Tuesday, October 27, 2015

Thiên đường của tự do và nhân quyền: Phạt để kiếm tiền

Brian Platt viết về sự tồi tệ của hệ thống cảnh sát Hoa Kỳ trong bài "The Police and Court System: Neoliberal America’s Tax Collectors". Hệ thống cảnh sát và tòa án đã trở thành những kẻ tống tiền và ăn cướp chuyên nghiệp để giúp chính quyền tăng nguồn thu ngân sách. Việc tống tiền và ăn cướp đó chủ yếu nhằm vào giai cấp công nhân, những người không có quyền lực để tự bảo vệ bản thân trong xã hội tư bản. Do ở Hoa Kỳ giai cấp và chủng tộc tương đối ăn khớp với nhau nên nạn nhân của các vụ ăn cướp, tống tiền chủ yếu là người da màu và da nâu. Hệ quả là bộ máy cảnh sát ngày càng trở lên bạo lực, bởi vì nhà nước không còn kiểm soát được quyền lực ấy nữa, ngược lại nhà nước tồn tại nhờ quyền lực ấy.  

Hệ thống cảnh sát và tòa án: Những kẻ thu thuế của Hoa Kỳ tân tự do

Vào tuần trước, Biloxi, bang Mississippi là thành phố mới nhất bị ACLU kiện vì thực hiện “modern-day debtors’ prison” [bắt giam người không thể đóng tiền phạt tư pháp]. Trong hai tháng qua, các vụ kiện tương tự đã được ACLU dùng đề chống lại chính quyền của Jackson, bang Mississippi, hạt Benton, bang Washington, New Orleans, thành phố Alexander, bang Alabama, và hạt Rutherford, bang Tennessee.

Hệ thống tư pháp hình sự đang ngày càng trở thành phương thức được ưa chuộng để tài trợ cho các chính quyền thành phố trong cơn ác mộng tân tự do hiện đại ở Hoa Kỳ. Cảnh sát nhằm vào những vi phạm nhỏ nhặt của người nghèo để phạt. Khi những khoản tiền phạt này không được đóng đúng hạn, tiền phạt bổ sung sẽ được tính thêm và người dân bị quẳng vào tù. Trong nhiều vụ, các nhân viên thu nợ tư nhân được thuê để săn đuổi những người nghèo, nhưng người thường xuyên nợ tiền phạt chồng chất nhưng hiếm khi được xóa nợ. Việc bóp nặn người nghèo để kiếm tiền cho thành phố đã cho phép các chính quyền địa phương cung cấp sự miễn thuế cho cộng đồng doanh nghiệp và người giàu có. Hay nói theo cách khác là những chương trình này tạo ra một cách thức khác để phân phối tiền từ giai cấp công nhân sang giai cấp tư sản.

Trong cuộc điều tra về Ferguson, bang Missouri trước đây vào năm 2015, bộ Tư Pháp đã kết luận: “Hoạt động của lực lượng thi hành pháp luật ở Ferguson đã bị thành phố định hướng vào doanh thu hơn là nhu cầu an toàn công cộng. Sự quan trọng của doanh thu này đã lấn át cả tính chất thể chế của sở cảnh sát Ferguson… và cũng đã định hướng tòa án địa phương.” Trao đổi nội bộ giữa các quan chức thành phố và cảnh sát đã cho thấy họ âm mưu bóp nặn người nghèo để bù đắp thiếu hụt ngân sách. Tất cả đều nói rằng gần một phần tư doanh thu của Ferguson là từ tiền phạt và Ferguson không phải là kẻ thi hành xuất sắc nhất ở hạt St. Louis.

Một điều tra mới đây của NPR cho thấy rằng thực tiễn dựa vào người nghèo để bù đắp cho chính quyền địa phương – bù đắp việc miễn thuế cho người giàu – không phải là duy nhất ở Ferguson hay Biloxi. Khắp đất nước, tiền phạt được dùng để tạo doanh thu. Một phân tích của NPR cho biết có 41 bang buộc người dân phải trả tiền cho “phòng và giường” khi họ bị giam giữ, 43 bang tính phí sử dụng luật sư công cho người dân, 44 bang tính phí quản thúc, 49 bang tính phí sử dụng vòng theo dõi. Kể từ năm 2010, tất cả các bang, ngoại trừ Alaska và Bắc Dakota đã tăng các khoản phí này để tăng thêm doanh thu. Trong một tuyên bố về vụ kiện chống lại Biloxi, luật sư Nusrat Choudhury của ACLU đã tóm tắt tình hình, “Đây thực sự là tống tiền bằng nhà tù. Các thành phố trên khắp đất nước, giống như Biloxi, đều đang tranh nhau gia tăng doanh thu và họ làm điều đó trên lưng của những người nghèo.”

Do giai cấp và chủng tộc có liên hệ gần gũi với nhau ở Hoa Kỳ nên sự tập trung bóp nặn người nghèo có nghĩa là nhằm vào người da màu và da nâu. Khi xem xét dữ liệu do Bộ Tư Pháp cung cấp, tờ New York Times đã phát ra ở Ferguson, nơi có 67% dân số là da màu, 83% vụ chặn xe và 93% vụ bắt giữ là nhằm vào người da màu. Một báo cáo năm 2011 của Hội Nghị Lãnh Đạo về Dân Quyền và Nhân Quyền đề cập đến sự gia tăng chủng tộc đã tiết lộ thêm về vấn đề phổ biến này. Một nghiên cứu năm 2007 ở Arizona cho thấy số người da màu, Latino, và Mỹ bản địa bị chặn xe vì “vi phạm giao thông” cao hơn rất nhiều so với lái xe da trắng. Ở Tây Virginia, một nghiên cứu năm 2009 cho thấy lái xe da màu bị chặn xe gấp 1,64 lần so với lái xe da trắng. Những nghiên cứu tương tự ở Illinois, Minesota và Texas cũng thu được kết quả tương tự. Thậm chí khi các nhà nghiên cứu tập trung hơn vào các hạt cụ thể - như những nghiên cứu ở hạt Sacramento, bang California và hạt DuPage, bang Illinois – họ cũng thấy rằng người da màu lái xe là nguyên nhân bị chặn xe. 

Đây cũng không phải là hiện tượng mới. Một điều tra của tờ Orlando Sentinel vào năm 1992 cho biết sở cảnh sát của hạt Volusia nhằm vào lái xe da màu và da nâu dọc theo đường I-95 để tống tiền dọc đường, tại đó cảnh sát sử dụng luật tịch thu tài sản dân sự - luật này cho phép cảnh sát tước đoạt tài sản cá nhân – để chiếm đoạt tiền và tài sản. Phân tích của tờ Sentinel với camera theo dõi của cảnh sát cho thấy “gần 70% vụ chặn xe là đối với người da màu hoặc Hispanic, một con số thật sự khác thường bởi vì đại đa số lái xe trên đường liên bang là da trắng.” Sở cảnh sát đã tịch thu gần 8 triệu dollar với sự bất lương đó.

Mới đây, một loạt phóng sự của tờ Washington Post cho thấy từ năm 2001 “có 61.998 vụ tước đoạt tiền mặt trên đường cao tốc và ở những nơi khác mà không có lệnh khám xét hay cáo trạng… tổng cộng là hơn 2,5 tỷ dollar.” Viết dưới bút danh Illinois, phó thống đốc Ron Hain giải thích mục đích của việc cướp bóc đúng theo nghĩa đen trên đường cao tốc là “Tất cả các thành phố quê hương của chúng ta đều đang nằm trên mỏ vàng miễn thuế.” Đàm thoại nội bộ do tờ Post thu thập đã cho thấy rằng cảnh sát và chính quyền thành phố ở Washington DC đã lên kế hoạch gia tăng doanh thu bằng cách tịch thu tài sản dân sự trong các đề án về ngân sách tương lai. 

Để tìm hiểu cách thức tịch thu diễn ra chúng ta có thể xem xét vụ việc của Ron Henderson và Jennifer Boatright, những người bản địa Texas, lái xe cùng với hai con nhỏ của Boatright từ Houston đến Linden. Sau khi dừng tại một cửa hàng tiện lợi ở thị trấn Tenaha, họ bị cảnh sát theo đuôi vài dặm trên con đường cho đến khi họ bị cảnh sát vẫy vào. Viên cảnh sát tuyên bố rằng Henderson, người Latino, đã chạy xe trên làn trái quá lâu, một kiểu biện minh hời hợt cho việc chặn xe phổ biến mang tính phân biệt chủng tộc. Sau khi khám xét xe, viên cảnh sát tịch thu 6.037 dollar, toàn bộ tiền tiết kiệm của cặp vợ chồng, họ phải đưa cho thành phố tiền nếu không họ có thể bị bắt giữ vì tội rửa tiền và gây nguy hiểm cho trẻ em. Nữ cảnh sát tuyên bố rằng sau khi họ bị kết án thì con của Boatright sẽ bị đưa vào trại nuôi dưỡng trẻ em. Trong nước mắt, Boatright đã mua lại tự do cho con của cô từ thị trấn Tehana chỉ với hơn 6.000 dollar.

Đề án tân tự do đòi hỏi tiền phải được tái phân phối từ giai cấp công nhân cho giai cấp tư sản – một trường hợp đảo ngược của Robin Hood. Một cách để làm điều này là chuyển gánh nặng của việc tài trợ cho chính quyền từ người giàu sang người nghèo. Sử dụng nhà nước cảnh sát cảnh sát quy mô lớn được phát triển trong chiến tranh chống ma túy, các chính quyền địa phương đã tìm ra phương thức sáng tạo mới để “đánh thuế” người nghèo bằng các nỗ lực hành pháp có chủ định. Do giai cấp và chủng tộc liên hệ chặt chẽ với nhau ở Hoa Kỳ nên điều này đã ngày càng khiến người da màu và da nâu rơi vào tầm ngắm của cảnh sát. Khi tổ chức cảnh sát là một thể chế bạo lực và phân biệt chủng tộc thì điều đó lại càng tạo cho cảnh sát nhiều cơ hội hơn để giết hại người da màu và da nâu. 

Đây là bi kịch cuối cùng của câu chuyện. Ở Nam Carolina, Walter Scott được vẫy vào vì là lái xe da màu và sau đó bị cảnh sát giết hại. Ở Cincinnati, Samuel Dubose bị vẫy vào vì cái mà công tố viên hạt gọi là một “chicken crap stop” [chặn xe với lý do vớ vẩn] và khi DuBose từ chối ra khỏi xe, viên cảnh sát đã bắn thẳng vào đầu ông ở cự ly gần khiến ông chết ngay lập tức. Sandra Bland bị vẫy vào ở hạt Waller, bang Texas vì tội có quá nhiều melanin trên da, khi cô phản đối sự bất hợp pháp của vụ chặn xe, viên cảnh sát kéo cô ra khỏi xe, đập đầu cô xuống đất và bắt giữ cô. Ba ngày sau cô chết ở trong nhà giam, bị những thủ phạm vô danh hành hình theo kiểu lynch – đáng ngờ nhất là cảnh sát hạt Waller. Hàng sa số các nạn nhân ít được biết đến, ở Portland, Keaton Otis bị cảnh sát vẫy vào bởi vì, theo lời viên cảnh sát bắt giữ, “người này… có bề ngoài giống như một gã côn đồ.” Otis chỉ có một lỗi vi phạm giao thông nhỏ trong hồ sơ khi viên cảnh sát bắn anh ta 23 phát đạn và giết chết anh ta.

Cảnh sát đại diện cho độc quyền bạo lực của nhà nước. Nếu chúng ta chấp nhận rằng dưới chủ nghĩa tư bản, mọi dạng nhà nước, như Marx đã nói, đều là sự chuyên chế của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân thì cảnh sát là bạo lực có tổ chức của giai cấp tư sản. Chỉ bằng cách nhìn này thì việc hệ thống cảnh sát và tòa án bóp nặn một cách có tổ chức giai cấp công nhân cùng với những hệ quả tất yếu của nó mới có thể được thấu hiểu. Nếu chúng ta chấp nhận tiên đề này thì việc xóa bỏ cảnh sát trở thành một yêu cầu cách mạng. Xóa bỏ cảnh sát đối với chúng ta là một nhiệm vụ lịch sử cũng giống như xóa bỏ chế độ nô lệ đối với công nhân Mỹ vào giữa thế kỷ 19. Cảnh sát không thể cải tổ được, chúng chỉ có thể bị xóa bỏ. 

Brian Platt is an aerospace machinist who lives in Seattle.

Wednesday, October 21, 2015

Các tổ chức phi chính phủ đã phục vụ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc ra sao?

Hai tác giả Stephanie McMillan và Vincent Kelley đã mô tả cách thức mà NGO phục vụ cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc trong bài báo "The Useful Altruists: How NGOs Serve Capitalism and Imperialism". Các NGO không chỉ đánh lạc hướng và phá hoại phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản mà còn tham gia tạo dựng những điều kiện cần thiết để phục vụ cho việc bóc lột của chủ nghĩa tư bản cũng như sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Có một điểm quan trọng mà bài báo này đã chỉ ra là sự liên hệ của NGO với giai cấp tiểu tư sản ở các quốc gia đế quốc cũng như phụ thuộc. 

Những người vị tha hữu ích: NGO đã phục vụ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc ra sao?

Khoảng 20 năm trước đây, trong cuộc thảo luận với một nhà tổ chức người Bangladesh, chủ đề tổ chức phi chính phủ (NGO), hay phi lợi nhuận như họ thường gọi, nảy ra. Ông ấy nói thẳng thừng: “Tôi ghét NGO.” Sự kịch liệt của ông ấy rất đáng ngạc nhiên. NGO không phải là tổ chức cách mạng, nhưng công việc của họ vẫn có vẻ như là hữu ích hơn so với không có gì cả. Bỏ qua sự khác biệt về chính trị, có vẻ như là giáo điều khi lên án các chương trình chăm sóc y tế miễn phí và chống đói nghèo. Khi thiếu các biện pháp mạnh mẽ hơn, NGO có vẻ thực hiện một chức năng nội tại quan trọng. 

Kể từ cuộc đối thoại đó, NGO đã lan rộng khắp toàn cầu. Ban đầu được triển khai ở những quốc gia phụ thuộc, hiện giờ chúng đã trở thành thành phần chính trong bối cảnh chính trị ở các nước đế quốc. Ngày nay, lý do khiến các nhà tổ chức ghét NGO là rất rõ ràng. NGO là sự phá hoại, cả trong công việc hiện tại của chúng cũng như việc chúng ngăn chặn một tương lai khác thay thế chủ nghĩa tư bản hiện tại.

Đây là bốn lý do:

1) NGO phá hoại, đánh lạc hướng và thay thế sự tự tổ chức của quần chúng.

NGO đã chiếm lấy vai trò trung tâm trong các phong trào xã hội và hoạt động chính trị, ở Hoa Kỳ cũng như bất cứ nơi nào khác – điều mà Arundhati Roy gọi là “NGO hóa sự phản kháng.” Do người dân thường tin rằng chúng sẽ có thể “nhận lương để làm điều tốt”, nhưng đó là một ảo tưởng. Nina Power viết rằng “không còn bất cứ sự tách biệt nào giữa vương quốc cá nhân và ngày làm việc,” có nghĩa là “cá nhân không còn là chính trị nữa, chỉ hoàn toàn là kinh tế.” Trong khi bà ấy không làm rõ hơn, sự nảy nở của NGO “công bằng xã hội” và chính trị là một ví dụ tốt cho thấy sự phân chia ấy bị xói mòn.

Những người chúng ta tham gia tổ chức, hầu hết theo một kịch bản tương đồng: Một vài sự cố xảy ra, đám đông phẫn nộ tràn ra đường phố và tụ tập với nhau, một số người kêu gọi tổ chức mít-tinh để theo dõi và tiếp tục đấu tranh. Trong cuộc mít-tinh này, một số nhà tổ chức có kinh nghiệm sẽ gánh vác công việc. Các nhà hoạt động này khởi sự với ngôn ngữ cực đoan và cung cấp sự huấn luyện cũng như không gian cho mít-tinh thường xuyên. Họ dường như đã có sẵn một kế hoạch hành động, trong khi những người khác hiếm khi có thời gian để nghĩ về bước tiếp theo. Các nhà hoạt động toát ra năng lực, giải thích – với sơ đồ - cách thức phác họa các đồng minh tiềm năng khi họ tạo ra danh sách những chính khách cụ thể làm mục tiêu cho đấu tranh.

Họ tạo ra những “đòi hỏi” đơn giản để “tạo dựng sự tin cậy nhanh chóng” và bất cứ ai đề xuất một cách tiếp cận khác – dĩ nhiên là người đại diện cho tiếng nói của người dân chứ không phải là những lãnh đạo mặc định bí ẩn – bị lặng lẽ bỏ qua. Theo sự hướng dẫn của họ, mọi người vận động để chiếm lấy một số thể chế hoặc văn phòng của chính khách, hoặc tổ chức tuần hành và tụ tập. Sự phản kháng là ồn ào và hấp dẫn, cũng gần giống như quân đội, mặc dù vậy, điều tiếp theo mà anh nhận ra, anh thấy mình đang gõ cửa nhà một người lạ, hồ sơ trên tay, hy vọng thuyết phục họ bỏ phiếu trong kỳ bầu cử tới.

Có nhiều dạng khác nhau trong bối cảnh này, nhưng điểm cốt yếu vẫn y nguyên: NGO tồn tại để phá hoại đấu tranh của quần chúng, đánh lạc hướng họ vào ngõ cụt cải lương và hất cẳng họ. Ví dụ, trong nhiều cuộc biểu tình “Chiến đấu vì 15 dollar” ở Miami, đại đa số người tham gia là các nhà hoạt động được trả lương, nhân viên của các NGO, tổ chức cộng đồng (CBO), và các nhân viên công đoàn đang tìm kiếm thành viên tiềm năng. Tương tự, một số cuộc biểu tình Black Lives Matter ở Miami đã được các nhà hoạt động ăn lương lãnh đạo và khuếch trương, họ cần phải thể hiện rằng họ “đang tổ chức cộng đồng” để tiếp tục được nhận tài trợ.

Tổ chức sinh viên cũng kết nối với hoạt động NGO. Ở Iowa, một NGO “sức mạnh sinh viên” tích cực tác động tới các nhà tổ chức sinh viên, thúc giục họ thống nhất và kết hợp sức mạnh với những thanh niên cực đoan trong bang và khu vực, chỉ để trực tiếp kết nối họ với Đảng Dân Chủ với những thư điện tử như: “Tranh cử Thượng Nghị Sĩ Iowa là một trong những cuộc tranh cử dữ dội và chặt chẽ nhất đất nước hiện nay. PHIẾU BẦU CỦA BẠN LÀ QUAN TRỌNG VÀ CÓ THỂ TẠO RA SỰ KHÁC BIỆT LỚN!” Sự kết nạp tổ chức sinh viên vào hoạt động cải lương đang rất lan tràn và trực tiếp được các nhà tư bản tài trợ.

Khi các cá nhân “thiếu tổ chức” bị phát hiện trong kiểu hoạt động này, họ sẽ bị vây lấy như miếng thịt tươi giữa bầy linh cẩu, ngay tức thì họ bị các nhà hoạt động ăn lương nuốt chửng, các nhà hoạt động phải đảm bảo hạn ngạch tuyển dụng để giữ công ăn việc làm. Tiếp theo anh sẽ thấy những người mới được tuyển dụng, họ mặc áo phông màu tím, đỏ, cam hoặc vàng chanh hay bất cứ màu đặc trưng nào của thương hiệu mà họ đã bị bán vào đó. 

Đây không phải là kiểu “tổ chức” mà George Jackson của Black Panther nghĩ đến khi ông thúc giục các nhà cách mạng đến với quần chúng để “đóng góp vào việc xây dựng cộng đồng, cơ sở hạ tầng, với bút và giấy tờ trên tay.”

Chủ nghĩa hành động đã bị tư bản hóa và chuyên nghiệp hóa. Thay vì tổ chức quần chúng để đấu tranh cho lợi ích của họ, NGO sử dụng họ cho lợi ích của bản thân. Thay vì xây dựng một phong trào quần chúng, NGO quản lý sự phẫn nộ của công chúng. Thay vì tạo ra sự cực đoan hay các chiến binh cách mạng, họ tạo ra các nhà hoạt động ăn lương thiếu hiệu quả cùng với sự đón nhận hỗ trợ thụ động. 

Các nhà tổ chức được trả lương không bao giờ là điều bình thường. Trước khi đấu tranh bị NGO hóa, những người cực đoan tổ chức đấu tranh theo quan điểm lợi ích của giai cấp công nhân quốc tế, theo lương tâm của chúng ta với khát vọng cháy bỏng đập tan kẻ thù và thay đổi thế giới.

Ngày nay, tổ chức không có sự bù đắp tài chính hầu như là một khái niệm xa lạ. Khi chúng ta đi phát tờ rơi – đúng vậy, chúng ta vẫn phát tờ rơi – người ta thường hỏi: “Tôi có thể kiếm được công việc này bằng cách nào?” Khi chúng ta trả lời rằng không được trả lương thì họ thường sẽ không tin.

Nội tại hóa tinh thần của NGO là phần lớn của lý do khiến sự đấu tranh cánh tả yếu. Giai cấp tư sản, thường xuyên cùng với sự trợ giúp của nhà nước, về mặt lịch sử đã rất thành công trong việc đàn áp cánh tả, đôi khi thông qua gián điệp và bạo lực như Chương trình COINTELPRO của FBI. Nhưng ngày nay sự đàn áp và trục xuất những người bất đồng chính kiến chỉ diễn ra đối với nhà hoạt động có ý đồ tốt với khẩu hiệu và hồ sơ trên tay. Nhà tư bản không cần cài gián điệp vào NGO bởi vì họ tài trợ cho chúng. 

2) NGO là công cụ của chủ nghĩa đế quốc.

Xâm lược quân sự hoặc đe dọa xâm lược vẫn đóng vai trò không thể thay thế trong việc hỗ trợ các nước đế quốc [1] trong việc thao túng và bóc lột tài nguyên cũng như lao động phụ thuộc toàn cầu. Nhưng chiến thuật “những dấu giày trên mặt đất” đang ngày càng trở thành giải pháp cuối cùng trong một chiến lược kiểm soát lớn hơn và phức tạp hơn, cũng như ít tốn kém và xáo trộn xã hội hơn.

NGO, giống như những nhà truyền giáo, thường tập trung vào một khu vực để chuẩn bị các điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu kinh doanh nông nghiêp, xưởng mồ hôi, khai thác khoáng sản và sân chơi cho du lịch. Trong khi các hoạt động quân sự hiện nay thường được coi là (ít nhất là đối với dân chúng trong nước) can thiệp nhân đạo, tính chất nhân đạo bề ngoài của NGO có vẻ như là đã biện minh cho chúng. Nhưng chúng ta cũng cần phải có một cái nhìn phê phán đối với những can thiệp của NGO, như chúng ta đã làm với các can thiệp quân sự. 

Haiti là một trong những ví dụ rõ ràng nhất về việc NGO đồng lõa với sự áp bức của đế quốc. Nhiều người Haiti đã giới thiệu đất nước họ là “nước cộng hòa của NGO”, đã từng có 10.000 NGO ở đất nước này trước động đất năm 2010, số lượng NGO theo đầu người nhiều hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. 99% cứu trợ động đất được phân phối thông qua các NGO và các tổ chức đại diện khác, những kẻ này đã hành xử như đám kẻ cướp, bỏ túi hầu hết số tiền mà người dân trên khắp thế giới quyên góp với niềm tin ngây thơ rằng điều đó sẽ thực sự trợ giúp những cộng đồng bị thiên tai tàn phá.

Đây không phải là điều mới. Nhiều thập kỷ trước đây, USAID và Ngân Hàng Thế Giới đã áp đặt các chương trình kinh tế tăng trưởng nhờ xuất khẩu và “điều chỉnh cấu trúc” đồng thời ở Haiti và nhiều nơi khác. Thậm chí 20 năm trước đây, 80% số tiền của USAID đã quay trở lại túi của doanh nghiệp và “chuyên gia” Hoa Kỳ. Khi quá trình đã hoàn tất, NGO đã tiến hóa thành loại tổ chức thích hợp với sự tích lũy dưới dạng ăn bám, tư bản hóa và ăn bám vào sự nghèo khổ được tạo ra bằng “cứu trợ” ở giai đoạn đầu.

Ở nhiều nước lệ thuộc, các giám đốc NGO trở thành một bộ phận của tầng lớp tư sản quan liêu, sử dụng nhà nước như là nguồn tích lũy tư bản nguyên thủy. Trong 20 năm qua ở Haiti, nhiều người sáng lập và lãnh đạo NGO đã chiếm được các vị trí chính trị từ tổng thống tới bộ trưởng, hay nghị sĩ quốc hội, trong đó có Aristide, Préval và Michèle Pierre-Louis.

Chủ nghĩa đế quốc toàn cầu không chỉ tạo ra lý do cho NGO tồn tại, mà còn lôi kéo chúng một cách tích cực vào âm mưu thống trị của đế quốc [2]. Một ví dụ khác, vào năm 2002, các NGO đã sát cánh cùng Nhà Trắng, CIA và AFL-CIO để hậu thuẫn cho thứ mà James Petras gọi là “cuộc đảo chính quần chúng do quân đội, doanh nghiệp, công đoàn, giới quan liêu lãnh đạo” để lật đổ tổng thống dân cử Hugo Chavez ở Venezuela. Sau khi phong trào quốc nội đã khôi phục quyền lực của Chavez thành công, các NGO được Hoa Kỳ tài trợ đã hậu thuẫn cho một cuộc đình công do các giám đốc dầu mỏ tổ chức, cuộc đình công này chỉ bị đánh bại khi công nhân chiếm lấy ngành công nghiệp dầu mỏ. 

3) NGO thay thế những thứ mà nhà nước phải làm.

Các đại diện “cứu trợ” được các tổ chức tư bản/đế quốc tài trợ - doanh nghiệp, quỹ và G8 – đã chiếm lĩnh các chức năng chủ chốt của nhà nước tại các quốc gia lệ thuộc. Nực cười là chính những tổ chức xã hội đế quốc này lại yêu cầu những khoản cứu trợ phát sinh từ điều kiện của các khoản cho vay cắt cổ của đế quốc.

Việc “từ bỏ” chương trình xã hội do nhà nước điều hành ở cả các nước đế quốc cũng như các nước lệ thuộc không có nghĩa là nhà nước trở nên yếu đuối. Điều đó đơn giản có nghĩa là họ có thể dùng nhiều tài nguyên hơn cho sự xâm lược, đàn áp và tích lũy, cũng như ít tài nguyên hơn cho việc vỗ yên dân chúng, ngăn chặn sự bất mãn của quần chúng. 

Ở Banglades, các chương trình tài chính vi mô đã được khuếch trương là một công cụ bề ngoài để xóa bỏ nghèo đói, nhưng chúng có một tác động thảm họa. Khi mà nhà sáng lập của vi tài chính Muhammad Yunus và ngân hàng Grameen của ông ta nhận được giải Nobel cho việc tạo ra “sự phát triển kinh tế và xã hội từ bên dưới” thì thực tế là họ đã mở ra thị trường mới cho các ngân hàng ở khu vực nông thôn nghèo khổ, cùng lúc đó các nạn nhân của việc vay mượn phải bán nội tạng để trả lãi suất. Như nhà sử học Badruddin Umar đã khẳng định, “Mục tiêu chủ chốt của họ [chính quyền và đế quốc] trong chuyện này là duy trì sự nghèo khổ và đánh lạc hướng người nghèo ra khỏi đấu những tranh chính trị nhằm thay đổi các quan hệ cơ bản của sản xuất cũng như các quan hệ xã hội, những thứ tạo ra và duy trì điều kiện của sự nghèo khổ.” Jennifer Ceema Samimi đã viết rằng, ngay cả ở Hoa Kỳ, “Sự thoái hóa của chính quyền liên bang đã thể hiện ở sự phụ thuộc của chính quyền vào các tổ chức vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận để cung cấp nhiều hàng hóa và dịch vụ, trong đó có dịch vụ chiến tranh.” Thực tế là 

Dân chúng lệ thuộc ở cả nước đế quốc và phụ thuộc ngày càng phải phụ thuộc vào các thiết chế từ nhà thương làm phúc tới ngân hàng thực phẩm cũng như hàng chục ngàn các tổ chức “xã hội dân sự” khác.

Chăm sóc y tế, thực phẩm, nước, nơi trú ngụ, giáo dục, chăm sóc trẻ em và các lao động có ý nghĩa là những yếu tố cần thiết căn bản của đời sống con người. Chúng phải là quyền, chứ không phải là quà tặng hay dự án được NGO tài trợ.

4) NGO hỗ trợ chủ nghĩa tư bản bằng cách phá hoại sự đấu tranh của giai cấp công nhân.

Một phần của lý do khiến NGO được tái tạo rất nhanh chóng, tại cả nước đế quốc và nước phụ thuộc, là chúng đã trở thành lựa chọn sống còn hàng ngày đối với những người thất nghiệp có bằng cấp với những khuynh hướng tiến bộ đang mò mẫm trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 

Thị trường lao động ngày nay, ngay cả đối với những thanh niên có kỹ năng và giáo dục, thực sự rất khốc liệt. Thực tế này, đi cùng với khủng hoảng gia tăng của chủ nghĩa tư bản về tính hợp pháp trong môi trường đang bùng nổ sự bất bình đẳng và sự áp bức, khiến cho NGO trở thành một triển vọng công việc hấp dẫn. Chúng đem đến một lối thoát, một cơ hội để có một công việc tốt, đặc biệt là cho giai cấp tiểu tư sản [3]. Ví dụ, ở Haiti NGO là nhà tuyển dụng lao động lớn nhất. Khu vực NGO cũng hấp dẫn giai cấp tiểu tư sản Hoa Kỳ như là một lựa chọn cá nhân để thoát khỏi sự bần cùng và đấu tranh giai cấp.

Nhiều người tốt nghiệp đại học, với bằng cấp về khoa học xã hội và nhân văn, đối mặt với các cơ hội tuyển dụng nghèo nàn và có ít sự lựa chọn về những công việc tốt. So với một công việc dịch vụ lương thấp, tuyển dụng của NGO là một viễn cảnh được chào đón. Một nhân viên trẻ của NGO thường nói, làm việc trong khu vực phi lợi nhuận được coi là công việc “đầy ý nghĩa”, làm việc không chỉ giúp tạo ra thu nhập mà còn thay đổi thế giới.

Bồi dưỡng cho thanh niên thành phố cách tư duy của Teach for America (TFA) thì hấp dẫn hơn là làm bánh sandwich ở Subway, nhưng tốt hơn cả là không nên nghĩ về cách thức mà công việc đó khiến cho những giáo viên trẻ đồng lõa với cái mà Glen Ford gọi là “nỗi ô nhục phản giáo dục kiểu doanh nghiệp” của đám phát xít TFA.

Việc đánh lạc hướng sự đấu tranh sang việc chống lại những tác động tiêu cực của chủ nghĩa tư bản thông qua NGO đã che dấu mâu thuẫn chủ chốt của chủ nghĩa tư bản, cụ thể là giữa tư bản và lao động. Tác động khủng khiếp của chủ nghĩa tư bản – áp bức, hủy diệt sinh thái, chiến tranh xâm lược, bóc lột, nghèo đói – không thể xóa sổ mà không xóa sổ nguyên nhân của chúng. Sự tái sản xuất và tích lũy tư bản bắt nguồn từ sản xuất giá trị thặng dư thông qua bóc lột công nhân trong quá trình lao động.

Trái lại, NGO nhấn mạnh nguyện vọng của giai cấp tiểu tư sản, thường bị trả giá thấp trong lưu thông của tư bản hơn là bị bóc lột trong sản xuất (như công nhân), đang bị tư bản thống trị nhưng không nằm trong quan hệ đấu tranh giai cấp căn bản (như công nhân). Do đó, khuynh hướng tự nhiên của tầng lớp tiểu tư sản, nhằm theo đuổi lợi ích giai cấp của họ, không phải là phá hủy chủ nghĩa tư bản mà là đấu tranh cho sự bình đẳng trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản. NGO là biểu hiện của điều đó. Giai cấp tư sản dựa vào họ để đàn áp đấu tranh của giai cấp công nhân và đánh lạc hướng đấu tranh của giai cấp công nhân vào chủ nghĩa cải lương, phá hoại những nỗ lực của công nhân trong việc thiết lập đảng chính trị và các công đoàn mang tính hợp tác.

Trên phương diện lịch sử, bất cứ khi nào giai cấp công nhân kêu gọi cách mạng, quyền lực mềm của giai cấp tiểu tư sản sẽ sẵn sàng bóp chết điều đó. Các nhà tư bản dựa vào giai cấp tiểu tư sản để hành động như là đại diện thừa hành bảo vệ sự thống trị của nhà tư bản đối với giai cấp công nhân. Đấu tranh cho một sự tiến bộ thực sự, những người cực đoan hay chiến sĩ cách mạng vốn là thành viên của tầng lớp tiểu tư sản đều phải thoát khỏi con đường đã bị áp đặt, từ chối một cách có ý thức vai trò đó, cũng như ngăn chặn việc bị lợi dụng – vô tình hoặc không – cho các mục tiêu phản động.

Một lưu ý về nhân viên  của NGO:

Bài báo này không thể hiện mối hoài nghi đối với sự chân thật của những người đang làm việc cho các NGO – nhiều người trong số họ thông minh, có ý định tốt đẹp, thực sự muốn tạo ra sự khác biệt. Công việc là hiếm hoi và thực sự là hấp dẫn khi tin rằng hai sứ mệnh này – phục vụ cho nhân loại đồng thời đảm bảo sự sinh tồn của bản thân – có thể kết hợp thành một, một hành trang đơn giản. 

Kém may mắn thay, đây không phải là câu trả lời. Một bài thơ Haiti nói: “Sự thống nhất của con gà và con gián chỉ diễn ra trong dạ dày của con gà” – anh không thể thay đổi hệ thống từ bên trong.

Nhưng rời bỏ cũng không phải là câu trả lời. Tất cả chúng ta đều bị cầm tù trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và đại đa số chúng ta bị buộc phải làm việc để sống. Chúng ta không thể chỉ đơn giản quyết định rời bỏ theo kiểu cá nhân. Cách duy nhất để thoát khỏi là tổ chức đoàn kết để đánh bại chủ nghĩa tư bản – hoặc là tất cả chúng ta cùng tự do hoặc là không ai cả. 

Mặc dù vậy, vào lúc này, chúng ta cần phải tránh nhầm lẫn hoạt động của NGO với sự tổ chức thật sự.

Chủ nghĩa tư bản sẽ không hỗ trợ chúng ta phá hủy nó – chúng ta thực sự phải trở nên hiệu quả trong việc xây dựng một phong trào quần chúng chống chủ nghĩa tư bản, các nhà tư bản sẽ làm bất cứ điều gì có thể để bôi nhọ, vô hiệu hóa, bỏ tù và thậm chí là giết hại chúng ta. Họ chắc chắn sẽ không trả lương cho chúng ta.

[Ghi chú: Bài báo này ban đầu được tạp chí Jacobin đặt hàng. Phiên bản đầu tiên, của Stephanie McMillan, có thể xem ở đây. Phiên bản hiện tại là của đồng tác giả - Vincent Kelley của đại học Grinnel tham gia dự án để bổ sung quan điểm và giúp chỉnh sửa bài bào theo yêu cầu của biên tập viên của Jacobin. Chúng tôi cố gắng làm điều đó mà không thay đổi nội dung. Yêu cầu của họ bao gồm việc làm cho ngôn từ bớt phi chính thống và “hàn lâm” hơn, đến mức mà cả hai chúng tôi đều nhận thấy rằng đó là nỗ lực nhằm tách giai cấp công nhân khỏi nội dung của bài báo (biên tập viên phản đối). Khi chúng tôi từ chối xóa bỏ những điều mà chúng tôi cho là điểm mấu chốt, Jacobin đã từ chối đăng bài báo này.]

Chú thích

[1] Chúng tôi sử dụng khái niệm chủ nghĩa đế quốc không phải để tạo ra một phân loại về “áp bức quốc gia dân tộc” nhằm biện minh cho chủ nghĩa quốc gia như là một phản ứng chính trị phù hợp với sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Trái lại, chúng tôi hiểu rằng chủ nghĩa đế quốc là một sản phẩm của khuynh hướng tiến tới tập trung và tích tụ tư bản. Căn bản nhất, chủ nghĩa đế quốc ngày nay đặc trưng bằng sự quốc tế hóa tư bản độc quyền, trong đó nước đế quốc – dưới dạng các nhà tư bản đa quốc gia – bóc lột giá trị thặng dư từ công nhân nước phụ thuộc, những người đó không hề kém “năng suất” hơn những công nhân ở nước đế quốc, nhưng, trái lại, sức lao động của họ bị bóc lột thậm tệ hơn so với công nhân ở nước đế quốc. Xâm lược quân sự, sự thống trị văn hóa và những khía cạnh khác của chủ nghĩa tư bản phụ thuộc vào quan hệ thống trị về mức độ bóc lột giá trị thặng dư. Trong các nước bị thống trị, đấu tranh giai cấp nội bộ giữa giai cấp công nhân và các giai cấp thống trị (tư sản quan liêu, các tầng lớp phong kiến) vẫn tiếp tục là mâu thuẫn căn bản, ngay cả khi sự phát triển nội tại của chủ nghĩa tư bản đã chịu nhiều tác động và quy phục chủ nghĩa đế quốc. Những chi tiết sâu hơn về chủ đề xin hãy xem tại http://koleksyon-inip.org/a-brief-definition-of-imperialism/

[2] Bằng thống trị, trong trường hợp này chúng tôi muốn nói rằng tác động của chủ nghĩa đế quốc đối với toàn bộ các nước phụ thuộc. Điều này bao hàm sự thấu hiểu về các tác động của chủ nghĩa đế quốc đối với tất cả các giai cấp bị thống trị ở nước phụ thuộc, bao gồm nhưng không giới hạn trong giai cấp công nhân. Việc lật đổ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc đòi hỏi phải có hoạt động quốc tế chống lại nước đế quốc – hiện nay là Hoa Kỳ - ở cả các nước ngoại vi trên toàn cầu cũng như các nước đang nằm dưới sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Phân tích về sự thống trị của đế quốc ở Haiti xin hãy xem tại http://koleksyon-inip.org/haiti-and-imperialist-domination/

[3] Chúng tôi sử dụng khái niệm tiểu tư sản không phải chỉ là sự đề cập đơn giản về “tầng lớp trung lưu”, trái lại là một mô tả chính xác mang tính phân tích về quan hệ độc đáo của giai cấp này đối với sản xuất. Tiểu tư sản không phải là những người tạo ra giá trị thặng dư (giai cấp công nhân) hay những người bóc lột và tích lũy giá trị thặng dư (giai cấp tư sản). Đây là một tầng lớp dao động, không phải là chủ chốt đối với sự tái sản xuất quan hệ sản xuất, buộc phải đứng về phía một trong hai giai cấp độc lập, lao động hoặc tư bản. Nhân viên NGO thường là một trong nhiều ví dụ về thành viên của giai cấp này và phải thừa nhận vị trí của họ như vậy để thúc đẩy đấu tranh của giai cấp công nhân hơn là giai cấp tư sản. Chúng tôi ủng hộ sự lãnh đạo của giai cấp công nhân không phải bởi vì bất cứ đặc quyền đạo đức nào của công nhân, trái lại là bởi vì sự thất bại lịch sử và hiện tại của những người tiểu tư sản cực đoan trong việc thúc đẩy các cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản. Thảo luận chi tiết hơn về chủ đề này xin hãy xem tại http://koleksyon-inip.org/greece/#more-495.

Thursday, October 15, 2015

Stephen Hawking và chủ nghĩa tư bản

Mới đây trên trang reddit của mình nhà vật lý học và thiên văn học nổi tiếng thế giới Stephen Hawking đã viết về chủ nghĩa tư bản như sau:
If machines produce everything we need, the outcome will depend on how things are distributed. Everyone can enjoy a life of luxurious leisure if the machine-produced wealth is shared, or most people can end up miserably poor if the machine-owners successfully lobby against wealth redistribution. So far, the trend seems to be toward the second option, with technology driving ever-increasing inequality.
Luận điểm của Stephen Hawking đã được truyền thông Hoa Kỳ và thế giới bàn tán ồn ào và được giới chính khách Hoa Kỳ đang chạy đua cho chiếc ghế tổng thống năm 2016 khai thác triệt để vì ông là một nhà khoa học tự nhiên rất nổi tiếng và có uy tín.

Đoạn văn của ông có thể hiểu theo tiếng Việt như sau:

Nếu như máy móc có thể sản xuất ra mọi thứ mà chúng ta cần, kết quả sẽ phụ thuộc vào việc mọi thứ được phân phối ra sao. Mọi người đều có thể được hưởng đời sống thư thái xa hoa nếu như của cải do máy móc tạo ra được chia sẻ, hoặc đại đa số người dân sẽ nghèo nàn cùng cực nếu như chủ sở hữu máy móc có thể vận động hành lang chống lại sự tái phân phối thành công. Hơn nữa, có vẻ như khuynh hướng đang ngả về phía lựa chọn thứ hai, công nghệ dẫn đến sự bất bình đẳng gia tăng. 

Theo quan điểm Marxist thì luận điểm của Stephen Hawking không có gì mới, vẫn là quan điểm duy tâm về mặt kinh tế chính trị học vay mượn từ các học giả kinh tế chính trị theo quan điểm sản xuất và phân phối có thể tách rời nhau, quan điểm này đã có từ rất lâu đời và sau này đặc biệt được các nhà kinh tế chính trị hợp pháp hay chủ nghĩa xã hội thị trường cổ vũ. F. Engels trong cuốn "Chống Duerinh" đã phê phán quan điểm này rất rõ ràng từ góc độ chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Ngay từ câu đầu tiên Stephen Hawking đã lặp lại sai lầm đó khi giả định rằng máy móc thay thế hoàn toàn người lao động để sản xuất ra hàng hóa. Mặc dù đó là khát vọng của mọi nhà tư bản cá nhân, điều đó giúp họ thu được lợi nhuận siêu ngạch, nhưng phương thức chủ nghĩa tư bản không bao giờ đạt được cái mức đó trên phương diện tổng thể. Khi thay thế hoàn toàn người lao động bằng máy móc thì người lao động không còn tiền để mua hàng hóa, còn chính nhà tư bản thì cũng không còn lợi nhuận nữa do máy móc không tạo ra giá trị và do đó là lợi nhuận. Khi mọi nhà tư bản đều dùng máy móc để sản xuất mà không dùng công nhân thì cũng không còn lợi nhuận siêu ngạch nữa. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ sụp đổ, không còn gì để phân phối nữa. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện thời đã cho thấy cái quy luật tất yếu đó, nó không ngừng tích lũy, sử dụng công nghệ cao để gia tăng lợi nhuận, nhưng khi đạt đến một mức độ nhất định thì tỷ suất lợi nhuận bình quân sụt giảm đột ngột khiến nền kinh tế suy thoái, tư bản bị phá hủy đi để khôi phục những tiền đề ban đầu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 

Vế tiếp theo thì Stephen Hawking giả định rằng vẫn còn sự phân phối có nghĩa là sự phân phối ấy độc lập với phương thức sản xuất. Hơn nữa, Stephen Hawking còn cho rằng sự phân phối ấy phụ thuộc vào vận động hành lang, tức là dựa vào khả năng tác động tới quyền lực nhà nước, hay nói ngắn gọn hơn là quyền lực nhà nước. Nhưng quyền lực nhà nước thì trước hết là quyền lực về kinh tế, nếu như phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản sụp đổ thì quyền lực kinh tế của nó cũng chấm dứt. Có thể thấy là Stephen Hawking ngầm giả định rằng quyền lực nhà nước độc lập với xã hội, vẫn có thể tiếp tục tồn tại và can thiệp vào xã hội dựa trên lý tưởng về đạo đức (sự bình đẳng) bất chấp cơ sở xã hội của nó đã sụp đổ.

Cuối cùng khi mà Stephen Hawking nói rằng công nghệ đang gia tăng sự bất bình đẳng xã hội thì cũng có nghĩa là ông ấy tiết lộ phương thuốc điều trị bệnh tật ấy. Nhà nước có can thiệp để phân phối thu nhập bình đẳng hơn. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ không tạo ra sự bất bình đẳng ghê ghớm nếu như nhà nước có thể phân phối lại thu nhập để hạn chế tác động tiêu cực của công nghệ. Ở đây cũng cần phải nói thêm rằng công nghệ không phải là yếu tố khách quan, chủ nghĩa tư bản tạo ra công nghệ kiểu tư bản chủ nghĩa, hướng tới việc thay thế lao động sống bằng máy móc thay vì dùng máy móc để hỗ trợ lao động sống. Khi Stephen Hawking chỉ nhấn mạnh vào vấn đề phân phối mà không đả động đến bản chất của công nghệ thì ông ấy ngầm công nhận nền tảng của chủ nghĩa tư bản là không thể thay đổi.

Stephen Hawking là một trường hợp điển hình của việc bảo vệ chủ nghĩa tư bản bằng cách phê phán nó, thế nên không phải ai phê phán chủ nghĩa tư bản cũng là chống lại nó. Stephen Hawking sẽ được hoan nghênh nhiệt liệt cả từ phe bảo thủ cũng như phe tự do trong kinh tế học phương Tây.  

Monday, October 12, 2015

Tuyên truyền về GMO và xã hội học về khoa học

Thao túng giới khoa học, và đánh lận con đen giữa khoa học và công nghệ để tuyên truyền và đàn áp các ý kiến phản đối là cách thức mà các công ty cung cấp sản phẩm biến đối gen lớn đang làm. Kristine Mattis đã vạch rõ những mánh lới ấy trong bài "GMO Propaganda and the Sociology of Science". Chuyện của Hoa Kỳ nhưng chắc chắn là không xa lạ với Việt Nam, một thị trường đang lên cho GMO của các công ty đa quốc gia.

Tuyên truyền về GMO và xã hội học về khoa học

Vào tháng 4 năm 2014, trang web Gawker tiết lộ các văn bản cho thấy mức độ mà người khổng lồ hóa chất toàn cầu Monsanto can thiệp để kiểm soát các tường thuật về sản phẩm của họ - đặc biệt là các sản phẩm biến đổi gen. Ở mức tối thiểu, Monsanto hợp tác với công ty xuất bản Condé Nast và kêu gọi các tổ chức phi chính phủ (NGO) cần nguồn tài trợ giúp họ tạo ra các video cổ vũ để hỗ trợ các sản phẩm biến đổi gen (GMO). Trong khi tất cả chúng ta đều tin rằng bộ não khoa học/lý trí sẽ nhìn thấu qua sự minh bạch của marketing, hùng biện quan hệ công chúng tồn tại vì nó làm dịu đi các tư tưởng phê phán. 

Mặc dù chiến dịch được Monsanto đề xuất không bao giờ thành hiện thực, nghiên cứu nhanh các bài báo về GMO trong năm quan cho thấy rõ ràng rằng mối quan hệ giữa Monsanto và Condé Nast chưa kết thúc. Bên cạnh đó, Monsanto hầu như chắc chắn đã nắm trong tay một số chiến dịch tuyên truyền khác. Kể từ năm ngoái, hùng biện ủng hộ GMO đã gia tăng đột ngột trên các bài báo tin tức về biến đổi gen. Các văn bản mới được tiết lộ cho thấy nhiều chuyên gia khoa học hợp tác trao đổi thông tin với Monsanto. Nhưng điều nguy hại nhất là toàn bộ các luận điểm hùng biện mới đã lên tuyến đầu, đe dọa bất cứ ai – nhất là các nhà khoa học – là về phát biểu chống lại công nghệ “trụ cột” của họ: Nếu anh chống lại GMO thì anh chống lại khoa học.

Luận điểm mới thể hiện một chiến lược mạnh mẽ thúc đẩy biến đổi gen. Hầu hết người dân không muốn bị coi là chống khoa học, không chỉ nhà báo, công chức hay giới giải trí, và ít nhất là tất cả mọi người không phải là những nhà khoa học giáo dục và đào tạo. Hơn nữa, tuyên truyền đứng về phía cánh tự do ủng hộ khoa học, cáo buộc cánh bảo thủ là phản khoa học do phủ nhận biến đổi khí hậu.

Không giống như biến đổi khí hậu chịu tác động của con người, hiện nay sự an toàn của GMO hoàn toàn không có sự đồng thuận khoa học nào. Trên thực tế, mỗi và mọi GMO mới đều cần được kiểm tra đầy đủ riêng biệt về mức độ an toàn, bởi vì mỗi sự biến đổi gen không chỉ đưa một gen lạ vào bộ gen, mà còn có khả năng tạo ra tác động qua lại giữa các gen trong bộ gen. Quan niệm một gen luôn chỉ kiểm soát một đặc tính đã được coi là quá đơn giản. Luôn luôn là nhiều gen tham gia vào việc tạo ra một đặc tính và các bộ phận của DNA cũng kích hoạt hoặc tắt các đặc tính. Do vậy, đưa gen lạ vào chuỗi DNA có thể vô tình tác động đến các đặc tính khác. 

Bên cạnh đó, hầu hết GMO không được kiểm tra an toàn. Không chỉ chính sách liên bang phán quyết phản khoa học rằng ngũ cốc GMO là “tương đương về mặt vật chất” với ngũ cốc thông thường, các nghiên cứu độc lập về tác động môi trường và sức khỏe (thông qua nghiên cứu về nuôi động vật) đã bị cản trở phần lớn do bản quyền ngăn chặn việc nghiên cứu và sử dụng hạt giống cũng như ngũ cốc biến đổi gen. Nghiên cứu về nuôi động vật đã diễn ra hầu hết là được nghành công nghiệp này tài trợ, đã bị dìm đi với những vấn đề như thức ăn bị nhiễm bẩn và phương pháp nghiên cứu sai lầm tạo ra các kết quả vô giá trị.

Để chắc chắn, chúng ta chỉ cần quay lại năm 2000 để thấy rằng mọi GMO là khác biệt và không phải tất cả đều an toàn để ăn. Năm đó ngô biến đổi gen “StarLink” – không được chấp nhận sử dụng cho người – được thu hồi sau khi chúng được phát hiện trong các sản phẩm từ ngô và có thể tạo ra nhiều tác động tiêu cực tới sức khỏe của con người. 

Tại sao chúng ta lại ủng hộ việc xuyên tạc mối lo ngại về GMO thành dấu hiệu cho thấy sự thiếu kiến thức khoa học của ai đó? Bởi vì một nhóm các nhà khoa học và truyền thông đại chúng được lựa chọn nói với chúng ta như vậy. Ngay cả Jon Stewart cũng ủng hộ tuyên truyền đơn giản này trong một phần của chương trình Daily Show được phát sóng vào ngày 22 tháng 4 năm 2015. Trong đó, ông ấy có một nhà khoa học nông nghiệp ủng hộ biến đổi gen phản đối các nhà hoạt động chống GMO. Ai sẽ được coi là đáng tin cậy hơn? Trái ngược với bản báo cáo dường như cân bằng, chương trình của Stewart ủng hộ quan điểm của những người cung cấp sản phẩm này hơn quan điểm của những người nghiên cứu về tác động của chúng. Điều cần được làm sáng tỏ khi nói về rủi ro công nghệ đầy tranh cãi này là loại nhà khoa học nào có tiếng nói và loại nào không.

Nghiên cứu cho thấy các nhà khoa học phía đầu nguồn – như các lĩnh vực công nghệ sinh học, kỹ thuật viên nông nghiệp, hoặc bất cứ nhà khoa học nào tạo ra công nghệ - ít quan tâm đến những rủi ro tiềm tàng hơn là những nhà khoa học phía cuối nguồn – như các lĩnh vực chăm sóc y tế công cộng, dịch tễ học và giải độc môi trường. Đâu là tiếng nói của các nhà khoa học phía cuối nguồn trong Daily Show? Tôi có mối quan hệ cá nhân với các nhà công nghệ sinh học, những người này nói với tôi rằng họ thậm chí không thừa nhận rủi ro hoặc các hậu quả không mong muốn của công nghệ GMO. Tôi cũng tham gia lớp giải độc học, tại đó các nhà khoa học phía đầu nguồn nói rằng ông ấy và đồng nghiệp không bao giờ tưởng tượng được sự phát triển nhanh chóng và dữ dội của siêu cỏ dại đáp lại ngũ cốc biến đổi gen kháng thuốc diệt cỏ của Monsanto (và sự sử dụng bừa bãi thuốc diệt cỏ). Trong khi đó, các nhà nghiên cứu môi trường đã ngay lập tức dự báo về siêu cỏ dại kháng thuốc diệt cỏ mà các chuyên gia nông nghiệp không biết đến. 

Báo cáo của Jon Stewart về GMO cũng ghi nhận khảo sát mới đây của Pew cho thấy 88% số nhà khoa học được đại diện bằng các thành viên của Hiệp Hội Tiến Bộ Khoa Học Hoa Kỳ (AAAS) – tin rằng GMO là an toàn. Điều mà cả Stewart cũng như Pew không đề cập là bao nhiêu trong số những nhà khoa học đó thành thạo về công nghệ GMO. Mặc dù chúng được đưa vào nguồn cung cấp thực phẩm của Hoa Kỳ vào đầu những năm 1990, giống như hầu hết công chúng và nhà khoa học, đặc biệt là những nhà khoa học có chuyên môn trong những lĩnh vực hoàn toàn khác, biết rất ít về GMO trước năm 2008. Đó là năm mà phim tài liệu “Food Inc.” cho người Mỹ thấy điều mà người Châu Âu và những nước khác trên thế giới đã biết về công nghệ GMO. Liên Minh Châu Âu và các quốc gia khác đã cấm GMO theo nguyên tắc phòng ngừa, hầu hết các quốc gia Châu Âu hiện nay đối mặt với sự phổ biến toàn cầu của Monsanto vẫn tiếp tục cấm công nghệ này. 

Dĩ nhiên 20% số nhà khoa học trong khảo sát của Pew làm việc trực tiếp hoặc gián tiếp về công nghệ biến đổi gen – hoặc phía đầu nguồn hoặc phía cuối nguồn. Nhưng khoa học, cũng giống như các ngành công nghiệp khác, là một cấu trúc xã hội. Vì mục tiêu thăng tiến và duy trì quan hệ với cộng đồng lớn hơn, các nhà khoa học có khuynh hướng ủng hộ các nhà khoa học khác – đặc biệt là những nhà khoa học có tiền và uy tín. Các nhà khoa học phía cuối nguồn phải tạo ra các nghiên cứu không tì vết, chặt chẽ, không thể gây tranh cãi – thậm chí khi họ thực hiện, họ bị cỗ máy quan hệ công chúng có mặt khắp nơi tra hỏi. Các nhà khoa học phía cuối nguồn không phải là một phần lớn của cộng đồng. 

Hãy xem xét khảo sát đã được đề cập của Pew cụ thể hơn: 11% số nhà khoa học không đồng ý về sự an toàn của GMO là các nhà khoa học phía cuối nguồn, đã nghiên cứu hoặc cố gắng nghiên cứu tác động của chúng. Có thể khoảng 10% số nhà khoa học cho rằng GMO an toàn đang phát triển công nghệ này. Có thể 78% cho rằng GMO an toàn có thể hoặc không có kiến thức sâu sắc về GMO, mà chỉ lặp lại lời của đồng nghiệp. Trên thực tế, như Ralph Nader mới đây đã đề cập, ba cựu chủ tịch của AAAS có quan hệ với Monsanto và/hoặc ngành công nghệ sinh học. Các nhà khoa học phía đầu nguồn tạo ra công nghệ sinh học và AAAS không phải là nguồn thông tin khách quan, bất kể chúng ta muốn hay không muốn có họ. 

Cốt lõi trong hùng biện mới của Mosanto là sự ngưỡng mộ công nghệ và vị thế của khoa học trong xã hội của chúng ta. Mặc dù vậy, khoa học và công nghệ không tương đương. Khoa học là nghiên cứu có hệ thống về kiến thức, trong khi công nghệ là ứng dụng các kiến thức đó – cho việc tốt hoặc việc xấu. Khoa học và công nghệ thường xuyên bị công chúng và các nhà khoa học trộn lẫn với nhau. Không quá khi nói rằng các nhà khoa học công nghệ phía đầu nguồn được ưu tiên và ưa thích trong khi các nhà độc học phía cuối nguồn và những người khác luôn bị theo dõi và quấy rầy bởi vì họ đe dọa ngành công nghiệp này. (Xem tiến sĩ Tyrone Hayes, Ignatio Chapela và Gilles-Éric Séralini, là một số ví dụ phổ biến về việc tấn công các nhà khoa học phía cuối nguồn.) Trong khi khoa học phía cuối nguồn, có thể chỉ ra những sự thật kinh hoàng về nguy hiểm, có thể là khó chịu, khoa học phía đầu nguồn thường đầy những điều kỳ diệu và sự náo động của công nghệ. Sự trộn lẫn khoa học và công nghệ thường được ngành công nghiệp GMO khai thác để khuyến khích sự chấp nhận sản phẩm của họ với thẩm quyền về mặt khoa học. 

Chúng ta từng chứng kiến lịch sử vĩ đại của chấp nhận khoa học và đồng thuận về những công nghệ gây tranh cãi, với các tác động rất tai hại. Sự đồng thuận khoa học đó chào hàng về sự an toàn của liệu pháp thay thế hormone, DDT, DES, sử dụng vô tội vạ chiếu xạ tia x, benzene, asbestos, BPA và hút thuốc lá. Công trình sau này của Theo Colborn, một trong những nhà khoa học phía cuối nguồn đầu tiên phát hiện ra nguy cơ của các hóa chất ngăn cản tuyến nội tiết tổng hợp (đã được nhận là vấn đề sức khỏe công cộng nghiêm trọng), cách đây một thập kỷ đã từng bị coi là rác rưởi hay giả mạo khoa học. 

Trong tuần này, thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu cho dự luật ngăn cản công chúng biết về GMO trong thực phẩm của họ. Dự luật H. R. 1599 đã được thông qua ở Hạ Viện, bị (các nhóm bảo vệ thực phẩm) gọi là “Luật DARK (Phủ Nhận Quyền Được Biết của Người Mỹ)”, sẽ bãi bỏ nhãn GMO trên nguồn cung cấp thực phẩm của chúng ta. Theo thói quen của ngành và chính quyền phục vụ cho thói quen ấy, đạo luật này được gán tên nhại chính thức theo kiểu Orwell là “Luật Dán Nhãn Thực Phẩm An Toàn và Chính Xác”, mặc dù đạo luật không liên quan. 

Từ những phán quyết khoa học sai lầm trong lịch sử, chúng ta không nên chịu sự áp bức, phải chấp nhận mù quáng một công nghệ đáng ngờ. Như hiện nay, GMO không mang lại gì cho xã hội ngoài việc làm đầy túi tiền của những người khổng lồ hóa chất nông nghiệp tỷ dollar đang sản xuất ra chúng. Chúng không phải nạn đói không thể tránh khỏi, chúng không gia tăng sự bền vững của môi trường; lợi ích công cộng bị thổi phồng của chúng chưa được hiện thực hóa. Câu hỏi về giá trị khoa học và xã hội của chúng – và rủi ro – mang tính quyết định khoa học trong cốt lõi của vấn đề. Ít nhất là công chúng có quyền được biết rõ về thực phẩm mà họ ăn. Mọi thứ khác đều là sự xâm phạm quyền của người dân Mỹ và trên hết, tự bản thân chúng là phản khoa học.

Kristine Mattis received her PhD in Environmental Studies. As an interdisciplinary environmental scholar with a background in biology, earth system science, and policy, her research focuses on environmental risk information and science communication. Before returning to graduate school, Kristine worked as a medical researcher, as a science reporter for the U.S. Congressional Record, and as a science and health teacher. She can be reached at: k_mattis@outlook.com.

Tuesday, October 6, 2015

Đông Nam Á "lãng quên" sự khủng bố của phương Tây

Andre Vltchek trong bài viết "Southeast Asia “forgets” about Western Terror" tường thuật về chứng lãng quên những tội ác của đế quốc phương Tây, diễn ra trước đây chưa lâu, ở Đông Nam Á, sự lãng quên có thể khiến các quốc gia Đông Nam Á phải trả giá đắt khi đế quốc đang "xoay trục" trở lại Đông Nam Á, thúc đẩy các quốc gia ở khu vực này đối đầu với các cường quốc khu vực và thế giới. Tác giả chỉ rõ sự lãng quên mang tính thực dụng của tầng lớp thượng lưu đối lập với những ám ảnh đau thương vĩnh viễn của người dân bình thường tại các quốc gia Đông Nam Á. Tầng lớp thượng lưu nhận được tiền bạc và ân sủng của đế quốc cho sự quên lãng còn người dân thường được nhắc nhở hàng ngày bằng bom mìn nổ chậm, bằng những vết thương trên người ...

Đông Nam Á "lãng quên" sự khủng bố của phương Tây



Tầng lớp thượng lưu Đông Nam Á “đã quên” mất 10 triệu người Châu Á bị đế quốc phương Tây sát hại vào cuối và sau Thế Chiến thứ II. Họ “đã quên” mất những gì diễn ra ở phương Bắc – về vụ ném bom Tokyo và Osaka, về vụ ném bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki, về việc quân đội Hoa Kỳ thủ tiêu man rợ thường dân Triều Tiên. Nhưng họ cũng quên mất những nạn nhân của họ - hàng trăm ngàn người, trên thực tế là hàng triệu, người bị bom xé thành từng mảnh nhỏ, bị hóa chất thiêu cháy hoặc bị thủ tiêu trực tiếp – đàn ông, đàn bà và trẻ em ở Việt Nam, Campuchia, Lào, Indonesia, Philippines và Đông Timor.

Tất cả đã được tha thứ và bị quên lãng.

Một lần nữa Đế Quốc lại tự hào “chuyển trục” sang Châu Á; họ thậm chí còn khoác lác về điều đó.

Điều đó diễn ra mà không ai nhắc rằng Đế Quốc không biết xấu hổ và không còn phép tắc nữa. Nó rao giảng về dân chủ và tự do, trong khi không buồn rửa sạch máu của mười triệu người trên bàn tay của nó.

Ở khắp Châu Á, “công chúng có đặc quyền” đã lựa chọn không biết, không nhớ, hay thậm chí là xóa sạch những chương khủng khiếp của lịch sử. Những người bám chặt lấy ký ức bị bịt miệng, bị cười nhạo, hoặc bị biến thành phi lý.

Chứng lãng quên có lựa chọn, “sự độ lượng” đó sẽ sớm phải trả giá. Một cách ngắn gọn, nó sẽ quay trở lại giống như cái boomerang. Lịch sử tự lặp lại. Nó luôn như vậy, nhất là lịch sử của chủ nghĩa thực dân và khủng bố phương Tây. Như thường lệ, người nghèo châu Á sẽ bị buộc phải thanh toán. 

***

Sau khi tôi ra khỏi hang động lớn nhất ở vùng phụ cận Tham Pha Thok của Lào, tôi gửi tin nhắn cho người bạn Việt Nam tốt của tôi ở Hà Nội. Tôi muốn so sánh sự đau khổ của người dân Lào và Việt Nam. 

Hang động từng được sử dụng làm “nơi trú ẩn” của quân Pathet Lào. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ II, hang động này được sử dụng làm sở chỉ huy. Giờ đây trông nó rất ám ảnh, giống như một cái xương sọ bị thực vật nhiệt đới bao phủ. 

Không lực Hoa Kỳ đã thường xuyên ném bom dữ dội toàn bộ khu vực và vẫn còn nhiều hố bom xung quanh, bị cây cối và bụi rậm che phủ.

Hoa Kỳ đã ném bom toàn bộ Lào, vốn được tặng một biệt danh đầy cay đắng: “Quốc gia bị ném bom nhiều nhất trên trái đất”.

Thật khó có thể hình dung, dù là trong tình trạng tỉnh táo, điều mà Hoa Kỳ, Australia và đồng minh Thái Lan của họ đã làm với đất nước Lào hiền hòa, thưa dân cư và thuần nông.

John Bacher, nhà sử học và nhà lưu trữ ở Metro Toronto, đã có lần viết về “Chiến tranh bí mật”: “Từ năm 1965 đến 1973, Hoa Kỳ đã ném bom xuống Lào nhiều hơn bom ném xuống Nhật Bản và Đức trong Thế Chiến thứ II. Hơn 350.000 người đã bị giết. Cuộc chiến ở Lào chỉ là bí mật đối với người dân Mỹ và Quốc Hội. Nó tiên đoán mối liên hệ bẩn thỉu giữa buôn bán ma túy và chính quyền áp bức mà chúng ta thấy sau này trong vụ Noriega.”

Trong chiến dịch bí mật lớn nhất lịch sử Hoa Kỳ này, mục tiêu chính là “ngăn chặn lực lượng thân Việt Nam giành quyền kiểm soát” khu vực. Toàn bộ chiến dịch giống như trò chơi mà những cậu bé lớn xác, bị chứng bạo dâm được phép chơi: Ném bom đưa toàn bộ quốc gia về Thời Đồ Đá trong hơn một thập kỷ. Nhưng không thể gọi “trò chơi” này là gì khác ngoài vụ diệt chủng tàn bạo nhất trong lịch sử của thế kỷ 20. 

Dĩ nhiên, hầu như không có một ai ở phương Tây hay ở Đông Nam Á biết gì về điều này.

Tôi nhắn tin cho người bạn: “Điều mà tôi được thấy vài năm trước khi làm việc trên Cánh Đồng Chum dĩ nhiên là kinh khủng hơn những gì tôi đã thấy xung quanh Tham Pha Thok, nhưng ngay cả ở đây, những hành động kinh hoàng của Hoa Kỳ cũng bị lãng quên.” Tôi cũng gửi cho cô ấy đường link tới những báo cáo trước đó của tôi về Cánh Đồng Chum.

Vài phút sau, cô ấy trả lời: “Nếu anh không nói … thì tôi sẽ không bao giờ biết về cuộc chiến bí mật này. Như chúng tôi được biết thì chưa bao giờ có chiến tranh ở Lào. Thật tội nghiệp cho người Lào!”

Tôi hỏi những người bạn khác ở Việt Nam, sau đó là ở Indonesia. Không ai biết gì về việc ném bom Lào.

“Chiến tranh bí mật” vẫn thuộc loại tuyệt mật, ngay cả bây giờ, ngay cả ở đây, tại trái tim của khu vực châu Á Thái Bình Dương, hay chính xác hơn là ở ngay đây.

Khi Noam Chomsky và tôi thảo luận về tình hình thế giới cho cuốn sách của chúng tôi “Về Khủng Bố Phương Tây – Từ Hiroshima tới Chiến Tranh của Máy Bay Không Người Lái”, Noam nhắc tới chuyến thăm đất nước Lào bị chiến tranh tàn phá. Ông ấy nhớ rõ về những phi công Hoa Kỳ, cũng như hàng đoàn nhà báo phương Tây, những người sống ở Vientiane nhưng quá bận rộn để nhìn và không hỏi bất cứ câu hỏi phù hợp nào.

***

“Ở Philippine, hiện giờ đại đa số người dân bị thuyết phục rằng Hoa Kỳ đã “giải phóng” đất nước họ khỏi người Nhật”, nhà báo cánh tả và là bạn của tôi đã có lần nói như vậy.

Tiến sĩ Teresa S. Encarnación Tadem, giáo sư khoa học chính trị đại học Diliman của Philippine, giải thích với tôi vào năm ngoái, mặt đối mặt, ở Manila: “Ở đây có câu nói như thế này: “Người Philippine yêu người Mỹ hơn là người Mỹ yêu bản thân.”” 

Tôi hỏi: “Tại sao có thể thế được? Philippine bị Hoa Kỳ chiếm làm thuộc địa. Một số vụ thảm sát kinh hoàng đã diễn ra … Đất nước này chưa bao giờ thực sự được tự do. Tại sao “tình yêu” đối với Hoa Kỳ lại thịnh hành?

“Đó là bởi vì cỗ máy tuyên truyền cực kỳ rộng lớn của Bắc Mỹ,” chồng của Teresa giải thích, tiến sĩ Eduardo Climaco Tadem, giáo sư khoa nghiên cứu châu Á đại học Diliman của Philippine. “Nó đã tô vẽ thời kỳ lệ thuộc Hoa Kỳ như là một kiểu chủ nghĩa thực dân tốt lành, đối lập với thời kỳ lệ thuộc Tây Ban Nha trước đó, được mô tả là “tàn bạo hơn”. Các xung đột trong chiến tranh Hoa Kỳ-Philippine (1898-1902) không được thảo luận. Các xung đột liên quan đến việc 1 triệu người Philippine bị giết hại. Vào thời kỳ ấy là khoảng 10% dân số của chúng tôi … diệt chủng, tra tấn … Người Philippine được gọi là “Việt Nam thứ nhất” … tất cả những chuyện đó đều bị truyền thông đại chúng lãng quên, vắng mặt trong sách giáo khoa lịch sử. Dĩ nhiên, sau đó là những hình ảnh được Hollywood và văn hóa đại chúng Hoa Kỳ phổ biến: quân đội Hoa Kỳ anh hùng và tốt bụng cứu vớt đất nước bị tàn phá và giúp đỡ người nghèo …”

Về căn bản, tất cả đều trái ngược với hiện thực. 

“Hệ thống giáo dục rất quan trọng”, Teresa Tadem nói thêm. “Hệ thống giáo dục tạo ra sự đồng thuận và điều đó tạo ra sự ủng hộ đối với Hoa Kỳ … ngay cả ở trường đại học của chúng tôi – Đại học của Philippine – được người Mỹ thiết lập. Anh có thể thấy điều đó được phản ánh trong chương trình đào tạo – ví dụ như các khóa học về khoa học chính trị … tất cả chúng đều bám rễ vào Chiến Tranh Lạnh và tình thần của nó.”

Hầu hết trẻ em thuộc “tầng lớp thượng lưu” châu Á được “giáo dục” ở phương Tây, hoặc ít nhất là trong “các trường quốc tế” ở quê hương của chúng, tại đó các chương trình giáo dục đế quốc được áp dụng. Hay tại các trường học tư nhân hoặc tôn giáo / Thiên Chúa Giáo … “Giáo dục” kiểu đó luôn sử dụng các khái niệm nhồi sọ thân phương Tây và ủng hộ kinh doanh.

Một điều nữa, trẻ em thuộc giới “thượng lưu” sau khi được nhồi sọ sẽ đi tẩy não phần dân chúng còn lại. Kết quả có thể dự đoán được: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc phương Tây và thậm chí là chủ nghĩa thực dân đều không thể đụng tới, đáng tôn trọng và được ngưỡng mộ. Các quốc gia và các cá nhân đã giết hại hàng triệu người lại được coi là những người thực thi tiến bộ, dân chủ và tự do. Thật là “cao quý” khi được hòa trộn với những người đó, cũng như là khát vọng được “làm theo hình mẫu của họ”. Lịch sử đã chết. Nó bị thay thế bởi những câu chuyện cổ tích nguyên thủy theo kiểu Hollywood và Disney.

***

Ở Hà Nội, một bức tranh hình tượng thể hiện một phụ nữ đang kéo chiếc cánh của máy bay Hoa Kỳ bị bắn rơi làm nổi bật lên một chứng tích mạnh mẽ. Đó là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời, có sức hút. 

Người bạn của tôi, George Burchett, một nghệ sĩ Autralia nổi tiếng sinh ra ở Hà Nội và hiện giờ lại sống ở thành phố này, hộ tống tôi.

Bố của George, Wilfred Burchett, được coi là nhà báo nói tiếng Anh vĩ đại nhất thế kỷ 20. Châu Á là nhà của Wilfred. Châu Á là nơi ông ấy tạo ra những công trình bất hủ, mô tả những hành động vô nhân đạo nhất của phương Tây tàn bạo: lời chứng của ông từ mô tả nguồn về vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima tới thảm sát hàng loạt thường dân trong “Chiến tranh Triều Tiên”. Wilfred Burchett cũng đưa tin về Việt Nam, Lào, Campuchia, đó chỉ là một số nơi bất hạnh bị Hoa Kỳ và đồng minh của họ phá hủy hoàn toàn. 

Hiện giờ sách của ông được các nhà xuất bản hàng đầu trên khắp thế giới xuất bản và tái bản, nhưng nghịch lý là chúng không tồn tại trong ý thức lệ thuộc của thanh niên châu Á.

Người dân Việt Nam, đặc biệt là thanh niên, biết rất ít về các hành động tàn bạo của phương Tây đối với các nước láng giềng của họ. Nhiều nhất thì họ biết về tội ác của Pháp và Hoa Kỳ tại đất nước họ - ở Việt Nam, họ không hoặc hầu như không biết gì về nạn nhân của những con quái vật được phương Tây tài trợ như Marcos và Suharto. Họ không biết gì về Campuchia – không biết gì về những kẻ thực sự phải chịu trách nhiệm về 2 triệu mạng người. 

“Những cuộc chiến bí mật” vẫn bí mật

Cùng với George Burchett, tôi thán phục nghệ thuật cách mạng và xã hội chủ nghĩa tuyệt vời ở Bảo Tàng Nghệ Thuật Quốc Gia. Hàng sa số các hành động tàn bạo của phương Tây được mô tả cực kỳ chi tiết ở đây, cũng như sự nỗ lực phản kháng quyết định chống lại thực dân Hoa Kỳ của nhân dân Việt Nam vĩ đại và anh hùng. 

Nhưng có một cảm giác kỳ quái trong viện bảo tàng – nó hầu như trống không! Bên cạnh chúng tôi chỉ có vài người khách, tất cả đều là khách du lịch nước ngoài: những gian đại sảnh chứa của cơ sở nghệ thuật kinh ngạc này hầu như trống không.

***

Người Indonesia cũng không biết, bởi vì họ đã bị làm cho ngớ ngẩn!” Người bạn già Djokopekik của tôi quát lên, ở phòng tranh của ông tại Yogyokarte. Ông ấy được coi là nghệ sĩ hiện thực xã hội chủ nghĩa vĩ đại nhất của Đông Nam Á. Trong những bức tranh sơn dầu của ông, các binh lính tàn bạo đá vào lưng người dân khốn khổ, trong khi một con cá sấu khổng lồ (biểu tượng của sự tha hóa) tấn công, ngoạm và ăn thịt tất cả những người trước mặt. Djokopekik cởi mở và cực kỳ trung thực: “Đó là kế hoạch của họ; mục tiêu lớn nhất của chính quyền là tẩy não dân chúng. Người Indonesia không biết gì về lịch sử nước họ hay phần còn lại của Đông Nam Á!”

Trước khi chết, Pramoedya Ananta Toer, nhà văn có ảnh hưởng nhất Đông Nam Á đã nói với tôi: “Họ không thể suy nghĩ, không thể nữa … và họ không thể viết. Tôi không thể đọc hơn 5 trang của bất cứ nhà văn Indonesia đương đại nào … chất lượng thật đáng xấu hổ …” Trong cuốn sách mà chúng tôi (Pramoedya Ananta Toer, Rossie Indira và tôi) viết cùng nhau – “Exile” - , ông than khóc rằng người dân Indonesia không biết gì về lịch sử hay thế giới.

Nếu như họ biết, họ sẽ chắc chắn sẽ nổi dậy và lật đổ chính quyền ô nhục đang cai trị quần đảo của họ hiện nay.

Hai đến ba triệu người Indonesia đã chết sau cuộc đảo chính quân sự năm 1965, do phương Tây và các giáo sĩ, chủ yếu là dòng Kháng Cách bắt nguồn từ châu Âu, châm ngòi và hỗ trợ. Đại đa số người dân ở quần đảo vô vọng này giờ đây bị nhồi đầy sọ tuyên truyền của phương Tây, thậm chí không có khả năng nhận ra sự khốn khổ của bản thân. Họ vẫn tiếp tục lên án các nạn nhân (chủ yếu là người cộng sản, trí thức và “vô thần”) vì những sự kiện đã diễn ra cách đây đúng 50 năm, những sự kiện đã bẻ gẫy xương sống của quốc gia kiêu hãnh và tiến bộ này.

Người Indonesia hầu như hoàn toàn tin vào những câu chuyện cổ tích cánh hữu, phát xít do phương Tây chế tạo và phổ biến thông qua các kênh truyền thông đại chúng địa phương nằm trong tay tầng lớp “thượng lưu” đánh đĩ … Không có gì đáng ngạc nhiên: trong suốt 50 năm dơ dáy, họ đã được thứ tinh thần hạ cấp nhất của Hollywood, nhạc pop phương Tây và Disney nhồi nhét về “trí tuệ” và “văn hóa”.

Họ không biết gì về đất nước mình

Họ không biết gì về tội ác của bản thân. Họ không biết gì về những vụ diệt chúng mà họ đã tạo ra. Hơn một nửa số chính khách của họ là tội phạm chiến tranh, chịu trách nhiệm về hơn 30% số đàn ông, đàn bà, trẻ em bị giết hại trong cuộc đảo chính do Hoa Kỳ/Anh/Australia hậu thuẫn ở Đông Timor (hiện giờ là quốc gia độc lập), về vụ tắm máu năm 1965 và diệt chủng mới đây mà Indonesia gây ra ở Papua.

Thông tin về tất cả những sự kiện kinh hoàng này đều có sẵn trên mạng. Có hàng ngàn trang mạng đăng tải bằng chứng chi tiết và nặng ký. Mặc dù vậy, hèn nhát và cơ hội, công chúng “có giáo dục” của Indonesia đã lựa chọn “không biết”.

Dĩ nhiên, phương Tây và băng đảng của họ có lợi lớn từ việc cướp bóc Papua.

Do vậy, tội ác diệt chủng của họ đều bị che phủ bởi bí mật.

Nếu như hỏi ở Việt Nam, Myanmar và thậm chí là ở Malaysia, người dân biết gì về Đông Timor và Papua? 

Câu trả lời là chả có gì cả, hoặc hầu như không có gì cả.

Myanmar, Lào, Campuchia, Indonesia và Philippine – các quốc gia này nằm trên cùng một phần của thế giới, nhưng dường như chúng nằm trên các hành tinh khác nhau. Đó là kế hoạch: công thức chia để trị cổ xưa của Anh Quốc.

Ở Manila, thủ đô của Philippine, một gia đình khẳng định rằng Indonesia nằm ở châu Âu khi nói với tôi. Gia đình này cũng không biết về tội ác do chính quyền thân phương Tây của Marcos gây ra.

***

Truyền thông đại chúng phương Tây khuếch trương Thái Lan như là “đất nước của nụ cười”, mặc dù vậy đó là một nơi cực kỳ cay đắng và tàn bạo, có tỷ lệ sát nhân (tính trên đầu người) thậm chí còn cao hơn cả ở Hoa Kỳ.

Thái Lan hoàn toàn bị phương Tây kiểm soát từ cuối Thế Chiến thứ II. Hệ quả là giới lãnh đạo của nó (ngai vàng, giới thượng lưu và quân đội) đã cho phép những tội ác tàn bạo nhất chống lại nhân loại diễn ra trên lãnh thổ nước này. Chỉ đề cập một số nhỏ: vụ thảm sát những người Thái Lan nổi dậy cánh tả và ôn hòa (một số người bị thiêu sống trong các thùng dầu), vụ sát hại hàng ngàn người tị nạn Campuchia, giết hại và cưỡng hiếp sinh viên biểu tình ở Bangkok và những nơi khác … Và điều khủng khiếp nhất của họ: Ít biết về sự can dự Thái Lan trong việc xâm lược Việt Nam dưới thời “Chiến tranh chống Mỹ” … việc sử dụng rộng rãi phi công Thái Lan trong các hoạt động ném bom ở Lào, Việt Nam và Campuchia, cũng như việc chuyển giao một số sân bay quân sự (trong đó có Pattaya) cho không lực phương Tây. Đấy là chưa nói đến việc cung cấp các bé trai và bé gái Thái Lan (phần nhiều là dân tộc thiểu số) cho binh lính phương Tây.

***

Khủng bố mà phương Tây vung vãi khắp Đông Nam Á dường như đã bị lãng quên, hay ít nhất là trong hiện tại.

“Hãy tiến lên!” Tôi được nghe ở Hà Nội và Luang Prabang.

Nhưng trong khi người dân Việt Nam, Lào và Campuchia đang bận rộn “tha thứ” cho những đao phủ của họ, Đế Quốc giết hại người dân của Iraq, Syria, Lybia, Pakistan, Afghanistan, Yemen, Ukraina và mọi ngóc ngách của Châu Phi.

Nhiều nơi đã khẳng định và một số đã chứng minh, nhất là ở Nam Mỹ, nơi mà tất cả quái vật đã thành công, rằng không có một tương lai tử tế cho hành tinh này nếu không thừa nhận và thấu hiểu quá khứ. 

Sau khi “tha thứ cho phương Tây”, một số quốc gia Đông Nam Á đã ngay lập tức bị buộc phải đối đầu với Trung Quốc và Nga. 

Khi “được tha thứ”, phương Tây không thèm nhún nhường đón nhận sự độ lượng vĩ đại của nạn nhân. Hành vi đó không thuộc về văn hóa của họ. Trái lại, họ coi sự tốt bụng là yếu đuối và ngay lập tức lợi dụng điều đó. 

Bằng cách tha thứ cho phương Tây, bằng cách “lãng quên” tội ác của phương Tây, Đông Nam Á thực sự không làm điều gì tích cực. Họ chỉ lừa dối các nạn nhân có cùng cảnh ngộ với họ, trên khắp thế giới.

Họ cũng thực dụng và ích kỷ khi mong đợi một số phần thưởng. Nhưng phần thưởng không bao giờ đến! Lịch sử đã chứng minh điều đó nhiều lần. Phương Tây muốn mọi thứ. Họ tin rằng họ xứng đáng nhận mọi thứ. Nếu không bị chống lại, họ sẽ cướp bóc đến cùng, đến khi không còn gì nữa – như họ đã làm ở nước Cộng Hòa Dân Chủ Congo, ở Iraq hay Indonesia.

***

Nhà sử học nổi tiếng người Australia và là giáo sư danh dự tại đại học Nagasaki của Nhật Bản, Geoffrey Gunn, đã viết cho tiểu luận này: 

“Hoa Kỳ nắm giữ quyền lực cứng và mềm ngang nhau hay có vẻ như vậy. Qua lại Đông Nam Á trong bốn thập kỷ qua, tôi thừa nhận là đã bị bối rối trước những hồi ức có lựa chọn về dấu ấn của Hoa Kỳ. Như Lào và Campuchia, tại mỗi nước Hoa Kỳ đã ném số lượng bom lớn hơn ném xuống các thành phố của Nhật Bản trong Thế Chiến thứ II, tại đó bom mìn chưa nổ vẫn gây ra thiệt hại nhân mạng mỗi ngày. Trước đây không lâu, tôi hỏi một quan chức cấp cao của chính quyền ở Phnom Penh xem chính quyền Obama có xin lỗi về các tội ác đó không. “Không đời nào,” ông ấy nói, nhưng sau đó ông ấy cũng không siết chặt nắm đấm, dân chúng dường như chỉ là số liệu cơ bản trong lịch sử phía sau những cảm giác chung chung về sự kinh hoàng của quá khứ. Ở Lào vào tháng 12 năm 1975, tôi đã tình cờ ở đó khi những người cách mạng giành lấy đất nước trước cơn thịnh nộ của Hoa Kỳ; việc trưng bày tội ác của Hoa Kỳ – mặc dù chủ yếu là tuyên truyền – đã bị bỏ xó trong các góc của bảo tàng. Cũng như ở Việt Nam, chậm rãi trở thành đối tác chiến lược của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ không ăn năn hối lỗi với các nạn nhân của bom đạn, vũ khí hóa học và các tội ác khác. Ở Đông Timor, bị tổng thống Ford và ngoại trưởng Henry Kissinger hiến tế cho các tướng quân Indonesia để đổi lấy các lợi ích của phủ nhận chiến lược, khoảng 30% dân số đã bị xóa sổ, Hoa Kỳ được tha thứ hay ít nhất là xóa bỏ khỏi các tường thuật chính thống. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ cấp nhà nước đầu tiên, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã quảng cáo rùm beng về các hợp tác kinh doanh lớn với Hoa Kỳ, một nền kinh tế lớn thứ hai thế giới “bình thường mới” và giờ là đối tác của Hoa Kỳ trong “cuộc chiến chống khủng bố”, như ở Afghanistan. Tốt thôi, vừa mới dạy lịch sử ở trường đại học của Trung Quốc, tôi có thể nói thêm rằng lịch sử không quan trọng ở Trung Quốc nhưng Nhật Bản là dẫn chứng quá đủ rõ ràng.” 

***

“Trung Quốc thường coi việc chống lại chủ nghĩa đế quốc, thực dân và tân thực dân phương Tây là lời hiệu triệu chủ chốt trong chính sách đối ngoại, Geoff thở dài, khi chúng tôi ngắm nhìn cái vịnh của thành phố quê hương ông – Nagasaki. “Giờ chỉ có tội ác của Nhật Bản là được nhớ tới ở Bắc Kinh.”

Nhưng quay trở lại Đông Nam Á …

Tất cả đều bị lãng quên và được tha thứ, lý do “tại sao” là rất rõ ràng, đơn giản. Họ được trả tiền để lãng quên! “Sự tha thứ” được tài trợ; nó đảm bảo “các học bổng”, một trong những cách các nước phương Tây phổ biến sự tha hóa của họ tại các nước chư hầu và tại các nước họ muốn lôi kéo vào quỹ đạo của họ. 

Tầng lớp thượng lưu với những căn nhà xa hoa, du lịch nước ngoài, trẻ em tại trường học ngoại quốc, tất cả gắn liền với sự tha thứ.

Nhưng khi anh đến vùng nông thôn, nơi mà đa số người dân Đông Nam Á vẫn sống. Mọi chuyện rất khác. Mọi chuyện ở đó khiến anh rùng mình.

Trước khi rời khỏi Lào, tôi ngồi bên chiếc bàn ngoài trời ở làng Nam Bak, cách Luang Prabang khoảng 100 km. Bà Nang Oen kể cho tôi nghe câu chuyện về vụ ném bom trải thảm của Hoa Kỳ và ông Un Kham chỉ cho tôi những vết thương trên người: 

“Ngay cả ở đây, ở Nam Bak, chúng tôi có nhiều hố bom ở khắp nơi, nhưng giờ chúng đã bị các cánh đồng lúa và nhà cửa che phủ. Vào năm 1968, nhà của bố mẹ tôi bị trúng bom… Tôi nghĩ rằng họ đã ném bom 500 bảng vào đó. Cuộc sống thật là khổng thể chịu nổi trong chiến tranh. Chúng tôi phải ngủ trên cánh đồng hoặc trong hang. Chúng tôi luôn phải di chuyển. Nhiều người đã bị đói khi chúng tôi không thể thu hoạch mùa màng.”

Tôi hỏi bà Nang Oen về người Mỹ. Bà có quên, tha thứ không?

“Tôi cảm thấy thế nào về họ? Thực sự tôi không biết nói gì. Sau tất cả những năm tháng đó, tôi vẫn không thể nói lên lời. Họ giết sạch mọi thứ, kể cả gà. Tôi biết rằng họ vẫn đang làm chuyện tương tự khắp thế giới…”

Bà tạm ngừng, nhìn về phía chân trời. 

“Đôi khi tôi nhớ những gì đã xảy ra với chúng tôi… Đôi khi tôi quên”. Bà nhún vai. “Nhưng khi tôi quên thì đó chỉ là trong chốc lát. Chúng tôi không nhận được bất cứ sự bồi thường nào, thậm chí lời xin lỗi cũng không. Tôi không thể làm được gì. Đôi khi tôi thức giấc vào nửa đêm và khóc.”

Tôi lắng nghe bà và hiểu, sau nhiều thập kỷ làm việc ở phần này của thế giới: đối với nhân dân Lào, Việt Nam, Campuchia và Đông Timor, không có gì bị lãng quên và không có gì được tha thứ. Sẽ không bao giờ!

Andre Vltchek is a philosopher, novelist, filmmaker and investigative journalist. He covered wars and conflicts in dozens of countries. His latest books are: “Exposing Lies Of The Empire” and “Fighting Against Western Imperialism”.Discussion with Noam Chomsky: On Western Terrorism. Point of No Return is his critically acclaimed political novel. Oceania – a book on Western imperialism in the South Pacific. His provocative book about Indonesia: “Indonesia – The Archipelago of Fear”. Andre is making films for teleSUR and Press TV. After living for many years in Latin America and Oceania, Vltchek presently resides and works in East Asia and the Middle East. He can be reached through his website or his Twitter.

Wednesday, September 30, 2015

Cái chết của hiến pháp hòa bình: Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt

Giáo sư lịch sử Gary Leupp của trường đại học Tufts, Hoa Kỳ bình luận về việc Nhật Bản từng bước tái vũ trang trong bài "The Death of  the "Pacifist" Constitution: Japan's Return to Its Martial Roots". Nhật Bản tái vũ trang với khát vọng quay trở lại thành một đế quốc theo truyền thống quân phiệt, còn Hoa Kỳ muốn họ trở thành mũi xung kích chống Trung Quốc. Sau Thế Chiến Thứ II, Nhật Bản bị tước vũ khí hoàn toàn và lệ thuộc vào sự đảm bảo của Hoa Kỳ, đã chớp cơ hội làm giàu nhờ các cuộc chiến của Mỹ ở Châu Á. Sự hồi phục về kinh tế sau hơn nửa thế kỷ dẫn đến hy vọng khôi phục chủ nghĩa đế quốc khi gặp thời cơ thuận lợi.

Cái chết của hiến pháp "hòa bình": Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt


Việc quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép quân đội Nhật Bản hành động để hỗ trợ một “đồng minh thân cận” khi bị tấn công là vi phạm hiến pháp Nhật Bản, vốn (từ năm 1947) đã cấm nhà nước tham gia vào chiến tranh.

Ba chuyên gia hiến pháp được các luật sư mời bình luận về chủ đề đều đã xác nhận sự vi phạm này.

Hành động của các nghị sĩ cho thấy rõ điều có vẻ đang được hiểu rộng rãi: không có sự liên hệ nào giữa luật chính thống ở những nước đế quốc về căn bản là phi luật lệ và tất cả những định đề đẹp đẽ xuất hiện trọng các điều luật của quốc gia đó. 

Ở quốc gia này, chúng ta quen với sự thật là chính quyền Hoa Kỳ không bảo vệ hiến pháp để chống lại “những khám xét phi lý” bằng những nhát cắt kiểu Stasi đối với đối thoại cá nhân. Chúng ta cũng quen với sự thật là hành pháp của Hoa Kỳ đã bất chấp các điều khoản của hiến pháp quy định về việc quốc hội phải phê chuẩn chiến tranh.

Thế thì tại sao điều này lại có vẻ bất thường, trong khi hiến pháp Nhật Bản cấm thẳng thừng mọi hình thức duy trì quân đội, Nhật Bản thực tế lại có quân đội lớn thứ tám thế giới? Tầng lớp thượng lưu cai trị Nhật Bản đang chuẩn bị để triển khai quân đội bất hợp pháp hung hăng hơn?

Đừng ngây thơ. Đừng nghiêm túc về những người làm điệu bộ bảo vệ luật pháp, canh gác những thứ mà họ gọi là “cộng đồng quốc tế.” Những người đó nói dối thường xuyên, kích động sự sợ hãi (về vũ khí hủy diệt, đặc biệt là khi việc khai thác sự lo lắng đã được chứng minh có hiệu quả), nói dài dòng văn tự như con bạch tuộc phun mực để đánh lừa những người mà họ đang đe dọa, phân tích ngôn ngữ của sự đồng thuận được mã hóa để rút ra những diễn giải thiên kiến. 

Các nhà bình luận ở Nhật Bản và nơi khác đều thống nhất trong cáo buộc rằng thủ tướng Abe Shinzo đã tạo ra thay đổi lớn bằng cách áp đặt “sự diễn giải lại” điều 9 của hiến pháp Nhật Bản. Điều này không chỉ là một bước chắc chắn nữa của cánh hữu Nhật Bản trong việc viết lại hiến pháp đã bị ruồng bỏ. Đây là một thành tích trọng yếu. Một bước chủ chốt quay trở lại quá khứ quân phiệt vinh quang! 

Một số quan chức quân sự đã nói, “Giờ thì chúng ta có thể làm mọi thứ” – tất cả những thứ mà một quân đội bình thường làm ở bất cứ đâu.

Điều này rất đáng phiền đối với tôi, một người đã sống ở Nhật Bản nhiều năm, viếng thăm định kỳ, có liên hệ gia đình và bạn bè và lo ngại sâu sắc về tương lai của đất nước xinh đẹp mong manh này. Điều đó thúc đẩy tôi viết về quá khứ quân phiệt mà quốc gia này tự hào và cách thức nó tạo ra Nhật Bản ngày nay.

* * *

Hãy cùng bắt đầu vào thế kỷ 16, khi những người Châu Âu đầu tiên đến Nhật Bản, tiếp xúc ban đầu và người Nhật Bản đầu tiên đi vòng quanh thế giới tới Châu Âu.

Vào ngày 23 tháng 3 năm 1585, ba nhà quý tộc khởi hành từ Nhật Bản cùng với tùy tùng được chào đón trong lễ tiếp đón chính thức tại Vatican ở Rome. Hội truyền giáo Jesuit ở Nhật Bản, hoạt động tại đất nước “mới được khám phá” này từ năm 1549, muốn thể hiện cho toàn bộ Châu Âu thấy sự thành công của họ trong việc cải đạo cho hàng trăm ngàn người Nhật sang Thiên Chúa Giáo. Vào lúc những người Kháng Cách tràn ngập miền bắc Châu Âu, chống lại và làm suy yếu nhà thờ Catholic Rome, công việc truyền giáo ở “các quốc gia mới được phát hiện” là sự mở rộng phạm vi của Tòa Thánh.

Nhật Bản là một trong những khu vực truyền giáo hứa hẹn nhất. Một số daimyo (“vua” đối với các giáo sĩ Bồ Đào Nha) của họ, hăm hở thu hút những tàu chiến thương mại đến bờ biển, sẵn sàng cải đạo – vì những lý do chung chung – và sau đó ra lệnh cho thuộc hạ cũng làm như vậy. (Các thương nhân Bồ Đào Nha theo sự hướng dẫn của Nhà Thờ nói các chủ nhà Nhật Bản rằng khi họ tuân theo đức tin, họ sẽ nhận được thêm nhiều chuyến viếng thăm của thương thuyền Châu Âu, chất đầy tơ lụa Trung Quốc và các hàng hóa quý giá khác.) 

Nhiều cuộc cải đạo là giả dối hoặc bị cưỡng bức, khi các truy tố nghiêm khắc được bắt đầu vào những năm 1620, đại đa số những người cải đạo đã bỏ đạo. Nhưng vào thời đó, Nhật Bản là sự ưa thích trong nỗ lực truyền giáo toàn cầu của nhà thờ Catholic Rome để chống lại phái Cải Cách.

Sự tác động qua lại đầy đam mê này cũng có khía cạnh “cực đoan”. Người Nhật Bản, Francis Xavier viết vào năm 1550, là “chủng tộc tốt nhất từng được [người Châu Âu] khám phá và tôi không cho rằng anh sẽ tìm thấy đối thủ của họ trong số các quốc gia ngoại đạo.” “Những người này da trắng và có văn hóa,” giáo sĩ dòng Jesuit người Italia Alessandro Valignano đến thăm Nhật Bản viết lại vài thập kỷ sau đó, ngay cả những người bình thường cũng “lịch sự đáng chú ý” đến mức “họ vượt trội so không chỉ với người Đông Âu mà cả người Châu Âu.” Khoảng năm 1590, giáo sĩ dòng Jesuit người Bồ Đào Nha Luis Frois nói rằng người Nhật Bản “trong cách ứng xử và phong tục tập quán của họ” vượt trội hơn người Châu Âu ở nhiều góc độ, “thật xấu hổ khi nói về điều đó.”

(Ngay từ những tiếp xúc ban đầu, người Châu Âu coi người Nhật Bản là “da trắng” và gán cho màu da sáng của họ ưu điểm đạo đức và hiểu biết trí tuệ. Valignano thậm chí còn nói rằng “sự khác biệt giữa người Thiên Chúa Giáo Ấn Độ [Đông Á] và Nhật Bản … tự nó đã chứng minh rằng không có cơ sở nào để so sánh họ, nhóm thứ nhất cải đạo vì một số động cơ cá nhân thầm kín; do họ [người Ấn Độ] là da đen, trí thông minh kém, hệ quả là họ rất khó có thể cải tạo và trở thành người Thiên Chúa Giáo tốt; trong khi người Nhật Bản … do họ da trắng, có trí thông minh và hành vi tốt … trở thành những người Thiên Chúa Giáo rất tốt.”)

Trước khi viếng thăm Vatican, người Nhật Bản đã gặp thống đốc của Bồ Đào Nha, hồng y giáo chủ Albert ở Lisbon; Philip II ở Madrid; nữ hoàng Marie của Áo cũng ở Madrid; và Francesco dei Meidici, đại công tước xứ Tuscany ở Pisa. (Bicanco Capello vợ của Francesco đã ôm từng người, rõ ràng là vui thích về sự mềm mại của những bộ kimono lụa). Khi tới Vatican, được chào đón với đám đông tung hô, một loạt đại bác và chuông nhà thờ, đoàn đại diện được giáo sĩ dòng Jesuit và nhà nhân học người Bồ Đào Nha Gaspare Gonsalves đón tiếp với những lời như sau:

“Quốc đảo Nhật Bản thực sự là rất xa đây và tên của quốc đảo hiếm khi được biết đến, một số người thậm chí còn không biết nó tồn tại. Trái lại, có người biết rằng nó đứng trên tất cả các quốc gia ở phương Đông và so sánh nó với phương Tây, theo diện tích, số lượng thành phố và con người thiện chiến cũng như có văn hóa.”

Con người thiện chiến và có văn hóa! Xavier đã viết, “Chưa bao giờ trong đời mình tôi gặp những người dựa vào vũ khí nhiều như vậy … Họ rất thiện chiến và thường xuyên tham gia chiến tranh …” Tất nhiên là hơn cả những gã thực dân Iberia mà Xavier, một người xứ Basque từ Navarre phải bóp vai khi có dịp. Họ không chỉ chế tạo ra những thanh kiếm tinh tế nhất thế giới, vượt xa kiếm Damas, mà họ cũng hăm hở tiếp nhận súng hỏa mai từ khi chúng được đưa đến Nhật Bản vào năm 1543. Họ đã cải tiến súng trường Châu Âu và sản xuất hàng loạt để Nhật Bản vào năm 1600 có nhiều vũ khí nóng hơn mọi quốc gia Châu Âu. (Vào thời đó, một daimyo đơn lẻ của Nhật Bản cũng có thể kiêu hãnh về khẩu pháo lớn hơn của nữ hoàng Anh Quốc.)

Truyền thống quân phiệt của Nhật Bản có nguồn gốc sâu sa. Những cư dân đầu tiên của quần đảo (người Jomon, dường như đến thông qua Siberia) thiết lập một xã hội không đẳng cấp và hòa bình. Nhưng vào năm 400 trước công nguyên, người Yayoi đến, thông qua bán đảo Triều Tiên, mang theo văn hóa lúa nước, nghề luyện kim, cấu trúc đẳng cấp, quan niệm về nhà nước và văn hóa chiến tranh. Sau sự thống nhất Nhật Bản ban đầu, mà chúng ta có thể gọi là nhà nước “Yamato” (khoảng giữa năm 350 và 400), nhà nước mở rộng tới miền nam Kyushu và đông bắc Honshu bằng quân đội và tham gia vào chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên. Những ngôi mộ tưởng niệm (kofun) xuất hiện vào thời kỳ này có chứa những bức tượng nhỏ bằng sứ mô tả hình chiến binh mặc giáp cưỡi ngựa. 

Sự du nhập của đạo Phật, một hệ thống tín ngưỡng xa lánh cuộc sống, vào năm 538 có thể đã làm giảm nhẹ truyền thống quân phiệt. Mặc dù các cuộc nổi dậy vũ trang địa phương vẫn diễn ra thường xuyên, triều đình vương quốc đóng ở Heian (Kyoto) từ cuối thế kỷ thứ 8 đã phát triển đặc tính văn hóa tao nhã và yêu chuộng hòa bình, khá xa lạ với văn hóa của các chiến binh cha truyền con nối (samurai) tại các vùng hẻo lánh. Nhưng từ cuối thế kỷ 12, samurai đã trỗi dậy thành tầng lớp thống trị mới và tại vị cho đến khi tầng lớp này chính thức bị xóa bỏ vào những năm 1870. 

Quay trở lại Rome vào năm 1585, thật đáng trân trọng khi chào đón các chiến binh Thiên Chúa Giáo từ phía bên kia của thế giới, công khai ở St. Peter’s! Chuyến viếng thăm Vatican này đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc tình dai dẳng đau đớn Đông-Tây. Người Bồ Đào Nha, độc quyền thương mại của Châu Âu với Nhật Bản cho tới khi chiến thuyền Tây Ban Nha đóng ở thuộc địa mới Philippine cập bến muộn hơn, các samurai Nhật Bản tình nguyện chiến đấu chống lại người Malay tại thuộc địa Batavia ở Java (sau này mất về tay người Hà Lan). Người Tây Ban Nha thiện chiến thích samurai ngay từ cái nhìn đầu tiên, tuyển mộ họ làm lính đánh thuê cho các cuộc xâm lược ở Trung Quốc và dự định xâm lược Campuchia.

Cuối cùng, mối tình bắt đầu vỡ tan từng mảnh vào năm 1590, khi Toyotomi Hideyoshi, tư lệnh thống trị của Nhật Bản mới tái thống nhất, bắt đầu truy tố người Thiên Chúa Giáo và đe dọa người Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippine với một cuộc xâm lược. (Nực cười thay, những nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo đầu tiên tới Triều Tiên cùng với một đạo quân samurai lên đến hơn 200.000 vào năm 1592.)

Sau đó, shogun Tokugawa nắm quyền (từ năm 1600) tiêu diệt truyền giáo Catholic Rome mà Vatican cho rằng rất hứa hẹn. Nhật Bản trục xuất các thương nhân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha với lý do (chính xác) rằng những người này luôn tìm cách buôn lậu trong khi truyền giáo và giới hạn thương mại với phương tây bằng cách chỉ giao dịch với người Hà Lan. 

(Những người Hà Lan – thuộc phái Kháng Cách giữ đức tin cho bản thân – cho thấy rõ rằng họ không phải là Catholic và không quan tâm tới việc cải đạo. Họ đều cố gắng lấy lòng chủ nhà bằng cách giẫm đạp lên các bức tranh của Catholic Rome và thậm chí bắn đại bác vào các nông dân Thiên Chúa Giáo nổi loạn để đổi lấy việc được kinh doanh ở Nhật Bản.)

Nhưng sau đó – đáng ngạc nhiên – những người Nhật Bản “thiện chiến” tụt hậu trong một thế kỷ rưỡi nội chiến liên miên. Hideyoshi và những người kế nghiệp đã tước vũ khí của nông dân, gom kiếm và súng trường, dồn samurai (chiếm khoảng 7% dân số) vào các thành lũy – mỗi lãnh địa một thành lũy, có khoảng 260 thành lũy như vậy. 

Điều này dẫn đến thứ mà các nhà nhân học lịch sử gọi là “sự thuần hóa của samurai”, diễn ra trong suốt thế kỷ 17. Hòa bình được lập lại. Nhật Bản chỉ xâm lược một quốc gia duy nhất từ năm 1598 (kết thúc tạm thời chiến tranh Triều Tiên) và cuối thời kỳ Edo (Tokugawa) vào năm 1868. Đó là triều đình Ryukyu (hiện giờ là quận Okinawa của Nhật Bản), bị lãnh địa của Satsuma tấn công vào năm 1609 và bị buộc phải chấp nhận địa vị chư hầu.

Từ những năm 1630, người Nhật Bản bị cấm đi ra nước ngoài, ngoại trừ một số nhỏ được phép đến Triều Tiên hoặc phục vụ cho mục đích thương mại của triều đình Ryukyu. Không trở thành một quốc gia hiếu chiến, Nhật Bản đã buông vũ khí, tham gia vào hoạt động thương mại nhộn nhịp nhưng được kiểm soát cẩn thận với Trung Quốc, Triều Tiên, triều đình Ryukyu và Hà Lan. (Người Hà Lan là người phương tây duy nhất được cấp phép thương mại ở Nhật Bản cho đến năm 1859). Trong phạm vi đất nước, hòa bình nói chung được đảm bảo; không có các cuộc nổi loạn của daimyo chống lại các luật lệ của shogun và không có chiến tranh giữa các daimyo. Nhật Bản vẫn luôn có các cuộc nổi loạn của nông dân nổ ra ở địa phương, một số bị đàn áp bằng súng trường, nhưng không bao giờ có các cuộc nổi loạn của nông dân khắp cả nước như thế kỷ 16 ở Đức. 

Trong khi Châu Âu bị xé nát bởi cuộc Chiến Tranh 30 Năm (1618-1648) kinh hoàng, hoàng đế Tokugawa thống trị ở Nhật Bản. Tầng lớp chiến binh, không được hướng nghiệp nhiều như các nhóm chiến binh cha truyền con nối (bao gồm cả phụ nữ), đánh mất tính cách quân phiệt và bị chuyển hóa thành giới hành chính cầm bút khi đất nước đi vào thời kỳ hòa bình ổn định. Dưới những điều kiện đó, dân số tăng gấp đôi trong thế kỷ 17, sản xuất nông nghiệp tăng lên, các thành phố lớn xuất hiện và văn hóa thị dân nảy nở.

Điều đó tiếp tục diễn ra cho đến giữa thế kỷ 19 khi chiến hạm Hoa Kỳ tiến vào cảng Edo, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho thương mại của Hoa Kỳ. Chiến thuyền Anh, Hoa Kỳ và Nga đã xâm nhập bờ biển Nhật Bản trong nhiều thập kỷ, với cường độ gia tăng. Một số thành viên của tầng lớp samurai Nhật Bản đã kêu gọi đáp trả bằng vũ lực. 

Vào năm 1808 (trong thời kỳ chiến tranh Napoleon, đẩy Anh Quốc chống lại Hà Lan thân Pháp), một chiến thuyền Anh Quốc lẻn vào cảng Nagasaki với cờ Hà Lan. Thủy thủ đoàn của họ bắt cóc các thương nhân Hà Lan và bắn đại bác để dọa cư dân thành phố. Sau đó, chế độ shogun bị sốc đã ban hành sắc lệnh có tên “Đánh trả các thuyền nước ngoài không cần cần nhắc,” yêu cầu daimyo của các lãnh địa dọc bờ biển bắn vào các thuyền nước ngoài lạ mặt. 

Trước khi họ đến, chiến thuyền Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Matthew Pery đã từng xâm nhập vịnh Edo (Tokyo) vào năm 1853, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho kinh tế thế giới.

Nhận thức được tình hình, chế độ shogun khuất phục trước sức ép, đồng ý thiết lập “các cảng hiệp ước”. Nhưng những tổn thất kinh tế sinh ra khi Nhật Bản hội nhập vào kinh tế thế giới và sự mất uy tín của chính quyền đối với dân chúng đã dẫn đến cuộc đảo chính đẫm máu trong Chiến Tranh Boshin năm 1867-1869. 

Chế độ shogun bị lật đổ trong cuộc chiến này, tổn thất 8.000 sinh mạng. Một chế độ mới (được lãnh đạo, theo lý thuyết, bởi một hoàng đế thiếu niên) tập trung vào việc học hỏi từ phương tây đồng thời chống lại các sự xâm lược khác, được thiết lập. Thời kỳ này được gọi là Khôi Phục Meiji. 

Bất chấp gánh nặng là các hiệp ước bất bình đẳng mà Hoa Kỳ cùng với các đế quốc khác áp đặt, Nhật Bản đã nhanh chóng thoát khỏi hai thế kỷ tương đối cô lập để trở thành một quyền lực toàn cầu theo đúng nghĩa. Trong khi đẳng cấp samurai bị bãi bỏ vào những năm 1870, một hệ thống nghĩa vụ quân sự và chính sách quốc gia về “quốc gia giàu, quân đội mạnh” đảm bảo cho sự hồi sinh của truyền thống quân phiệt lâu đời. 

Vào khoảng năm 1873, chỉ 5 năm sau thời kỳ mới Meiji, các lãnh đạo (đều có nền tảng samurai) đã lên kế hoạch xâm lược nước láng giềng gần nhất, Triều Tiên, để buộc nước này chấp nhận các quan hệ ngoại giao và thương mại. Kế hoạch bị hủy bỏ (chủ yếu là do sự phản đối của phương tây). Nhưng ngoại giao chiến hạm của Nhật Bản mô phỏng theo các đế quốc phương tây đã buộc Triều Tiên phải khuất phục vào năm 1876.

Cũng trong thời kỳ đó, chính quyền mới của Nhật Bản đã gửi chiến thuyền đi Đài Loan, để trừng phạt các bộ lạc trên đảo về việc giết hại 54 ngư dân Nhật Bản và Ryukyu bị đắm tàu. Thanh triều của Trung Hoa tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo (cũng như Bắc Kinh hiện nay vẫn tiếp tục khẳng định rằng Đài Loan luôn luôn là một phần của Trung Hoa). Sau khi tàn sát nhiều người, Nhật Bản buộc Trung Hoa phải bồi thường và thừa nhận chủ quyền của Nhật Bản đối với vương quốc Ryukyu (Okinawa). 

Sao hàng loạt các can thiệp vũ trang ở Triều Tiên, quân đội Nhật Bản đụng độ với quân đội Trung Hoa ở Triều Tiên vào năm 1894. Sau khi quân đội Trung Hoa can thiệp vào quốc gia này (theo yêu cầu của hoàng đế Triều Tiên) để đàn áp một cuộc nổi loạn của nông dân, Nhật Bản cũng viện dẫn hiệp ước để gửi đưa quân đội đến. Sau một số đụng độ khiêu khích lẻ tẻ với người Trung Quốc, chiến tranh toàn diện nổ ra. Cuộc chiến bao trùm bán đảo Triều Tiên, miền nam Manchuria và Đài Loan. Nhật Bản chiến thắng đòi hỏi và nhận được Đài Loan cũng như bán đảo Liaodong ở Manchuria để bồi thường chiến phí. 

Nhưng can thiệp ngoại giao của Nga, Đức và Pháp đã ngăn cản Tokyo nuốt gọn Liaodong và tạo ra sự oán giận của Nhật Bản đối với Sa hoàng. Sự oán giận này tăng lên nhanh chóng sau khi Nga tự giành nhượng địa ở Liaodong ngay sau khi ngăn cản nỗ lực của Nhật Bản.

Vào năm 1900, khi cuộc nổi loạn nông dân Boxer chiếm các đại sứ quán nước ngoài ở Bắc Kinh, Nhật Bản tham gia cùng với các đế quốc phương tây đàn áp cuộc nổi dậy. Quân đội Nhật Bản là đồng minh Châu Á duy nhất trong lực lượng đa quốc gia, được các nước phương tây ca ngợi, đặc biệt là Anh Quốc, vì sự chuyên nghiệp. Đột ngột trở thành tình nhân của đế quốc Anh, Nhật Bản ký Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật vào năm 1902 – khi người Anh bãi bỏ các điều khoản nặng nề trong hiệp ước bất bình đẳng mà Anh đã ký với Nhật Bản vào những năm 1850.

Đột nhiên các trí thức Anh nói về sự tương đồng rõ ràng giữa hai quốc đảo – xã hội vương quyền, đẳng cấp, sự tao nhã của họ; những di sản hàng hải và phong kiến của họ; niềm tự hào về truyền thống quân phiệt của họ. Điều đó tạo ra ý nghĩa cho cả hai để liên minh, đặc biệt là trong mối lo ngại chung về sự mở rộng vai trò của Nga ở Châu Á.

Nga đã giành được các nhượng địa của Trung Quốc ở Liaodong sau khi ngăn cản Nhật Bản chiếm bán đảo này vào năm 1895. Nhật Bản tấn công vào năm 1904 và khi quân đội của họ tràn ngập Manchuria thì hải quân của họ phá hủy chiến hạm Baltic của Nga ở eo biển Tsushima trong năm tiếp theo. Nga buộc phải cầu hòa. Đó là thất bại cay đắng của Sa hoàng, chiến thắng đầu tiên của đế quốc Châu Á trước đế quốc Châu Âu trong thời hiện đại, dẫn đến niềm tự hào dân tộc ở Nhật Bản. Họ sáp nhập Triều Tiên (chính thức vào năm 1910) vào đế quốc Nhật Bản, cùng với phần đất của Nga ở Manchuria và nửa phía nam của đảo lớn Sakhalin.

Thế Chiến thứ I có vẻ ít liên quan đến Nhật Bản. Nhưng viện dẫn một điều khoản trong Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật, yêu cầu Nhật Bản tham chiến cùng với Anh khi nước Anh có chiến tranh với nước khác, Tokyo đã tấn công nhượng địa Shandong của Đức ở Trung Quốc, chiếm phần đất này cho bản thân đồng thời chiếm đóng luôn các tài sản của Đức ở Nam Thái Bình Dương, bao gồm cả quần đảo Samoa. Vào năm 1918, đế quốc Nhật Bản đã dùng quân đội chiếm đóng lãnh thổ từ cận Bắc Cực đến Polynesia. Tất cả đều diễn ra trong vòng nửa thế kỷ của thời kỳ Phục Hồi Meiji.

Một quốc gia rất hiếu chiến! Rất hung hãn. Nhưng cả người Anh và người Yankee đều trở nên bồn chồn. Cả hai đều muốn tự do tiếp cận thị trường Trung Hoa khổng lồ và Nhật Bản đã thể hiện sự thích thú được hành xử đúng như các đế quốc phương tây trong Thế Chiến thứ I. Nhật Bản áp đặt “21 Yêu Cầu” không thể chịu đựng nổi cho Trung Quốc, mà cả London và Washington đều can thiệp để giảm nhẹ. Anh Quốc cho phép mở rộng hiệp ước Anh-Nhật, tuyên bố rằng các hiệp ước đa phương hậu chiến như Hiệp Ước Hàng Hải Washington 1922 trái với nó là vô hiệu. 

Trong khi đó, chính quyền Nhật Bản, đáp lại các chính sách phân biệt chủng tộc chống người nhập cư Nhật Bản ở Hoa Kỳ và những nơi khác, cũng như để tạo ra Lebensraum [tiếng Đức: Không gian sống] ở bên ngoài biên giới cho dân số đang gia tăng của họ, theo đuổi phương thức mở rộng vương quốc ở đông bắc Châu Á.

Nhật Bản chiếm đóng toàn bộ Manchuria vào năm 1931 – dựa vào hoạt động quả cảm của các đơn vị quân đội phiêu lưu hơn là các chính sách có tính toán – sáp nhập nhà nước “Manchukuo” vào đế quốc. Sự cố Manchuria dẫn đến sự sụp đổ của Liên Đoàn Quốc Gia do đại diện Nhật Bản rút khỏi sau khi Liên Đoàn lên án hành động của Nhật Bản. Cuộc chiến toàn diện ở Trung Hoa diễn ra vào năm 1937, một cuộc chiến bí mật với Soviet về biên giới Manchuria-Mongolia dấy lên vào năm 1939. (Trong cuộc chiến biên giới, quân đội Nhật Bản có vẻ như bị đánh bại; Tokyo đồng ý ký hiệp ước không xâm lược với USSR hai năm sau đó.)

Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, bị kiềm chế bằng quan điểm chủ nghĩa biệt lập thông dụng, lên án sự xâm lược của Nhật Bản ở Trung Quốc, công bố “cấm vận đạo đức” đối với Nhật Bản, từng bước áp dụng thêm các trừng phạt thương mại. Sau khi Nhật Bản xâm nhập thuộc địa Việt Nam của Pháp vào năm 1940 (theo lý thuyết, thực hiện hiệp ước với chính quyền Pháp thời phát xít chiếm đóng), các trừng phạt của Hoa Kỳ được siết chặt. Hoa Kỳ phong tỏa tài sản của Nhật Bản tại ngân hàng Hoa Kỳ và cắt nguồn cung cấp dầu. 

Washington yêu cầu Tokyo rút quân khỏi Trung Quốc về vị trí trước chiến tranh ở miền bắc và rút khỏi Hiệp Định Ba Bên với Đức và Italia, như là điều kiện để khôi phục các quan hệ thương mại bình thường. Các lãnh đạo Nhật Bản, do Tojo Hideki dẫn đầu, kết luận rằng điều đó bất khả thi về mặt chính trị. (Công chúng đã bị tiêm nhiễm một dạng kích động hậu chiến thường lan truyền ở các nước tư bản đế quốc hiện đại. Bất cứ thông báo đầu hàng nào trước Hoa Kỳ cũng sẽ dẫn đến sự giận dữ lan rộng cùng với những hậu quả không thể lường trước.)

Giới lãnh đạo, chỉ với kho dự trữ dầu lửa cho một năm để phát động chiến tranh, đã lựa chọn một con đường khác: Chiếm các bãi khoan dầu của Hà Lan ở Đông Indonesia. Nhưng điều này đó có nghĩa là hạ đo ván các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và Anh ở Philippine, Hong Kong, Singapore, Malaya và Hawai’i. Điều đó được hoàn thành, thần tốc và hiệu quả. Vào tháng 12 năm 1941, thần chết đã được gọi lên.

Bốn năm sau, Tokyo và Osaka bị ném bom san phẳng, Hiroshima và Nagasaki bị bom nguyên tử biến thành thứ giống như bề mặt của mặt trăng. 

Giới lãnh đạo Nhật Bản không đầu hàng quân đồng minh vì bị ném bom nguyên tử. (Trên thực tế không kinh khủng hơn loại bom thông thường đã thiêu cháy 100.000 người ở Tokyo vào ngày 9 tháng 3 năm 1945.) Sự tham chiến của Liên Bang Soviet (trước đó là trung lập) vào ngày 8 tháng 8 năm 1941, viễn cảnh quân Soviet đóng ở phía bắc, phân chia đất nước và khả năng một cuộc cách mạng cộng sản nổ ra đã cho lãnh đạo Nhật Bản thấy rằng đầu hàng Hoa Kỳ là lựa chọn tốt nhất. Khi bị quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng, người dân Nhật Bản bị buộc phải chấp nhận hiến pháp mới (vào năm 1947) do nước ngoài soạn thảo, rời bỏ văn hóa quân phiệt lịch sử lâu đời đã được mô tả ở phía trên.

Và như vậy một thời đại mới bắt đầu.

* * *

Điều 9 của hiến pháp Nhật Bản rất rõ ràng: “Khát khao chính đáng đối với hòa bình quốc tế dựa trên công lý và trật tự, người dân Nhật Bản vĩnh viễn rút khỏi chiến tranh như là chủ quyền của quốc gia cũng như đe dọa hay sử dụng bạo lực để làm phương tiện giải quyết các tranh chấp quốc tế.

“Để thực hiện mục tiêu của đoạn nêu trên, bộ binh, hải quân và không quân cũng như các tiềm năng chiến tranh khác, sẽ không bao giờ được duy trì. Quyền tham chiến của nhà nước sẽ không được thừa nhận.” 

Nghịch lý thay, hiến pháp được nước ngoài soạn thảo này đã – đặc biệt là điều khoản này – trở thành tài sản quốc gia mà hàng triệu người Nhật bảo vệ kiên quyết. Không có ai chống lại việc bổ sung vào hiến pháp kiên quyết hơn những người cộng sản Nhật Bản. 

Nhưng bản thân các lãnh đạo Hoa Kỳ đã áp đặt hiến pháp “hòa bình” cho Nhật Bản lại bắt đầu thay đổi suy nghĩ ngay sau khi nó được quốc hội phê chuẩn. Mục tiêu của người chiếm đóng vào năm 1947 là tước vũ khí Nhật Bản vĩnh viễn, nếu không nói là biến nước công nghiệp này thành một nước nông nghiệp lạc hậu. Trung Hoa có triển vọng trở thành đồng minh lớn nhất của Hoa Kỳ ở Đông Á, căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và thị trường không giới hạn cho hàng hóa của Hoa Kỳ.

Tuy vậy, cuộc cách mạng cộng sản đã đảo lộn kế hoạch đó. Sau năm 1949, khi chính khách Washington băn khoăn “ai mất Trung Hoa?”, họ định nghĩa lại vai trò của Nhật Bản như là đồng minh tái thiết mới. 

Cùng với sự bùng nổ của chiến tranh Triều Tiên vào năm 1959, Hoa Kỳ thúc ép thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru gửi quân tới tham chiến để thể hiện nỗ lực chống lại cộng sản phương Bắc của Liên Hiệp Quốc. Yoshida trả lời thẳng thừng rằng điều đó không khả thi theo hiến pháp Nhật Bản (do Hoa Kỳ soạn thảo). (Yoshida là một người chống cộng sản cứng rắn, đó là lý do khiến chính quyền chiếm đóng thích ông ta, nhưng ông ta không muốn dùng các nguồn lực hiếm hoi cho việc tái quân sự hóa vào lúc đó.)

Như đã diễn ra, công nghiệp Nhật Bản đóng góp lớn vào các nỗ lực chiến tranh, nước Nhật thời hậu chiến phục hồi là nhờ vào “sự thu mua đặc biệt” của Hoa Kỳ (các chi tiêu liên quan đến chiến tranh ở Nhật Bản). Yoshida gọi điều đó là “món quà tặng của chúa”. Vào năm 1948, GDP của Nhật Bản chỉ bằng 55% của năm 1936; vào năm 1953 là 155%. Không phải “viện trợ chung” của Hoa Kỳ mà là chi tiêu chiến tranh của Hoa Kỳ đã tạo ra sự hồi phục hậu chiến của Nhật Bản.

Dưới sức ép của Hoa Kỳ, Tokyo tạo ra một mầm mống của cỗ máy chiến tranh vào năm 1950: “Dự bị cảnh sát quốc gia” với 75.000 người. Con số này tăng lên 110.000 người vào năm 1952, sau khi kết thúc thời kỳ chiếm đóng. Vào cùng ngày Nhật Bản nhận lại chủ quyền (ngày 28 tháng 4 năm 1952), Tokyo ký một “hiệp ước an ninh” với Hoa Kỳ để hợp pháp hóa sự tiếp tục hiện diện của mười ngàn lính Hoa Kỳ (được phép là đàn áp mọi nổi loạn nội địa). Vào tháng 7 năm 1954, “cảnh sát” được tái lập thành “Lực Lượng Phòng Vệ” đất, biển và không. Hiện nay, quân số của họ vào khoảng 250.000 người.

Cục Phòng Vệ Nhật Bản được thiết lập vào năm 1954 – nhưng không phải như là quân đội, hãy nhớ! Chỉ là “lực lượng phòng vệ”. Ít nhất đó là luồng chính thống. Nhưng liệu “lực lượng đất, biển, không, cũng như các tiềm năng chiếng tran khác” có vi phạm hiến pháp? Để đáp lại các nỗ lực không ngừng của nhiều nhóm dân chúng lên án điều đó, Tòa Án Tối Cao Nhật Bản (dưới sức ép bằng văn bản của Hoa Kỳ) đã tuyên bố rằng quyết định về tính hợp pháp phụ thuộc vào quyết định của quốc hội và nằm ngoài phạm vi quyền lực của họ. 

Từng bước một, các bộ phận trong Đảng Dân Chủ Tự Do (LPD, được thiết lập với sự đỡ đầu của CIA vào năm 1955, và nắm quyền lực từ đó cho đến nay, chỉ có một số ngắt quãng nhỏ vào năm 1993-4 và 2009-12) đã vận động để xóa bỏ điều 9 cũng như tái lập Nhật Bản như là “quốc gia bình thường” với quân đội thông thường, hợp pháp, giống như các nước đế quốc khác vẫn triển khai.

Nhưng người dân Nhật Bản không đồng tình với chương trình đó. Các cuộc biểu tình địa phương và toàn quốc phản đối căn cứ Hoa Kỳ ở Uchinada, quận Ishikawa, vào những năm 1950 (quân đội Hoa Kỳ được huấn luyện ở đây trước khi đến Triều Tiên tham chiến) đã buộc căn cứ phải đóng cửa vào năm 1957. Các cuộc biểu tình tại căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở Tokyo vào năm 1957 dẫn đến vụ bắt giữ 7 người vì tội vượt qua ranh giới. Họ được toà chung thẩm Tokyo tuyên án vô tội dựa trên lý do sự tồn tại của căn cứ là vi hiến. (Tòa Án Tối Cao bác bỏ quyết định của tòa cấp thấp hơn sau khi chánh án trao đổi với đại sứ Hoa Kỳ.)

Vụ nhiễm xạ của 23 ngư dân Nhật Bản, một người bị chết, do Hoa Kỳ thử vũ khí hạt nhân ở quần đảo Marshall vào năm 1954, đã thúc đẩy phong trào chống vũ khí hạt nhân và chống quân phiệt của Nhật Bản. Khi thủ tướng Kishi Nobuosuke tìm cách thúc đẩy một đạo luật ở quốc hội để tiếp tục Hiệp Ước An Ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản vào năm 1960, hơn bảy triệu người đã tuần hành phản đối. Ý kiến công chúng hầu hết là phản đối hiệp ước an ninh.

Nhưng Kishi đã thông qua đạo luật vào giờ sớm buổi sáng, sau khi đuổi các nghị sĩ đối lập. Sự giận dữ của công chúng lớn đến mức Tokyo phải thông báo với tổng thống Dwight Eisenhower, định đến thăm Nhật Bản để ký hiệp ước, rằng lực lượng an ninh Nhật Bản không thể đảm bản an toàn cho ông.

Vị thủ tướng này từng bị quân đồng minh bắt giữ và giam ở nhà tù Sugamo với cáo buộc tội ác chiến tranh loại A. Ông ta trở thành bộ trưởng bộ quân khí dưới thời thủ tướng Tojo Hideki và là đồng minh thân cận nhất của Tojo. Ông ta đã phát biểu ủng hộ cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng. Ông ta tham gia tích cực vào việc bắt hàng trăm ngàn người Trung Quốc và Triều Tiên làm nô lệ trong các hầm mỏ và nhà máy trong thời kỳ chiến tranh. Ông ta thoát khỏi truy tố nhờ sự can thiệp của “Hội Đồng Hoa Kỳ về Nhật Bản” chống cộng sản, họ cảm thấy rằng ông ta sẽ có ảnh hưởng tới chính trị Nhật Bản theo hướng “thân Mỹ”. 

Kishi Nobusuke cũng là ông của thủ tướng Nhật Bản đương nhiệm, Abe Shinzo. Abe, cũng hiếu chiến như ông của mình, mới đây tuyên bố (trong lễ kỷ niệm kết thúc Thế Chiến thứ II) rằng người Nhật không nên tiếp tục hối lỗi về quá khứ.

Trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam, quan điểm công chúng Nhật Bản hầu như là chống chiến tranh và phê phán chủ nghĩa phát xít đứng đằng sau cuộc chiến. Nhưng một lần nữa, công nghiệp Nhật Bản hưởng lợi khổng lồ từ các hợp đồng liên quan đến chiến tranh. Kinh tế Nhật Bản đã nhảy vọt và bùng nổ vào những năm 1960, vượt qua Tây Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào năm 1970. Mặc dù Nhật Bản tạo ra Cánh Tả Mới đầy sinh lực so với Hoa Kỳ và Châu Âu, nhưng người dân không thể tách đất nước khỏi liên minh với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ.

Trong suốt lịch sử, lực lượng cánh hữu vận động để xóa bỏ điều 9 và đưa Nhật Bản quay trở lại con đường lịch sử của chủ nghĩa quân phiệt vinh quang. Bộ giáo dục, đặc trưng với sự điều hành của các chính khách LPD phản động và ngu dân nhất (như Fujio Masayukio, vào năm 1986 đã gọi cuộc thảm sát Nam Kinh là một ngụy tạo và tuyên bố Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên là theo yêu cầu của Triều Tiên), đã từng bước khôi phục nội dung quốc gia chủ nghĩa trong phần “giáo dục đạo đức” bắt buộc của chương trình trung học; buộc các trường học phải treo cờ mặt trời và buộc các khoa và sinh viên phải hát quốc ca đế quốc; chấp nhận cho các trường công sử dụng sách giáo khoa lịch sử tô vẽ hoặc thanh minh cho các tội ác chiến tranh của Nhật Bản. 

Trong khi đó, văn phòng thủ tướng thường xuyên thử nghiệm giới hạn của việc diễn giải lại điều 9. Vào năm 1981, thủ tướng Suzuki Zenko đã khơi lên một cơn bão chỉ trích khi ông ta đề xuất rằng Lực Lượng Phòng Vệ Biển được phép bảo vệ vận chuyển của Nhật Bản trong phạm vi 1.000 hải lý quanh Nhật Bản. Hai năm sau, thủ tướng Nakasone Yasuhiro (bạn tinh thần của những người cùng thời như Ronald Reagan, Margaret Thatcher và Helmut Kohl) khơi dậy một làn sóng chỉ trích khác khi ông ta cho phép ngân sách quân đội (“phòng vệ”) vượt qua giới hạn 1% GDP truyền thống – chỉ để thử giới hạn và xem công chúng phản ứng ra sao. Ông ta cũng gây ra sự giận dữ khi khẳng định quốc hội Hoa Kỳ mô tả Nhật Bản là “tàu sân bay không thể bị đánh chìm trên Thái Bình Dương” đang phục vụ cho nhu cầu của Hoa Kỳ.

Trong chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, Tokyo (cần thiết) phải từ chối gửi quân đến mặt trận. Điều này đã khiến các nghị sĩ Hoa Kỳ thiếu trải đời tức giận về vấn đề hiến pháp, phàn nàn rằng người Nhật Bản nhận được dầu mỏ giá rẻ ở Trung Đông là do hoạt dộng quân sự của Hoa Kỳ đảm bảo. Một số thậm chí còn đe dọa rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Nhật Bản (chi phí duy trì của họ cho tới nay vẫn do người đóng thuế Nhật Bản thanh toán) nếu Nhật Bản không tham gia vào tấn công Saddam Hussein. (Một thành viên cao cấp của Lực Lượng Phòng Vệ trong một dịp thẳng thắn công khai hiếm hoi đã tuyên bố rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút quân, người Nhật Bản sẽ nói tạm biệt; trên hết, người Nhật Bản chưa bao giờ nhất mực yêu cầu sự có mặt của họ.) 

Cuối cùng Tokyo trả cho Hoa Kỳ 13 tỷ dollar để đóng góp vào nỗ lực chiến tranh, nhằm buộc quân đội Iraq rời khỏi Iraq. (Arab tuyên bố đóng gớp cho Washington 36 tỷ dollar, trong khi Đức chi 5 tỷ dollar). Các lãnh đạo LDP coi điều này là đáng xấu hổ; “ngoại giao sổ séc,” họ tuyên bố, phải được thay thế bằng những dấu giày thực sự trên mặt đất. 

Vào năm 1992, quốc hội thông qua một đạo luật cho phép Lực Lượng Phòng Vệ triển khai trong “các chiến dịch gìn giữ hòa bình” (PKO) của Liên Hiệp Quốc cùng với các lực lượng quốc tế khác. Đó là bước khởi đầu quan trọng, một liệu pháp tâm lý. Kể từ đó SDF thực hiện các nghĩa vụ ở Campuchia, Mozambique, Đông Timor, Cao Nguyên Golan, Haiti và Nam Sudan.

Bước tự nhiên tiếp theo trong chiến dịch tái vũ trang là gửi tàu chở dầu và tàu khu trục tới bờ biển Pakistan vào cuối năm 2001 để hỗ trợ Hoa Kỳ trong chiến tranh Afghanistan. (Vùng biển này dĩ nhiên là nằm ngoài phạm vi 1.000 hải lý giới hạn cho hoạt động của SDF mà Suzuki Zenko đề xuất). Đây là một nhiệm vụ đầy tai tiếng, kết thúc theo lời hứa tranh cử của thủ tướng mới đắc cử Hatoyama Yukio vào năm 2009.

Nhật Bản trong vai trò là quốc gia chư hầu của Hoa Kỳ không bao giờ thể hiện quan điểm khác biệt cứng rắn với Washington về bất cứ vấn đề quốc tế nào. (Ít nhất thì họ cũng khác với Washington như Warsaw khác với Moscow). Họ tuân thủ hoàn toàn. Vào năm 2003, khi tổng thống George W. Bush bắt đầu dối trá để chống lại Iraq, thủ tướng Koizumi Junichiro (không giống với các lãnh đạo Đức và Pháp) đã tuyên bố hoàn toàn ủng hộ và đóng góp 600 quân cho nỗ lực của Bush.

Đây là sự đột phá chủ yếu của phe quân phiệt Nhật Bản. Dĩ nhiên, quân lực Nhật Bản không được tham chiến, do bị ràng buộc bởi điều 9. Nhưng họ có thể xây dựng một pháo đài ở Samawa, miền nam Iraq, được cung cấp các tiện nghi gia đình như karaoke bar, cửa hiệu massage, từ đó họ có thể mạo hiểm ra ngoài mỗi sáng sớm – với sự hộ tống của quân đội Hà Lan được phép giết người - để làm các công việc “nhân đạo” như lọc nước và làm đường. (Như thể là người Iraq không tự làm được.) Hai phần ba số người Nhật Bản được hỏi đã phản đối nhiệm vụ đó, nhiều người hiểu rõ ràng điều đó có nghĩa là gì: chỉ là một bước tiếp theo để vi phạm điều 9 và bình thường hóa việc triển khai quân đội trên phương diện quốc tế.

Người kế nhiệm Koizumi là Abe Shinzo – một lần nữa, đứa cháu đáng tự hào của Kishi Nobusuke đã được nhắc đến phía trên – tái định hình thiết chế quân sự để thiết lập Bộ Quốc Phòng có trụ sở ở Shinjuku của Tokyo. Người đứng đầu Bộ Quốc Phòng hiện giờ đang tham gia nội các. Vào năm 2009, trong khi một người hiếu chiến khác, Aso Taro, tái lập nhiệm vụ tiếp liệu trên Ấn Độ Dương để cho phép SDF biển gửi các tàu khu trục tới bờ biển Somali để bảo vệ không chỉ người Nhật Bản mà cả những người khác khỏi cướp biển. Kể từ đó, các thủy thủ Nhật Bản đã đóng quân tại Djibouti ở vùng Sừng của Châu Phi – cách quê nhà rất xa.

Gần tổ quốc hơn là một số đảo đá không người ở trên Biển Đông Trung Hoa, mà người Trung Hoa đã đến đó trong hơn sáu trăm năm gọi là Daioyutai. Tên Nhật Bản, được tạo ra vào những năm 1870, là Sensaku. Bất kì ai sở hữu chúng cũng sẽ sở hữu ngư trường và nguồn dầu lửa có diện tích 21.000 dặm vuông, nên chúng không phải là không quan trọng. Trung Hoa (cũng như Đài Loan) khẳng định chủ quyền dựa trên các cơ sở lịch sử chắc chắn. Tokyo khẳng định chủ quyền dựa trên cơ sở những gì họ khẳng định – rất phi lý – là được thừa nhận bằng cơ sở pháp lý quốc tế.

* * *

Nhưng (một lần nữa) sự khinh thường của chính quyền Nhật Bản đối với hiến pháp Nhật Bản khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi “luật pháp” có liên quan gì ở đây? 

Tokyo nói rằng khi họ tuyên bố quyền sở hữu đối với bốn đảo đá trên Biển Đông Trung Hoa (không có người Nhật Bản nào biết cho đến trong khi vào thế kỷ 15 người Trung Hoa vẽ bản đồ, đến thăm và đặt tên cho chúng) vào năm 1895 thì chúng không có dân cư, do đó bất cứ ai cũng có thể chiếm lấy. Chúng thuộc về khái niệm pháp lý phương tây “terra nullius” hay đảo không người ở. Bất kể là nhà địa lý vĩ đại nhất của Nhật Bản, Hayashi Shihei, đã vẽ một bản đồ toàn diện vào năm 1785 cho thấy những đảo đó thuộc Trung Hoa. Bất kể là ngoại trưởng Nhật Bản, Inoue Kaoru, đã từ chối lời yêu cầu sáp nhập của chính quyền Okinawa vào năm 1885 dựa trên cơ sở là những đảo này thuộc về Trung Hoa.

Tất cả vấn đề là khi Nhật Bản đang lên đánh bại Trung Hoa vào năm 1895 và gây ấn tượng với các đế quốc phương tây, tuyên bố quyền sở hữu với những hòn đảo đó trong thời kỳ chiến tranh (trước khi chiếm Đài Loan sát đó làm thuộc địa), các đế quốc thực dân đã chấp nhận đòi hỏi của Nhật Bản. Thật hợp pháp làm sao! Kể từ khi Nhật Bản có “luật pháp” ở phe mình. Thế thì lịch sử nào liên quan đến điều đó? (Nghiêm túc mà nói, tôi được nghe một nhà ngoại giao Nhật Bản đặt nó đúng vào khái niệm này)

Nhưng tranh chấp về những hòn đảo này thực tế phức tạp hơn, ngay cả từ quan điểm pháp lý. Trong Tuyên Bố Cairo năm 1943, phe thắng trận gồm Roosevelt, Churchill và Chiang Kai-shek đã tuyên bố rằng, sau khi đầu hàng vô điều kiện, “Nhật Bản phải trả lại tất cả các lãnh thổ đã cướp đoạt của người Trung Quốc, như Manchuria, Formosa và Pescadores, tất cả phải được trao trả cho nước cộng hòa Trung Hoa.” Yêu cầu này được Truman, Churchill và Stalin nhắc lại ở Potsdam. Khi bại trận, Tokyo bị buộc phải từ bỏ những tài sản đó. 

Nhưng tình trạng của Diaoyutai/Senkaku vẫn không rõ ràng. Chúng liên quan đến khu vực chiếm đóng ở Ryukyu của Hoa Kỳ, tách biệt với khu vực tạo thành đất liền của Nhật Bản. (Kể từ khi Nhật Bản sáp nhập Ryukyu vào những năm 1870, chính quyền khu vực chiếm đóng không chắc chắn hoặc không biết phải đối xử với chúng như là một phần của Nhật Bản hay là quốc gia độc lập tiềm tàng.) Vào năm 1945, Hoa Kỳ có thể giao lại các đảo có tranh chấp cho Trung Hoa một cách đơn giản, khi mặt trận thống nhất giữa Guomindang của Chiang Kai-shek và những người cộng sản còn lãnh đạo Trung Hoa. Trái lại, họ giữ lại chúng trong phạm vi quận Okinawa.

Vào năm 1972, Hoa Kỳ “trao trả” quần đảo Ryukyu cho Nhật Bản (trong khi vẫn giữ lại, thực tế là đòi hỏi, quyền đóng 25.000 quân tại các căn cứ quân sự trên đảo Okinawa). Các đảo Diaoyutai cũng được trả lại cùng với Ryukyu và hiện giờ Tokyo tính toán rằng nếu nổ ra tranh chấp đảo với Bắc Kinh, Hoa Kỳ sẽ đứng về phía họ. Sau một số rào đón, Hoa Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng hiệp ước an ninh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản bao gồm cả những đảo có tranh chấp.

Đây là thắng lợi chủ chốt cho cháu của Kishi Nobushuke. Khi ông ta dẫn dắt Nhật Bản đến vị trí của đế quốc toàn cầu “bình thường” có thể bắt nạt các quốc gia khác giống như Hoa Kỳ vẫn làm – có thể mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản khắp Đại Đông Á (không hối lỗi) – ông ta có thể dựa vào những người Yankee. Ông ta khôi phục vị thế quốc gia da trắng, văn minh của Nhật Bản. Ông ta khuyến khích nguồn gốc thiện chiến. Mọi thứ đều đang theo lộ trình, giống như trước khi có những thập kỷ hòa bình phiền nhiễu. 

Nhưng vào lúc này, “những người có văn hóa và thiện chiến” đang đứng chông chênh trên nỗ lực “xoay trục” hướng sang Đông Á và Biển Đông Trung Hoa, để đối đầu với Trung Hoa đang lên như vũ bão, của đế quốc Hoa Kỳ. Trung Hoa tiến hành một cách hợp lý trong việc đòi hỏi chủ quyền, lãnh thổ và các vấn đề khác. Trái lại, cháu của Kishi là kẻ nóng đầu, có quan điểm phục hồi quân phiệt – móc nối với cánh hữu băng đảng-tân phát xít, luôn luôn là những kẻ quá khích của chính trị Nhật – có thể tạo ra những điều rất xấu xa, sẽ sớm thôi.

Việc chính quyền Nhật Bản mua lại các đảo Daioyu/Sensaku từ các chủ sở hữu tư nhân vào tháng 12 năm 2012 (bị Washington phản đối là sự khiêu khích không cần thiết đối với Trung Quốc) có thể được coi là khởi đầu cho một giai đoạn đối đầu mới. 

Kịch bản khôi phục là rất rõ ràng. Từng bước một, phe quân phiệt giành lấy ảnh hưởng ở Nhật Bản. Họ đã giành được thắng lợi lớn trong tuần qua. Hiến pháp Nhật Bản năm 1947 không còn ý nghĩa gì hết. Hachiman (thần chiến tranh) đang mỉm cười. Trở lại bình thường, sự bình thường của hai thiên niên kỷ. Samurai quay trở lại trên yên ngựa, thẳng tiến tới chiến trường, với sao và vạch dưới lá cờ mặt trời của đế quốc đang tung bay.

* * *

Trong tuần qua, hơn một trăm ngàn người Nhật đã biểu tình bên ngoài quốc hội khi LPD và các đối tác của họ thông qua luật ủng hộ chiến tranh. Họ cần sự đoàn kết quốc tế. Bài báo này là một sự đóng góp nhỏ cho điều đó.

Gary Leupp is Professor of History at Tufts University, and holds a secondary appointment in the Department of Religion. He is the author of Servants, Shophands and Laborers in in the Cities of Tokugawa Japan; Male Colors: The Construction of Homosexuality in Tokugawa Japan; and Interracial Intimacy in Japan: Western Men and Japanese Women, 1543-1900. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion, (AK Press). He can be reached at: gleupp@tufts.edu