Dưới đây là ví dụ về một kiến thức vừa mang tính liên thời
đại vừa mang tính liên giai cấp: khái niệm thời gian.170 Nhận thức về
thời gian của chúng ta bị quy định bởi loại hình xã hội mà chúng sống trong đó.
Khái niệm về thời gian của những xã hội trước đây là tuần hoàn – có nghĩa là được
gắn liền với các vòng tuần hoàn của tự nhiên, như sự kế tiếp của ngày, mùa và
năm – cụ thể và định tính, được gắn liền với công việc cụ thể được gán cho những
phần khác nhau trong một ngày. Cho dù được tạo thành từ thợ săn hay thợ cày,
các xã hội đó cũng được gắn chặt với các sự kiện cụ thể lặp đi lặp lại. Trong
khi các xã hội săn bắn được điều chỉnh bởi các sự kiện sinh thái thì các xã hội
nông nghiệp tính toán thời gian dựa vào việc quan sát vị trí của các hành tinh
và các ngôi sao. Nếu khái niệm đồng hồ tồn tại thì tự nhiên chính là đồng hồ của
họ.171 Trái lại, trong chủ nghĩa tư bản, thời gian trở thành tuyến
tính – có nghĩa là đi từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, mà tương lai không
phải là sự lặp lại của quá khứ, cứ như thể là đi theo một đường thẳng – và trừu
tượng, có nghĩa là định lượng bởi vì các khoảng thời gian không còn gắn liền với
những hoạt động cụ thể: mọi hoạt động đều có thể thực hiện trong bất cứ khoảng
thời gian nào.172 Do đó, thời gian dần dần được chia thành những đoạn
nhỏ. Chỉ trong khái niệm thời gian đó thì khái niệm tiến bộ mới có thể xuất hiện,
đó là điều không thể tưởng tượng được trong các tôn giáo truyền thống và thế giới
quan tin vào sự lặp lại theo chu kỳ của lịch sử. Tương lai không còn cố định
trong sự phát triển và lặp lại của quá khứ, trái lại là bỏ ngỏ.
Dấu hiệu quan trọng trong sự xuất hiện khái niệm mới về thời
gian là đồng hồ. Đồng hồ chia thời gian thành giờ, phút và giây. Đồng hồ cơ khí
được dòng tu Benedictine áp dụng vào thế kỷ thứ bảy sau Công Nguyên. Dòng tu
Benedictine khác với các dòng tu khác ở chỗ họ cầu nguyện và thực hiện các công
việc tín ngưỡng suốt ngày. Thời gian là khan hiếm và không thể lãng phí. Thời
gian cho việc cầu nguyện, thời gian cho việc ăn uống, thời gian để tắm giặt, thời
gian để làm việc và thời gian để ngủ. Dòng tu Benedictine dùng giờ làm đơn vị
thời gian (xã hội thời trung cổ hiếm khi sử dụng đơn vị giờ). Mọi hoạt động đều
được gắn với một giờ cụ thể. Ví dụ, bốn giờ đầu tiên của ngày là dành cho các hoạt
động thiết yếu. Bốn giờ tiếp theo để đọc kinh, và cứ tiếp tục như vậy. Điều này
có thể coi như là khái niệm hiện đại về thời gian đã xuất hiện ở dòng tu
Benedictine. Nhưng các giờ trong ngày vẫn là thời gian cụ thể: mỗi giờ được sử
dụng cho một hoạt động cụ thể. Trong chủ nghĩa tư bản thì điều đó sẽ trở thành
phi lý, người ta không thể nào hình dung được các hoạt động gắn với một giờ cụ
thể: thời gian trở thành trừu tượng.
Đồng hồ ra đời trong hoàn cảnh đó. Nó mang lại nhịp điệu cơ
giới cho đời sống thường nhật, do vậy nó được sử dụng trong chủ nghĩa tư bản
sau này, khi nhịp điệu cơ giới bắt đầu định hình công việc và đời sống thường
nhật của con người. Khái niệm lao động trừu tượng của Marx, một ý tưởng xuất hiện
trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, là sự hao phí năng lượng của con người bất kể
là loại lao động nào được thực hiện, tìm thấy chỗ trú ẩn trong khái niệm thời
gian trừu tượng. Không phải ngẫu nhiên mà đồng hồ đạt được sự ổn định và tính
chính xác chỉ sau khi Galileo phát hiện ra chuyển động con lắc vào năm 1649,
Huygens ứng dụng chuyển động con lắc cho đồng hồ vào năm 1656. Phút và giây trở
thành cảm nhận thường nhật khi chúng xuất hiện trên mặt đồng hồ. Nội dung xã hội
của khái niệm thời gian và đồng hồ, vai trò của chúng đối với tái sản xuất của
kinh tế tư bản và xã hội, đã được thể hiện rõ. Giờ đây, các hoạt động thương mại
và công nghiệp phức tạp được tổ chức một cách sinh lợi dựa vào việc tái cấu
trúc lại ngày theo các đơn vị thời gian trừu tượng, bất kể là hoạt động gì, đều có thể được
nhồi nhét vào trong một đơn vị thời gian nhỏ dần, cũng giống như tiền. Thời
gian trở thành tiền bạc. Kinh tế cũng trở thành kinh tế về thời gian. Cuộc sống
của con người và bắt đầu với cuộc sống của người lao động, bị thống trị bởi nhịp
điệu của đồng hồ cơ học và sau đó là máy móc, nhịp điệu của chúng cũng đều đặn
như đồng hồ. Các khái niệm sinh thái học và vũ trụ về thời gian bị thay thế bằng
tiếng tích tắc trống rỗng của đồng hồ.
Dẫu sao khái niệm thời gian này còn có thể hình dung được.
Máy tính đưa ra một đơn vị thời gian mà con người không còn hình dung được nữa,
nanosecond, một phần tỷ của một giây. Khái niệm về thời gian đó vượt qua khỏi
kinh nghiệm của con người và chỉ có máy móc ‘nhận thức’ và đếm được. Như đã nói
ở trên, nội dung xã hội của khái niệm này được thể hiện bằng việc áp dụng ý tưởng
mới về sự hoàn hảo, người giống như máy hoặc máy giống như người có khả năng nhận
thức thời gian như máy tính. Tất cả những phần còn lại của đời sống con người bị
tiêu chuẩn hóa, bần cùng hóa, dễ dàng thao túng bằng kỹ thuật gen và hoàn toàn
phục tùng tư bản. Đó là khuynh hướng nội tại của khoa học tự nhiên và kỹ thuật
hiện nay. Ngay cả nơi trú ẩn cuối cùng của khái niệm thời gian tuần hoàn, chiếc
đống hồ có hai kim và hoàn tất chu kỳ sau mỗi 12h, cũng bị thay thế bằng đồng hồ
kỹ thuật số và đồng hồ đeo tay, trên đó thời gian chỉ là con số. Mọi sự liên hệ
với quá khứ và tương lai đều bị xóa sạch trong đồng hồ kỹ thuật số. Chỉ có hiện
tại là tồn tại. Đồng thời, tiếng tích tắc của đồng hồ cơ khí cũng bị thay thế bằng
đồng hồ điện tử. Như Rifkins đã bình luận chính xác, đồng hồ kỹ thuật số là ẩn
dụ về một xã hội mà trong đó quá khứ cũng như tương lai đều chỉ là chức năng của
hiện tại: quá khứ là một tập hợp thông tin có thể truy xuất lại trong ngân hàng
dữ liệu và tương lai chỉ là một trong số các sự kết hợp khả thi của những đơn vị
thông tin đó. Tương lai không phải là sự hiện thực hóa của những tiềm năng đang
trú ẩn trong thực tại đã diễn ra mà chỉ là sự tái kết hợp những thành
phần của thực tại đã diễn ra. Vũ trụ không còn được coi là một chiếc
đồng hồ vĩ đại, theo truyền thống Newton, mà được nhiều nhà khoa học coi là một
dạng hệ thống thông tin tự hành khổng lồ, một dạng máy tính khổng lồ. Cuộc sống
được coi là mã hóa của của hàng tỷ đơn vị thông tin, có thể tái cấu trúc tùy ý
cho mục đích tạo ra dạng sống mới. Đó là nguồn gốc văn hóa của kỹ thuật gen.
Do vậy, nhờ vào những mâu thuẫn nội tại của hiện tượng xã hội,
khai niệm thời gian có thể được kết hợp vào khái niệm hóa mang tính chức năng
cho cả sự thống trị của tư bản cũng như sự phản kháng. Ngay cả trong trường hợp
sau thì sự phản kháng cũng phụ thuộc vào khái niệm thời gian mang tính chức năng
đối với sự liên tục của sự thống trị. Lao động bị buộc phải sử dụng khái niệm
thời gian này để chống lại sự thống trị của tư bản, nhưng đồng thời, nó cũng sử
dụng khái niệm do tư bản quy định và có nội dung giai cấp ủng hộ tư bản, do vậy,
đồng thời vừa tái sản xuất vừa thay thế sự thống trị của tư bản đối với lao động.
170 Much of what follows on this point has been received
from Rifkin 1989.
171 Rifkin 1989, pp. 64–5.
172 It has been argued that the notion of concrete time is
abstract too, because it is the result of human abstraction. This is trivially
true. But concrete vs. abstract here refers to time to be spent for specific
activities versus time which can be spent on any activity.
( Phía trên là bản dịch từ trang 264-267, đoạn trích bàn về khái niệm thời gian của chủ nghĩa tư bản, trong cuốn sách "Behind the Crisis" của G. Carchedi.)