Hàn Quốc đã tạo ra điều kỳ diệu sông Hàn nhờ lợi nhuận
khổng lồ của việc tham gia Chiến Tranh Việt Nam. Sau khi chiến tranh kết thúc,
chính quyền Hàn Quốc đã kiểm duyệt chủ đề sự tham chiến của Hàn Quốc tại Việt
Nam trong nhiều năm và thành công trong việc dựng lên một hình ảnh xuyên tạc về
chiến tranh Việt Nam trong trí óc người dân. Trong hình ảnh xuyên tạc đó, họ chỉ
là lính đánh thuê cho Hoa Kỳ để kiếm tiền và không phải chịu trách nhiệm về những
tội lỗi đã gây ra. Việc lảng tránh trách nhiệm được thực hiện bằng cách khai
thác khía cạnh đau khổ của người Hàn để chứng tỏ rằng họ cũng chịu đau khổ như
Việt Nam và qua đó lảng tránh bản chất của cuộc chiến tranh, nhưng đồng thời chính
quyền Hàn Quốc cũng bỏ mặc cựu chiến binh Hàn Quốc, không thừa nhận họ. Hàn Quốc
lảng tránh trách nhiệm trong khi không ngừng lên án tội ác chiến tranh của Mỹ
và Nhật Bản đối với Hàn Quốc trong Chiến Tranh Triều Tiên với cùng một luận điểm.
Điều này trở thành một thứ đạo đức giả mà người Hàn không thể thoát ra được.
Khi kinh tế Việt Nam phát triển mạnh, Hàn Quốc trở
thành nước đầu tư lớn nhất ở Việt Nam thì hình ảnh Việt Nam tại Hàn Quốc lại
bị biến thành một kiểu hình ảnh thuộc địa với lợi nhuận dễ kiếm và các cơ hội
phiêu lưu kỳ thú. Nhưng điều này cũng đánh dấu sự cáo chung cho quan điểm đạo đức
giả mập mờ của Hàn Quốc về chiến tranh Việt Nam, họ buộc phải đối mặt với sự thật,
do không thể tiếp tục hợp tác kinh tế với Việt Nam đồng thời vẫn tiếp tục lảng
tránh quá khứ. Đây có lẽ là lý do khiến phong trào hối lỗi và đền bù cho Việt
Nam nổi lên ở Hàn Quốc.
Lý do của bài báo này
tất nhiên là để chống lại quan điểm phổ biến của người Hàn về chiến tranh Việt
Nam và việc đổ trách nhiệm sang cho Hoa Kỳ. Song tại sao Hàn Quốc, một chư hầu
dễ bảo của Hoa Kỳ, lại chống lại Hoa Kỳ bằng cách này? Câu trả lời là sau những
cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997-98, Hoa Kỳ đã cho thấy không còn giữ được địa
vị siêu cường, do vậy Hàn Quốc tìm cách thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Hoa Kỳ để
vươn lên. Trong bối cảnh đó, phong trào bài Mỹ phát triển mạnh mẽ hơn ở Hàn Quốc và việc
Hàn Quốc tự nạn nhân hóa mình để lên án Mỹ trở thành chìa khóa cho tình thế
lưỡng nan khi mà họ vừa là đồng minh thân cận Mỹ vừa phải hòa giải với các cựu thù để tìm cách thoát Mỹ. Giới học giả Mỹ hiểu điều này, do vậy họ tìm buộc Hàn Quốc phải gánh trách nhiệm về những gì đã làm.
Một điểm đáng chú ý nữa là khi Hàn Quốc và Mỹ tìm cách đổ lỗi cho nhau về sự tham chiến của Hàn Quốc ở Việt Nam thì giới trí thức thân phương Tây ở Việt Nam cũng bị mắc kẹt theo, một mặt họ ca ngợi Hàn Quốc là hình mẫu phát triển nhờ theo Mỹ bất chấp việc Hàn Quốc đã kiếm tiền trên xương máu đồng bào họ, nhưng mặt khác khi phải đối diện với sự đả kích Hàn Quốc từ phía Mỹ thì mặc dù đi theo hướng thân Mỹ nhưng lại không thể ủng hộ Mỹ trong việc đó, kết quả là một sự tự kiểm duyệt quan điểm của Mỹ ngay cả khi thân Mỹ.
Dưới đây là bản dịch bài báo:
Korea’s Forgotten War: Appropriating and subverting the Vietnam War in Korean popular imaginings1
Remco Breuker
Một điểm đáng chú ý nữa là khi Hàn Quốc và Mỹ tìm cách đổ lỗi cho nhau về sự tham chiến của Hàn Quốc ở Việt Nam thì giới trí thức thân phương Tây ở Việt Nam cũng bị mắc kẹt theo, một mặt họ ca ngợi Hàn Quốc là hình mẫu phát triển nhờ theo Mỹ bất chấp việc Hàn Quốc đã kiếm tiền trên xương máu đồng bào họ, nhưng mặt khác khi phải đối diện với sự đả kích Hàn Quốc từ phía Mỹ thì mặc dù đi theo hướng thân Mỹ nhưng lại không thể ủng hộ Mỹ trong việc đó, kết quả là một sự tự kiểm duyệt quan điểm của Mỹ ngay cả khi thân Mỹ.
Dưới đây là bản dịch bài báo:
Korea’s Forgotten War: Appropriating and subverting the Vietnam War in Korean popular imaginings1
Remco Breuker
Dẫn
nhập
Một
trong những bộ phim hay nhất được sản xuất ở Hàn Quốc (HQ) trong thời kỳ điện ảnh
bùng nổ vào những năm 1990 và 2000 là Raybang 라이방, một bộ phim không thể ra đời nếu không có Chiến Tranh
Việt Nam (CTVN) và trên thực tế là một sự liên hệ không trực tiếp tới vai trò của
HQ trong cuộc chiến tranh đó cũng như những vấn đề xoay quanh sự can dự của HQ.
Tiêu đề bộ phim, Raybang, là phiên âm
tiếng Hàn của nhãn hiệu kính râm Ray-Bans của Mỹ, nổi tiếng ở HQ trong thời kỳ
CTVN, khi nhiều binh lính gửi về nhà những bức ảnh họ đeo loại kính râm đó, được
mua tại các trạm đổi quân (PX) của quân đội Mỹ2. Trong bộ phim, ba
tài xế taxi tìm cách thoát khỏi cuộc sống khó khăn về kinh tế và cuối cùng quyết
định cướp một phụ nữ giàu có trong khu phố của họ. Với tiền cướp được, họ định
thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ và bế tắc bằng cách làm lại từ đầu ở Việt Nam
(VN). Một tài xế có chú là người thu gom rác thải của quân đội và từng tham chiến
ở VN. Người chú này ăn mặc như thể là ông ta vẫn tại ngũ, khuyên bảo đứa cháu
và liên hệ với những cựu chiến binh khác. Chưa bao giờ kết hôn và làm một công
việc ít được kính trọng về mặt xã hội, ông ta là hình tượng đặc trưng của các cựu
chiến binh trong xã hội HQ đương thời: cô lập, những đóng góp của họ cho sự
tăng trưởng kinh tế của HQ không được công nhận và chỉ được chấp nhận nếu họ
tách bản thân khỏi những trải nghiệm của chiến tranh (là điều mà ông chú không
thể và sẽ không làm). Raybang là sự
thừa nhận nhẹ nhàng đối với những nỗ lực và hy sinh không được thừa nhận của đa
số những người đàn ông và phụ nữ chăm chỉ thầm lặng, những người chưa bao giờ
có ý định làm điều tốt. Trong bộ phim, kính râm của họ đóng vai trò phân chia
ranh giới giữa thế giới bên ngoài và những yêu cầu của nó với không gian nội tại
tràn ngập những giấc mơ của họ. Các yếu tố khác trong bộ phim, như sự bất mãn của
một trong số những người đàn ông, một cựu sinh viên, của truyền thông quốc nội
cũng như các phân tích về kinh tế và chính trị của ông chú, không chỉ cho thấy
mức độ hiểu biết cao về vị trí của họ trong xã hội HQ mà còn củng cố sự quan trọng
của hình ảnh đa giá trị của VN trong trí tưởng tưởng của dân chúng HQ.
Câu
chuyện về sự can dự của HQ trong CTVN cũng cho thấy sự hiểu biết về sự tương
tác giữa những quan điểm lịch sử chuyên nghiệp với quan điểm của công chúng hay
nghiệp dư. Tôi sẽ chứng minh rằng quan điểm lịch sử chuyên nghiệp chính thống về
sự can dự của HQ đã vay mượn mọi thứ từ quan điểm công chúng/nghiệp dư, vốn đã
dự báo chúng. Với ngoại lệ là một số rất nhỏ các nhà sử học chuyên nghiệp (những
người mới chỉ bắt đầu công bố về chủ đề này gần đây), nhận thức chuyên nghiệp,
chính thống và công chúng về CTVN hầu như là trùng khớp, ngay cả khi tín hiệu
được truyền tải trong chúng có thể khác biệt. Nhận thức lịch sử về sự tham gia
của HQ dường như thoát khỏi định nghĩa về đặc trưng của sử học HQ thời hậu chiến
tranh Triều Tiên: trên phương diện lịch sử thành văn, nhà sử học (bất kể là
chuyên nghiệp hay nghiệp dư) đều sẽ cố gắng quy trách nhiệm cá nhân (sự kiện)
nhằm đạt được một đánh giá đạo đức đối với một phần cụ thể của lịch sử. Bất chấp
tầm quan trọng của CTVN trong lịch sử HQ, điều đó không xảy ra giống như đối với
lịch sử của chiến tranh ở HQ. Trái lại, chính trị chịu đựng (sự khai thác cho
các mục tiêu chính trị đối với nỗi đau khổ của con người) đã được xác định và
ngăn chặn tranh luận, tôi sẽ bổ sung. Đây là hiện tượng mà tôi muốn tìm hiểu và
đưa ra những cái nhìn sâu sắc về sự kết nối của sử học công chúng, cá nhân,
chuyên nghiệp cũng như chính thống.
Bài
báo này chủ yếu đề cập đến những trải nghiệm của binh lính HQ đã tham chiến ở VN.
Do vậy, nó chỉ đề cập tới trải nghiệm của nam giới. Mặc dù vậy, CTVN là cuộc
chiến mà phụ nữ cũng tham gia nhiều như nam giới. Hơn nữa, không chỉ có người VN
chiến đấu mà cả phụ nữ HQ cũng tham gia, như một bộ phim mới đây (Sunny 님은 먼 곳에) đã cho thấy3. Phụ nữ HQ đến VN với
những lý do cũng giống như nam giới: thoát khỏi đói nghèo, thỏa mãn khát khao
thay đổi và phiêu lưu, nắm bắt cơ hội thành công và giàu có, hay bởi vì bị công
việc bắt buộc. Những phụ nữ HQ đến VN là nghệ sĩ giải trí, ca sĩ, vũ công, nhạc
công, gái bán hoa, nữ doanh nhân và thương nhân. May mắn là chủ đề này không
hoàn toàn bị bỏ qua4, có nhiều nghiên cứu vẫn đang được hoàn thành về
chủ đề này nhằm bác bỏ huyền thoại cho rằng phụ nữ ở VN, giống như huyền thoại
cho rằng họ trong tình thế xung đột, là những người quan sát thụ động hoặc nạn
nhân. Tuy vậy, bài báo này không làm việc đó.
Cần
phải nói là sự bóc lột và đau khổ của một nhóm nhất định cho các mục tiêu chính
trị là một hiện tượng phổ biến. Không chỉ trong lịch sử Triều Tiên (sự đau khổ
của phụ nữ giải trí đã trở thành mối quan tâm quốc gia), mà đặc biệt là trong bối
cảnh hậu thuộc thực dân. Các ví dụ về sự phản ứng của người Mỹ đối với CTVN,
người Hà Lan phủ nhận những sự kinh hoàng của thời kỳ thực dân ở Indonesia hay
người Nhật không thừa nhận các tội ác trong Thế Chiến II – một danh sách đầy đủ
các trường hợp sẽ dài bất tận. Những trường hợp đó được thống nhất bằng một cơ
chế ưu tiên (và công khai thừa nhận) sự đau khổ của thủ phạm và phụ thuộc vào sự
chấp thuận (câm lặng) của công chúng.
Việc
các đơn vị quân đội của HQ tham gia CTVN là sự kiện hầu như đã bị quên lãng
trong trí nhớ của dân chúng HQ, ngay cả khi lợi ích tài chính của cái được gọi
là wŏllam p’abyŏng 越 南派兵
(việc gửi
quân đến VN) đã giúp kinh tế HQ tăng trưởng đáng kể vào cuối những năm 1960 và 1970.
Sự miễn cưỡng của truyền thông đại chúng trong việc phản ánh về sự can dự của HQ
trong CTVN – ước tính là tổng cộng khoảng 350.000 lính HQ được triển khai trong
thời gian mười năm, chưa bao giờ có ít hơn 50.000 lính trong suốt thời kỳ đó –
gắn liền với một tập hợp phức tạp những nhận thức về VN, CTVN và vai trò của HQ
trong cuộc chiến đó. Sự miễn cưỡng này cũng được thể hiện trong sự thiếu vắng
các nghiên cứu lịch sử đối với phần quan trọng của lịch sử HQ thời hậu chiến5.
Trong những thập kỷ gần đây, HQ đã xem xét VN với sự quan tâm mới, coi đó là một
quốc gia để đầu tư, để thu hút lao động được đào tạo với giá rẻ và nhập khẩu cô
dâu. VN cũng được coi là một sự phản chiếu, cả với tương lai một quốc gia thống
nhất của HQ cũng như hoài niệm về một quốc gia đang phát triển. Tuy vậy, sự xuất
hiện của các hồi ký lịch sử về VN – một quốc gia có 350.000 lính HQ tham chiến
và hơn 5.000 đã chết – lại ít ỏi một cách đáng ngạc nhiên.
Sự
kiểm duyệt nhà nước trong nghiên cứu lịch sử về CTVN chỉ giải thích một phần của
hiện tượng này6. Sự ngạc nhiên tiềm tàng đối với chính quyền HQ vẫn
còn rất lớn: những vụ thảm sát do lính HQ gây ra ở VN đã được biết đến. Nếu như
HQ đã trải qua những cuộc thảm sát của Hoa Kỳ trong Chiến Tranh Triều Tiên,
chính quyền HQ sẽ cảm thấy tình thế khó xử khi họ bị chính quyền VN cáo buộc về
các tội ác tương tự7. Kết quả là sự kiểm duyệt đối với các nghiên cứu
học thuật xuất hiện và CTVN vẫn là một trong những chủ đề bế tắc nhất trong giới
học thuật HQ8. Sự kiểm duyệt đã được dỡ bỏ hơn một thập kỷ, nhưng
CTVN vẫn tiếp tục vắng mặt trong trí tưởng tưởng của dân chúng HQ. Lĩnh vực duy
nhất mà trong đó CTVN và sự can dự của HQ được nhớ đến là nghệ thuật, nhất là
văn học và điện ảnh, mặc dù cũng không phải là phong phú. Trong bài báo này,
tôi sẽ chi tiết hóa các quan điểm văn chương và điện ảnh về sự can dự của HQ
trong CTVN trên nền quan hệ đương thời giữa HQ và VN. Bối cảnh này – được tạo
nên từ công nhân nhập cư, cô dâu nhập khẩu, doanh nhân và nhà đầu tư thường
trú, cựu chiến binh, ngôn ngữ phổ thông và sách hướng dẫn văn hóa, cũng như người
Bắc Triều Tiên đang chuyển tiếp – đặt sự vắng mặt của những hồi ức chung ở HQ về
CTVN vào một khía cạnh phức tạp và thú vị, thứ bị lảng tránh nhiều hơn là được
làm rõ. Khía cạnh này cũng cho thấy câu hỏi về khả năng định nghĩa nhiệm kỳ tổng
thống của Park Chung-Hee’s 박
정희, và của lịch sử hiện đại HQ, vẫn
tiếp tục bế tắc, trong khi đồng thời lại có thể tiếp cận được. Đa số cựu chiến
binh tham chiến ở VN vẫn còn sống, tuy vậy ngoài những hoạt động của họ (hiện
giờ là trên web) trong các hội cựu chiến binh vốn ít được công chúng chú ý tới,
họ hầu như không hiện hữu trong xã hội HQ như là một nhóm xã hội đáng chú ý.
Sự
tắc nghẽn cần được tháo gỡ là vai trò của chiến tranh VN, giống như một sự gia
tốc về kinh tế ở các nền kinh tế đang phát triển của Châu Á trong những năm
1960 và 1970, được thể hiện trong sự lảng tránh ở HQ về sự can dự của HQ trong
cuộc chiến tranh này. Sự phong phú của văn học và điện ảnh Hoa Kỳ về CTVN tương
phản sâu sắc với sự vắng mặt của chúng ở HQ9. Australia, vốn gửi
chưa đến 4.500 quân đến VN, cũng tạo ra cái được gọi là văn học CTVN10.
Văn học HQ đã chỉ tạo ra một số ít tiểu thuyết hay tường thuật về CTVN, mặc dù
trong số những tiểu thuyết đó, The Shadow
of Arms của Hwang Sok-yong là một tác phẩm bậc thầy của văn học HQ thời hậu
chiến. Tương tự, điện ảnh HQ, bất chấp việc đã trải qua sự bùng bổ trong hai thập
kỷ qua và bất chấp việc gắn liền với các phim có bối cảnh lịch sử, đã không sản
xuất nhiều phim về CTVN. Hơn nữa, không có nhiều phim thực sự xuất sắc trong số
các phim có liên quan đến CTVN và chiến tranh, không có bộ phim nào có thể so
sánh với The Shadow of Arms của
Hwang. Đáng chú ý là văn học Mỹ về CTVN chủ yếu đề cập đến trải nghiệm của
cá nhân binh lính trong và sau chiến tranh, trong khi phần HQ thì thể hiện sự
nhận thức mạnh mẽ về tình hình quốc tế rộng lớn hơn, khiến cho cá nhân binh
lính tự nhận thức là “lính đánh thuê cho Hoa Kỳ”11. Sự nhận thức này
tương phản với hồi ức được lựa chọn. Sự can dự của HQ trái ngược với bản thân
HQ, tại đó những quan điểm tương tự hầu như vắng mặt hoàn toàn. Đây là sự xung
đột giữa nhận thức về hoàn cảnh của binh lính HQ ở VN (cả bởi bản thân cũng như
bởi quốc gia đã cử họ đi) và sự đóng góp quan trọng của anh ta đối với sự phát
triển kinh tế và xã hội ở HQ, mặt khác là sự lãng quên mà anh ta nhận được ở HQ
sau cuộc chiến tranh, đó sẽ là trung tâm của bài báo này.
Binh
lính HQ ở VN, 1966-1975: những nhận thức lịch sử
Vào
năm 1965, những binh lính chiến đấu HQ đầu tiên được gửi tới VN (sau lần gửi
quân ban đầu vào năm 1960 với 130 huấn luyện viên quân sự và 10 võ sư
Taekwondo)12. Trong bài phát biểu từ biệt, tổng thống Park Chung-Hee
đã so sánh các binh lính được gửi đi với đạo quân thánh chiến, thể hiện rõ ràng
tính chất lịch sử của nhiệm vụ. Quyết định của Park đáp ứng tích cực lời kêu gọi
của Lyndon Johnson về việc tham chiến được coi là “không thể tránh khỏi”, cũng
như nó cho chép chính quyền HQ thanh toán khoản viện trợ quân sự của 16 quốc
gia đối với HQ vào những năm 195013. Trong khi điều này nhanh chóng
được tổng thống và các cố vấn nhận ra14 thì đồng thời họ cũng quyết
định rằng binh lính HQ sẽ không có giá rẻ đối với Hoa Kỳ15. Theo một
viên chức cao cấp trong chính quyền Park, VN là “El Dorado của HQ, nơi mà họ kiếm
của cải ngay tức khắc”16. Bên cạnh lý do kinh tế rõ ràng của việc
tham chiến ở VN, mối lo ngại về sự tổn thất an ninh do Hoa Kỳ rút quân khỏi bán
đảo Triều Tiên cũng được tính tới17. Sự tham chiến cũng được cho là
sẽ tạo ra ảnh hưởng có lợi đối với sự đoàn kết trong nước, tạo thành những công
cụ hiệu quả để chống lại sự lan truyền của chủ nghĩa cộng sản ở Châu Á18.
Sự chia cắt giữa miền Nam và miền Bắc VN cũng có thể là một hình mẫu đáng kể đối
với tình hình của HQ. Các nhà sử học đồng ý rằng mối lo ngại về an ninh và lợi
ích kinh tế là những lý do chính khiến chính quyền HQ đã đồng ý tham chiến ở VN19.
Các lợi ích kinh tế gắn liền với viện trợ trực tiếp và không trực tiếp của Hoa
Kỳ, tiền ngoại hối mà mỗi binh lính gửi về nhà, khoản thanh toán cho binh lính,
các khoản vay ưu đãi, các điều kiện thuận lợi hơn cho việc xuất khẩu hàng hóa của
HQ sang thị trường Hoa Kỳ và cơ hội chế tạo cũng như bán các sản phẩm của HQ ở VN
cho quân đội Hoa Kỳ. Mặc dù sự đánh giá của Park về các cơ hội kinh tế mà HQ
thu được từ việc tham chiến ở VN – vốn dựa
trên ví dụ về lợi ích khổng lồ mà Nhật Bản kiếm được trong chiến tranh Triều
Tiên – là chính xác, nhưng nực cười là Nhật Bản (mặc dù không gửi quân đến VN)
đã kiếm lợi gấp mười lần HQ từ CTVN20. Tuy vậy, kinh tế HQ đã được tạo
dựng dựa trên những lợi ích kinh tế sinh ra từ CTVN và không quá khi nói rằng sự
thần kỳ của Hàn sẽ không diễn ra nếu như quân đội HQ không tham chiến ở VN21.
Đáng chú ý là chỉ có rất ít các phân tích trình bày về tầm quan trọng của CTVN
đối với sự xuất hiện của sự thần kỳ kinh tế ở HQ (và các quốc gia Châu Á khác)22.
Một cuốn sách lịch sử HQ nói chung (một trong những cuốn sách lịch sử HQ bán chạy
nhất ở HQ) đã khẳng định như sau:
Việc gửi binh lính tới
VN bị chỉ trích dựa trên lý do cho rằng việc đó giống như “bán máu thanh niên của
chúng ta” và nhiều binh lính đã chết ở đó, đồng thời hiện giờ nhiều cựu chiến
binh phải chịu đựng đủ mọi loại di chứng do hóa chất khai quang [được sử dụng ở
VN], nhưng điều đó cũng được coi là đóng góp vào sự phát triển kinh tế. Các
doanh nghiệp xây dựng xâm nhập VN đã mở ra con đường xuất khẩu lao động và sau
chiến tranh những lao động và cơ sở này lại chuyển sang Trung Đông. Dựa trên những
đặc quyền của CTVN, sự phát triển kinh tế đã xuất hiện ở nửa sau của những năm
196023.
Cuốn sách này coi sự phát triển kinh tế của HQ có
vai trò lớn hơn các yếu tố khác, như các chính sách kinh tế của chính quyền
Park Chung-Hee (nền kinh tế do nhà nước lập kế hoạch và định hướng), viện trợ
quân sự của Hoa Kỳ (đồng thời không cụ thể hóa được tác động gia tốc của chi
tiêu liên quan đến CTVN đối với các nền kinh tế các nước ở Châu Á) cũng như sự
đúng đắn của nền kinh tế định hướng xuất khẩu24. Theo như ví dụ đã
nêu trên, một đoạn dài đã mô tả sự can dự của HQ trong CTVN25. Sự
xâm nhập thành công của các công ty xây dựng HQ vào VN được coi là bước đầu của
sự tăng trưởng kinh tế đáng kể và được đã được hoan nghênh. Mọi sự chú ý đối với
các yếu tố phi kinh tế đều được hướng tới những hậu quả mà cựu chiến binh phải
gánh chịu, sự ốm yếu và chấn thương của họ không bao giờ được chính quyền thừa
nhận26. Trong hầu hết các tường thuật về CTVN (cũng như trong những
tường thuật có ảnh hưởng nhất), sự phê phán đối với chính quyền đều hướng tới sự
lảng tránh đối với các binh lính trung thành, chứ không phải là quyết định tham
chiến ở VN. Thái độ phê phán đó đã tạo thành đặc trưng của sử học hiện đại,
hoàn toàn tập trung vào các vấn đề quốc nội liên quan đến CTVN, lảng tránh khía
cạnh quốc tế của cuộc chiến.
Về
mặt quốc nội, các nhà sử học chuyên nghiệp và chính thống đều đồng thuận cả về
lý do kinh tế cũng như an ninh, HQ không có bất cứ lựa chọn nào khác ngoài việc
gửi binh lính tới VN. Ngay cả khi thừa nhận người VN phải chịu sự đau khổ do
quyết định này, một quyết định đã được kéo dài suốt một thập kỷ, ý kiến trong
các cuộc tranh luận đều nhấn mạnh rằng bản thân người HQ cũng phải chịu đau khổ
như người VN (nếu không nói là hơn: bán đảo vẫn chưa được thống nhất). Có ba
nhóm sự đau khổ của HQ thường xuyên xuất hiện trong các cuộc thảo luận về CTVN:
1. thiệt hại nhân mạng của HQ (hơn 5.000 binh lính đã chết ở VN và rất nhiều bị
thương); 2. các thương bệnh binh; 3. sự huấn luyện và kinh nghiệm mà quân đội HQ
thu được ở VN đã được sử dụng để chống lại người dân HQ khi quân đội được đưa tới
đàn áp cuộc nổi dậy ở Kwangju (khi cựu chiến binh tham chiến ở VN Chun Doo Hwan
làm tổng thống). Điều thứ ba rất đáng chú ý. Thực sự là quân đội HQ đã thu được
các kỹ năng, vũ khí và phương tiện để đàn áp người nổi dậy của Kwangju từ VN.
Tuy vậy, quan điểm này – CTVN gây ra bể máu ở Kwangju – cũng cho thấy rõ mức độ
thiếu hiểu biết của công chúng về những hậu của sự tham chiến của HQ ở VN đối với
VN. Khó có thể hình dung được sự khẳng định đó, hoàn toàn im lặng về những đau
khổ của người VN, lại có thể xuất hiện. Đồng thời, những lợi ích của sự tham
chiến đã mang cho HQ cũng không được thừa nhận, ngay cả các học giả cánh tả.
Bảng
1: Quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam (1964-1972)
Tổng số
|
Quân đồn trú
|
Hỗn hợp
|
|||||
Tổng số
|
Bộ binh
|
Hải quân
|
Không quân
|
Hải quân đánh bộ
|
|||
1964
|
140
|
140
|
140
|
||||
1965
|
20.541
|
20.541
|
15.973
|
261
|
21
|
4.286
|
|
1966
|
45.605
|
45.605
|
40.534
|
722
|
54
|
4.295
|
|
1967
|
48.839
|
48.839
|
41.877
|
735
|
83
|
6.144
|
|
1968
|
49.869
|
49.838
|
42.745
|
785
|
93
|
6.215
|
31
|
1969
|
49.755
|
49.720
|
42.772
|
767
|
85
|
6.096
|
35
|
1970
|
48.510
|
48.478
|
41.503
|
772
|
107
|
6.096
|
34
|
1971
|
45.694
|
45.663
|
42.345
|
662
|
98
|
2.558
|
31
|
1972
|
37.438
|
37.405
|
36.871
|
411
|
95
|
28
|
33
|
Nguồn: Bộ Quốc Phòng, Kunsa p’yŏnch’an yŏn’guso, Pe’tŭnam chŏnjaeng-gwa Han’gukkun (Seoul: Bộ Quốc Phòng, 2004), p. 196.
Bảng
1 cho thấy số lượng binh lính HQ tham chiến ở VN từ năm 1964 đến 1972. Cả binh
lính cũng như chính quyền HQ đều được Hoa Kỳ thanh toán theo đầu số lính được gửi
đi; thêm vào đó, HQ cũng thu lợi trực tiếp và không trực tiếp tự sự gia tăng viện
trợ của Hoa Kỳ cũng như từ những biệt đãi của Hoa Kỳ. Có thể nói rằng tác động
kinh tế của CTVN đối với HQ là rất lớn. Các lợi ích kinh tế của CTVN dĩ nhiên
là không phải không được nhận ra, mặc dù sự đo lường đầy đủ ít khi được thực hiện27.
Như với khẳng định về việc người HQ cũng chịu đau khổ nhiều như người VN, các động
cơ kinh tế của sự tham chiến thường xuyên được trình bày như là sự bắt buộc:
Lời khai của bộ trưởng
Bộ Quốc Phòng cho thấy chính quyền HQ không thể rút quân khỏi VN bởi vì HQ có
được những lợi ích kinh tế khổng lồ từ việc tham chiến […] theo thống kê của
Hoa Kỳ, số tiền mà binh lính HQ ở VN đã nhận được là 171 triệu dollar vào năm
1968 và 200 triệu dollar vào năm 1969. Bên cạnh đó, số lượng viện trợ tài chính
của Hoa Kỳ là 200 triệu dollar sau khi chính quyền HQ gửi thêm quân đội đến VN.
So với GNP của HQ chưa bao giờ vượt qua 5,2 tỷ, rõ ràng là HQ không thể rút
quân khỏi VN28.
Hay
nói cách khác, sự nghèo khổ của HQ vào những năm 1960 đã khiến họ không thể từ
chối các lợi ích kinh tế (và lợi ích khác) của việc tham chiến ở VN. Lập luận về
sự nghèo khổ không chỉ phổ biến đối với các nhà kinh tế mà cũng được các nhà sử
học chính thống bảo vệ29. Lập luận này cũng được thể hiện trong văn
học và điện ảnh, chi tiết hơn sẽ được đề cập ở dưới.
Một
yếu tố quan trọng trong cách thức tham chiến của HQ ở VN được cho là chức năng
phản ánh của VN. Không chỉ có người VN và HQ có chung gánh nặng là người Châu Á
trong một thế kỷ tràn ngập chiến tranh, bóc lột và thuộc địa hóa, ở cấp độ thấp
hơn thì VN phản ánh cách thức HQ sẽ tồn tại trong quá khứ cũng như tương lai.
Các nhà sử học đồng ý rằng sự xem xét chức năng phản ánh cho thấy một phần của
quá trình ra quyết định dẫn tới sự tham chiến của HQ30. Như Ch’ae Myŏngshin,
tổng tư lệnh đầu tiên của quân đội HQ ở VN, viết trong hồi ký The Vietnam War
and Myself: The Memoirs of Ch’ae Myŏngshin (베트 남 전쟁과
나:
채명신의 회고록), trong chương cuối
về sự sụp đổ của tự do và Nam VN sẽ đóng vai trò là bài học đối với HQ31.
Trong khi binh lính tới VN đã mô tả những trải nghiệm của bản thân trong gần
hai thập kỷ trước đó, đối với các nhà hoạch định chính sách thì VN mang lại một
chất liệu tốt cho tư duy. Quan niệm, cho rằng VN có thể phản ánh những gì diễn
ra ở một quốc gia được thống nhất bằng vũ lực nhưng vẫn bị chia rẽ bởi ý thức hệ,
rất gần gũi với ý tưởng coi VN là sa trường huấn luyện cho quân đội HQ để chuẩn
bị cho sự đụng độ không thể tránh khỏi với cộng sản Châu Á nói chung và Bắc Triều
Tiên nói riêng. Quân đội HQ được huấn luyện những kỹ năng thực tiễn, trong số
những kỹ năng thu được từ hàng sa số các nhiệm vụ tìm kiếm và phá hủy mà họ đã
thực hiện; họ cũng được tìm hiểu và làm quen với những vũ khí mới (đáng chú ý
nhất là M-16). Hơn nữa, VN cũng thể hiện chiến trường xảy ra xung đột với chủ
nghĩa cộng sản mà họ sẽ phải chống lại trong trường hợp xung đột lại xảy ra
trên bán đảo Triều Tiên32.
Quan
điểm này về VN trong quan hệ với HQ chắc chắn sẽ lấn át quan điểm về sự quan trọng
thực tế của CTVN đối với sự phát triển của HQ. Nó khiến cho việc xác định lợi
ích của chiến tranh không khả thi, ngay cả khi nó cho thấy rõ vị trí của HQ
trên thế giới và cho thấy sự bất lực của HQ khi đối mặt với chủ nghĩa đế quốc của
Hoa Kỳ. Cả hai bài học sau này đều đã được học và khẳng định bởi các nhà sử học
HQ. Bài học thứ nhất đã bế tắc. Cùng với một sự đánh giá thấp sự quan trọng
kinh tế của CTVN đối với sự phát triển của HQ, hai vấn đề khác, ít nhận được sự
phê phán hơn những vấn đề khác, cũng cần được nhắc đến. Vấn đề thứ nhất là câu
hỏi về việc binh lính HQ có phải chỉ là lính đánh thuê kiếm tiền. Câu hỏi thứ
hai là chủ ý trong các vụ thảm sát thường dân VN mà quân đội HQ gây ra.
Các
ý kiến bị chia rẽ về việc quân đội HQ có phải là lính đánh thuê hay không33,
nhưng đây không phải là câu trả lời mà là chỉ là bản thân sự tranh luận có ích.
Sự tranh luận đã cho thấy rõ rằng các khuynh hướng đạo đức của việc tham chiến ở
VN đã được đem ra tranh luận (nguyên tắc ngầm định là làm lính đánh thuê là sai
về đạo đức, đồng thời tham chiến để xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản hay trả nợ thì
không vô đạo đức), nhưng những khuynh hướng đạo đức này cũng bị hạn chế đối với
HQ. Hầu như không có cuộc tranh luận nào về bản thân sự tham chiến; cuộc thảo
luận chỉ tập trung vào tình trạng của nó. Đây là bối cảnh thường xuyên được tái
hiện trong các tác phẩm giả tưởng về CTVN, kể từ khi vấn đề này có liên quan mật
thiết với sự tự nhận thức của cựu chiến binh tham chiến ở VN.
Chủ
đề thứ hai nghiêm túc hơn và có tác động sâu sắc hơn. Một phần do các cuộc
tranh luận của Hoa Kỳ về các vụ thảm sát như Mỹ Lai thúc đẩy, báo cáo về các vụ
thảm sát thường dân đã xuất hiện trong thời kỳ quân đội HQ tham chiến ở VN. Hiệu
quả của quân đội HQ không thể tránh khỏi mức độ thiệt hại cao về thường dân34,
đã khiến tổng tư lệnh Ch’ae Myŏngshin ban hành quy định
về việc không gây tổn thương cho thường dân. Một điều tự hào đối với Ch’ae, đồng
thời việc ban hành quy định cũng đóng vai trò lá cờ đỏ đối với các nhà sử học35.
Trong hồi ký, Ch’ae đưa ra giải thích về nhiều vụ thảm sát thường dân như sau:
Các vụ thảm sát thường
dân do Việt Cộng gây ra được dàn dựng trông giống như thể là người Mỹ đã gây ra
chúng36.
Ông
ta cũng khẳng định rằng các vụ thảm sát là do Việt Cộng và lính Bắc Triều Tiên
ngụy trang thành lính HQ gây ra37. Trong khi những khẳng định này
không thể được coi là đại diện, sự can dự của lính HQ trong nhưng vụ thảm sát
là một chủ đề gai góc. Chủ đề này không ngừng được chính quyền VN nhắc lại và vẫn
là một nguồn gây ra sự khó chịu đối với chính quyền HQ38. Mặc dù một
nhà sử học đã ước lượng có 31 vụ thảm sát thường dẫn xảy ra chỉ riêng từ năm
1970 đến 197239, vấn đề này vẫn hầu như là bị lảng tránh trong cả lịch
sử chính thống cũng như chuyên nghiệp. Các nhà sử học nói chung không để cập đến
chủ đề này hoặc trích dẫn quy định nổi tiếng của Ch’ae Myŏngshin
về việc “thà để 100 du kích trốn thoát còn hơn giết hại một người vô tội,” mặc
định coi khẳng định đó là sự thật lịch sử.
Ngoại
trừ trong các công trình gần đây của một số rất nhỏ các nhà sử học, sự can dự của
HQ trong chiến tranh VN hầu như ít được nghiên cứu. Điều này rất đáng chú ý khi
mà cuộc chiến tranh này đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của HQ và
sự quan trọng hiện tại của VN đối với HQ. Sự khái quát ngắn về quan điểm chuyên
nghiệp và chính thống về CTVN cho thấy những quan điểm này không bắt nguồn từ
lĩnh vực sử học chuyên nghiệp, vốn bị hạn chế đáng kể trong việc khảo sát và sự
tương đồng của chúng với những quan điểm đã phổ biến đối với cả chính khách và
thường dân. Như đã đề cập ở trên, nghệ thuật là một sự khởi đầu tốt để xem xét
quan điểm về CTVN. Một trong những tác giả nổi tiếng nhất của HQ, Hwang
Sok-yong, hầu như hoàn toàn tạo dựng sự nghiệp dựa trên những trải nghiệm về VN.
Tác phẩm mới ra mắt của ông, Camel’s Eye (낙타 눈깔)40, là một câu chuyện ngắn về người
lính HQ mới trở về từ VN và đang đợi tàu về nhà. The Shadow of Arms, được
cho là tác phẩm giả tưởng vĩ đại nhất của Hwang, là một sự khám phá và châm biếm
các cơ chế kinh tế và chính trị toàn cầu ẩn sau CTVN.
Chiến
Tranh Việt Nam trong văn học
Sự
tham chiến của quân đội HQ ở VN kéo dài một thập kỷ và đóng góp khoảng 350.000
binh lính, nhưng chỉ có rất ít tiểu thuyết và tường thuật chính thống bàn luận
về chủ đề này. Những tiểu thuyết đó là The Shadow of Arms41 của Hwang Sokyong, The Faraway River
của Pak Yŏnghan
và White Badge của An Junghyo. Sự nghèo nàn của văn học CTVN ở HQ liên
quan tới sự đóng góp “thụ động” của HQ đối với chiến tranh42. Sự biện
minh cơ bản là do binh lính HQ tham chiến với tư cách lính đánh thuê nên cảm
xúc phát sinh của họ không đủ để tạo ra tác phẩm văn học “thực” với bất kỳ số
lượng đáng kể nào43. Sự thiếu vắng truyền thống văn chương về CTVN
cũng được cho là hậu quả của sự lảng tránh chủ đề chiến tranh trong các thảo luận
của công chúng HQ44. Bất kể lý do nào đằng sau hiện tượng này – vốn
không thể tách khỏi sự thiếu quan tâm nói chung về CTVN – một số ít tiểu tuyết
bàn luận về sự tham chiến của HQ có một số điểm tương đồng với quan điểm chung.
Ngay cả khi The Shadow of Arms và The Faraway River là sản phẩm của lực lượng tiến bộ trong xã hội
HQ, sự thiếu vắng các tiểu thuyết về những mối lo ngại, bối cảnh và hoàn cảnh
tương tự đã tạo ra tình hình mà sự diễn giải về mức độ quan trọng của CTVN
không thực sự bị thách thức45. Một tình hình tương tự cũng diễn ra
trong điện ảnh HQ, bởi vì mối liên hệ giữa văn học và điện ảnh thông thường là
mạnh ở HQ.
Cả
quan điểm chính thống cũng như phổ thông về sự tham chiến ở VN đều được tái hiện
trong các tác phẩm này. Nhận thức về việc tiền là động cơ của sự tham chiến và
các binh lính trẻ, thường xuất thân từ gia đình nghèo, đã hy sinh để cải thiện
kinh tế, được trình bày chi tiết trong The Shadow
of Arms46. Tiểu thuyết hoàn toàn chỉ bàn luận cơ chế kinh tế đứng sau chiến
tranh hiện đại; nó có thể được hiểu là sự khám phá về động cơ kinh tế đưa đến
và duy trì chiến tranh47. Cách tiếp cận phổ quát của tiểu thuyết này
cũng nhấn mạnh chức năng phản ánh của VN liên quan đến HQ: HQ cũng trải qua cuộc
nội chiến tương tự và bị quân đội Mỹ xâm lược. Nhân vật chính của The Shadow
of Arms cũng nhận thức được vị thế của anh ta ở VN, bị kẹt giữa quân đội
Hoa Kỳ và người VN. Cả trong tiểu thuyết cũng như trong các tiểu luận riêng biệt,
Hwang phản ánh sự nghèo khổ là lý do chính khiến binh lính HQ tham chiến ở VN48.
Đồng thời, Hwang phủ nhận trách nhiệm của những người lính HQ bình thường, khẳng
định rằng HQ không có mấy sự lựa chọn:
Liệu có sự
khác biệt nào giữa thế hệ của cha tôi, đăng lính cho quân đội Nhật Bản hay phục
vụ cho các khát vọng liên Á của đế quốc Nhật Bản, và của tôi, được người Mỹ gửi
tới VN để thiết lập một khu vực “Liên Mỹ” ở Viễn Đông trong Chiến Tranh Lạnh?49
Bị Hoa Kỳ ép buộc, khát vọng đế quốc của họ vốn cũng không kém cạnh
so với đế quốc Nhật Bản vào những năm 1930 và 1940, HQ đưa quân đội tới VN và –
đây là điều ngầm định – không phải gánh chịu trách nhiệm về những vụ thảm sát
đã gây ra trong chiến tranh VN giống như những vụ thảm sát mà quân đội Đế Quốc
Nhật Bản đã gây ra trong Thế Chiến II50. Cuốn tiểu thuyết không bao
giờ trực tiếp đối mặt với các vụ thảm sát của HQ ở VN, nhưng trong một vài đoạn,
Hwang thừa nhận rằng những nạn nhân trước kia của nội chiến và các vụ thảm sát
của Hoa Kỳ đã trở thành kẻ thủ ác51. Tuy vậy, cuối cùng, cách tiếp cận
của Hwang là phổ quát: các vụ thảm sát là sự thật không thể tránh khỏi của chiến
tranh và không liên quan mấy đến quốc tịch của thủ phạm52 (mặc dù
trong cuốn tiểu thuyết chỉ có các vụ thảm sát thực sự do lính Mỹ gây ra được mô
tả, đồng thời Hwang im lặng về các vụ thảm sát do lính HQ có mối quan hệ cá
nhân với ông gây ra)53. Cuốn The Shadow of Arms là tác phẩm bậc thấy có chất lượng rất tốt
bởi vì nó cố gắng mô tả cơ chế tất yếu của chiến tranh hiện đại và những hậu quả
đối của nó với thứ ngôn ngữ phổ quát được thể hiện không dễ chịu và không hạn
chế. Tuy vậy, đồng thời, việc Hwang mô tả
song song người VN và người HQ trên góc độ họ phải đau khổ vì là người Châu Á
trong thế kỷ 20 đã loại trừ mọi cảm giác về sai lầm của người HQ. Trên hết, người
HQ cũng đau khổ như người VN và họ chịu đựng cùng nhau. Trong một đoạn gợi mở,
Hwang đã tách lính HQ ra khỏi đồng minh Hoa Kỳ bằng cách cho một lính Mỹ nói đầy
đạo đức giả với nhân vật chính rằng lính HQ trên thực tế cũng là người da trắng
danh giá, cũng giống như phụ nữ HQ:
“Mày là người Hàn phải không? Gái xứ mày cũng xinh đấy. Có hai cô
gái Hàn trong màn múa thoát y ở câu lạc bộ tối qua. Cả hai đều trông giống hệt
như gái Mỹ.”
“Mày nói là câu lạc bộ Mỹ?”
“Phải, nhưng người Hàn có thể đến đó nếu như họ làm việc cho ban
thanh tra. Nhưng đám gook thì không.”
“Gook là
ai?”
"Đám Việt Nam, chúng thật sự bẩn thỉu. Nhưng tụi mày thì giống tụi tao. Chúng ta là đồng minh."54
"Đám Việt Nam, chúng thật sự bẩn thỉu. Nhưng tụi mày thì giống tụi tao. Chúng ta là đồng minh."54
Những diễn biến tiếp theo đã cho thấy rõ ràng rằng quân đội Hoa Kỳ
không coi binh lính HQ hoàn toàn bình đẳng với lính Mỹ. Hwang kiên định trong
trong lập luận cho rằng người Hàn và người Việt có nhiều điểm chung với nhau
hơn là với người Mỹ. Ngay lúc đầu trong mối quan hệ của họ, trợ lý người VN của
nhân vật chính An Yŏnggyu (Ahn
Yong Kyu theo tiếng Anh) đã khẳng định rõ ràng trong một trong những bối cảnh
chính của cuốn sách về sự tương đồng giữa người Hàn và người VN cũng như lịch sử
tự hào của họ:
“Mày và
tao, Ahn, cả hai chúng ta đều là gook. Đồ mọi Á.”
“Tao cho
là tụi Mỹ nghĩ vậy.”
“Tao cũng
nghĩ vậy. Không cần phải buồn phiền về điều đó.”55
Sự thật là khái niệm phân biệt chủng tộc
nhất được dùng cho người VN là “gook”, sự châm biếm của đoạn này sẽ khiến độc
giả khó có thể quên (nhất là khi Hwang giải thích từ “gook” được biến đổi từ từ
“Hanguk”; trong Chiến Tranh Triều Tiên thì từ đó được dùng để chỉ người Triều
Tiên theo cùng nghĩa phân biệt chủng tộc). Lính HQ không phải là người da trắng
cũng như da trắng đáng kính; họ có chung những sự biến động trong định mệnh hiện
đại với người VN. Tiếp đó trong cuốn tiểu thuyết, những đoạn đối thoại giữa An Yŏnggyu, một người Hàn, và đồng
nghiệp VN và là bạn của anh ta đã đi theo cùng một hướng: người Hàn không có việc
gì ở VN và họ biết điều đó, khi họ tự mình đi qua những trải nghiệm. Tới một mức
độ nhất định, những trải nghiệm chung cho phép binh lính HQ thấy hình ảnh HQ được
thể hiện ở VN. The Shadow of Arms chứa
nhiều đoạn gợi nhắc những đau khổ của người Hàn trong Chiến Tranh Triều Tiên được
phản ánh trực tiếp trong đau khổ của người VN56. Các binh lính của Ahn
Junghyo cũng thấy quê nhà được gợi nhắc đến trong những trải nghiệm ở VN của họ:
họ thường xuyên nhớ đến những trải nghiệm trong Chiến Tranh Triều Tiên, hầu hết
là do những cậu bé người VN thường xuyên xuất hiện quanh gợi nhắc cho họ. Chức
năng phản ánh của VN không chỉ giới hạn trong quá khứ; tương lai của HQ cũng được
phản ánh trong tương lai của VN (vốn là hiện tại khi ba cuốn tiểu thuyết đã được
hoàn thành và do vậy là hiện tại đối với độc giả của chúng) như là một quốc gia
thống nhất. The Shadow of Arms
đã tạo ra một sự liên hệ mạnh mẽ giữa tương lai của HQ và hiện tại của VN như
là một quốc gia thống nhất57. Không may mắn thay, như đã trình bày ở
trên, điều này có tác dụng như là một cơ chế để uốn nắn hình ảnh VN cho phù hợp
với các mục tiêu của (chính quyền) HQ.
Mối liên hệ thân thiết của họ với người VN (thông qua trải nghiệm
lịch sử chung cũng như di sản Châu Á chung) đã khiến người Hàn vừa là nạn nhân
vừa là thủ phạm: sự trung lập (“trước hết, không làm hại”) là lối thoát duy nhất,
vừa đạo đức vừa thực tế. Hwang đã tiếp nhận quan điểm của HQ về CTVN, hoàn toàn
đẩy sự lên án sang phía Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế, mặc dù cần phải nói rằng
Hwang không thể hiện một lời biện minh đơn giản cho sự tham chiến của HQ như
Ahn Junghyo đã làm (bằng cách khẳng định rằng binh lính HQ không có sự lựa chọn
nào khác). Sự lập luận của Hwang không phải là không có giá trị; siêu phân tích
của ông về cách thức chiến tranh hiện đại bắt đầu, diễn biến và duy trì đã áp đảo
sự tham chiến của HQ ở VN và do vậy đã đẩy vấn đề phức tạp của sự lên án xuống
phía sau. Từ tầm nhìn này, sự lựa chọn “không làm hại” mà nhân vật chính của
Hwang theo đuổi là hoàn toàn có thể hiểu được. Sự biến mất tiếp đó của câu hỏi
đạo đức cho thấy sự liên hệ với việc HQ tham chiến là logic và thông thường,
trái ngược với cơ sở của những tường thuật quốc nội ở HQ. Trong đoạn dưới đây,
khi nhân vật chính của The Shadow of Arms tham gia vào một tranh luận gay gắt với một lính Mỹ đào ngũ mà anh ta
đã giúp trốn khỏi quân đội, quan điểm của Hwang được thể hiện:
Khi tôi làm việc với người Mỹ, điều mà tôi ghét nhất là phải nghe
họ nói chúng ta giống nhau ra sao, tôi không khác với người Mỹ thế nào, và những
điều rác rưởi tương tự khác. Cùng lúc đó tôi nghe người Mỹ thì thầm về sự bẩn
thỉu của đám gook VN. “Gook” là từ mà lính Mỹ rút ra từ từ “Hanguk” hồi Chiến
Tranh Triều Tiên, bị phát âm nhầm thành “Han-gook”. Người Mỹ dùng nó với nghĩa
phân biệt chủng tộc. Tôi chỉ nói với người Mỹ rằng tôi giống người VN hơn.
Điều kiện sống mà chúng tôi đang trải qua hiện giờ cũng chính là
những điều kiện mà hầu hết người Châu Á đã phải chịu đựng trong thế kỷ qua. Ở
nhiều lục địa, người da trắng đã chém giết lẫn nhau, giống như thú săn mồi hành
hạ con mồi. Đừng lảng tránh sự thật. Ngay cả khi anh từ chối tham gia cuộc chiến
dơ bẩn này và trốn thoát, anh sẽ phải sống nốt phần đời còn lại với những gì đã
thấy trên chiến trường. Đó là điều tương tự với tôi, tất nhiên, nhưng tôi phải
chuẩn bị tư tưởng khi tôi trở về nhà. Trên báo chí nước anh, tôi thấy những bức
ảnh về người biểu tình giơ cao khẩu hiệu: “Chúng tối không muốn chết cho VN!”
Điều gì nực cười hơn thế nữa? Cái gì cơ? Chết cho VN? Lính của nước anh đổ xô tới
đây từ những con hẻm sau nhà của các khu ổ chuột bẩn thỉu, từ các quán bar tăm
tối mà họ uống say khướt, từ các siêu thị mà họ lao tới với phiếu giảm giá, từ
những sàn nhà trơn trượt nằm dưới gầm xe hơi. Anh hỏi tôi tại sao? Bởi vì con
cái của gia đình giàu có không đến đây, đó là lý do. Hãy hỏi các doanh nhân và
thương nhân đang điều khiển chính trị ở nước của anh xem. Đối với họ thì anh phải chết
như một con chó trong đầm lầy ở VN58.
Tuy vậy, một yếu tố rất có vấn đề ẩn giấu
phía sau quan điểm của Hwang. Trong tiểu luận đã được nhắc đến ở phía trên,
Hwang khẳng định một cách thẳng thừng rằng việc HQ hiện giờ cũng đang trong
tình trạng đặt ra câu hỏi về các vụ thảm sát do binh lính HQ gây ra ở VN chỉ
cho thấy rằng HQ đã thành công trong việc tạo dựng giải phóng kinh tế (và do đó
là tâm lý) hay thoải mái tận hưởng “sự nhân đạo phương Tây”59. Tạm
gác lại vấn đề về đạo đức đáng ngờ (và lười biếng) nằm sau khẳng định này, nó
cho thấy một khuynh hướng đạo đức khó chịu của sự tham chiến đang đòi hỏi phải
được giải quyết. Câu hỏi đạo đức dường như không hoàn toàn biến mất. Lập luận
này, vừa trung thực vừa nguy hiểm, cũng xuất hiện dưới một dạng đơn giản hơn
trong White Badge, trong đó việc thảm sát thường dân được coi là đáng tiếc
nhưng không thể tránh khỏi60. Tuy vậy, lập luận này chỉ được áp dụng
cho VN; chừng nào mà nó được áp dụng cho HQ trong Chiến Tranh Triều Tiên, những
cân nhắc cá nhân sẽ phải được đặt ra. Sự xung đột giữa việc buộc phải thảm sát
người vô tội trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào và sự thảm sát trong Chiến Tranh
Triều Tiên xuất hiện trong cả ba cuốn tiểu thuyết và không được giải quyết ở bất
cứ đâu. Dĩ nhiên giải pháp của nhân vật chính trong The Shadow of Arms
chỉ mang tính tình thế: duy trì sự trung lập đến chừng nào có thể. Nhân vật
chính tự hứa với bản thân là không làm điều gì sai và không kiếm lợi từ chiến
tranh bằng cách đánh đổi người VN. Tuy vậy, HQ đã kiếm lợi từ chiến tranh. Các
ước lượng chi tiết đáng tin cậy không có sẵn, nhưng trên phương diện tài chính
thuần túy, gần 10% GNP của HQ được tạo ra trực tiếp từ CTVN, kéo dài từ năm
1968 đến năm 197361. Sự thừa nhận về tiền bạc, hàng hóa và đặc quyền
mang về quê nhà từ VN đã xuyên suốt cả ba cuốn tiểu thuyết, nhưng không có cuốn
nào (kể cả cuốn của Hwang, vốn nhận thức rất rõ về nguyên nhân và hệ quả kinh tế)
theo đuổi một sự đánh giá về việc tiền đã được sử dụng ra sao khi được đưa về
HQ62. Các yếu tố tạo thành câu chuyện về cách thức CTVN tài trợ cho
sự tăng trưởng kinh tế của HQ đều có sẵn nhưng câu chuyện đã không được tạo ra,
Cuối cùng, ngay cả khi binh lính tham chiến cũng không coi chiến
tranh VN như một cuộc chiến của HQ. Người HQ không thuộc về nơi đó, họ ở đó chỉ
là bởi vì họ bị hoạt động của đế quốc Hoa Kỳ lôi kéo vào cuộc chiến. Kết quả là
mọi sự lên án đạo đức gắn với CTVN bị đẩy sang phía Hoa Kỳ. Điều còn lại là sự
đau khổ của người Hàn, cũng giống như sự đau khổ của người VN, đều do Hoa Kỳ
gây ra. Trong khi Faraway River và White Badge nhấn mạnh vào sự đau khổ của binh lính HQ ở VN
(cũng như các cựu chiến binh trở về nhà), bị mắc kẹt giữa chỉ huy của họ và
quân đội Hoa Kỳ, The Shadow of Arms đẩy sự lên án về phía Hoa Kỳ:
Chúng tôi
ở đây bởi vì anh yêu cầu chúng tôi tới. Chính quyền của các anh muốn chúng tôi
tham gia để bảo vệ sinh mạng của thanh niên Mỹ. Chúng tôi chẳng có gì liên quan
đến cuộc chiến tranh bẩn thỉu này. Thật sự là chúng tôi đã bán mình cho mớ tiền
còm cõi mà anh đã ném vào mặt chúng tôi, và giờ thì chúng tôi ở đây. Nhưng đừng
quên rằng hai người lính đó vừa mới thoát khỏi những trận giao tranh do mệnh lệnh
từ sở chỉ huy của các anh giao cho họ. Họ ở chiến tuyến thay cho anh. Tiền mà
anh biển thủ và không trả lại là tiền máu!63
Sự xung đột giữa động cơ tham chiến ở VN
của HQ, sự đau khổ của binh lính và sự đau khổ của người VN không được giải tỏa
trong những cuốn tiểu thuyết đề cập đến chúng. Trên hết, các tiểu thuyết về
CTVN đẩy vấn đề sang phía Hoa Kỳ, vốn được coi là chủ mưu. Hơn nữa, VN không phải
là trung tâm của tiểu thuyết như HQ, ngay cả khi một sự phê phán có ảnh hưởng
cho rằng cuốn tiểu thuyết như The Shadow of Arms cần phải có nhiều liên
hệ rõ ràng với tình hình của HQ để nhấn mạnh sự quan trọng của nó trong vai trò
là một cuốn tiểu thuyết cho xã hội HQ64.
Mặc dù không có cựu chiến binh tham chiến ở VN nào giống như ba
tác giả đã đề cập phía trên và điều đó cũng không nằm trong phạm vi bài báo
này, tác phẩm của Pang Hyŏnsŏk không thể không đề cập ở đây. Một
ngoại lệ đáng chú ý trong bối cảnh văn chương ở HQ theo nghĩa cuốn sách của ông
ta mô tả VN theo khía cạnh của nó (hay ít nhất là không chỉ theo khía cạnh của
HQ), cuốn tiểu thuyết của Pang Hyŏnsŏk bàn luận
không trực tiếp CTVN và vị thế của VN ở HQ. Một thành viên sáng lập của Hiệp Hội Nhà Văn Trẻ Vì Hiểu Biết Vietnam (베트남을 이 해하려는 젊은 작가들의 모임 ), Pang đồng thời là một nhà văn
từ những năm 1980 trở lại đây đã thể hiện là người ủng hộ kiên định của các lực
lượng tiến bộ trong xã hội HQ. Trong cuốn Form of Being 존재의 형식 (năm 2003 nhận được
giải thưởng văn chương Hwang Sunwŏn 황
순원문학상), ông tiến công
vào vấn đề dịch thuật văn chương và đối thoại văn hóa bằng cách cho một nhà văn
HQ hợp tác cùng với một biên dịch viên VN để dịch một kịch bản phim về CTVN65.Trong
tiểu thuyết Time To Have Lobsters 랍스터를 먹는 시간, ông đã
ghi lại đoạn hội thoại dưới đây về chiến tranh VN và quyết định đưa quân đội HQ
tới đó:
Chúng tôi
cũng biết rằng Hoa Kỳ không đúng. Nhưng chúng tôi vẫn không thể chống lại lệnh
của Hoa Kỳ, thế nên chúng tôi đưa quân tới, bất chấp sự phản đối của người dân.
Có khi nào họ gọi binh lính được gửi tới Iraq là “lính Roh Moo Huyn” giống như
anh gọi binh lính được gửi tới VN là “lính Park Chung Hee”? Kŏnsŏk cố gắng lảng tránh điều
đó với một câu chuyện đùa. Nhưng Pham Banh Cuc không hiểu. Nụ cười trên khuôn mặt
anh ta đã biến mất:
“Tức là người dân Iraq hiểu rằng HQ đến chỗ họ với súng chĩa vào họ,
giống như ở VN. Anh không nghĩ là điều đó quá đơn giản sao?”
“Nhiều người Hàn cảm thấy đáng tiếc về VN.”
“Rồi tất cả họ cũng sẽ cảm thấy đáng tiếc về Iraq, khi mà mọi chuyện
đã qua đi.”66
Sự tích cực về văn chương và xã hội liên quan đến VN của Pang gợi
nhớ đến sáng kiến Hangyŏre 21 mà Hwang Sok-yong ủng hộ. Cũng giống
như sự cô lập đáng kể của sáng kiến liên quan đến việc tiếp tục nhận thức của
HQ về tư tưởng VN, văn chương của Pang (ít nhất là đối với quan điểm của ông về
VN) cũng chỉ hạn chế trong một thiểu số nhỏ: cũng là thiểu số có cảm tình với
sáng kiến Hangyŏre 21. Nhận thức phổ thông của người HQ về VN không phải
là đơn nhất; có những quan điểm đối lập nhau, nhưng chúng được ít người biết tới.
So với những đóng góp to lớn của HQ vào CTVN và tầm ảnh hưởng lớn đối với sự
hình thành của xã hội HQ đương đại, các nhà văn viết đã rất ít về cuộc chiến
tranh này, và từ góc độ dễ gây tổn thương như của Pang thì còn ít hơn nữa.
Chiến tranh VN trong điện ảnh
Một số bộ phim nổi bật về sự tham chiến của HQ trong CTVN đã được
sản xuất67. Trên hết trong số chúng là chuyển thể điện ảnh của The Shadow of Arms, nhưng sau nhiều năm
đồn thổi về việc sản xuất nó (một đạo diễn đã được chọn và dự án được cho là đồng
sản xuất với chính quyền VN), bộ phim vẫn chưa được thực hiện. Một tiểu thuyết
khác đã được chuyển thể thành phim: White
Badge, do An Sŏnggi thủ vai chính, được phát hành năm 1992. Bộ phim về VN này tiếp
sau phim kinh dị R-point năm 2004, là
phim kinh dị tuổi thiếu niên Muoi vào
năm 2005 và Sunny (một sự dịch thuật
tai hại từ tên gốc có nghĩa là My Love in a Faraway Place) vào năm 2008. Tính tất cả, một số
lượng phim rất nhỏ về CTVN đã được sản xuất, đặc biệt là khi so với số lượng
phim của Mỹ về CTVN. Raybang trên thực tế không được tính đến trong số
những bộ phim này, do nó không đề cập tới CTVN và chỉ sử dụng VN như là biểu tượng.
Song nghịch lý thay, đây là bộ phim duy nhất đề cập tới tác động thực sự của trải
nghiệm VN đối với xã hội HQ.
Điện ảnh HQ có truyền thống mạnh mẽ về việc sản xuất các bộ phim
phê phán xã hội đương đại với các loại hình hiện thực, châm biếm, hài kịch hay
bi kịch. Tuy vậy, cũng giống như văn chương về CTVN, thái độ phê phán không dễ
dàng xuất hiện trong các bộ phim về VN. White
Badge là một sự chuyển thể trung thành của tiểu thuyết, thể hiện sự tuyệt vọng
của cựu chiến binh HQ tham chiến ở VN, có sự đau khổ không được thừa nhận và hồi
ức không được phép trong lĩnh vực công khai68. Sự nhấn mạnh của bộ
phim vào trải nghiệm bi kịch của cựu chiến binh tham chiến ở VN, được thể hiện
rõ ràng qua nhân vật chính, một cựu trung sĩ đã kết thúc bằng cách tự tử. Ý tưởng
và sự triển khai của White Badge rất
giống với phim điển hình về CTVN của Hoa Kỳ: lảng tránh mọi sự đối đầu trực tiếp
với vấn đề HQ tham chiến ở VN, tập trung vào sự đau khổ của binh lính HQ và giảm
nhẹ một cách đáng kể sự đau khổ của người VN. Đồng thời, cảm giác đặc biệt về
những trải nghiệm được phản ánh xuất hiện, người VN trải qua những gì mà người
Hàn đã trải qua nhiều thập kỷ trước đó. Cảnh tiết lộ diễn ra trong một câu lạc
bộ tình dục ở It’aewŏn, quận
ăn chơi thường xuyên được lính Mỹ đóng quân ở Seoul lui tới. Sự tương đồng giữa
người VN và người HQ được nhấn mạnh bằng cách thể hiện phụ nữ Hàn (lao động
tình dục) phục vụ lính Mỹ, những cảnh trước đó trong bộ phim đã mô tả phụ nữ VN
phục vụ binh lính HQ. Sự so sánh giữa người Việt và người Hàn được diễn tả lặp
đi lặp lại (trong cả ngôn ngữ và hình tượng của tiểu thuyết), đồng thời sự so
sánh ngầm giữa lính HQ ở VN và lính Mỹ ở HQ bị bỏ qua. Những bối cảnh khác
trong tiểu thuyết (có trong cả hai cuốn tiểu thuyết của Hwang và Pak đã được đề
cập phía trên) cũng xuất hiện trong phim. White
Badge thể là chuyển thể điện ảnh của lời biện minh thường xuyên được sử dụng,
giải thích các vụ thảm sát thường dân là: binh lính HQ nhầm lẫn, không phân biệt
được đâu là kẻ thù và họ chịu thiệt hại nhân mạng (do bẫy mìn) trước khi sát hại
cả toàn bộ dân chúng của một làng.
Bối cảnh nghèo khổ cũng nổi lên. Trước khi lên tàu sang VN, binh
lính trong trung đội tụ tập và uống say. Đến cuối buổi tối say sưa, máy quay
phim chiếu cận cảnh bức tường, nơi có ai đó viết: “Hãy đợi anh, Sunja, anh sẽ
quay trở về với sự giàu có từ VN.” Cuối cùng, ý tưởng cho rằng VN là bài thực
hành cho Kwangju quay lại trong bi kịch chung cuộc của bộ phim: nhân vật chính
đón cựu hạ sĩ quan của anh ta ở bệnh viện, tại đó viên hạ sĩ đã chấp nhận bị cắt
mất tai (trong một ca phẫu thuật, giống như số phận tương tự của những Việt Cộng
đã chết và những thường dân VN đã chết bị báo cáo là Việt Cộng). Đi trên những
đường phố của Seoul, những anh lính lạc lõng trong cuộc biểu tình của sinh viên
và những cảnh bạo lực của cảnh sát, nhấn mạnh rằng VN là khúc dạo đầu và là sự
ám chỉ tới những đau khổ của HQ hiện đại. Bộ phim Sunny năm 2008 đã được chờ đợi nồng nhiệt, khi Yi Chunik làm đạo diễn.
Yi cũng là đạo diễn của phim The King anh
the Clown, một phim lịch sử nhạy cảm về tình yêu giữa hai người đàn ông và Once upon a Time in a Battlefield, một bộ
phim hay về lịch sử, xung đột địa phương và sự hy sinh cá nhân, trái ngược với
tiêu đề tiếng Anh ngây ngô của nó.
Yi Chunik cũng chứng tỏ bản thân là một đạo diễn sáng tạo, không
ngại ngần tấn công các chủ đề nhạy cảm như tình dục đồng giới và chủ nghĩa địa
phương. Hơn nữa, ông còn làm điều đó theo hướng cho phép các điều cấm kỵ ấy được
thảo luận trong xã hội. Trong cả hai bộ phim, Yi đã thành công trong việc giúp
cho các nhóm thiểu số câm lặng (và bị áp bức) bày tỏ tiếng nói. Trong cảm xúc của
người xem, đó là một bộ phim mạnh mẽ thể hiện nỗ lực của một phụ nữ cố gắng tìm
kiếm người chồng đang tham chiến ở VN để thụ thai và mang bào thai về nhà. Mẹ
chồng thúc giục cô làm như vậy, Sunny
là một bức tranh nhạy cảm về người phụ nữ vật lộn với chế độ gia trưởng. Đây
cũng là một câu chuyện có tính thời đại về một cô gái nông thôn ngây thơ và
trinh trắng bị biến thành một nghệ sĩ giải trí từng trải và chín chắn về tình dục.
Bối cảnh của câu chuyện ở VN tạo ra tính bi kịch đủ lớn để thu hút khán giả vào
nhiệm vụ phi lý của Suni, nhưng đồng thời nó cũng mang đến cho bộ phim hương vị
thuộc địa và viễn đông trong phạm vi truyền thống đen và trắng của điện ảnh viễn
đông Anh Quốc. Người VN không nổi bật trong Sunny,
chỉ là một nhóm (đã được dự báo) tú bà, gái mại dâm, thanh niên ngây thơ, du
kích Việt Cộng (người này chỉ thừa nhận là lính Việt Cộng khi mọi việc đã quá
muộn). Trong một cảnh đáng nhớ, Suni và cả nhóm bị một nhóm Việt Cộng bắt giữ
và hỏi tại sao họ tới đây. “Để kiếm tiền”, họ trả lời, viên chỉ huy Việt Cộng
đáp lại: “Thế là tụi mày đến đây với cùng một lý do như quân đội HQ.” Cảnh này
đáng nhớ cả vì nó cho thấy rõ ràng đạo diễn nghĩ gì về vai trò của quân đội HQ ở
VN cũng như người đa sầu đa cảm bẽn lẽn và đơn giản được thể hiện sau đó. Khi cả
nhóm bị đưa đi hành quyết, Suni bắt đầu hát, giải tỏa những cảm xúc dồn nén của
du kích VN. Cả nhóm sau đó trở thành khách, làm việc cùng với các du kích Việt
Cộng và gia đình của họ, đào hào và sau đó vào buổi tối tất cả bọn họ cùng đến
để nghe Suni hát, đung đưa và vỗ tay theo những bài hát HQ của cô. Quan niệm
cho rằng người Hàn và người Việt về cơ bản là giống nhau và chỉ có cuộc chiến
tranh (hay nói cách khác là Hoa Kỳ) là chia rẽ họ được thể hiện rõ ràng trong
phần cuối của bộ phim. Sau khi trại ngầm của du kích bị quân đội Mỹ đột kích,
du kích bị giết hoặc bắt làm tù binh, một lần nữa âm nhạc lại cứu cả nhóm. Khi
ba chỉ huy của quân du kích bị hành quyết tại chỗ, trưởng nhóm bắt đầu hát bài Star-Spangled
Banner, thể hiện sự tương đồng giữa người Hàn và người Mỹ. Sự tái lập sự
khác biệt giữa họ với người VN khi đối mặt với quân đội Hoa Kỳ, các thành viên HQ
sống sót nhờ hát giai điệu của Hoa Kỳ. Mặc dù đạo diễn có thành tích và đã từng
biến một bộ phim về tình dục đồng giới thành bộ phim nổi tiếng nhất từng được sản
xuất ở HQ (cho đến khi kỷ lục này bị bộ phim The Host vượt qua vào năm sau), ông cũng không khám phá tiếp về sự
mập mờ căn bản trong vị thế của HQ ở VN. Trong khi bộ phim là câu chuyện về một
người phụ nữ phiêu lưu trong môi trường nam giới thống trị hoàn toàn, và trong
khi nó không thu hẹp những sự lựa chọn khó khăn (như khi Suni đồng ý ngủ với viên
chỉ huy người Mỹ vì anh ta có thể giúp cô tìm chồng), Sunny là bộ phim đơn thuần lấy HQ làm trung tâm, trong đó VN chỉ là
bối cảnh để gia tăng thêm cho sức nặng của những lo lắng trong nước.
Dĩ nhiên truyền thống trình diễn về CTVN quá mạnh để đạo diễn có
thể vượt qua hoặc ông có thể muốn đưa ra một số quan điểm khác, nhưng sự mô tả
mập mờ về sự bất lực hoàn toàn của quân đội HQ ở VN trong việc tự ra quyết định
hoặc giúp Suny tìm chồng chỉ củng cố thêm luận điểm đã có về văn học, sử học và
điện ảnh HQ liên quan đến VN: quân đội HQ chỉ là lính đánh thuê ở VN. Họ không
cần phải có tiếng nói trong hành động và hệ quả là không phải gánh chịu trách
nhiệm. Trong bộ phim này, cũng như văn học về chủ đề này, trách nhiệm cần được
đặt vào quân đội Hoa Kỳ.
Bộ phim kinh dị Muoi: Legend of a Portrait, trong phim một
nữ văn sĩ HQ viếng thăm người bạn già ở VN và bị bi kịch gắn với bức chân dung
của một cô gái trẻ cuốn hút, hoàn toàn theo nghĩa là một bộ phim thực dân. Muoi là dạng phim kinh dị viễn xứ lấy bối
cảnh một nơi kỳ thú ở nước ngoài. Bối cảnh đầu tiên là một khu Vườn Địa Đàng có
thực: thảm thực vật nhiệt đới tươi tốt được tô điểm bằng các nam gia nhân và nữ
hầu xinh đẹp mặc áo dài. Đó là một
nơi bí ẩn mà tiền mua được nhiều thứ hơn ở quê nhà: vai phản diện có thể sống
xa hoa trong căn biệt thự của bà ta với gia tài mang theo từ HQ. Bất chấp những
khung hình đẹp và kỹ thuật quay phim khéo léo, cho thấy VN trong những chi tiết
quyến rũ, bộ phim này không nói về VN. Đó là phim về HQ và hầu hết là về sự tưởng
tượng của người Hàn về VN. Đồng thời phần của HQ trong CTVN không được thảo luận
cũng như dẫn dắt, sự tương đồng giữa lịch sử gần đây của VN và HQ chỉ được phác
thảo vài lần.
Góc độ thực dân trong cách người Hàn tưởng tượng về VN cũng được
thể hiện rõ trong một phim kinh dị khác là R-point.
Vượt trội trên tất cả mọi góc độ (quay phim, giá trị sản xuất, diễn xuất, kịch
bản, đạo diễn, biên tập, vân vân…), đó là câu chuyện về một trung đội lính HQ
được điều tới một nông trại của Pháp bị bỏ hoang (được gọi là R-point), tại đó
họ phải tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra với một trung đội lính HQ khác đã mất
tích. Những điều kỳ lạ bắt đầu xảy ra và binh lính bắt đầu phát điên hoặc đột tử,
đồng thời mọi thứ trở nên rõ ràng là người Hàn trở thành mục tiêu bởi vì họ xâm
lược và chiếm đóng VN. Nông trại được xây dựng trên một cái hồ bị lấp, nơi từng
là chiến trường giữa quân xâm lược Trung Quốc và quân đội VN. Một tấm bia xuất
hiện vào cuối bộ phim, trên đó viết rằng tất cả những kẻ xâm lược VN đều sẽ bị
giết. Người Hàn, trong vai trò một đồng minh của người Mỹ, cũng bị coi là những
kẻ xâm lược như người Trung Quốc, người Pháp và người Mỹ, tất cả đều sẽ bị giết
chết tại cùng một nơi. R-point là một
ngoại lệ theo nghĩa là trực tiếp lên án quân đội HQ vì đã xâm lược VN. Một lần
nữa, cũng giống như các bộ phim khác, người VN không thực sự được khắc họa
trong bộ phim này, nhưng thông điệp của R-point
là rõ ràng: những kẻ xâm lược là sai về mặt đạo đức và sẽ bị trừng phạt – ít nhất
là trong phim kinh dị, nếu không phải là trong đời thực. Các thức huyền ảo mà R-point được tạo ra khiến người ta hầu
như không phân định được rằng những người lính Hàn bất hạnh là nạn nhân trong sự
trả thù của những hồn ma VN, thủ phạm hay cả hai, gợi nhớ đến The Shadow of Arms, trong đó thế lưỡng
nan tương tự cũng được trình bày nhưng không được giải quyết. R-point đã tiến
thêm một bước trong việc đưa ra lời lên án; bộ phim vẫn phù hợp với tư tưởng
thông thường của người HQ, khi nó thể hiện binh lính HQ ở VN trước hết là nạn
nhân (của chính quyền, Hoa Kỳ và Việt Cộng), trước khi thừa nhận quyền lực thực
dân mà họ thi hành (và sự lạm quyền). Tính đạo đức giả của Muoi hay White Badge, những
bộ phim nhấn mạnh sự đau khổ chung của VN và HQ, không xuất hiện, nhưng người VN
vẫn không xuất hiện (trong bộ phim này có thể nói theo nghĩa đen như vậy).
Cuối cùng, Raybang,
trong khi không phải là một bộ phim về VN, dĩ nhiên là biểu tượng đẹp nhất về VN
trong trí tưởng tượng của công chúng HQ. Bộ phim ít đề cập đến VN, nhưng thiếu VN
thì sẽ không có bộ phim. VN được mô tả như là nơi mà những giấc mơ sẽ trở thành
hiện thực và vẫn có thể kiếm được tiền (như bức ảnh cũ kỹ về ông chú đeo kính
Ray-Bans đứng cạnh một phụ nữ VN xinh đẹp cho thấy). Sự ám chỉ về VN có ba phần:
nó tồn tại trong lịch sử của chiếc kính râm, trong giấc mơ của ba tài xế taxi về
việc trốn sang VN để sống cuộc sống tốt hơn và trong việc so sánh giữa sự hi
sinh cho kinh tế của thế hệ người chú với sự hi sinh cho kinh tế của thế hệ hiện
tại, trong khi cùng phải chịu đựng chung một sự lảng tránh. VN thường xuyên bị
giấu đi, nhưng luôn luôn hiện diện như là nơi của những giấc mơ chưa thành hiện
thực và những hy sinh chưa được thừa nhận.
Nhận thức về VN
VN đã nhận được sự quan tâm lớn ở HQ vào những năm 90 và những năm
gần đây trong thiên niên kỷ mới. Sau khi quan hệ ngoại giao được khôi phục vào
năm 1993, doanh nhân HQ bắt đầu tới VN để tuyển dụng thực tập sinh (rẻ hơn công
nhân HQ và dễ xin giấy phép lao động hơn), thuê ngoài các hoạt động chế tạo và
lập các văn phòng hay nhà máy chi nhánh69. Những bài báo do doanh
nhân HQ viết ngay sau khi tái lập quan hệ ngoại giao cho thấy họ phản ánh tư tưởng
phổ thông về VN70. Tác giả sắp xếp sự kích động nhuốm màu sợ hãi
theo cách ít nhiều phản ánh các tác phẩm của những tác giả thực dân viếng thăm
các tỉnh ngoại vi của đế quốc: Có thể nói rằng người HQ viếng thăm VN gần đây
đã trải qua các hiện tượng kỳ lạ của trải nghiệm cá nhân về sự siêu việt của
người HQ chứ không phải nỗi sợ hãi đối với chủ nghĩa xã hội71.
Sự kết hợp giữa nỗi sợ hãi những điều bí ẩn và cảm giác siêu việt
là phép chuyển nghĩa thực dân nổi tiếng (nhất là khi kết hợp với sự bóc lột
kinh tế đối với thực tập sinh và công nhân VN ở HQ vào những năm 1990). Thái độ
tương tự cũng được phản ánh trong sự thanh thản mà tác giả triển khai hình mẫu
thực dân để lảng tránh những hồi ức về sự tham chiến của HQ trong CTVN. Người VN,
cũng giống như các dân Đông Nam Á khác, đã dễ dàng quên sự đau khổ của họ và “quá
khứ là quá khứ.”72 Hơn nữa, như tất cả các tác giả đã khẳng định,
người VN giờ đây cũng giống như người Hàn: “Những nỗi sợ hãi từ chiến tranh vẫn
hiện diện nhưng người VN đã quên việc HQ
sát cánh của Hoa Kỳ trong CTVN.”73 Chiến tranh vẫn hiện diện
trong hồi ức của khách du lịch HQ; nó không bị quên lãng, chỉ bị đè nén và lảnh
tránh, giống như con cừu đen trong gia đình, ông chú ngây ngô mà không ai muốn
gặp. Đồng thời, tác giả thường xuyên vui vẻ đến thăm đất nước này, tìm kiếm
“Hòn Ngọc Viễn Đông”, như người Pháp đã từng gọi Hà Nội74. Tất cả
các trang viết của ông ta đều toát lên cảm giác hoài niệm về một thuộc địa đã mất
của thời xa xưa. Khi nhắc lại rằng “những ngôi làng nông thôn của người VN cũng
giống như những ngôi làng nông thôn của HQ”75, tác giả đã hoàn toàn chìm
đắm trong giấc mơ của thời thực dân. Sự hiểu biết về chiến tranh của ông ta dường
như mất tích. Bất cứ nơi nào ông ta tới, ông ta đều nghe thấy rằng “Ttaihan [HQ]
là số một!”76 Không ở đâu ông ta vướng vào một cuộc tranh luận về
chiến tranh, hay thậm chí là trong tác phẩm du hành của ông ta.
Di tích duy nhất còn lại của chiến tranh được cho phép tham gia
vào hiện tại là cái mà ông ta (và những người khác) gọi là “thế hệ thứ hai của
Ttaihan”, hay những đứa trẻ có bố là người Hàn và mẹ là người Việt. Toàn bộ chiến
tranh bị rút gọn lại thành những đứa trẻ đó, nhiều trong số chúng có cuộc sống
khó khăn vì nguồn gốc của bản thân. Nói tóm lại, quan điểm dạng này (tràn ngập
trong các tác phẩm du hành được xuất bản trên các tuần báo và nhật báo phổ
thông) là thực dân và bảo hộ theo nghĩa đen: tác giả đề cập tới một vài doanh
nhân có mối quan tâm huyết thống với thế hệ trẻ em Ttaihan thứ hai và thể hiện
vai trò là cha của chúng. Mọi cảm giác về sai lầm liên quan đến chiến tranh đều
được thăng hoa trong mối phẫn nộ đúng đắn liên quan đến số phận của con lai
Hàn-Việt và những hậu quả của sự tham chiến của HQ chỉ được coi là thiệt hại về
con người đối với thế hệ thứ hai của Ttaihan ở VN.
VN hầu như biến mất khỏi nhận thức phổ thông và chỉ tái xuất hiện
dưới dạng nơi thực hiện những ước mơ, một phần là bởi vì những gì cựu chiến
binh tham chiến ở VN nhận được khi trở về quê nhà. Hướng tới việc kết thúc sự
can thiệp quân sự ở VN, sự tiếp nhận cựu chiến binh ở HQ đã thay đổi nhanh
chóng, trở thành tiêu cực vào đầu những năm 1970. Có một số yếu tố đóng góp vào
sự thay đổi này: thái độ của truyền thông Hoa Kỳ, ngày càng trở nên tiêu cực, số
lượng thiệt mạng gia tăng của lính HQ, các chiến thắng của quân đội Bắc Việt và
cuối cùng là sự hiểu biết gia tăng của xã hội HQ về các vụ thảm sát thường dân VN
mà quân đội HQ gây ra77. Theo một nhà xã hội học:
Những yếu
tố quyết định nhất đối với hồi ức về VN không bao giờ được coi là hồi ức chung,
trên thực tế đó là trải nghiệm của một nhóm thiểu số, không bao giờ được người
dân HQ chấp nhận; hệ quả là sự đồng cảm của tất cả mọi người nói chung không
bao giờ đạt được78.
Nếu như chúng ta bổ sung thêm sự kiểm
duyệt, sự đè nén và sự đảo ngược của hồi ức vào đẳng thức, khẳng định này rõ
ràng là chân thật. Kết quả là một số thứ theo kiểu phương đông hóa VN đã diễn
ra. Trên nền sự phát triển kinh tế thần tốc của HQ và sự thèm khát đối với đầu
tư ra nước ngoài của họ vào những năm 1990, VN được tái cấu trúc trong nhận thức
phổ thông thành nơi của những tiềm năng, nơi mà người ta có thể tới và tạo ra điều
gì đó cho bản thân. Chiến tranh dường như phải bị quên lãng. Khi nói với chủ tịch
VN vào năm 1992 ngay trước khi tái lập quan hệ ngoại giao, tổng thống Roh Dae
Woo (một cựu binh tham chiến ở VN) đã bóng gió đề cập đến chiến tranh. Ông ta
tuyên bố: “Tôi cảm thấy đáng tiếc về những thời kỳ bất hạnh trong lịch sử của
chúng ta.”79 Kim Dae Jung đã thận trọng khi nói với chủ tịch VN vào
năm 2001: “Tôi lấy làm tiếc về sự thật là việc tham chiến vào một cuộc chiến
tranh bất hạnh mà chúng tôi không sẵn sàng đã gây ra cho người dân VN những đau
khổ và xin gửi tới các bạn những lời chia buồn.”80
Mặc dù chiến tranh chỉ được liên hệ một cách không trực tiếp song
rõ ràng là trách nhiệm về những gì đã xảy ra không nằm ở phía HQ. Đồng thời, VN
được coi là mối quan tâm mới ở HQ và trong nhận thức phổ thông của HQ. Với việc
HQ là nhóm di dân lớn thứ hai ở VN (54.000 vào năm 2007 và 84.000 vào năm 2009)81,
đầu tư ở Việt Năm tăng từ 2 tỷ dollar vào năm 1996 lên 11 tỷ dollar vào năm 20782.
Có khoảng từ 2.000 đến 3.000 trung tâm môi giới được thành lập ở HQ để môi giới
hôn nhân giữa phụ nữ VN và đàn ông HQ83. Các biển quảng cáo “Trinh nữ
VN베트남 처
녀” thường xuyên xuất hiện ở các khu vực nông thôn. Các trung tâm
này có vẻ khá hiệu quả: từ năm 2006 trở lại đây có khoảng 5.000 phụ nữ VN kết
hôn với đàn ông HQ mỗi năm (chủ yếu là nông dân), nhằm tìm kiếm sự ổn định tài
chính và phong cách sống xa hoa mà Làn Sóng Hàn phổ biến (phim truyền hình ủy mị
dài tập rất được ưa chuộng ở VN)84. Các hướng dẫn thực hành, lịch sử
phổ thông về VN và bộ tra cứu tiếng Việt tràn ngập thị trường, mặc dù những điều
đáng chú ý trong lịch sử tham chiến của quân đội HQ ở VN hiếm khi được đề cập
(nếu không nói là hoàn toàn không)85. Sự quan trọng hiện tại của VN
đối với HQ bị phức tạp hóa bởi quá khứ chung của hai quốc gia. Khi tổng thống
Lee Myoung Bak viếng thăm VN vào năm 2009, xung đột đã vây quanh việc chuẩn bị
chuyến tham. Giống như người tiền nhiệm Roh Moo Hyun, Lee quyết định tới thăm
lăng Hồ Chí Minh để đặt vòng hoa, giải thích rằng Hồ “trong vai trò lãnh đạo của
nhân dân VN là biểu tượng mà tôi không thể vờ như không biết đến.” Ông ta làm
việc đó bất chấp sự phản đối quốc nội đáng kể chống lại ý tưởng của tổng thống HQ
về việc bày tỏ sự tôn kính đối với một người từng là kẻ thù của quốc gia. Cả
Kim Young Sam lẫn Kim Dae Jung đều không viếng thăm lăng khi họ đến thăm VN vào
năm 1996 và 1998. Vấn đề phức tạp hồi đó là việc Lee ký một đề xuất lập pháp về
việc cải thiện sự chăm sóc đối với cựu chiến binh HQ tham chiến ở VN. Đề xuất
này có một câu khiến chính quyền VN phản đối kịch liệt: “các cựu chiến binh tận
tụy của CTVN là những người đóng góp vào việc bảo vệ hòa bình thế giới.”
Chính quyền HQ đã nhượng bộ trước sức ép của VN và hứa hẹn “theo
đuổi một lộ trình loại bỏ mọi sự biểu đạt mang tính tiêu cực về ngoại giao đối
với cả hai bên.” Bị buộc phải đánh đu giữa những người ủng hộ bảo thủ bằng cách
“trở nên cực kỳ lịch sự khi đề cập tới quá khứ [quốc gia] của chúng ta” và
“khiêm nhường” tìm kiếm các quan hệ kinh tế quan trọng với VN “cho tương lai”,
Lee đã phải trải qua những cạm bẫy của nhận thức của HQ về CTVN86.
VN (nhờ mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với HQ và vị thế một nhà nước
cộng sản) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý người tị nạn Bắc Triều
Tiên. HQ tổ chức một số nhà an toàn ở VN cho người tị nạn Bắc Triều Tiên và con
đường tới VN không nguy hiểm như các đường thoát khác87. Vào năm
2004, VN đã gánh chịu sự tức giận của Bắc Triều Tiên khi cho phép 468 người tị
nạn được di tản bằng đường hàng không khỏi VN và bay tới HQ88. Hay
nói cách khác, VN đóng vai trò người trung gian trong mối quan hệ giữa Bắc Triều
Tiên và HQ.
Vai trò của cựu chiến binh tham chiến ở VN trong mối quan hệ mới
giữa VN và HQ là gì? Hầu như không, có lẽ vậy. Họ bị loại hoàn toàn khỏi bối cảnh.
Sau khi bị lảng tránh suốt hai thập kỷ, vào năm 1992, việc nhiều cựu chiến binh
chịu ảnh hưởng của chất độc màu da cam và các chất khai quang khác đã được sử dụng
ở VN được công khai89. Một số hội cựu chiến binh đấu tranh để hội chứng
được công nhận và các cựu chiến binh được bồi thường90. Trong khi sự
đấu tranh vẫn tiếp diễn, các hội cựu chiến binh tham chiến ở VN chủ yếu hoạt động
trên web, có ít hoạt động trong các lĩnh vực khác. Duy trì các website chìm đắm
trong hoài niệm về một VN đã biến mất bốn thập kỷ trước, các hội cựu chiến binh
muốn thông qua các website và thành viên của họ lưu giữ ký ức về CTVN: những sự
hi sinh đã xảy ra và những điều kinh hoàng đã trải qua91.
Đây là một ngoại lệ đối với hầu hết sự lãng quên đối với sự tham
chiến của HQ trong CTVN. Ngay giữa sự bùng nổ của VN vào năm 1999, tuần báo
cánh tả Hangyŏre 21 phát động sáng kiến bù đắp thiệt hại mà quân đội HQ
gây ra cho VN92. “Hãy cầu xin để lịch sử đáng buồn của chúng ta có
thể được tha thứ” – một sáng kiến nhằm gây quỹ cho nhiều mục tiêu: xây dựng bệnh
viện ở VN; đưa các nhà báo tới thăm các địa điểm thảm sát thường dân để phục vụ
cho mục đích nghiên cứu; thực hiện các cuộc phỏng vấn với người VN sống sót
trong các vụ thảm sát cũng như các cựu chiến binh HQ sẵn sàng nói về phía họ
trong các vụ thảm sát93. Sáng kiến đã nhanh chóng thu được sự ủng hộ
của phụ nữ HQ, những người đã bị buộc phải làm phụ nữ giải trí phục vụ lính Nhật
Bản trong Thế Chiến thứ II94. Nhanh chóng nổi tiếng (kích động),
sáng kiến đã giúp cho ba NGO về bồi thường cho VN dưới dạng viện trợ nhân đạo
được thành lập. Đồng thời nó cũng khiến cho các cựu chiến binh tham chiến ở VN
tức giận, họ cảm thấy bị phản bội khi Hangyŏre 21 phủ nhận sự biện minh đạo đức của họ. Họ tổ chức
biểu tình và thậm chí tấn công và chiếm đóng các cơ sở của nhóm Hangyŏre, tấn công một số nhân viên của nhóm với gậy sắt95.
Sau nhiều năm, có một số người lên tiếng thúc giục việc xem xét lại vai trò của
HQ trong chiến tranh VN, nhưng những người này bị cô lập, không bao giờ đạt được
mức độ thừa nhận (hoặc là sự sỉ nhục đối với một số người) giống như sáng kiến Hangyŏre 21. Bất chấp quy mô và hoạt động kéo dài cả năm (với
hàng trăm bài báo về các vụ thảm sát ở VN được công bố), sáng kiến đã không
thành công trong việc xâm nhập vào ý thức phổ thông của người HQ.
Điều này là rõ ràng dựa trên sự thực là dân chúng HQ đã không thay
đổi một cách đáng kể nhận thức của họ về VN sau khi sáng kiến kết thúc vào năm
2001: các sản phẩm từ văn hóa đại chúng (điện ảnh, phim truyền hình, tiểu thuyết,
vân vân…) vẫn tiếp tục lảng tránh đề cập về CTVN và sự tham gia của HQ.
Kết luận
Trong khi lợi nhuận thu được từ chiến tranh VN là quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế thần tốc của HQ vào những năm 1970, sức mạnh của “chính
trị đau khổ” ở HQ khiến cho HQ tham gia vào CTVN đã được công thức hóa thành
khái niệm sự đau khổ của HQ, với một số ngoại lệ nhỏ. Lập luận này khẳng định rằng
HQ cũng chịu đau khổ từ chiến tranh như VN, một khẳng định mà sự thật đã không
và không thể đo lường. Lập luận này còn khai thác hình ảnh phản chiếu của lịch
sử VN trong phạm vi tường thuật về sự phát triển kinh tế của HQ theo hướng có lợi
cho lập luận của HQ về đặc trưng và lịch sử. Chính trị đau khổ giờ đây thuộc về
phạm vi công một cách chắc chắn, đã được sự kiểm duyệt của chính quyền đối với
các nghiên cứu liên quan đến CTVN nuôi dưỡng trong nhiều năm. Sự đau khổ thực sự
của lính HQ ở VN cũng như người lao động HQ đã đóng góp vào sự thần kỳ của Hàn
đã bị bỏ qua trong lập luận này. Một ít tiểu thuyết viết về CTVN của cựu chiến
binh tham chiến ở VN chỉ củng cố thêm hình ảnh cho thấy sự tham chiến của HQ là
sự bắt buộc, trách nhiệm của HQ biến mất (Hoa Kỳ phải chịu trách nhiệm) và người
Hàn cũng chịu sự đau khổ lớn lao như người VN.
Sử học chuyên nghiệp hầu như tuân theo một cách không phê phán
quan điểm phổ thông về CTVN tới mức mà lịch sử của VN do một nhà sử học chuyên
nghiệp xuất bản ở HQ hoàn toàn bỏ sót việc tham chiến của quân đội HQ trong
CTVN. Việc các nhà sử học chuyên nghiệp (cho đến rất gần đây) không tham gia
vào cái mà một nhà sử học HQ coi là “sự kiện quốc tế có ảnh hưởng lớn nhất mà HQ
từng đối mặt ngoài Chiến Tranh Triều Tiên”96, đã khiến cho hai huyền
thoại quốc gia và lịch sử phổ thông không bị thách thức: huyền thoại về việc điều
thần kỳ ở Hàn hoàn toàn là sản phẩm tự thân thay vì được CTVN tài trợ và huyền
thoại về việc HQ chưa bao giờ xâm lược một quốc gia khác. Những huyền thoại này
– vốn trên thực tế là những huyền thoại căn bản hay huyền thoại chính trị căn bản
– tối quan trọng trong việc duy trì sự tự nhận thức và đặc trưng quốc gia của HQ.
Việc xem xét lại tầm quan trọng của CTVN trong lịch sử và xã hội HQ sẽ không thể
tránh khỏi sự liên quan đến việc xem xét lại đặc trưng quốc gia của HQ đương đại.
Theo nhiều cách, CTVN là một lĩnh vực không điển hình của nghiên cứu
lịch sử. Các tranh luận về đạo đức thường xuyên bao quanh các chủ đề gây tranh
cãi khác trong sử học HQ đều bị chính trị đau khổ loại bỏ và dường như không có
mấy hội thoại hay đối thoại giữa lĩnh vực nhận thức phổ thông và nghiên cứu
chuyên nghiệp. Trái lại, hầu hết các trường hợp nghiên cứu chuyên nghiệp đều nhắc
lại các nội dung của nhận thức phổ thông. Một ví dụ mâu thuẫn do tạp chí Hangyŏre (cũng do nhà xuất bản ủng hộ sáng kiến chuộc lỗi Hangyŏre 21 phát hành) cung cấp. Vào cùng một ngày, bài báo
dài và đầy phẫn nộ về vụ thảm sát thường dân do quân đội Hoa Kỳ gây ra ở Nogŭn-ri vào năm 1950 và Hoa Kỳ không xin lỗi chiếm ngay trang nhất, trang ba
đăng tải nổi bật một cuộc phỏng vấn Ch’ae Myŏngshin, cựu tổng tư lệnh của quân
đội HQ ở VN, trong đó Ch’ae biện minh trước những lời cáo buộc của VN về việc
lính của ông ta thảm sát thường dân VN. Theo Ch’ae, lính HQ không đáng bị lên
án, do họ không thể phân biệt được giữa du kích Việt Cộng và thường dân VN. Nực
cười thay, đó cũng chính là lập luận mà bính lính Hoa Kỳ dùng để biện minh cho
vụ thảm sát Nogŭn-ri.
Cần phải khẳng định rõ ràng rằng sự đối xử đối với CTVN trong lịch
sử hiện đại của HQ không phải là không có sự tương tự. Nhiều quốc gia, đặc biệt
là những quốc gia có quá khứ thuộc địa, cũng cung cấp những ví dụ tương tự
trong lịch sử quốc gia của họ. Ví dụ gần gũi là quá khứ thực dân của Hà Lan
không bao giờ được nhận thức phổ thông của người Hà Lan thừa nhận (và cũng gần
như không được các nhà sử học chuyên nghiệp thừa nhận). Bằng cách thể hiện sự
đau khổ của người Hàn trong Chiến Tranh Triều Tiên và binh lính HQ trong và sau
CTVN, phần VN đã bị đẩy ra khỏi câu chuyện, việc người Hà Lan đau khổ trong những
trại tử thần của Nhật Bản thời Thế Chiến II97 đã khiến cho việc đối
mặt với hậu quả của chính sách thực dân (bóc lột, lạm dụng, thảm sát) kéo dài
350 năm ở Indonesia98 hoàn toàn là bất khả thi. Sự đau khổ của cựu
chiến binh Hà Lan trong cái vẫn được nói trại là “hoạt động cảnh sát của Hà
Lan” (hiện giờ được coi là các cuộc tấn công do cựu thực dân chủ mưu để đàn áp
cuộc đấu tranh giành độc lập của Indonesia) cũng góp phần ngăn cản tiếng nói của
Indonesia trong cuộc tranh luận phổ
thông của Hà Lan99. Cũng giống như đồng sự HQ, binh lính Hà Lan đã
trải qua một cuộc chiến tranh dài tại quốc nội trước khi được gửi tới vùng nhiệt
đới. Sự đau khổ của họ (ngẫu nhiên là rất thực), cả trong và sau cuộc chiến độc
lập, vẫn tiếp tục cản trở quan điểm tự do hơn của lịch sử thuộc địa, lợi ích của
bản thân nó không thể hiện như là chủ nghĩa vị tha. Chính trị đau khổ, việc
khai thác sự đau khổ của con người cho mục tiêu chính trị, không có quốc tịch.
Câu chuyện này có thể tìm thấy ở bất cứ đâu, trong hàng sa số các phiên bản,
hình dạng và hiện tượng, hằng số duy nhất là sự đau khổ của con người và sự
thao túng nó.
Sự thịnh hành của chính trị đau khổ trong hồi ức về CTVN (được sự
kiểm duyệt của chính quyền hỗ trợ) đã tạo ra hình ảnh xuyên tạc về VN, trong đó
VN chỉ được nhớ tới như là nơi dễ kiếm lợi nhuận và phiêu lưu cũng như là nơi
thể hiện sự ưu việt của người Hàn. Sự bùng nổ của VN vào những năm 1990 xác nhận
khái niệm này đã đến hồi kết thúc, do HQ trở thành nhà đầu tư lớn nhất vào VN.
Điện ảnh về VN của HQ phản ánh thái độ này một cách trung thành. Cũng giống như
các tác phẩm phổ biến về VN, nhìn chung chúng mang tính chất thực dân, phương
đông hóa và kỳ thú. Người VN được mô tả (nếu như họ được mô tả) giống như người
Đông Nam Á điển hình, dễ dàng hài lòng và vui lòng tha thứ, sự kỳ thú phong
phú, nhiệt đới và huyền bí bao quanh họ. Trong đó, những bộ phim trình bày một
sự tương đồng với các bộ phim kỳ thú dựa trên bối cảnh thuộc địa ở khắp nơi
trên thế giới. Ban đầu tôi đã dẫn chứng tác phẩm của Hwang Sok-yong cho thấy
trong tưởng tượng của ông thì sự khác biệt giữa thế hệ cha của ông, phải phục vụ
cho Quân Đội Đế Quốc Nhật Bản, và thế hệ của ông, phải phục vụ và chết ở VN cho
Hoa Kỳ, không lớn. Tác giả có thể mở rộng sự so sánh này bằng cách lưu ý rằng
Manchuria trong trí tưởng tượng thực dân của Triều Tiên dưới thời Nhật Bản cai
trị Triều Tiên là nơi tìm kiếm lợi nhuận, phiêu lưu và tiềm năng, cũng có thể
chuyển sang cho VN vào những năm 1990. Trong khi Manchuria là thuộc địa của thuộc
địa (ít nhất là trong trí tưởng tượng của công chúng) dưới thời thực dân Nhật Bản,
VN trở thành thuộc địa của thuộc địa dưới thời phụ thuộc vào Hoa Kỳ vào cuối những
năm 1960 và 1970100. Cả hai đều sinh ra các tường thuật về sự chinh
phục (tình dục hoặc chủ đề khác), lợi nhuận và sự hứa hẹn về cuộc phiêu lưu kỳ
thú. Chiến tranh, nếu như được đề cập, chỉ là một hồi ức bị quên lãng, một thân
xác nằm trong nấm mộ không dấu vết. Nhưng cùng với thời gian, mùi hôi thối của
nó bốc lên.
Chú thích:
Phần này tôi không dịch để rút gọn bài, xin hãy xem bản gốc tiếng Anh được dẫn link ở tiêu đề.
Phần này tôi không dịch để rút gọn bài, xin hãy xem bản gốc tiếng Anh được dẫn link ở tiêu đề.