chí ngay trong phạm vi gia đình của họ), và trong khi tỷ lệ lạm dụng tình dục cao nhất thế giới, phần lớn các vụ án không được trình báo do sợ hãi.

Ở Indonesia, cưỡng hiếp là chuyện thường xuyên xảy ra và một số vụ cưỡng hiếp trên quy mô lớn có tổ chức đã được chứng kiến: năm 1965/1966, ở Đông Timor và giờ là Papua. Phụ nữ bị bắt vào đồn cảnh sát thường bị cưỡng hiếp.

Nhiều phụ nữ sợ xã hội và gia đình của họ, nên nếu họ có thai ngoài hôn nhân, họ sẽ bỏ con (ném chúng xuống cống) hơn là đối mặt với xã hội. Indonesia là một trong những nước có tỷ lệ bỏ con cao nhất thế giới, nhưng một lần nữa, phần lớn không được thông tin. 

Người dân sợ bị tấn công, làm hại, cướp bóc hay cưỡng hiếp bởi vì họ không được bảo vệ. Cảnh sát và hệ thống pháp luật tha hóa hay/và theo phe của người giàu. Nạn nhân không thấy công lý. Làm sao bạn có thể không sợ hãi trong tình trạng hoàn toàn vô pháp luật?

Nếu người dân trông “khác biệt”, họ phải e ngại. Kẻ phân biệt chủng tộc làm hại những ai trông không giống như những người thuộc nhóm đa số. Indonesia là một trong những quốc gia phân biệt chủng tộc nhất trái đất, và đã có vài cuộc diệt chủng diễn ra ở đây. Nhưng không có nhận thức, trải nghiệm, hay hiểu biết về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hiện tại. Không có sự tự phê phán. 

Người dân sợ bị ốm, bởi vì Indonesia có một hệ thống y tế tồi tệ nhất thế giới, hoàn toàn bỏ mặc cho các lực lượng thị trường. Chăm sóc y tế là công việc “kinh doanh”, cũng như mọi thứ khác đều trở thành “kinh doanh”. Thật là khủng khiếp và kinh hoàng.

Nạn nhân của vụ thảm sát năm 1965 sợ hãi! Thay vì yêu cầu công lý và đưa những kẻ chịu trách nhiệm về vụ diệt chủng vào tù, họ thực sự sợ hãi! Bởi vì họ không có khả năng tự vệ. Bạn thấy điều đó trong phim “Act of Killing”! Nhưng trong khi cả thế giới kinh hoàng, khi thấy những kẻ giết người hàng loạt ở địa phương được tôn kính và ca tụng, nhiều người Indonesia lại coi đó là chuyện bình thường – chỉ là biasa.

Nỗi sợ hãi sinh ra khi một người nhìn thấy toàn bộ quần đảo – bị tàn phá, phong tỏa, cướp bóc, đầu độc. Sumatra đã đi tong. Kalimantan đã đi tong, Papua… Java… Bangka… Bali trở thành một hòn đảo “miễn thuế” nhem nhuốc và bị đầu độc.

Có thể nhiều người không thể định nghĩa được nỗi sợ hãi của họ. Nhưng họ có nỗi sợ hãi và thể hiện nó trong hành vi. Đó là sự tức giận và cáu kỉnh.

Một số người nói họ hài lòng, nhưng thực tế phần lớn họ đang chán ngán. Người dân nói họ không nghèo, ngay cả khi họ lấy nước từ dưới cống và sống trong hộp carton. Họ nói họ không e ngại, bởi vì sự kinh khủng mà họ trải qua hàng ngày không được phép mô tả là nỗi sợ hãi. Nếu không, gia đình, quan chức, truyền thông sẽ nhại lại.

Tất nhiên, trên hết người dân Indonesia sợ bị “khác biệt”. Trở nên khác biệt sẽ bị trừng phạt tàn bạo. Những người khác biệt bị nhại, bị cách ly, bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị giết hại. Họ bị cấm đoán. Trở thành người cộng sản bị cấm. Trở thành đồng tính bị cấm. Trở thành vô thần bị cấm. Theo Lão giáo bị cấm. Trở thành một trong hàng ngàn thứ bị cấm.

Đó là lý do tại sao đây là một trong những nơi kém sáng tạo, đơn điệu nhất trái đất. Nhiều người ẩn mình sau tôn giáo, một số thực sự đã trở nên hoàn toàn điên khùng. Họ cũng ẩn mình sau các bộ tộc theo huyết thống. Đối với đa số, thiếu sự hiểu biết và không có khả năng suy nghĩ khiến họ không thể thoát khỏi sự ngu dốt, lại được coi là thế mạnh. Indonesia là một trong những nơi kinh sợ và đáng sợ nhất trái đất. 

RI: Chúng tôi có những cuộc bầu cử lập pháp và ngày 9 tháng năm 2014. Đáng tiếc là như anh mới nói xong, chúng tôi đã bị tẩy não để nghĩ rằng có những cuộc bầu cử với nhiều đảng phái là dân chủ. Đại diện của chúng tôi ở Quốc hội quên sạch những lời hứa của họ sau khi được bầu hay tái cử, và rõ ràng là họ chỉ phục vụ cho lợi ích của bản thân. Cuộc bầu cử tổng thống cũng tương tự như vậy: một khi được bầu, tổng thống “quên luôn” những lời hứa và nhiệm vụ bảo vệ dân chúng. Vậy đâu là hệ thống tốt nhất cho một quốc gia như Indonesia? Bốn cây cột của Pancasila (triết lý nền tảng của nhà nước Indonesia) – “Dân chủ được dẫn dắt bởi sự thông thái nội tại trong sự đồng thuận được tạo nên từ sự cẩn trọng của những người đại diện” – có đúng không?

AV: Tôi tin rằng Indonesia trước hết cần được cai trị bằng một hệ thống chủ nghĩa xã hội, trước khi chúng ta có thể bắt đầu nói về “dân chủ”.

Bởi vì trước hết, người dân Indonesia cần được giáo dục và biết cái mà họ muốn và cái mà đất nước của họ là. Lợi ích của nhân dân cần phải được đặt lên đầu tiên! Toàn bộ xã hội phải làm việc ngày đêm để cải thiện cuộc sống của đa số. Điều căn bản là chúng ta cần đối lập với những gì mà Indonesia đang là hiện nay, đó là: đại đa số đang phục vụ cho lợi ích của những tên côn đồ địa phương và thương nhân ngoại quốc.

Cần phải giáo dục người dân một cách mạnh mẽ. Như hiện nay, sau cuộc đảo chính quân sự được Hoa Kỳ tài trợ năm 1965 và dẫn đến tắm máu, văn hóa Indonesia đã bị phá hủy và thay thế bằng văn hóa đại chúng địa phương và chủ yếu là văn hóa đại chúng Hoa Kỳ. Tư duy bị coi thường. Giáo dục đúng đắn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, và những người có giáo dục sử dụng kiến thức của họ để bóc lột đất nước nhiều hơn, thay vì cải thiện.

Do đó, người dân Indonesia không biết nên bỏ phiếu cho ai, hay hệ thống chính trị của họ theo đuổi cái gì. Làm cho họ ngớ ngẩn rất dễ.

Người đại diện cho nhân dân: tốt… tất nhiên! Nhưng đó phải là những người đàn ông và đàn bà rất dũng cảm, trung thực và chuyên nghiệp. Họ phải sẵn sàng sống hay chết vì quốc gia: đặt lợi ích cá nhân, hay lợi ích gia đình, dưới lợi ích của quần đảo!

Để tạo ra những người đó, những người đại diện cho nhân dân, cần phải có hàng thập kỷ, và họ chỉ có thể lớn lên trong một hệ thống chính trị khác biệt về căn bản, và một nền văn hóa hoàn toàn mới. Những gì đang thống trị ở Indonesia là sự bại hoại về đạo đức, đó là sự tha hóa. Những gì thống trị ở quốc gia này không phải là hệ thống văn hóa hay chính trị: đó là bệnh ung thư.

Như hiện nay, nhiều thập kỷ sau năm 1965, người dân Indonesia không được trải nghiệm về hệ thống nào khác ngoài hệ thống họ có, hay nền dân chủ thực sự.

Nếu Hoa Kỳ và phương Tây không cưỡng hiếp đất nước năm 1965, một dạng tự nhiên của chính quyền đã tồn tại như đã được tạo ra bởi người cha của quốc gia, người theo chủ nghĩa quốc gia (và quốc tế) Sukarno, người đã liên minh chặt chẽ với đảng Cộng Sản Indonesia (PKI), sau này trở thành đảng Cộng Sản lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Liên Bang Soviet. Theo đó, những phần – chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa quốc tế và “dân chủ cộng sản chủ nghĩa – sẽ là sự phát triển tự nhiên và bình thường nhất đối với Indonesia, đối với văn hóa và trí tuệ. Chỉ có phương Tây khủng bố, tầng lớp tinh hoa tha hóa Indonesia, cũng như những chức sắc tôn giáo đố kỵ (mọi tôn giáo, không chỉ đạo Hồi), đã chặn đứng quá trình bằng giết chóc, cưỡng hiếp, và bỏ tù hàng triệu người, phong tỏa đất nước bằng nỗi sợ hãi thường trực, trong sự kinh hoàng, trong sự đầu hàng về đạo đức. 

Tất cả những điều này cần phải giải thích cho công chúng Indonesia: đâu là đất nước của họ trước cuộc đảo chính, và đâu là thứ mà cuộc đảo chính tạo ra. Cuộc đảo chính không “bảo vệ Indonesia khỏi chủ nghĩa cộng sản”. Nó đã biến một đất nước tiến bộ và theo chủ nghĩa quốc gia thành thuộc địa của phương Tây. “Chủ nghĩa thực dân” và “dân chủ” là hai khái niệm đối lập. Để trở thành “dân chủ” thì một quốc gia phải tự do. Ngay hiện giờ, người dân Indonesia là nô lệ: của phương Tây và tầng lớp tinh hoa địa phương.

Ngay hiện giờ, ở đó không phải là “sự cai trị của nhân dân” (dân chủ), mà là sự cai trị của các bố già địa phương tham lam và các chủ sở hữu nước ngoài.

RI: Anh cũng đề cập tới hệ thống giáo dục. Đâu là kiểu giáo dục cần được triển khai? Chúng tôi hiểu rằng không thể tạo dựng nền dân chủ tiến bộ nếu người dân chưa được giáo dục, và để giáo dục họ, đất nước phải trả giá rất cao; bất cứ giá nào, thực sự. Nhưng theo Tòa Án Hiến Pháp Indonesia, “sự tham gia tự nguyện của công chúng vào việc tài trợ cho giáo dục” không trái với hiến pháp. Tòa án tuyên bố rằng đối với sự phát triển của bản thân, mỗi công dân cần gánh vác trách nhiệm giáo dục bản thân đạt tới mức độ mà họ mong muốn. Điều này có nghĩa là nhà nước có trách nhiệm chung nhưng các công dân cần phải đóng góp ngân quỹ. Đây là chủ nghĩa tân tự do, nếu tôi đọc chính xác?

AV: Chính xác. Không thể có dân chủ trong một quốc gia mà người dân không được giáo dục và không hiểu vị trí của bản thân trong xã hội và thế giới. Nhân dân “cai trị” chỉ khi họ có thể tạo ra “các quyết định có giáo dục”. Dân chủ có nghĩa là “sự cai trị của nhân dân”, nhưng dân dân thực sự cai trị khi tất cả họ có thể đếm xem mình thu được bao nhiêu tiền nếu bỏ phiếu vào hòm, hay họ có thể bỏ phiếu cho những ứng cử viên sẽ đảm bảo rằng trạng thái nguyên thủy sẽ giữ nguyên? Tất cả các ứng cử viên ở Indonesia đã được chính phủ lựa chọn và chấp nhận trước, đặc biệt là những người “hơi khác biệt một chút”, như Jokowi.

Tất nhiên mỗi công dân nên tự giáo dục bản thân, nhưng chỉ sau khi nhận được một số kiến thức căn bản và cần thiết. Giáo dục phổ cập nên miễn phí; từ bậc mẫu giáo cho đến tiến sĩ. Chúng được miễn phí tại nhiều quốc gia châu Âu, và ở một số nước Mỹ Latin (bao gồm Cuba, Mexico và Argentina). Trung Quốc quay trở lại miễn phí giáo dục, cũng như quay lại bảo hiểm y tế phổ cập. Ở những quốc gia như Chile, người dân đang đấu tranh trên các đường phố đòi giáo dục miễn phí và họ chiến thắng!

Văn hóa cũng phải được ưu tiên thường xuyên. Nó sẽ giáo dục người dân, như ở Mỹ Latin: hàng ngàn nhà hát lớn, rạp chiếu phim nghệ thuật, hàng triệu sách miễn phí được chính phủ phân phát, đọc thơ công khai, tự do văn học công chúng, và tất cả các cửa hàng sách mở cửa cho tới sáng sớm, triển lãm phản ánh nhu cầu và lo lắng của xã hội, các buổi hòa nhạc khích lệ.

Xin hãy nhìn các thành phố Indonesia: Jakarta, Surabaya, Medan… có bất cứ thành phố nào trên thế giới có cùng quy mô mà mọi người biết lại hoàn toàn thiếu văn hóa và các thiết chế như vậy không? Như nhà hát, kho lưu trữ, thư viện lớn, phòng hòa nhạc, rạp chiếu phim nghệ thuật, các nhà sách tiến bộ… Chả có gì hết. 

Làm thế nào mà bạn tự giáo dục bản thân ở Indonesia? Bạn có thể tự giáo dục, chỉ bằng cách tiêu thụ những thứ ngớ ngẩn – văn hóa đại chúng của tư bản tài phiệt, các kênh truyền hình vô vị, hay hòa mình với “đa số thất học chức năng”, những người che dấu sự dốt nát trong một đại dương những công dân có suy nghĩ giống nhau. 

RI: Nếu anh khuyến nghị về một dạng hệ thống xã hội chủ nghĩa sẽ cai trị Indonesia, anh có phỏng đoán nào về cách thức mà chúng tôi có thể đi theo hướng đó không? Nhiều đất nước trên thế giới đấu tranh cho điều đó, và ví dụ hiện nay, chúng ta có thể thấy phần lớn các đất nước Mỹ Latin đang thắng lợi và quay lại chủ nghĩa xã hội. Nhưng dường như người Indonesia, phần lớn trong số họ, không tham gia vào làn sóng này. Phần lớn họ thậm chí còn khác biệt. Chúng ta chỉ dạy người dân Indonesia như thế nào về một hệ thống chính trị, kinh tế và văn hóa hoàn toàn khác mà họ cần phải có để thoát ra khỏi tình thế vô vọng hiện nay?

AV: Điều đó cần phải thực hiện bằng giáo dục và sự cởi mở. Bất cứ ai có thể, nên tham gia vào “dự án” này. Không chỉ những nhà giáo dục và giáo viên chuyên nghiệp (những người này thường bị nhồi sọ và tẩy não), mà đặc biệt là những nghệ sĩ, những người sáng tạo, những nhà tư tưởng. Cần phải có nhiều sự khích lệ, đặc biệt là từ báo chí tự do! Điều gì đang xảy ra với xuất bản độc lập tiến bộ ở Indonesia? Chả có gì – họ không bao giờ phát hành! Thật đáng xấu hổ. 

Một nhà xuất bản như của các bạn – Badak Merah – nên là trụ cột chính cho sự đối lập. Những công dân phẫn nộ của Indonesia – luật sư, bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học – nên cất cao tiếng nói; họ nên gào thét. Tất nhiên, tiếng nói của nông dân và công nhân, những câu chuyện khủng khiếp của họ, cũng nên được đọc và nghe từ các trang của tạp chí và blog độc lập, cũng như từ YouTube và các hãng phim độc lập.

Văn hóa đại chúng là quá đủ! Văn hóa đại chúng là thứ giải trí thấp kém và ích kỷ cho đám đông bị chết não và bị nhồi sọ. Phương Tây phân phối chúng, khắp đế chế, để những người dân tại thuộc địa mới của họ ngừng cùng nhau tư duy, trong khi họ bị cưỡng hiếp thì họ lại tưởng rằng mình đang làm tình! Đó là phản động, cách thức biểu hiện thực tại tâm lý kiểu cánh hữu. Phần còn lại được đảm bảo: cực kỳ thiếu tốt đẹp và bảo thủ.

Người dân Indonesia phải học, hiểu rằng chiến đấu cho một quốc gia tốt hơn là cao cả và giàu cảm hứng. Như những người đàn ông, đàn bà, thậm chí trẻ em ở Mỹ Latin đã hiểu biết cách đây nhiều thập kỷ. Đặc biệt là những người trẻ tuổi cần biết: Nổi loạn là tốt. Cách mạng là tốt. Tư duy là tốt. Tiến bộ là tốt. Trở nên cách mạng, một người nổi loạn, là tốt – rất tốt. Tốt hơn là lái một chiếc xe Ferrari đỏ hay vàng được mua bằng tiền mà ông bố ăn cắp của người nghèo!

Học hỏi, đi xa và so sánh thế giới, viết những bài thơ phẫn nộ, sản xuất nghệ thuật cách mạng, biểu tình, buộc tầng lớp già hơn (bao gồm cha mẹ và ông bà họ) phải gánh trách nhiệm vì đã phá hủy đất nước, và hướng tới xây dựng một quốc gia mới và đẹp đẽ được gọi là “Indonesia”. Điều đó tốt hơn và vinh quang hơn ngồi trong quán Starbucks, nhìn chăm chăm như kẻ đần độn vào điện thoại thông minh được sản xuất hàng loạt, và giết một cuộc đời… cuộc sống của người khác… chả vì cái gì cả.

Người dân phải được khích lệ. Chủ nghĩa hư vô là quá đủ rồi! Chủ nghĩa bại trận và yếm thế là quá đủ rồi! Chiến đấu cho một thế giới tốt đẹp hơn là điều đúng đắn duy nhất đáng để làm, nó cũng vui vẻ; nó đầy ý nghĩa và đầy công sức.

RI: Anh có nghĩ Indonesia phải trải qua một cuộc cách mạng để có chăm sóc y tế phổ cập và giáo dục miễn phí. Có cần một cuộc cách mạng để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn?

AV: Họ có một số kế hoạch về chăm sóc y tế, nhưng không có tác dụng, như kiểu “chó-mèo” vậy. Không phải là một kế hoạch cụ thể để cung cấp cho công dân Indonesia dịch vụ chăm sóc y tế phổ cập và miễn phí (ít nhất là tương tự như thứ đang tồn tại ở Thái Lan), mà một dạng che đậy tình trạng khủng khiếp, che đậy một vết thương hở. Một lần nữa chúng ta phải nhớ rằng chất lượng chăm sóc y tế ở Indonesia chỉ ngang với Kenya hay Tanzania, chứ không ngang với Malaysia hay Thái Lan, và hệ thống hoàn toàn tha hóa, cả về tài chính cũng như đạo đức, không bao giờ cho phép bất cứ thứ gì “công cộng”, hay “miễn phí”.

Cũng như giáo dục miễn phí, chăm sóc y tế phổ cập và các quyền căn bản khác: Phải, người dân phải chiến đấu! Tất nhiên họ phải. Giáo dục tốt và miễn phí là quyền của họ, bất chấp những thứ mà cố vấn và “chuyên gia” đến từ Hoa Kỳ nói.

Đất nước đã bị các bố già mù dở cai trị quá lâu, họ đã bán quốc gia cho chính quyền và công ty nước ngoài. Những người đó không có đạo đức và tình thương. Nếu bạn đàm phán với họ, họ sẽ chỉ làm những gì mà họ đang làm suốt nhiều thập kỷ: họ sẽ lừa gạt và nói dối, cố gắng câu giờ. Họ không quan tâm tới Indonesia và dân chúng! Họ muốn những chiếc xe Porsche và bằng diploma cho con cái của họ, các dinh thự xa hoa ở Australia, Hoa Kỳ, Singapore và Hong Kong.

Chỉ có một cách duy nhất để lật đổ họ, để đá họ ra khỏi ngai vàng. Người dân Indonesia phải giành lại quyền lực, giành lại sự kiểm soát đất nước. Và điều đó không bao giờ đến mà không có đấu tranh.

Nhưng nó có thể thành công; nó phải thành công. Nhân danh đa số người dân Indonesia, những người đang sống trong sự đau khổ khủng khiếp! Nhân danh một quốc gia gần như đã mất tất cả. Nhân danh cuộc sống của hàng triệu đàn ông, đàn bà và trẻ em!

Thursday, May 8, 2014

Tại sao chúng ta phải trả tiền để bị theo dõi và cướp bóc

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Why are we paying to be spied on and robbed" được đăng trên tạp chi Coldtype số 85 tháng 5 năm 2014, của tác giả John W. Whitehead, một luật sư hiến pháp và tác giả sách Hoa Kỳ. Qua số liệu và những dẫn chứng cụ thể, tác giả đã đưa ra một cái nhìn sâu sắc về những bất hợp lý hệ thống chính trị Hoa Kỳ hiện nay.

“Buộc một người phải trả tiền cho sự xâm phạm tới quyền tự do của anh ta thực sự là hành động sát muối vào vết thương”. Benjamin Tucker, luật sư của chủ nghĩa cá nhân vô chính phủ Hoa Kỳ thế kỷ 19.

Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ muốn chi 400,000 USD cho một tượng lạc đà bằng sợi thủy tinh để trang trí đại sứ quán mới ở Pakistan. Họ cũng đã chi 630,000 USD để tăng số “like” và người hâm mộ trên trang Facebook và trang Twitter. Đại sứ Hoa Kỳ tại NATO cần 700,000 USD cho việc tạo phong cảnh và làm vườn, Quỹ Khoa Học Quốc Gia chi 700,000 USD vào các tác phẩm kịch về biến đổi khí hậu, và nhân viên của thượng viện cần 1,9 tỷ USD để đào tạo phong cách sống. Các nhà nghiên cứu của đại học Yale cần 384,000 USD cho việc nghiên cứu dương vật hình xoắn ốc của vịt.

Tôi thề rằng những điều tôi kể không phải là chuyện cá tháng tư. Chúng là các khoản mà người đóng thuế Hoa Kỳ phải chi trả, tiền thuế đang tiếp tục bị phung phí, bị chi tiêu cho những thứ không cấp thiết để làm đầy túi của doanh nghiệp và nuôi dưỡng sự hối lộ chính trị (như trạm dừng xe bus giá 1 triệu USD, với ghế dài được sưởi ấm và vỉa hè, nhưng chỉ chứa được 15 người và là nơi trú tạm khi có mưa, tuyết hay nắng).

Điểm nhấn: bất chấp sự thật là chúng ta có 46 triệu người Mỹ sống ở ngưỡng hay dưới ngưỡng nghèo khổ, 16 triệu trẻ em sống trong các gia đình không an ninh lương thực, và ít nhất 900,000 cựu chiến binh sống nhờ vào phiếu thực phẩm, một số lượng tiền khổng lồ vẫn tiếp tục được chi trả cho kỳ nghỉ của tổng thống (16 triệu USD cho các chuyến đi tới châu Phi và Hawaii), gian lận làm ngoài giờ tại Bộ An Ninh Nội Địa (gần 9 triệu USD chi trả cho làm ngoài giờ, và đó chỉ là 6 trong số các văn phòng của bộ), và sản xuất phim Hollywood (10 triệu USD được Vệ Binh Quốc Gia chi cho phim Siêu Nhân để thu hút sự chú ý đối với Vệ Binh Quốc Gia).

Đó là chưa kể tới những khoản tiền khổng lồ chi cho các cuộc chiến ở khắp nơi trên thế giới.

Chi phí chiến tranh

Kể từ năm 2001, mỗi giờ người Mỹ tiêu tốn 10,5 triệu USD cho các cuộc chiếm đóng quân sự ở nước ngoài, bao gồm cả Iraq và Afghanistian. 

Cần tới 2,2 triệu USD mỗi giờ để duy trì kho dự trữ hạt nhân của Hoa Kỳ, và 35,000 USD được chi ra mỗi giờ để sản xuất và duy trì kho tên lửa Tomahawk. Và sau đó cần tính tới khoản tiền mà chính quyền Hoa Kỳ chi ra để hỗ trợ kho vũ khí của các quốc gia khác, việc đó tốn 1,61 triệu USD mỗi giờ. 

Tiếp theo là quyết định mới nhất của Tòa Án Tối Cao trong vụ McCutcheon kiện FEC, theo quyết định đó thì quyền của giai cấp giàu có được tòa án công nhận trong khi quyền của giai cấp lao động bị đặt xuống hàng thứ cấp so với doanh nghiệp và chính quyền. Dưới chiêu bài bảo vệ quyền tự do ngôn luận, với kết quả bỏ phiếu 5-4, tòa án đã bãi bỏ giới hạn số lượng ứng cử viên mà mỗi cá nhân có thể hỗ trợ bằng các chiến dịch quyên góp.

Để làm điều đó các quan tòa vận dụng kết quả phiên tòa năm 2010 Liên Minh Công Dân kiện FEC, họ không chỉ tháo xiềng cho quyền tự do ngôn luận của doanh nghiệp mà còn mở đường cho doanh nghiệp đầu tư tiền bạc không giới hạn vào các ứng cử viên, đặc biệt là ứng cử viên tổng thống.

Họ đã biến hòm phiếu thành hòm đấu giá, những người được bầu vào các chức vụ công cộng sẽ bán mình cho những ai có thể đầu tư cho chiến dịch tranh cử của họ - cụ thể là, những người vận động hành lang, doanh nghiệp và những người quyên góp giàu có. (Một lần nữa, hiện trạng vẫn sẽ được giữ nguyên. Theo một nghiên cứu năm 2013 của đại học Trinity, thượng nghị sĩ Hoa Kỳ không đại diện cho nguyện vọng và quyền lợi của cử tri thuộc tầng lớp thấp. Hơn nữa, lá phiếu của họ liên minh với cử tri thuộc tầng lớp trên. Thượng nghị sĩ của cả đảng Cộng Hòa lẫn đảng Dân Chủ đều bỏ qua lợi ích của cử tri thuộc tầng lớp thấp, bản thân họ là những triệu phú.)

Khi tất cả đã được nói và làm, cái mà chúng ta chứng kiến là sự đảo lộn nguyên tắc của chính quyền, họ giải thích Hiến pháp theo cách có lợi cho doanh nghiệp, cơ quan chính quyền và người giàu có, và sử dụng các biện pháp thứ cấp cho người Mỹ bình thường. Ví dụ, trái với khẳng định của Tòa Án Tối Cao về “quyền tự do ngôn luận” cho doanh nghiệp và những người quyên góp giàu có trong vụ McCutcheon và Liên Minh Công Dân, quyền tương tự của những người dân thường có khuynh hướng bị phủ nhận khi đụng chạm tới lợi ích của chính quyền, như phán quyết năm 2012 trong vụ Reichle kiện Howard, Tòa Án Tối Cao đã chấp thuận các biện pháp bảo vệ miễn trừ đối với nhân viên tình báo để chống lại quyền tự do ngôn luận của người Mỹ, và bạn có thể nhận thấy sự bất cân xứng rõ ràng.

Mới đây, như tôi đã chỉ ra trong cuốn sách của tôi “Một chính phủ của chó sói: Nhà nước cảnh sát Hoa Kỳ trỗi dậy”, tiêu chuẩn kép về hiến pháp đang diễn ra trong mọi mặt của cuộc sống, không chỉ trong phạm vi luật về các chiến dịch tài chính.

Các nhà vận động hành lang được phép tiếp xúc mật thiết với các quan chức được bầu của chúng ta, trong khi người Mỹ đứng biểu tình yên lặng ở gần một tòa nhà công sở thì bị cấm; các nhân viên cảnh sát được miễn trừ khi bắn thường dân không có vũ khí, trong khi một người dân Mỹ định tự vệ sẽ bị trừng phạt nặng, cuộc đột kích tư gia của đội SWAT chỉ được coi là một sai lầm; các nhân viên chính phủ được toàn quyền tiếp cận truyền thông và hoạt động của người Mỹ, trong khi chính quyền được phép hoạt động bí mật, với nghe trộm, ngân sách bí mật và chương trình nghị sự bí mật. 

Đế chế doanh nghiệp quân sự hóa

Điều này khác xa với mục tiêu đặt ra cho các hoạt động của chính thể đại diện. Thực tế là rất lâu kể từ khi chúng ta đòi hỏi được trở thành chủ nhân cuộc sống của mình. Hơn nữa, giờ đây chúng ta là đối tượng của đế chế doanh nghiệp quân sự hóa, trong đó phần lớn dân chúng làm việc cật lực để đem lại lợi nhuận cho một nhúm nhỏ đặc quyền đặc lợi.

Sát muối vào vết thương không chỉ là tiền thuế bị lạm dụng, cũng như những người được gọi là đại diện của chúng ta mua sắm và thanh toán cho tầng lớp tinh hoa tiền bạc, mà chính quyền còn dùng những đồng tiền mà chúng ta phải kiếm bằng mồ hôi, máu và nước mắt để theo dõi, bỏ tù và gài bẫy chúng ta, với công cụ là cảnh sát vũ trang, camera giám sát, nhà tù tư nhân, đầu đọc bằng lái xe, máy bay không người lái, và công nghệ theo dõi điện thoại di động.

Bạn đọc được tất cả những hành động bất chính ấy trên báo chí hàng ngày; đó là cách đồng dollar của bạn được sử dụng. Tiền của bạn cho phép nhân viên chính quyền theo dõi thư điện tử, các cuộc gọi điện thoại, tin nhắn, sự đi lại của bạn. Tiền của bạn cho phép những cảnh sát không bị kiểm soát xông vào nhà của những người vô tội, xét hỏi hay khám xét người đi xe máy ở ngay bên lề đường. Tiền bạc của bạn khiến cho những người Mỹ vô tội trên khắp đất nước bị tuyên án về những hoạt động vô hại như nuôi gà tại nhà, trồng rau trong vườn, hay sống không sử dụng tiện nghi đô thị.

Ai trả tiền?

Lần tới khi bạn nhìn thấy những tin tức khiến bạn sôi máu, cho dù là cảnh sát bắt giam ai đó quay phim nơi họ nơi công cộng, cho dù là một đứa trẻ bị đuổi khỏi trường học vì bắn một mũi tên tưởng tượng, cho dù là một chủ nhà bị đe dọa phải nộp phạt vì đào một cái ao ở sân sau, thì hãy nhớ rằng tiền của bạn đã được trả cho những sự bất công đó.

Vậy bạn sẽ làm gì? Có lần trong lịch sử tổ tiên của chúng ta nói “thế là quá đủ” và không đóng thuế cho chính phủ mà họ coi là bất hợp pháp. Họ đứng lên và từ chối ủng hộ cái hệ thống đang chậm rãi bóp nghẹt mọi nỗ lực tự điều hành, và rũ bỏ trách nhiệm về tội ác chống lại nhân dân. Sự phản kháng của họ đã gieo những hạt mầm cho cuộc cách mạng sau đó.

Trong hơn hai trăm năm kể từ khi chúng ta thành lập chính quyền của mình, chúng ta đã để các chủ ngân hàng, những kẻ phản bội và hàng sa số quan chức tha hóa làm vẩn đục môi trường và đánh cắp sự tin cậy tới mức chúng ta cần phải quay về điểm xuất phát. Một lần nữa, chúng ta đứng trước một chính phủ chuyên chế với những kẻ cai trị độc đoán chỉ làm những gì họ muốn. Một lần nữa chúng ta đứng trước hệ thống tư pháp khẳng định chúng ta không có bất cứ quyền gì với một chính phủ luôn yêu cầu nhân dân phải tuân thủ sự độc đoán. Một lần nữa, chúng ta phải quyết định hoặc là chúng ta tiếp tục bước đi hoặc là sải bước và quay sang với tự do.

Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không đáp ứng nhu cầu tiền bạc thái quá của chính phủ liên bang? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không xếp hàng bỏ những đồng dollar xương máu vào hòm thu gom, mà không hỏi xem chúng sẽ được chi tiêu ra sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu thay vì lặng lẽ gửi séc, mong chờ một phần ít ỏi được trả lại, chúng ta tự tính toán và cắt giảm phần chi từ tiền thuế cho những chương trình mà chúng ta không ủng hộ?

Nếu chúng ta không có quyền quyết định về việc những đồng tiền xương máu của mình được chi tiêu ra sao, thì chúng ta chẳng có quyền gì hết. Nếu họ có thể lấy đi từ bạn cái mà họ muốn, khi mà họ muốn và sau đó dùng cho bất cứ thứ gì họ muốn, thì bạn chẳng thể phàn nàn gì hơn một người nông nô trên mảnh đất mà anh ta nghĩ là của mình. Đó là tình cảnh của thời thuộc địa, và tình cảnh đó đang xuất hiện một lần nữa.

Sunday, May 4, 2014

Kiểm soát truyền thông kiểu Mỹ

Một đoàn quan chức chính quyền Trung Quốc sang thăm Mỹ. Sau khi đi khắp nơi xem xét, đại diện Trung Quốc hỏi quan chức Mỹ: "Này, việc kiểm soát truyền thông xứ mày cũng có kết quả hệt như xứ tao. Nhưng ở xứ tao muốn làm vậy phải bỏ tù đám đối lập, còn xứ mày thì không thấy đám đối lập trong các nhà tù. Bọn mày dùng cách gì thế?".

Quan chức Mỹ cười và nói: "Thứ nhất mày nhầm, bọn tao cũng tống cổ chúng vào tù thôi. Thứ hai, bọn tao đưa chúng sang các nhà tù bí mật ở nước ngoài".

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Saturday, April 26, 2014

Quyền tự do ngôn luận ở Mỹ: Bị bắt giam vì quay phim cảnh sát

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Light, Camera, Arrest" của tác giả John W. Whitehead đăng trên tạp chí Coldtype số 84, tháng 4 năm 2014. Bài viết cho biết về tình trạng cảnh sát xâm phạm quyền tự do ngôn luận của người dân Mỹ, và hiện nay người dân Mỹ chưa có cách nào để xử lý tình trạng đó một cách hiệu quả. Tiêu đề bài viết là do người dịch đặt.

Một lần nữa, chính quyền Hoa Kỳ lại cố trở thành cảnh sát của thế giới khi họ biến các nhân viên hành pháp thành cảnh sát. Chúng ta có chiến hạm tuần tiễu trên mặt Biển Đen, chiến đấu cơ phản lực tuần tra trên bầu trời Baltic, và các tàu khu trục mang tên lửa hành trình đang lùng sục chiếc máy bay mất tích của hãng hàng không Malaysia trên biển Nam Trung Hoa. Nhưng bất cứ khi nào, ở Hoa Kỳ các quyền hợp hiến của chúng ta bị xóa bỏ không thương tiếc, các chủ nhà bị đe dọa đuổi ra khỏi nhà vì sống theo kiểu không sử dụng các tiện nghi đô thị, phụ nữ lớn tuổi bị bỏ tù vì cho quạ ăn, và công dân mang điện thoại di dộng bị bắt vì đe dọa quay phim các hoạt động của cảnh sát.

Robin Speronis đang bị đe dọa đuổi khỏi nhà ở Florida, vì sống theo kiểu không sử dụng các tiện nghi đô thị như nước và điện. Thành phố chính thức khẳng định là các cư dân ở Cape Coral đã chọn cách sống vi phạm luật duy trì tài sản quốc gia và quy định của thành phố. Mary Musselman, cũng là công dân Florida, bị giam giữ không có lệnh của tòa vì đã “cho động vật hoang dã ăn”. Musselman đã 81 tuổi, bị quản thúc sau khi bị phạt vì cho gấu ăn ở gần nhà. Brandy Berning ở Florida bị giam một đêm trong tù vì ghi âm lại cuộc đối thoại giữa cô với nhân viên cảnh sát chặn xe của cô.

Xin chào mừng đến với sự nực cười được luật pháp và trật tự của Hoa Kỳ tạo ra hiện nay, tôi đã từng chỉ ra trong cuốn sách của mình, “Chính phủ của chó sói: Sự trỗi dậy của nhà nước cảnh sát Hoa Kỳ”, là mức độ tội phạm thấp, hoạt động cảnh sát được quân sự hóa gia tăng, và người Mỹ bị trừng phạt vì sống theo kiểu không sử dụng tiện nghi đô thị, cho động vật hoang dã ăn, tổ chức nghiên cứu kinh thánh ở sân sau, trồng rau ở sân trước, thu gom nước mưa, và quay phim cảnh sát.

Những chuyện tiếp theo sẽ khiến bạn ngạc nhiên. Giống như một sự mỉa mai: Chính quyền khẳng định họ có thể giám sát chúng ta dưới bất kỳ hình thức nào - nghe điện thoại, đọc trộm email và tin nhắn, theo dõi việc đi lại của chúng ta, chụp ảnh bằng lái xe, thậm chí xâm nhập vào thông tin sinh học của chúng ta trong ngân hàng DNA - nhưng nếu chúng ta định chống lại, dù chỉ là một chút ít thôi, chúng ta sẽ bị cảnh sát điều tra, bắt giam và phạt vì vi phạm những tội lặt vặt (thường là không đáng kể), và buộc phải khôi phục tình trạng ban đầu.

George Thompson ở Boston bị bắt sau khi anh ta sử dụng điện thoại di động quay phim một viên cảnh sát mà anh ta nói là “mất kiểm soát”. Sinh viên đại học Texas Abie Kyle Ikhinmwi bị bắt giữ sau khi cô dùng điện thoại di động quay lại một vụ bẫy tốc độ của cảnh sát. Thiếu niên ở bang Kansas Addison Mikelson bị bắt vì quay phim một chiếc xe tuần tra phóng nhanh và không bật đèn xin nhan khi rẽ.

Leon Rosby đang quay phim vụ đối đầu với cảnh sát vào tháng 6 năm 2013, một tay cầm điện thoại và tay kia giữ con chó, ba sĩ quan tiến đến chỗ anh ta. Cảm thấy có vấn đề, Rosby đặt con chó Rottweiler 2 tuổi tên là Max vào xe ô tô. Tờ LA Times đưa tin: “Khi các sĩ quan còng tay Rosby, con chó thoát qua cửa sổ mở, sủa và lao vào các sĩ quan. Một sĩ quan cố nắm lấy dây xích chó, sau đó chĩa súng và bắn bốn phát, giết chết Max. Video ghi lại sự cố được lan truyền trên YouTube, dẫn đến sự phẫn nộ của công chúng và thu hút người biểu tình tới trụ sở của Sở Cảnh Sát”. Rosby chuẩn bị hồ sơ vụ kiện nhân quyền chống lại thành phố và 3 sĩ quan cảnh sát. 

Và người đàn ông Baltimore bị cảnh sát đe dọa sau khi họ biết anh ta quay phim họ trong khi bắt giữ. Trạm CBS địa phương tường thuật về vụ đối đầu như sau:

“Tôi được phép làm vậy”, người đàn ông nói với viên sĩ quan.

“Đi khỏi đây ngay”, viên sĩ quan trả lời.

“Anh không có quyền”, viên sĩ quan nói.

Nhưng người đàn ông không ngừng quay phim và tiếp tục tiến đến.

“Anh có thấy cảnh sát hiện diện ở đây không? Anh có thấy chúng tôi không? Chúng tôi không [văng tục] đi dạo. Anh có hiểu không? Đừng có khing thường chúng tôi và đừng có không thèm nghe lời của chúng tôi”, sĩ quan nói. “Giờ thì đi đi và ngậm miệng lại [văng tục] hoặc anh sẽ vào tù, anh có hiểu không?”

Sau khi quay đi, viên sĩ quan quay lại chỗ người đàn ông lần thứ ba, cố tóm lấy anh ta.

“Tôi cho rằng tôi có quyền tự do ngôn luận”, người đàn ông nói.

“Anh không có, Anh vừa đánh mất nó rồi”, viên sĩ quan trả lời.

Và đó là bản tóm tắt lại những gì diễn ra khi các viên chức hành pháp - không chỉ cảnh sát, mà mọi nhân viên của chính quyền được giao nhiệm vụ thi hành pháp luật, từ tổng thống trở xuống - được phép bỏ qua luật lệ khi thuận tiện. Tại những nơi mà tiêu chuẩn kép được sử dụng thì chỉ có công dân mới phải tuân thủ pháp luật, những viên chức hành pháp thì không, “khế ước xã hội” mà John Locke hình dung là nền tảng của xã hội đã đổ vỡ. Chúng ta cho phép quan chức chính quyền hoạt động ngoài pháp luật càng nhiều thì luật pháp càng nhanh chóng trở thành công cụ để trả thù chúng ta, hơn là ràng buộc và kiểm soát chính quyền như mục tiêu ban đầu.

Điều này đưa tôi quay trở lại với vấn đề người Mỹ bị bắt vì quay phim cảnh sát. Cho đến nay, điều đó chủ yếu diễn ra với những nhà báo và phóng viên ảnh, những người cố gắng ghi lại các cuộc biểu tình chính trị và sự quấy rầy của cảnh sát. Mặc dù vậy, với ưu thế của điện thoại di động về thu âm và ghi hình, các cá nhân đe dọa ghi hình cảnh sát trong những hành động đáng ngờ hoặc lạm quyền tại nơi công cộng đang ngày càng trở thành đối tượng phải chịu sự đối xử thô bạo vì những tư liệu đó. Những video đó khi được phổ biến rộng rãi, có thể trở thành công cụ đầy sức mạnh để buộc cảnh sát phải hành động cẩn trọng và buộc họ phải tôn trọng những quyền mà họ phải bảo vệ.

Tất nhiên, các nhân viên cảnh sát và liên minh của họ tìm cách cấm những video đó. Cảnh sát Massachusett đã viện dẫn một luật giám sát bang cho phép trừng phạt các hành vi quay video của công nhân như là tội ác. Do luật giám sát bang yêu cầu sự đồng thuận của “hai phía”, nên phần lớn các kiểu quay phim công khai có thể coi là bất hợp pháp. Luật tương tự cũng xuất hiện ở California, Florida, Illinois, Michigan và Pennsylvania. Luật được ban hành để bảo vệ các công dân khỏi bị giám sát theo cách xâm phạm vào đời tư, nhưng cảnh sát lại khai thác chúng để ngăn cản quyền tự do ngôn luận nhằm ngụy trang hình ảnh của họ trước công chúng. Cảnh sát cho rằng quy định đó cho phép họ ngăn cản một cách hợp pháp việc quay phim của các công dân như Jeffrey Manzelli, một nhà báo đã ghi lại hình ảnh cảnh sát đe dọa người biểu tình tại mít-ting và đã bị bắt và phạt theo luật đã nêu trên. 

Do phải mang gánh nặng chi phí kiện tụng trong những vụ cảnh sát khủng bố công dân vì không muốn các hành động của họ bị ghi hình nên một số thành phố đã cố gắng áp dụng các chính sách bảo vệ các công dân ghi hình cảnh sát. Ở Troy, N. Y. viên chức cảnh sát thành phố phải đối mặt với án phạt tiền và ngồi tù nếu họ ngăn cản người dân chụp hình hoặc quay phim họ một cách hợp pháp. Nếu được áp dụng, sắc lệnh của Troy, có mức phạt tối đa 5,000 USD và án tù tới 15 ngày đối với các viên chức vi phạm, sẽ là luật đầu tiên của quốc gia này về việc cấm cảnh sát ngăn cản công dân quay phim hay chụp ảnh hoạt động của họ. Sau khi phải thanh toán 200,000 USD thì sở cảnh sát Indianapolis sẽ sớm phải nhắc nhở các viên chức của họ rằng công dân có quyền quay phim các nhân viên cảnh sát đang làm nhiệm vụ. Đó là trường hợp một công dân Indianapolis 66 tuổi bị quật ngã xuống đất, bắt giữ và phạt vì chống lại việc bắt giữ, gây rối trật tự và say rượu nơi công cộng (ông ấy được chứng minh không có tội này) sau khi sử dụng điện thoại di động ghi hình cảnh sát bắt giữ một thanh niên trên đường ô tô trong khu ông ấy ở.

Hiện nay đang có phong trào yêu cầu cảnh sát phải mang theo camera theo dõi của công sở để ghi lại những gì các viên chức cảnh sát nhìn thấy 

Tòa án ủng hộ quyền của những nhân chứng quay phim, mặc dù chính quyền muốn đặt những hành động đó ra ngoài pháp luật. Vào năm 2012, Tòa Tối Cao Hoa Kỳ từ chối xét xử vụ kháng án về luật nghe trộm của Illinois, luật đó trừng phạt việc quay phim các nhân viên hành pháp như tội ác cấp độ một [chú thích: ví dụ như tội giết người, hãm hiếp] với mức án có thể lên đến 15 năm tù.

Năm 2013, Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đưa ra báo cáo về vụ án Mannie Garcia v. hạt Montgomery, Md., tuyên bố rằng các cá nhân không chỉ có quyền quay phim các viên chức khi thi thành công vụ theo Tu Chính Án Thứ Nhất, mà theo Tu Chính Án Thứ Tư và Thứ Mười Bốn họ còn có quyền không bị bắt giữ mà không có lệnh của tòa án. Trường hợp của Garcia là một nhà báo bị bắt giữ và phạt tội gây rối trật tự vì quay phim cảnh sát bắt giữ hai người đàn ông. Theo hồ sơ vụ kiện, cảnh sát “ấn Garcia vào xe cảnh sát, còng tay anh ta, làm anh ta ngã ra sàn bằng cách đá văng chân của anh ta, chế nhạo anh ta và đe dọa sẽ bắt giữ vợ anh ta nếu cô ấy tới nhặt camera, thu giữ thẻ nhớ và không bao giờ trả lại.”

Vấn đề như tòa thượng thẩm Hoa Kỳ khu vực số 7 khẳng định vụ trong Payne v. Pauley là “nhân viên cảnh sát phải bị trừng phạt nặng hơn các thường dân và phải kiềm chế khi va chạm với công chúng” và “không được đưa ra bất kỳ sự đe dọa hay từ ngữ hoặc cử chỉ lăng mạ, hay ám hiệu gây rối nào”

Sự phức tạp mà chúng ta phải đối mặt là viên chức cảnh sát ngày càng chỉ bị trừng phạt nhẹ, ít kiềm chế hơn trong va chạm với công chúng, và sử dụng mọi loại từ ngữ, cử chỉ hay ám hiệu đe dọa. Trong thế giới lý tưởng, cảnh sát được coi là những đầy tớ của công chúng, họ là đối tượng bị ghi hình và giám sát khi thi hành công vụ. Nhưng thực tế hoàn toàn khác với thế giới lý tưởng. Vậy chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải tiếp tục bảo vệ quyền của mình, ghi hình cảnh sát khi có cơ hội, và nhắc nhở một cách lịch sự bất cứ viên chức đối đầu nào rằng họ là đầy tớ của công chúng, và hành vi của họ là đối tượng kiểm tra của công chúng. Nếu họ không đồng ý và ngăn cản chúng ta quay phim, chúng ta có thể viện dẫn Hiến Pháp Hoa Kỳ, thứ mà họ đã thề sẽ tuân thủ, thứ bảo vệ quyền được quay phim các sự kiện liên quan đến lợi ích công cộng. Và nếu họ tiếp tục chống lại bằng cách dọa tống người ta vào tù vì họ không thích sự minh bạch và trách nhiệm, họ có thể trả lời trước tòa án.

Mục tiêu là đi đến trạng thái mà chúng ta có thể giám sát quan chức chính quyền, thay vì bỏ qua. Như quan tòa Louis D. Brandeis đã nhận xét, “Ánh sáng mặt trời là có thể nói là chất tẩy uế tốt nhất; ánh sáng điện là nhân viên cảnh sát hiệu quả nhất.”