Thursday, September 24, 2015

Hiếp dâm ở khuôn viên đại học: Súng không phải là câu trả lời

Báo chí Việt Nam từng kêu gào rằng tự do hóa mại dâm sẽ làm giảm nạn hiếp dâm, với logic là những kẻ hiếp dâm có thể tự do mua dâm thì sẽ không hiếp dâm nữa, tất nhiên đó là một lập luận có phần đần độn để vận động cho việc hợp pháp hóa mại dâm. Báo chí Mỹ thì kêu gào rằng phụ nữ mang súng sẽ ngăn chặn được nạn hiếp dâm, song sự thật thì ngược lại, không những không ngăn chặn được mà phụ nữ còn có nguy cơ bị giết cao hơn. Lập luận cũng không kém phần đần độn đó của báo chí Mỹ là để thúc đẩy doanh số bán súng. Trong xã hội tư bản, bạn không cần phải quan tâm tới mối quan hệ với người khác, bạn chỉ cần mua thứ gì đó để được an toàn, giải pháp tối cao của kinh tế thị trường luôn là như vậy, ở Mỹ cũng như ở Việt Nam. Dưới đây là nội dung bài viết "Rape on Campus: Guns are not the answer" của nữ giảng viên ngành tội phạm học Laura Finley trình bày về vấn đề súng không bảo vệ được phụ nữ khỏi bị hiếp dâm tại trường đại học.

Hiếp dâm ở khuôn viên đại học: Súng không phải là câu trả lời

Vài ngày trước đây, tờ Miami Herald đăng bài xã luận của một sinh viên lập luận rằng cho phép sinh viên bí mật mang theo súng trong khuôn viên trường đại học không chỉ là quyền hợp hiến mà còn giúp ngăn chặn hiếp dâm. Tôi tôn trọng sự đam mê của cô ấy về chủ đề này và buồn rầu khi được đọc về các nạn nhân, nhưng quan điểm này rất có vấn đề. Tôi không muốn bàn về lập luận hợp hiến ở đây, nhưng tôi không thể bất chấp lương tâm để không trả lời lập luận về việc một người phụ nữ với súng có thể ngăn chặn kẻ thủ ác hiếp dâm cô ấy. 

Thứ nhất, các nghiên cứu không cho thấy phụ nữ có vũ trang có thể ngăn chặn tấn công tình dục hay bạo lực gia đình và bạo lực hẹn hò. Một phần, điều này là bởi vì hầu hết các tấn công tình dục xảy ra trong khuôn khổ của quan hệ hẹn hò. Do đa số nạn nhân không chỉ “quen thuộc” kẻ tấn công mà thực tế còn có quan hệ theo cách nào đó với chúng, chẳng có vẻ gì là họ sẽ vũ trang khi đi ra ngoài chơi đêm với bạn bè vì vũ khí không tạo ra điều gì tốt đẹp cả.

Hơn nữa, hầu hết các vụ tấn công tình dục diễn ra khi sinh viên (cả thủ phạm và nạn nhân) đều bị ảnh hưởng bởi rượu, có một khẩu súng tham dự sẽ không làm cho mọi chuyện tốt hơn. Trên thực tế, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng súng làm cho tình hình tồi tệ hơn, rất tệ, thậm chí ngay cả khi không có tác động kích động sự hung hãn và mất phản xạ của rượu. Các nghiên cứu cho thấy phụ nữ thường bị giết hại với súng ngắn hơn là giết một người lạ để tự vệ. Trên thực tế, tỷ lệ đó nhiều gấp 300 lần. Tỷ lệ hiếp dâm thường xuyên cao hơn ở những bang có tỷ lệ sử dụng súng cao hơn. Phụ nữ bị đối tác gần gũi giết hại cao gấp 83 lần so với việc cô ấy giết anh ta để tự vệ. Sự hiện diện của súng trong tình huống bạo lực gia đình được dự đoán là gia tăng nguy cơ tự tử (đối với nạn nhân của tấn công tình dục, phần lớn) 500 phần trăm. Do tiếp cận súng dễ dàng, phụ nữ ở Hoa Kỳ có nguy cơ bị giết hại cao gấp 11 lần bằng vũ khí nóng so với phụ nữ ở các nước có thu nhập cao khác. Tôi có thể tiếp tục, nhưng không cần thiết. Dữ liệu là hoàn toàn rõ ràng đối với chủ đề này: Súng dường như được sử dụng để chống lại nạn nhân của tấn công tình dục hơn là bảo vệ họ, gia tăng nguy cơ thiệt hại thay vì làm giảm.

Thêm vào đó việc cho phép mang vũ khí bí mật ở khuôn viên đại học chỉ làm rối những người phản ứng đầu tiên, những người không biết đến bối cảnh hay chi tiết của tình huống, sẽ không thể tránh khỏi sự sợ hãi cũng như bối rối giữa khoa và sinh viên, lo lắng về những người đang tức giận, kết quả là một thùng thuốc súng dựa trên hùng biện, chứ không phải hiện thực. 

Tuy vậy hùng biện thì mạnh và được những thế lực tài chính và tuyên truyền của Hiệp Hội Súng Trường Quốc Gia (NRA) hậu thuẫn. Ví dụ, một nghị sĩ Nevada đã đề xuất vào đầu năm rằng “các cô gái trẻ, hấp dẫn ở khuôn viên đại học” phải tự vũ trang để chống hiếp dâm. Bình luận của bà ta không chỉ bốc mùi phân biệt giới tính kỳ dị, chúng cũng khuyến khích dạng cực kỳ nguy hiểm của việc lên án nạn nhân, khi cho rằng trách nhiệm chống lại sự tấn công không phải là của kẻ thủ ác mà là của nạn nhân. Chúng ta sẽ không bao giờ chấm dứt được nạn cưỡng hiếp khi chúng ta tiếp tục nói với phụ nữ rằng trách nhiệm của họ là tránh chúng. Chỉ có một bên có lỗi trong mọi vụ hiếp dâm: kẻ hiếp dâm. 

Ở Florida, đại diện bang Dennis K. Baxley lập luận, “Nếu bạn biết một người tốt bị cưỡng hiếp bởi vì bạn không cho phép họ mang vũ khi tự vệ, tôi cho rằng bạn phải chịu trách nhiệm.” Nếu Baxley muốn lặp lại rằng trách nhiệm của các khuôn viên trường đại học là ngăn chặn cưỡng hiếp thì thật hoang tưởng, nhưng đó không phải là vấn đề. Trái lại, ông ta cũng đáng bị coi là thủ phạm, khi buộc mọi người gánh trách nhiệm, ngoại trừ thủ phạm.

Điều mà các khuôn viên trường đại học phải làm là đối mặt với sự thật, hiếp dâm là tội ác mà thủ phạm thường gây do họ đắm chìm trong văn hóa hiếp dâm. Các chương trình, chính sách và luật lệ buộc nạn nhân thay đổi cũng tham gia vào văn hóa này, như vậy không bao giờ thực sự có hiệu quả. Thay vì thay đổi nhận thức của mục tiêu, chúng ta cần thay đổi động cơ của thủ phạm. Chương trình tốt nhất là nhận diện tính chất của mối quan hệ, tập trung vào việc giúp mọi người tạo ra các ràng buộc và đối thoại hiệu quả với người khác, giúp những người khác học cũng như được khuyến khích chống lại, lên tiếng khi họ nhìn hoặc nghe thấy chuyện gì có khả năng nguy hiểm. Hãy rời khỏi hùng biện để đến với hiện thực, để chúng ta thực sự có thể ngăn chặn nạn hiếp dâm ở khuôn viên trường đại học.

Laura Finley, Ph.D., teaches in the Barry University Department of Sociology & Criminology and is syndicated by PeaceVoice.

Hội chứng Việt Nam của báo chí: Suy nghĩ về việc Brian Williams quay trở lại làm việc

Một cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, hiện giờ là giáo sư xã hội học ở Mỹ, phản đối huyền thoại về sự tự do của phóng viên chiến trường Mỹ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Đó là nội dung của bài viết "Journalism’s Vietnam Syndrome: Thoughts Upon Brian Williams’s Return to Work". Qua đó chúng ta có thể thấy tự truyền thông Hoa Kỳ đã tạo ra huyền thoại về tự do báo chí ra sao, sự tự do ấy không chỉ đánh lừa công chúng về độ tin cậy của tin tức mà nó còn giúp cho các chủ hãng tin tức có lý do để đẩy phóng viên vào sự nguy hiểm của chiến tranh.

Hội chứng Việt Nam của báo chí: Suy nghĩ về việc Brian Williams quay trở lại làm việc

Một trong những người bạn tốt nhất của tôi ở Việt Nam là Ron Gawthrope. Vào năm 1969, cả hai chúng tôi được chỉ định vào khẩu đội chỉ huy của tập đoàn pháo binh số 41. Căn cứ của chúng tôi là trại Fidel, một tổ hợp nhỏ cách hàng rào phía nam của sân bay Phù Cát 800 m, gần Quy Nhơn và khoảng 300 dặm về phía đông bắc Sài Gòn.

Ron dường như chẳng có gì để làm. Anh ấy chạy loanh quanh trong doanh trại, tán gẫu suốt ngày, dễ chịu với cả sĩ quan và lính nghĩa vụ. Anh ấy hiếm khi rời khỏi doanh trại. Một lần tôi hỏi mỉa mai – Ron, anh làm gì ở đây? “Liên lạc báo chí” cho tập đoàn số 41, anh ấy trả lời. Anh giải thích rằng thường hay tường thuật về những thứ diễn ra ở khu vực chiến sự của tập đoàn số 41 tại Cao Nguyên Trung Phần; và anh nói thêm rằng công việc của anh là “ngăn chặn mọi phóng viên tin tức đi quá xa, cung cấp cho họ một câu chuyện và đẩy họ lên chuyến bay đầu tiên quay lại Sài Gòn.”

Đó là lời của Ron mà tôi nhớ tới khi được nghe những câu chuyện về tương phản giữa sự tự do đưa tin tức chiến sự mà các phóng viên ở Việt Nam được hưởng với những điều kiện khắt khe được áp đặt khi họ đưa tin chiến sự ở Trung Đông hiện nay. Một trong những điều tương phản được nhà văn Ward Just viết trong lời dẫn của cuốn sách vào năm 2000, Đưa tin Việt Nam: Báo chí Hoa Kỳ 1959-1973:

Việt Nam là cuộc chiến tranh cuối cùng mà nhà cầm quyền quân sự Hoa Kỳ sẵn sàng đưa các phóng viên tới chiến sự. Tất cả những gì anh cần phải làm là xuất hiện ở đường băng Tân Sơn Nhất, réo gọi một chiếc C-130 hay Caribou, sau đó trèo lên khoang. Khi anh tới sở chỉ huy, anh được tóm tắt, chỉ dẫn về nơi đọ súng và sau đó anh tự do làm công việc của mình. 

Giờ là tiếng cười thầm của Ron mà tôi đã được nghe. Một chiếc C-130 rời khỏi Tân Sơn Nhất gần Sài Gòn cần hơn nửa dặm đường băng để hạ cánh. Một số khu hạ cánh (LZ) lớn được tổ chức tốt như LZ Betty có khả năng đáp ứng điều đó vào cuối những năm 1960, nhưng phóng viên sẽ được thả xuống ở đâu đó, có thể là sân bay Phú Cát – nơi mà nhân viên Không Lực sẽ không thể biết về đọ súng nếu họ nghe thấy điều đó, ở hướng nào thì lại càng không. “Sở chỉ huy” quân đội gần nhất mà anh ta có thể tìm thấy đường đến, bên ngoài tường rào sân bay, là trại Fidel, nơi mà Ron sẽ cung cấp cho anh ta “một câu chuyện” và đưa anh ta quay trở lại sân bay.

Thực tế là kịch bản này được vẽ ra trong hồi ức của Ward Just – ông ấy đã đưa tin ở Việt Nam vào những năm đầu chiến tranh – hương vị của những ngày tháng cũ, phóng viên của trí tưởng tượng xa xưa, tính hợp lý của các chi tiết được kiểm tra bằng kinh nghiệm và những quy tắc quân sự mà tôi biết hồi đó. Phần lớn trách nhiệm của tôi với vai trò trợ lý tuyên úy trong tập đoàn số 41 và các đơn vị pháo binh khác là lái xe jeep cùng với cha tuyên úy tới các cứ điểm và LZ nằm dọc theo đường cao tốc số 1, 19 và 14, hoặc hộ tống ông ấy trên máy bay trực thăng tới các địa điểm xa hơn. Muốn đến cứ điểm Pony? Máy bay lên thẳng của chúng tôi đến LZ English và từ đó chúng tôi lái xe đến Pony – khá xa. Đó là điều chưa bao giờ diễn ra, hay tôi chưa bao giờ thấy một thường dân Hoa Kỳ nào hỏi hoặc đi theo cách này. Điều đó cũng không thể diễn ra bởi vì chúng tôi cần được cho phép để đưa bất kỳ người nào đi, ngay cả nhân viên quân sự. Chuyện đó không bao giờ xảy ra. 

Điều quan trọng đối với tôi là tôi chưa từng nghe thấy chuyện đó diễn ra. Liệu có phóng viên tin tức, bằng cách nào đó, đi một mình tới nơi như Pony, cái gã ở đó ngày hôm nay có thể nói về điều đó trong nhiều tuần sau – nhưng tôi chưa từng thấy bất cứ phóng viên nào ở những nơi đó.

Có nghĩa là sự thật của câu ngạn ngữ là có nhiều gã “Việt Nam” nhớ như thể là có ai đó đã từng ở đó. Một cuộc chiến tranh dài với chính sách và hoạt động quân sự của Hoa Kỳ đã thay đổi theo thời gian bởi địa điểm, các chi nhánh và đơn vị. Điều mà Ward Just nhớ có thể là thật ở Tân Sơn Nhất gần Sài Gon, vào lúc ông ấy có mặt ở đó, hơn là ở nơi khác sâu trong nội địa vào năm năm sau. Cũng như với các câu chuyện chiến tranh khác, huyền thoại về tường thuật không sợ hãi bắt nguồn từ hiện thực là rất khó đưa tin về Việt Nam, với công việc cũng như điều kiện sống khó khăn và đôi khi là nguy hiểm. Trong lịch sử đưa tin tức hàng tuần về chiến tranh, tờ Weekly War, nhà báo James Landers mô tả sức ép đối với phóng viên để tạo ra các câu chuyện “bi kịch chiến tranh” mà họ cho rằng độc giả mong muốn, cũng như những khó khăn và nguy hiểm mà phóng viên phải đối mặt để đáp ứng nhu cầu đó.

Nhưng Lander cũng ghi nhận rằng các phóng viên ít khi rời khỏi Sài Gòn và thậm chí là theo các chuyến đi được cấp phép đưa phóng viên tới các sở chỉ huy sư đoàn và tập đoàn – nơi mà họ sẽ được Ron đón tiếp.

Điều sẽ không thay đổi là sự miễn cưỡng của các sĩ quan chỉ huy khi phải đón tiếp một cá nhân vô ích ở cứ điểm, cũng như ít có phóng viên “được tự do làm công việc [của họ]”, như Mr. Just đã nói. Nhà sử học Milton Bates, trong cuốn sách The Wars We Took to Vietnam, mô tả “công việc chiến tranh” là “rất rõ ràng giống như công việc ở nhà máy hay xây dựng” với nguy cơ phụ thêm về những thanh niên kiệt sức và chỉ được huấn luyện tối thiểu để vận hành cỗ máy hạng nặng tinh vi trong nhưng điều kiện khắc nghiệt. Ở Việt Nam, công việc đó là nóng bức, nặng nhọc và bẩn thỉu với sự phân chia lao động chặt chẽ và không có chỗ cho sự sao lãng mà những khán giả - như các phóng viên – sẽ đem tới. Chính vì lý do này, cha tuyên úy và tôi thường xuyên được hộ tống đi khỏi các công sự pháo khi có lệnh khai hỏa; máy bay trực thăng của chúng tôi có lần phải lượn vòng vòng cho đến khi người bị thương được dọn sạch khỏi LZ bị bộ binh địch tấn công vào đêm trước đó. 

Kinh nghiệm về phóng viên ở Việt Nam đươc nhớ lại là quan trọng hơn những thành tích lịch sử mà nó tạo ra. Sự nhầm lẫn phổ biến về việc người Mỹ được đưa tin tốt hơn về chiến tranh ở Việt Nam so với những cuộc chiến tranh gần đây ở Trung Đông hầu hết dựa trên niềm tin rằng các phóng viên đã được tự do đi bất cứ đâu họ muốn và tường thuật những gì họ thấy – một quan điểm lý tưởng đáp ứng kỳ vọng của công chúng về cấp độ căn bản của việc đưa tin mà các hãng tin tức hiện nay không thể thực hiện được.

Trong khi đó, huyền thoại về các phóng viên Rambo hung hãn khắp vùng châu thổ sông Mekong trở thành chuẩn mực về khí phách nhà nghề mà các phóng viên hiện nay có – hoặc họ tưởng rằng họ có. Sức ép đáp ứng kỳ vọng có thể đưa họ vào nguy hiểm. Khi phóng viên Bob Woodruff bị thương ở Iraq vào năm 2006, anh ta chỉ trích chủ lao động, hãng ABC News, đã đặt anh vào tình thế nguy hiểm để thu được đánh giá cao hơn của độc giả, bản thân Woodruff là “gã ngốc”, tự gây nguy hiểm không cần thiết cho bản thân khi thò đầu ra khỏi cửa xe bọc thép mà anh ta đang đi. 

Vào tháng giêng năm 2015, phóng viên Brian Wiliams của hãng NBC khẳng định rằng anh đã ở trên chiếc trực thăng bị kẻ địch bắn ở Iraq vào năm 2003. Anh ta đã kể nhiều phiên bản của câu chuyện trong nhiều năm nhưng khi mà cựu chiến binh cùng tham gia nhiệm vụ với máy bay trực thăng đã nói rằng đội của anh ta chưa bao giờ gặp nguy hiểm – câu chuyện của Willams là không thật. Williams đã bị NBC sa thải, tạo nên một bóng tối bao phủ những di sản của anh ta và hoài nghi về tương lai của anh ta trong lĩnh vực báo chí. Giờ đây, khi NBC chuẩn bị đưa William quay trở lại thông quan chi nhánh liên kết nhỏ MSNBC, những người theo đuôi sẽ lặp lại những chi tiết trong câu chuyện ngụy tạo về chiến sự đã làm anh ta mất việc và NBC bị bất ngờ. 

Mặc dù vậy, bình luận về sự phục chức của William sẽ giống như chỉ dừng ở mức độ thất bại cá nhân. Những người có học hơn sẽ bắt đầu phân tích tâm lý, để kết luận rằng “nam tính bị tàn phá” của anh ta là nguyên nhân của việc không kiểm chứng sự thúc đẩy của nam tính đã xác thực thông qua một sự liên hệ nhầm lẫn với sự dũng cảm chiến trận. Nhưng hầu hết các bình luận sẽ không thừa nhận hình mẫu mà trường hợp của anh ta và Woodruff (cũng như những người khác) đã tạo ra, một hình mẫu cho thấy thứ văn hóa mà theo đó các phóng viên chiến trường phải đối mặt với những kỳ vọng phi thực tế của các ông chủ và công chúng tiêu thụ tin tức. Vẫn tiếp tục bị loại bỏ khỏi bình luận là di sản của việc đưa tin trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, theo đo những kỳ vọng phi thực tế vẫn tiếp tục tồn tại. Đó là huyền thoại về việc lợi ích của công chúng được binh đoàn những “gã phóng viên đúng đắn” tự do, mà trực thăng tha lôi từ nơi này qua nơi khác, những kẻ vẫn còn ám ảnh sự tôn kính nghề nghiệp của phóng viên chiến tranh hiện nay, phục vụ tốt hơn trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam

Sự thật là các cuộc chiến tranh hiện nay rất khác xưa, chiến trận –thậm chí là ngay cả với những cuộc chiến đang diễn ra – ít đặc trưng bằng nguy cơ thiệt hại tính mạng hay vật chất hơn trước kia; sự thật là ngay cả Việt Nam cũng khác với những năm tháng vinh quang tưởng tượng hiện nay mà một thế hệ phóng viên anh hùng được cho là đã tạo ra; sự thật là những tên cướp biển tự do mà Ward Just nhớ đến gần với Ernie Pyle, phóng viên chiến tranh huyền thoại của Thế Chiến Thứ II (không có trực thăng), hơn là các phóng viên đã gặp (hoặc không) anh bạn Ron của tôi ở Việt Nam.

Sự thật là nếu các hồi ức báo chí coi Ron là hình tượng trung tâm trong lịch sử báo chí của thời kỳ Việt Nam, Bob Woodruff có thể không bị nguy hiểm để thu thập vài “bi kịch chiến trường”, anh ta có thể giữ đầu an toàn trong khoang của APC và không bị thương cũng như Brian Williams vẫn có thể là phóng viên của hãng NBC. 

Jerry Lembcke is Associate Professor Emeritus of Sociology at College of the Holy Cross in Worcester, Mass. He is the author of The Spitting Image: Myth, Memory and the Legacy of Vietnam and Hanoi Jane: War, Sex, and Fantasies of Betrayal. His newest book is PTSD: Diagnosis or Identity in Post-empire America? He can be reached at jlembcke@holycross.edu.

Wednesday, September 16, 2015

Rủi ro đạo đức của chủ nghĩa tư bản

Giáo sư xã hội học người Mỹ Michael Schwalbe sử dụng khái niệm rủi ro đạo đức của kinh tế học để mô tả đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Đặc trưng hình thành từ sự bóc lột và trút gánh nặng sang vai người khác đã khiến phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành trò lừa đảo bất tận. Dưới đây là bản dịch nội dung bài báo "The moral hazard of capitalism" của giáo sư Michael Schwalbe.

Hình minh họa: Khủng hoảng nợ cầm cố dưới chuẩn
Nguồn: Internet
Trong lĩnh vực bảo hiểm và tài chính, rủi ro đạo đức được cho là xuất hiện khi một bên tham gia hợp đồng hoặc giao dịch thoát khỏi gánh nặng rủi ro vì bên còn lại sẽ gánh chịu chi phí nếu mọi thứ trở nên tồi tệ. Ví dụ cổ điển được đưa ra là chính sách bảo hiểm chống lại thiệt hại hay tổn thất tài sản và do vậy khiến những người hưởng chính sách mạo hiểm với tài sản, do biết rằng hãng bảo hiểm sẽ trả hoàn toàn chi phí thay thế hay sửa chữa. Tránh rủi ro đạo đức được cho là mục tiêu của khấu trừ và đồng thanh toán. Nếu người được bảo hiểm phải gánh chịu một phần chi phí của hành vi mạo hiểm, họ sẽ ít mạo hiểm hơn và không bóc lột hãng bảo hiểm, logic tiếp tục như vậy.

Ý tưởng về rủi ro đạo đức thu hút được sự chú ý của công luận đương thời khi các phê phán về lĩnh vực ngân hàng sử dụng điều đó để giải thích sự sụp đổ tài chính năm 2008. Họ cho rằng, tự do hóa tạo điều kiện cho rủi ro đạo đức, dẫn đến hành vi mạo hiểm của tất cả những người tham gia đầy quyền lực của hệ thống.

Ngân hàng thương mại có động lực để tạo ra các khoản cho vay thế chấp mạo hiểm do việc dỡ bỏ đạo luật Glass-Steagall cho phép họ giải phóng toàn bộ rủi ro bằng cách bán những khoản cho vay này cho ngân hàng đầu tư. Ngân hàng đầu tư biến những khoản cho vay đó thành chứng khoán mua bán được trên thị trường và trả nhiều tiền cho các cơ sở đánh giá để các cơ sở này định mức rủi ro của chúng thấp, để bán chứng khoán cho các nhà đầu tư cả tin dễ dàng hơn. Nhiều nhà đầu tư xảo quyệt hơn đã mua bảo hiểm cho sự phá sản, khi nhận ra rằng nhiều chứng khoán dựa trên các khoản cho vay cầm cố này chỉ là giấy lộn. Lịch sử cứu trợ của chính quyền liên bang đối với các ngân hàng và hãng bảo hiểm là một lý do khác khiến họ tin rằng họ sẽ không phải gánh chịu khi toàn bộ kế hoạch sụp đổ. 

Tình hình thực sự phổ biến với rủi ro đạo đức. Mọi người chơi có tổ chức đều đặt cược vào kết quả là chi phí tiềm tàng của sự mạo hiểm khinh suất mà họ thực hiện sẽ được thanh toán bằng tiền túi của người khác. Đó thực sự là điều đã diễn ra, người mua nhà và người đóng thuế là những người phải thanh toán hóa đơn. Sự tự do hóa giúp cho điều này xảy ra là rất rõ ràng. Mặc dù vậy, theo một cách khác, sự sụp đổ tài chính không phải là trường hợp đặc biệt. Rủi ro đạo đức là dịch bệnh đặc trưng của chủ nghĩa tư bản; điều tiết chỉ giúp cho hệ thống không sụp đổ thường xuyên hơn.

Điều mà khái niệm rủi ro đạo đức chỉ ra là các thức sự can thiệp chính trị, pháp lý và kinh tế dẫn đến hành vi mạo hiểm, gây ra hay có nguy cơ thực sự, thiệt hại nghiêm trọng cho người khác. Chủ nghĩa tư bản chính là một nhóm sự can thiệp. Một số người mạo hiểm không phải bởi vì họ xấu xa. Hoạt động thông thường của chủ nghĩa tư bản là mời gọi, thúc đẩy, cho phép và thường xuyên ép buộc con người – những người kiểm soát tư liệu sản xuất và tài chính – hàng động theo cách thức sẽ gây ra thiệt hại lớn cho người khác hoặc khiến người khác phải gánh chịu nguy cơ thiệt hại lớn. 

Sự can thiệp chính trị, pháp lý và kinh tế có ý nghĩa quan trọng nhất – sự can thiệp xác định nền kinh tế tư bản chủ nghĩa – là sở hữu tư nhân và kiểm soát tư liệu sản xuất chủ chốt; kiểm soát tư nhân đối với đầu tư; tích lũy của cải bằng cách bóc lột giá trị thặng dư từ lao động của người khác. Những sự can thiệp này cho phép nhà tư bản có khả năng và động lực để hành động theo cách bất chấp đạo đức. Đây không phải giả thuyết tưởng tượng kiểu Marxist mà là điều mà chúng ta thấy diễn ra hàng ngày.

Chúng ta thấy chúng khi nhà tư bản lừa dối công nhân về tiền lương. Chúng ta thấy chúng khi nhà tư bản cắt giảm chi phí sản xuất bằng cách từ chối trả tiền cho thiết bị an toàn và bảo vệ sức khỏe hay kiểm soát ô nhiễm, do đó mạo hiểm cuộc sống và sức khỏe của những công nhân trong nhà máy cũng như của tất cả ngững người sống ở cuối gió hay cuối dòng nước. Chúng ta thấy chúng khi nhà tư bản khai thác năng lượng hóa thạch ngày càng tăng theo cách liều lĩnh, gây rủi ro hoặc tạo ra các thiệt hại môi trường nghiêm trọng.

Đây không phải là những chiến lược sai lầm trong hệ thống của chủ nghĩa tư bản. Logic của chủ nghĩa tư bản đòi hỏi, đặc biệt là trong các lĩnh vực cạnh tranh của nền kinh tế, không chỉ tối thiểu hóa chi phí mà còn đẩy chi phi càng nhiều càng tốt ra bên ngoài và tập trung vào các doanh thu ngắn hạn. Điều mà logic đòi hỏi, hay nói theo cách khác, là sự lảng tránh trách nhiệm. 

Sự cưỡng bách phải vô đạo đức của chủ nghĩa tư bản cũng được thể hiện mỗi khi nhà tư bản hoặc đám tay chân của họ xuất hiện trước công chúng và nói dối – về hút thuốc lá gây ra ung thư, về tác động của thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ cũng như các hóa chất công nghiệp khác đối với sức khỏe; về chất aerosol gây hại cho tầng ozon; về sự biến đổi khí hậu; về tình yêu sâu đậm của họ đối với trái đất. Hành động theo cách có trách nhiệm đạo đức đòi hỏi phải tìm kiếm và chấp nhận sự thật về động cơ và hậu quả hành động của con người. Nhưng sự thật là nhà tư bản không chỉ lảng tránh mà còn phủ nhận dữ dội bất cứ khi nào lợi nhuận và quyền lực của họ bị đe dọa. 

Mọi loại hình kinh tế bóc lột, bao gồm cả chủ nghĩa tư bản, được xây dựng dựa trên điều kiện về rủi ro đạo đức. Điều kiện này xuất hiện ngay khi mà con người bị hạ xuống thành phương tiện để đạt mục tiêu. Con người bị “hạ xuống” theo nghĩa này bởi vì giá trị của họ, trong mắt của kẻ bóc lột, chỉ là số lượng công việc họ có thể làm và giá trị có thể khai thác được từ họ. Thứ mà điều kiện này mời gọi là đối xử với con người như là những vật có thể thao túng được và xài một lần rồi vứt bỏ. Sự đối xử được thừa nhận là vô nhân đạo, nhưng sự thừa nhận về tính vô nhân đạo đó vẫn chưa được bình thường hóa. 

Các lãnh chúa trung cổ, chủ đồn điển và nhà tư bản, về mặt cá nhân, có thể tàn bạo nhiều hơn hoặc ít hơn đối với những người bị họ bóc lột lao động. Nhưng hành vi cá nhân không thay đổi đặc trưng của thể chế. Nếu như lợi nhuận của nhà tư bản sống sót phụ thuộc vào việc giá trị thặng dư bóc lột từ lao động của người khác, thì hắn phải thường xuyên cắt giảm chi phí lao động. Những thứ mà công nhân phải gánh chịu dưới chủ nghĩa tư bản – khó khăn kinh tế, thiếu sự tự chủ và kiểm soát, sự sỉ nhục trong công việc, tăng tốc, suy giảm kỹ năng, thất nghiệp định kỳ hay thường xuyên – bắt nguồn từ nguyên lý vận hành cơ bản đó.

Nhưng không chỉ có “công nhân” theo nghĩa hẹp phải gánh chịu hoặc bị đặt vào rủi ro bởi vì rủi ro đạo đức của chủ nghĩa tư bản. Tất cả chúng ta đều bị nguy hiểm bởi chiến lược trút bỏ chi phí làm ô nhiễm môi trường hay làm hành tinh nóng lên. Tất cả chúng ta đều bị rủi ro bởi các sản phẩm không an toàn và hư hỏng. Tất cả chúng ta đều dễ bị tổn thương từ những phản ứng đối với nỗ lực bóc lột tài nguyên tự nhiên, lao động và thị trường các nước khác của nhà tư bản. Tất cả chúng ta đều có nguy cơ bị tổn thương khi cơ sở hạ tầng công cộng suy tàn bởi vì chính quyền thiếu ngân sách do bị các nhà tư bản, những người chỉ tập trung vào làm giàu cho bản thân, sử dụng quyền lực chính trị để cắt giảm hoặc trốn thuế. 

Dĩ nhiên, tất cả những sự dễ tổn thương này không được phân bổ đều; những người dưới đáy của hệ thống giai cấp gánh chịu nguy cơ thiệt hại lớn hơn. Nhận thức được điều này và khát khao tránh khỏi sự tồi tệ bị hệ thống đánh bại là điều thúc đẩy cạnh tranh tiến thẳng đến xã hội tư bản. Điều này tạo ra điều kiện thứ cấp về rủi ro đạo đức: động lực để đối xử với những thành viên dưới quyền thuộc giai cấp bị bóc lột như những kẻ cạnh tranh cần phải đánh bại, hoặc như nguồn lực được sử dụng cho sự thăng tiến của bản thân. Về phần họ, nhà tư bản có động lực để gia tăng cạnh tranh, chỉ có thể thông qua rao giảng tàn nhẫn huyền thoại về sự thăng tiến, bởi vì nó chia rẽ và qua đó làm suy yếu giai cấp lao động. Một lần nữa chủ nghĩa tư bản lại cho thấy sự độc hại của nó đối với đạo đức, trong xu hướng thúc giục chúng ta coi người khác như là phương tiện hay sự cản trở mục tiêu của mình 

Quan điểm đối lập thường được tạo dựng dựa theo ý tưởng của Adam Smith. Trong cuốn sách The Wealth of Nations, Smith lập luận rằng các cá nhân làm việc vì lợi ích của bản thân, với sự dẫn dắt của bàn tay vô hình của thị trường, để gia tăng phúc lợi xã hội. Smith viết, “Không phải từ đạo đức của người hàng thịt, người nấu bia hay người thợ làm bánh mà chúng ta mong đợi bữa tối, mà từ sự quan tâm tới lợi ích riêng của họ”. Những thị dân kinh doanh có khuynh hướng làm giàu không phải là vấn đề quan trọng. Tuy vậy, kết quả là một xã hội thịnh vượng mà con người gắn kết chặt chẽ với nhau trong sự hài hòa, khi khát khao về thịt, bia và bánh mì của họ được đáp ứng đầy đủ. 

Lập luận của Smith có ý nghĩa khi áp dụng cho giao dịch giữa các tiểu thương thành thị và khách hàng của họ. Nhưng triết lý của ông thường sai lầm khi cho rằng lợi ích tiền tài ích kỷ không cần phải kiềm chế bằng những đức hạnh khác. Điều mà Smith hiểu, nhưng nhiều học trò hiện đại của ông không hiểu, là các thương nhân thành đạt phải có khả năng nhìn bằng con mắt của khách hàng và công nhận khát khao của họ không chỉ là thịt bò, bia hay bánh mì mà là sự đoàn kết với những người hàng xóm đáng kính và đáng tin cậy. Smith khẳng định sự đồng cảm với nhau, được củng cố bằng quan hệ cá nhân, đóng vai trò như là sự đánh giá về hành vi vô đạo đức tổng quát hơn. 

Những người ủng hộ trường phái đạo đức tư bản chủ nghĩa tham lam-là-tốt – nổi tiếng nhất là Milton Friedman – sẽ khiến chúng ta tin rằng luận điểm của Smith về tiểu thương thành thị ở năm 1776 cũng đúng với hành vi của các doanh nghiệp và ngân hàng đầu tư khổng lồ phi nhân tính ở thế kỷ 21. Họ sẽ đánh đồng lợi ích tạo ra cuộc sống của người làm bánh với lợi ích giết chóc của nhà quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm. Dĩ nhiên là khát vọng tốt đẹp về mặt kinh tế có thể thúc đẩy hành vi xây dựng. Nhưng với những điều kiện của rủi ro đạo đức đã thu được hiện nay, khát vọng do các thế lục doanh nghiệp thổi phồng lên ở quy mô mà Smith không bao giờ mơ tới đã biến thành thảm họa. 

Điều tiết chỉ là sự xoa dịu rủi ro đạo đức của chủ nghĩa tư bản. Luật pháp có thể cấm các hành vi mạo hiểm thái quá đe dọa đến sức khỏe và an ninh kinh tế của người khác. Luật pháp có thể áp đặt các chế tài đủ nghiêm khắc cho những hành vi mạo hiểm khiến cho rủi ro trở nên quá đắt để mạo hiểm. Nhưng sự điều tiết hiệu quả phụ thuộc vào dân chủ; có nghĩa là nó phụ thuộc vào khả năng thường dân sử dụng chính quyền để hạn chế những thiệt hại tiềm tàng, hành vi ích kỷ của những tác nhân kinh tế thế lực. Đó là lý do khiến cùng những tác nhân – những người kinh doanh giàu có hiện nay – phản đối dân chủ kịch liệt ngoại trừ sự ủng hộ ngoài mặt. Nếu coi dân chủ là đức hạnh thì sự suy tàn không thể tránh khỏi của nó là một rủi ro đạo đức khác của chủ nghĩa tư bản khi tư bản tập trung hóa hơn và quyền lực hơn.

Nói ngắn gọn, hiện nay không có kết luận lạc quan nào cả. Điều kiện của rủi ro đạo đức là thành phần nền tảng của chủ nghĩa tư bản và hiện giờ chúng ta mắc kẹt với động lực và sự ép buộc về hành vi vô đạo đức của chủ nghĩa tư bản. Hơn nữa, cố gắng sử dụng các điều tiết để giải quyết vấn đề buộc chúng ta phải chơi trò ném chuột, bởi vì nhà tư bản, có quyền lực bắt nguồn từ sở hữu và kiểm soát các tư liệu sản sản xuất chủ chốt của xã hội, sẽ luôn luôn tìm ra cách vô hiệu hóa hoặc lẩn tránh mọi kế hoạch và thực thi điều tiết mà chúng ta tạo ra. Mặt khác, nỗ lực hạn chế thiệt hại sẽ là cách thả lỏng cho nhà tư bản thấy rằng đáng để khai thác cơ hội. Trò chơi ném chuột có thể giữ họ khỏi phá nát mọi thứ như họ có thể làm. 

Thừa nhận rằng mức độ rủi ro đạo đức có thể hàm chứa trong sự can thiệp pháp lý, chính trị và kinh tế ít nhất cũng cho phép lạc quan trong dài hạn. Rủi ro đạo đức hàm chứa trong chủ nghĩa tư bản có thể tháo gỡ với một nền kinh tế dân chủ, không bóc lột. Nền kinh tế đó sẽ không đòi hỏi mọi người trở thành các vị thánh chủ nghĩa xã hội, luôn luôn đầy đủ khả năng đồng cảm như Adam Smith vẫn coi là cơ sở của đạo đức. Nó sẽ đòi hỏi, các thủ tục luật pháp, chính sách và ra quyết định trần tục hơn để phá bỏ sự ích kỷ, sự theo đuổi không giới hạn của cải và quyền lực. 

Đôi khi ngay cả những người bảo vệ chủ nghĩa tư bản cũng công khai thừa nhận rằng nó là một trò chơi lừa đảo. Mặc dù vậy, nhiệm vụ lịch sử không phải là vạch mặt nó, việc đó sẽ không bao giờ kết thúc, mà là tạo ra một trò chơi bình đẳng hơn.

Michael Schwalbe is a professor of sociology at North Carolina State University. He can be reached at MLSchwalbe@nc.rr.com.

Monday, September 14, 2015

Ác mộng Mỹ

John W. Whitehead bình luận về ác mộng Mỹ, không phải hình mẫu công lý trong mơ như truyền thông và chính quyền Mỹ vẫn tô vẽ. Một hệ thống đã sụp đổ, không còn bảo vệ con người mà chỉ còn bảo vệ lợi ích của chính quyền và lợi nhuận của doanh nghiệp. Dưới đây là bản dịch bài đăng trên tạp chí ColdType số 102, tháng 8 năm 2015.

American nightmare

Làm sao cuộc đời của một con người 
lại nằm trong tay của kẻ ngốc? 
Thấy anh ta bị mưu hại rõ ràng 
chẳng có ích gì ngoài việc khiến tôi thấy xấu hổ 
khi sống ở một đất nước 
mà công lý chỉ là trò chơi.
– Bob Dylan, “Hurricane”

Tổng thống đầu tiên viếng thăm nhà tù liên bang
Viên cảnh sát gọi điện: Nam giới da đen, trong bộ veston đen vừa vặn bóng bẩy, thái độ kiêu ngạo, đi với biệt danh "Ngài Tổng Thống", phòng giam nào thiếu phạm nhân?
Nguồn: Otherwords
Công lý ở Hoa Kỳ không phải là thứ vẫn được tán dương ầm ĩ. Chỉ cần hỏi Jeffrey Deskovic, người đã phải ngồi tù 16 năm về tội hiếp dâm và sát nhân mà ông ấy không gây ra. Bất chấp sự thật là DNA của Deskovic không khớp với DNA tìm thấy ở hiện trường, ông bị cảnh sát chọn là nghi phạm bởi vì đã khóc ở lễ tang của nạn nhân (khi đó ông mới 16 tuổi), sau đó bị quấy nhiễu suốt hai tháng để phải nhận tội. Ông ấy mới nhận được 6,5 triệu dollar tiền bồi thường.

James Bain ngồi tù 35 năm vì tội bắt cóc và cưỡng hiếp một bé trai 9 tuổi, nhưng ông ấy thực sự vô tội. Bất chấp sự thật là bằng chứng của công tố viên rất thiếu sức thuyết phục – dựa vào sự tương đồng giữa tên của Bain và tên của kẻ cưỡng hiếp, Bain có một chiếc mô tô màu đỏ và Bain bị một cậu bé 9 tuổi mắc chứng tăng động nhận dạng nhầm – Bain bị kết án tù chung thân. Cuối cùng, ông được trả tự do và nhận được 1,7 triệu dollar tiền bồi thường sau khi kiểm tra DNA chứng minh ông vô tội.

Mark Weiner thoát án tương đối đơn giản so với trải nghiệm của hàng ngàn người đang ngồi tù chung thân vì những tội ác mà họ không gây ra. Weiner bị bắt hoàn toàn trái luật, bị kết án và ngồi tù hơn hai năm vì tội ác mà ông không gây ra. Trong vụ án của ông, một phụ nữ trẻ cáo buộc Weiner đã ngược đãi cô, đánh ngã cô và sau đó gửi tin nhắn chế nhạo bạn trai cô là sẽ cưỡng hiếp cô. Bất chấp bằng chứng là tín hiệu điện thoại di động, lời kể của nhân chứng và lời chứng của chuyên gia cho thấy cô gái trẻ đã bịa ra toàn bộ vụ việc, công tố viên và quan tòa đã liên tục phủ nhận mọi bằng chứng chống lại lời khai gian của cô gái, kết án Weiner 8 năm tù. Weiner chỉ được trả tự do sau khi người cáo buộc ông bị bắt vì bán cocaine cho cảnh sát chìm.

Cùng thời gian đó, Weiner mất việc, mất nhà, mất khoản tiết kiệm, mất thời gian được sống với vợ và con trai nhỏ. Như phóng viên nhà báo Dahlia Lithwick của tờ Slate cảnh báo, “Nếu bất cứ ai cho rằng việc Mark Weiner được phóng thích tuần này có nghĩa là “hệ thống hiệu quả” thì tôi sợ rằng sẽ phải đấm vào gáy hắn. Bởi vì tại từng vòng xét xử, cái hệ thống phải hoạt động để khẳng định bằng chứng vô tội của Weiner đã thất bại.” Hệ thống cần phải hoạt động đã không hoạt động, bởi vì hệ thống đã đổ vỡ, hầu như không thể sửa chữa được nữa. 

Ở phòng xử án giật gân như phim 12 Người Đàn Ông Giận Dữ và Giết Con Chim Nhại, cuối cùng công lý cũng được thực thi bởi vì ai đó – cho dù là bồi thẩm viên số 8 hay Atticus Finch – chọn cách đứng về phía nguyên tắc và chống lại sự sai trái, cuối cùng sự thật chiến thắng.

Bất hạnh thay, trong thế giới thực, công lý khó có thể thực thi, sự vô tư hầu như không được biết đến và sự thật thì hiếm khi chiến thắng.

Trên giấy tờ, anh có thể vô tội cho đến khi được chứng minh là có tội, nhưng trên thực tế, anh đã bị cảnh sát, công tố viên và quan tòa xét xử, chứng minh có tội và kết án từ rất lâu trước khi anh xuất hiện ở tòa án. Sự bất công kinh niên đã biến giấc mơ Mỹ thành ác mộng.

Trong từng bước của quá trình, cho dù là đụng độ với cảnh sát, thỏa thuận với công tố viên, thẩm vấn ở tòa án với các quan tòa và bồi thẩm đoàn, hay án tù tại một trong hàng sa số các nhà tù quốc gia, hệ thống bị sàng lọc với sự tham nhũng, lạm dụng và xâm phạm nghiêm trọng mọi quyền công dân.

Các quyền mà bị cáo có trong quá trình truy tố - quyền giữ im lặng, quyền được thông tin về những cáo buộc chống lại bản thân, quyền được có luật sư đại diện, quyền được xét xử không thiên vị, quyền có một phiên tòa nhanh chóng, quyền chứng minh sự vô tội với nhân chứng và vật chứng, quyền được bảo lãnh hợp lý, quyền không bị héo mòn trong nhà giam trước khi được xét xử, quyền được đối mặt với nguyên đơn, vv – chẳng có nghĩa gì hết khi mà chính quyền được phép lách luật bất cứ khi nào thấy việc đó tiện lợi.

Cần phải nói rằng trong khi tổng thống Obama phát biểu những điều hoàn toàn đúng đắn về tình trạng đổ nát của hệ thống tư pháp Hoa Kỳ - rằng chúng ta bỏ tù quá nhiều người Mỹ vì những tội phi bạo lực (chúng ta chiếm 5% dân số thế giới nhưng số lượng tù nhân chiếm gần 25% số tù nhân của cả thế giới), rằng chúng ta chi nhiều tiền cho nhà tù hơn bất cứ quốc gia nào khác (80 tỷ dollar mỗi năm), rằng chúng ta kết án tù dài hơn mức độ tội phạm của người dân, rằng hệ thống tư pháp hình sự của chúng ta mù màu, rằng đường ống trường dẫn từ trường học-tới-nhà tù của quốc gia đang đóng góp vào sự quá tải của các nhà tù, rằng chúng ta cần tập trung vào cải tạo tội phạm hơn là trừng phạt – thì ông ấy đã không chỉ ra vai trò chủ chốt của chính quyền trong sự bất công ở Hoa Kỳ. 

Thật sự là khi mà Obama đặt trách nhiệm cải cách vào tay của các công tố viên, quan tòa và cảnh sát, ông ấy đã không thừa nhận rằng chúng ta phải trả giá cho hệ thống tư pháp thất bại, cùng với các cơ quan lập pháp và doanh nghiệp đang cộng tác với họ để tạo ra môi trường chống lại quyền của bị cáo. Trong môi trường đó, tất cả chúng ta đều là kẻ bị truy tố, kẻ có tội và kẻ bị tình nghi.

Như tôi đã trình bày trong cuốn sách “Chiến trường Hoa Kỳ: Cuộc chiến chống lại nhân dân Mỹ”, chúng ta đang triển khai một mô hình mới, trong đó công dân được giả định là có tội và bị đối xử như với nghi phạm, sự đi lại của chúng ta bị theo dõi, thông tin liên lạc của chúng ta bị giám sát, tài sản của chúng ta bị bắt giữ và khám xét, sự toàn vẹn thân thể của chúng ta bị xâm phạm, quyền được “sống, tự do và theo đuổi hạnh phúc” không thể bác bỏ của chúng ta bị phớt lờ khi trái với các ưu tiên của chính quyền. 

Mọi người Mỹ hiện nay đều có nguy cơ trở thành mục tiêu và bị trừng phạt bởi một tội ác mà họ không hề gây ra, nhờ vào sự thừa thãi của những đạo luật bí mật. Làm cho mọi sự tồi tệ hơn, bằng cách cho phép các nhân viên chính quyền được đứng trên luật pháp, sai phạm được miễn tố, chúng ta đã tạo ra tình hình là luật lệ được áp đặt một phía và từ trên xuống, được sử dụng để đàn áp dân chúng, trong khi không thể giúp chúng ta chống lại sự lạm dụng của chính quyền. 

Thêm vào sự hỗn độn là hệ thống nhà tù vì lợi nhuận, chính quyền bang và liên bang đồng ý giữ cho các nhà tù đầy để các doanh nghiệp tư nhân vận hành nhà tù, anh sẽ chỉ thấy có một từ duy nhất để mô tả tình trạng tha hóa đê tiện này là “độc ác”. 

Anh có thể giải thích ra sao về hệ thống cho phép viên chức cảnh sát bắn trước và hỏi sau, không có bất cứ hậu quả nào cho hành động xấu xa của họ? Bất chấp sự phẫn nộ ban đầu về vụ bắn hạ các cá nhân không vũ trang ở Ferguson và Baltimore, tốc độ bắn giết của cảnh sát không hề giảm đi. Sự thật là gần 400 người đã bị cảnh sát bắn hạ trên cả nước trong nửa đầu năm 2015, khoảng hai vụ mỗi ngày. Đây chỉ là những vụ bắn giết theo dõi được. Hầu hết những người bị giết, khoảng 1/6 không có vũ trang hoặc mang súng đồ chơi.

Những người sống sót trong vụ đụng độ với cảnh sát sẽ kết thúc phía sau tường giam nhà tù, chờ đợi một “phiên tòa vô tư và nhanh chóng,” nhưng sẽ phải chờ lâu. 60% số người đang ngồi tù vẫn chưa bị kết án. Có 2,3 triệu người đang ngồi tù ở Hoa Kỳ. Những người không thể đóng nổi tiền bảo lãnh, “một số vô tội, đa số họ không bạo lực và đại đa số nghèo khổ”, sẽ phải ngồi tù 4 tháng trước khi được xét xử.

Thậm chí, “ngày xét xử” như đã hứa hẹn cũng không đảm bảo công lý sẽ được thực thi. Như quan tòa Alex Kozinski của Tòa Phúc Thẩm khu vực số 9 đã chỉ ra, hàng sa số các yếu tố có thể khiến một người đàn ông hay đàn bà vô tội phải ngồi tù suốt đời: nhân chứng không đáng tin cậy, chứng cứ pháp lý sai, nhớ nhầm, cưỡng ép tự thú, các chiến thuật hỏi cung tàn nhẫn, quan tòa thiếu thông tin, vi phạm tố tụng, bằng chứng giả, các bản án tàn nhẫn, đó mới chỉ là một số cái tên.

Vào đầu năm 2015, Bộ Tư Pháp và FBI “đã chính thức thừa nhận rằng mọi bác sĩ pháp y ở đơn vị pháp lý cao cấp của FBI đều đã khai gian trong hầu hết các phiên toàn mà họ đưa ra bằng chứng chống lại các bị cáo hình sự trong suốt hơn hai thập kỷ…. Sự thừa nhận đã tạo ra một bước ngoặt trong xì căng đan pháp lý lớn nhất nước, đánh dấu sự thất bại của tòa án quốc gia trong nhiều thập kỷ sử dụng các thông tin khoa học giả từ hội thẩm viên, các nhà phân tích pháp lý nói.”

“Những nhà khoa học đểu giả và cảnh sát xấu đã phá hỏng hệ thống tư pháp hình sự của chúng ta ra sao?” quan toàn Kozinski hỏi. “Câu trả lời đơn giản là một số công tố viên đã nhắm mắt làm ngơ trước sự sai trái bởi vì họ quan tâm đến việc truy tố hơn là đạt được kết quả công bằng.”

Quyền lực của công tố viên cũng không thể đánh giá thấp. Khi chúng ta nói về những người vô tội bị bỏ tù vì những tội họ không gây ra thì công tố viên đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo ra sự bất công. Như tờ Washington Post đưa tin, “Các công tố viên thắng 95% các vụ án, 90% trong số họ không cần phải đến tòa án …. Công tố viên Mỹ liệu có thực sự tốt như vậy không? Không … bởi vì thỏa thuận nhận tội, một hệ thống bắt nạt và hăm dọa của các công tố viên, với điều đó họ “sẽ bị khai trừ ở hầu hết các quốc gia nghiêm túc khác….”

Hiện tượng những người vô tội nhận tội đã chế nhạo tất cả những thứ mà hệ thống tư pháp hình sự được cho là sẽ bảo vệ: sự vô tư, bình đẳng và công lý. Như quan tòa Jed S. Rakoff kết luận, “hệ thống tư pháp hình sự là một hệ thống thỏa thuận nhận tội đặc biệt, đàm phán sau những cánh cửa đóng kín và không có sự giám sát pháp lý. Kết quả hầu hết chỉ do các công tố viên quyết định.”

Có khoảng từ 2 đến 8% các nghi phạm trọng tội đồng ý nhận tội với công tố viên (hãy nhớ là có 2,3 triệu tù nhân ở Hoa Kỳ) đang ở trong tù vì các tội mà họ không gây ra.

Rõ ràng, Liên Minh An Toàn Công Cộng đã đúng khi kết luận, “Anh không cần phải trở thành tội phạm để cuộc đời bị hệ thống tư pháp hình sự Hoa Kỳ phá hủy.”

Mọi việc không phải lúc nào cũng theo cách đó. Như quan tòa Rakoff nhắc lại, các cha lập quốc đã mường tượng một hệ thống tư pháp hình sự có thành phần trọng yếu “là xét xử tư pháp, không chỉ đóng vai trò như là cơ chế tìm kiếm sự thật và là công cụ để đạt được sự vô tư, những đồng thời cũng là lá chắn chống lại sự bạo ngược.”

Lá chắn chống lại sự bạo ngược đã bị xé nát từ lâu, khiến cho người Mỹ dễ bị tổn thương trước sự tàn bạo, sự phù phiếm, sai lầm, tham vọng và sự tham lam của chính quyền cũng như những đối tác của họ trong tội ác. 

Tất cả tiền trên thế giới cũng không đủ để bồi thường cho những người có cuộc sống bị gián đoạn bởi những bản án sai lầm. Trong suốt một phần tư thế kỷ qua, hơn 1.500 người Mỹ đã được phóng thích khỏi nhà tù sau khi được minh oan. Đó là những người may mắn.

Về khả năng minh oan cho những can phạm có thể chứng minh sự vô tội sau khi đã ngồi tù 10, 20 hay 30 năm, thẩm phán Kozinski ước tính rằng có thể có nhiều người vô tội nhưng không thể chứng minh được điều đó, không tiếp cận được luật sư, bằng chứng, tiền và phương thức kháng án. 

Đối với những người vẫn chưa hoàn toàn có kinh nghiệm về sự bất công của hệ thống tư pháp Hoa Kỳ, đó chỉ còn là vấn đề thời gian.

Đã từ lâu, Hoa Kỳ không còn vận hành theo hệ thống tư pháp đặc trưng bằng xét xử, một giả định về sự vô tội, nguyên nhân chắc chắn và sự ngăn cấm rõ ràng đối với việc lạm quyền của chính quyền và lạm dụng của cảnh sát. Thay vào đó, tòa án tư pháp của chúng ta đã biến thành tòa trật tự, bảo vệ cho lợi ích của chính quyền, hơn là bảo vệ quyền của công dân, như đã được quy định trong Hiến Pháp.

Không có bất cứ tòa án nào sẵn sàng ủng hộ các điều khoản của Hiến Pháp khi quan chức chính quyền lảng tránh chúng, không có một công dân đủ hiểu biết để phẫn nộ khi các điều khoản này bị xếp xó, Hiến Pháp không giúp gì cho việc chống lại nhà nước cảnh sát.

Hay nói cách khác, trong thời đại của công lý trống rỗng, tòa trật tự, sự bạo ngược của chính quyền, Hiến Pháp không còn là biện pháp bảo vệ chống lại hành động sai trái của chính quyền như đột kích của đội SWAT, giám sát nội địa, cảnh sát bắn công dân không vũ trang, giam giữ vô thời hạn, tịch thu tài sản, vi phạm thủ tục tố tụng và những thứ tương tự.

Friday, September 11, 2015

Toán học phương Tây: vũ khí bí mật của chủ nghĩa đế quốc văn hóa

Người Việt Nam vốn rất quan tâm đến toán học, sự quan tâm đến toán học còn được thôi thúc hơn nữa khi một người Việt Nam giành được giải Fields. Quan niệm được phổ biến ở Việt Nam về sự trung lập của toán học, giá trị phổ quát cũng như tác động theo chiều tích cực, tiến bộ dường như không thể thách thức. Nhưng đã từ rất lâu, nhiều người trong giới toán học trên thế giới đã phản đối quan điểm đó, họ khẳng định rằng toán học là một sản phẩm của văn hóa, nó không trung lập và cũng có thể dùng là công cụ để nô dịch và đồng hóa các dân tộc khác. Giáo sư Alan J. Bishop đã trình bày lập luận về điều đó từ rất lâu trong bài báo "Western mathematics: the secret weapon of cultural imperialism". Giáo sư Bishop đã trình bày các thức những hạt nhân của văn hóa phương tây được áp đặt cho các nước thuộc địa thông qua toán học. Toán học phương Tây có thể trở nên phổ biến thì ngoài sức mạnh kinh tế và công nghệ của phương Tây, chính là nhờ tính chất văn hóa của nó, nó đã hấp thụ sự đóng góp của nhiều nền văn hóa khác nhau suốt trong chiều dài lịch sử, tính chất văn hóa giải thích sự phổ biến của nó, chứ không phải ngược lại. Điểm hạn chế của giáo sư Bishop là ông đã không đi xa hơn nữa trong việc nghiên cứu sự tác động của phương thức sản xuất đến sự phát triển của toán học. Toán học được phát triển nhờ vào thương nghiệp và công nghiệp, nhưng chính những lĩnh vực này chỉ phát triển phồn thịnh nhất dưới phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, do vậy những yếu tố chi phối sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng sẽ chi phối sự phát triển của toán học. Xa hơn nữa, giáo sư kinh tế chính trị học Guglielmo Carchedi đã khẳng định rằng toán học mà môn khoa học (chỉ) do giai cấp vô sản sáng tạo ra, chứ không phải là phi giai cấp. Tuy vậy, việc nghiên cứu toán học gắn liền với xã hội là một chủ đề rất quan trọng của thời đại chúng ta. 

Dưới đây là thông tin và bản dịch bài báo của giáo sư Alan J. Bishop.

Western mathematics: the secret weapon of cultural imperialism
Alan J. Bishop
Race&Class 1990; 32; 51
DOI: 10.1177/030639689003200204


Toán học phương Tây: Vũ khí bí mật của chủ nghĩa đế quốc văn hóa


Trong số tất cả các nội dung được dạy cho học sinh bản địa tại các trường học thuộc địa thì thứ có thể coi mang ít nội dung văn hóa nhất là toán học. Thậm chí cho đến ngày nay, niềm tin đó vẫn còn tồn tại. Khi các tranh luận giáo dục về ngôn ngữ, lịch sử hay tôn giáo diễn ra, ví dụ như việc dạy “văn minh Pháp” cho học sinh sống cách nước Pháp hàng ngàn cây số là không phù hợp thì toán học vẫn luôn là một thứ gì đó được cảm thấy là phổ quát và do đó là trung lập về văn hóa. Điều đó có từ thời thuộc địa và với hầu hết mọi người điều đó vẫn tiếp tục đúng cho ngày nay, toán học vẫn luôn mang tính trung lập về văn hóa, ngay giữa những nhiễu loạn của giáo dục và chủ nghĩa đế quốc.

Bài báo này giải thiêng huyền thoại đó và đặt cái đang được gọi là “toán học phương tây” vào đúng vị trí của nó trong tranh luận – cụ thể là một trong những vũ khí lợi hại nhất để áp đặt văn hóa phương tây.

Trước đây 15 năm hoặc lâu hơn, sự thông thái truyền thống cho rằng toán học là kiến thức trung lập về văn hóa. Trên hết là lập luận phổ biến rằng 2x2=4, một số âm nhân với một số âm sẽ cho một số dương, mọi tam giác đều có tổng ba góc là 180 độ. Đó là sự thật trên khắp thế giới. Chúng đúng một cách phổ quát. Do vậy, có thể kết luận một cách chắc chắn là toán học thoát khỏi sự ảnh hưởng của mọi văn hóa?  

Không có gì đáng hoài nghi về tính phổ quát của các sự thật toán học đó. Chúng đúng ở mọi nơi bởi vì chúng trừu tượng có chủ ý và là bản chất nói chung. Thế nên bất cứ anh ở đâu, nếu anh vẽ một tam giác phẳng, đo các góc với thước đo góc và cộng lại thì tổng số luôn là khoảng 180 độ (tính “gần đúng” là bởi vì việc vẽ và đo lường không hoàn hảo – nếu anh có thể vẽ một tam giác lý tưởng và hoàn hảo thì tổng số đo ba góc sẽ chính xác là 180 độ!) Do các sự thật toán học kiểu này là sự trừu tượng hóa thế giới thực nên chúng thực sự không bị ảnh hưởng bởi bối cảnh và phổ quát.

Nhưng “độ” từ đâu ra? Tại sao lại là 180 độ? Tại sao không phải là 200 hay 100? Tại sao chúng ta lại quan tâm đến tam giác và các tính chất của nó? Câu trả lời cho tất cả những câu hỏi này là “bởi vì một số người quyết định rằng chúng phải theo cách đó”. Các tư tưởng toán học, cũng giống như mọi tư tưởng khác, là con người tạo ra. Chúng có lịch sử văn hóa.

Các tài liệu nhân học đã cho những người muốn thấy biết rằng toán học mà hầu hết mọi người học ở trường học đương đại không phải là toán học duy nhất tồn tại. Ví dụ, hiện nay, chúng ta biết rằng có nhiều hệ thống đếm khác nhau đang tồn tại trên thế giới. Ở Papua New Guinea, Lean đã ghi nhận được gần 600 (nơi đây có hơn 750 ngôn ngữ) với nhiều chuỗi các con số khác nhau, không phải tất cả đều là 10 số.1 Cũng như đếm ngón tay, việc đếm theo cơ thể cũng được ghi nhận, mỗi số là một bộ phận của cơ thể và tên của bộ phận được sử dụng làm số đếm. Các con số cũng được ghi lại với dây buộc nút, khắc vạch trên bảng gỗ hay đá và chuỗi hạt cũng đã được sử dụng, giống như nhiều hệ thống số viết khác nhau.2 Sự đa dạng này khiến những người mới đầu tưởng rằng hệ thống của họ là hệ thống đếm và ghi số duy nhất ngạc nhiên và tò mò.

Chúng ta không chỉ thấy thú vị ở con số mà còn ở cả những thứ khác. Khái niệm về không gian theo hình học Euclid cũng chỉ là một khái niệm – nó dựa chủ yếu trên ý tưởng mang “tính hạt nhân” và hướng ngoại về điểm, đường, mặt phẳng và khối. Có những khái niệm khác tồn tại, như của Navajos, trong đó không gian không bị chia nhỏ hay khách quan hóa, mọi thứ đều đang chuyển động.3 Dĩ nhiên, về căn bản chúng ta nhận thấy nhiều hơn các cách phân loại khác với hệ thống thứ bậc của phương tây – Lancy, một lần nữa ở Papua New Guinea, xác định được thứ mà ông gọi là “phân loại góc”, tuyến tính nhiều hơn là thứ bậc.4 Ngôn ngữ và logic  của nhóm Ấn-Âu đã phát triển nhiều lớp các khái niệm trừu tượng trong ma trận phân loại theo thứ bậc, nhưng điều này không xảy ra ở tất cả các nhóm ngôn ngữ, dẫn đến các logic khác nhau và cách thức liên hệ hiện tượng khác nhau.

Các sự kiện này trái ngược với giả định căn bản và niềm tin vốn có từ lâu về toán học. Khi thừa nhận sự biểu tượng hóa về số học, hình học và logic khác thì điều đó cũng có nghĩa rằng chúng ta phải đặt ra câu hỏi về sự tồn tại của các hệ thống toán học khác. Một số người có thể lập luận5 rằng những sự kiện này đã thể hiện sự tồn tại của cái mà họ gọi là “toán học-mang tính dân tộc”, một tập hợp tư tưởng toán học địa phương và chuyên biệt không hướng tới khái quát hay hệ thống hóa như toán học “chính thống”. Rõ ràng, có thể tiếp tục giả thuyết là mọi nền văn hóa đều tạo ra các tư tưởng toán học, cũng giống như mọi nền văn hóa đều tạo ra ngôn ngữ, tôn giáo, luân lý, phong tục và các hệ thống quan hệ thân tộc. Giờ đây, toán học cần phải được hiểu như là một hiện tượng liên văn hóa.6

Do vậy, chúng ta phải cẩn trọng hơn với tên gọi của chúng ta. Chúng ta không thể nói về “toán học” mà không cụ thể hơn, trừ khi chúng ta đề cập tới dạng chung (giống như ngôn ngữ, tôn giáo, vân vân). Dạng cụ thể của toán học hiện giờ là chủ đề được quốc tế mà đa số chúng ta thừa nhận là sản phẩm của lịch sử văn hóa, trong ba thế kỷ qua của lịch sử, nó được phát triển như là một phần của văn hóa Châu Âu (nếu đây là khái niệm mô tả phù hợp). Đó là lý do khiến tiêu đề bài báo này liên hệ tới “toán học phương tây”. Theo một nghĩa nào đó, khái niệm này cũng không phù hợp, do nhiều nền văn hóa đã đóng góp vào kiến thức này và có nhiều nhà toán học thực hành trên khắp thế giới chống lại tư tưởng cho rằng người nghiên cứu văn hóa phương tây sẽ trở thành một phần của văn hóa phương tây. Lịch sử của toán học phương tây đã được viết lại vào hiện tại theo như nhiều bằng chứng đã cho thấy, nhưng phần nhiều là sau này. Tuy vậy, theo quan điểm của tôi thì thừa nhận “toán học phương tây” là phù hợp, do nó là văn hóa phương tây và cụ thể hơn nữa là văn hóa tây Âu, có vai trò quyết định trong việc đạt được các mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc.7

Dường như có ba đại diện trung gian chủ yếu trong quá trình xâm lược các quốc gia thuộc địa của toán học phương tây: buôn bán, cai trị và giáo dục.8 Khi liên quan đến lĩnh vực buôn bán và thương mại nói chung, đây rõ ràng là lĩnh vực mà đo lường, đơn vị, con số, tiền tệ và các khái niệm hình học khác được áp dụng. Cụ thể hơn, các ý tưởng của phương tây về chiều dài, diện tích, khối lượng, trọng lượng, thời gian và tiền sẽ được áp dụng cho các xã hội bản địa.

Nếu có bất cứ kiến thức nào về hệ thống đo lường bản địa, hay đơn vị tiền tệ thì chúng cũng ít được dẫn chứng trong tài liệu. Các nhà nghiên cứu chỉ mới bắt đầu dẫn ghi nhận lĩnh vực này và thấy rõ rằng nhiều hệ thống bản địa đã (và đang) tồn tại.9 Tuy vậy, các đơn vị đã (và đang) được sử dụng trong buôn bán hầu như là của phương tây và những đơn vị địa phương đã sống sót thì hoặc là bị phương tây hóa hoặc là đang chết dần. Trong một số trường hợp, không có đơn vị địa phương nào để đo lường dạng số lượng cần thiết mà các thương nhân phương tây sử dụng – như người cung cấp thông tin của Jones thể hiện ở Papua New Guinea trong một cuộc khảo sát gần đây: “Có thể nói rằng [hai mảnh vườn có cùng diện tích] nhưng điều đó sẽ luôn bị phản đối” và “Không có cách nào so sánh khối lượng của đá với khối lượng của nước, không có lý do nào cho việc này.”10

Cách thứ hai mà toán học phương tây được áp đặt cho các văn hóa khác là thông qua cơ chế cai trị và chính quyền. Con số và tính toán là cần thiết để theo dõi số lượng lớn người dân và hàng hóa, điều này dẫn đến việc các phép tính số học phương tây được sử dụng trong hầu hết các trường hợp. Việc nghiên cứu các bằng chứng cho thấy đại đa số hệ thống đếm trên thế giới bị hạn chế và giới hạn trong tự nhiên và dựa trên nhiều cơ sở số đếm khác nhau. Có bằng chứng chắc chắn về một số hệ thống có thể xử lý những con số lớn theo những cách thức tinh vi nếu xã hội cần chúng (ví dụ như của người Igbo và người Inca),11 mặc dù những hệ thống này và có lẽ cả các hệ thống khác nữa cũng tồn tại, nhưng có ít bằng chứng cho thấy chúng được quan chức thuộc địa biết tới, chưa kể là thúc đẩy hay sử dụng. Ngoại lệ là hệ thống được người Trung Hoa và những người khác sử dụng, đó là bàn tính tại một số thuộc địa nhất định, đó rõ ràng hệ thống đủ tinh vi cho các mục đích cai trị.12

Phương thức khác để áp dụng thông qua cai trị là ngôn ngữ về cấp bậc, thông qua việc sắp xếp con người và chức năng của họ. Dường như không có ví dụ đáng chú ý nào về việc này, nhưng rất khó để những người quen thuộc với khái niệm phương tây về tên gọi và phân loại hình dung được sự tồn tại của những cách thức xây dựng và sử dụng ngôn ngữ khác. Nghiên cứu của Lancy và Philp đã cho chúng ta thấy điều này. Ví dụ, Lancy nói:

Ở Anh, cha mẹ dạy trẻ em rằng chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ là hỏi ý kiến. Họ chuẩn bị cho trẻ em về một xã hội đặt phần thưởng cho sự hiểu biết về danh hiệu và cấp bậc của mọi thứ Người Kaluli ở cao nguyên miền nam của Papua New Guinea dành – hay bất cứ thứ gì – nhiều thời gian hơn vào việc dạy ngôn ngữ cho trẻ em so với người Anh, nhưng mục tiêu của họ rất khác biệt. Trẻ em Kaluli được học rằng chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ là biểu đạt; đặc biệt, người sử dụng ngôn ngữ thành thạo là người có thể sử dụng lời nói để điều khiển và kiểm soát hành vi của người khác.

Mọi sự cưỡng bức sử dụng ngôn ngữ khác đều có thể dẫn đến sự khó khăn và rối loạn,13 nhưng trên hết, mọi hoạt động cai trị của chính quyền thuộc địa Tây Âu gắn liền với hệ thống, cấu trúc và vai trò của cá nhân sẽ không thể tránh khỏi việc áp dụng phạm trù ngôn ngữ và logic Tây Âu.

Phương thức thứ ba và là phương thức chủ yếu để xâm lược văn hóa là giáo dục, đóng vai trò quyết định trong việc khuếch trương ý tưởng toán học phương tây và qua đó là văn hóa phương tây. Tại hầu hết các xã hội thuộc địa, giáo dục áp đạt diễn ra ở hai cấp độ, phản ánh những gì liên quan đến quốc gia châu Âu. Cấp độ thứ nhất là giáo dục cơ bản, phát triển chậm chạp ở thời kỳ thuộc địa đầu. Ví dụ, ở Ấn Độ, nguyên tắc “sàng lọc” là thống trị, giả định rằng chỉ cần giáo dục một nhóm nhỏ thượng lưu và kiến thức theo cách nào đó sẽ “lọt xuống đám đông”.  Ở một số trường truyền giáo vào những năm sau này của thời kỳ thuộc địa, khi giáo dục cơ bản được thực hiện nghiêm túc hơn thì dĩ nhiên là nội dung mang tính châu Âu thống trị. Nhu cầu cần phải giáo dục người bản địa chỉ nhằm mục đích để họ có thể làm việc được trong các cơ sở buôn bán, thương mại và hành chính do châu Âu thiết lập. Về mặt toán học thì nội dung duy nhất đáng chú ý là số học với các ứng dụng liên quan.14

Đáng quan tâm hơn trong bối cảnh của luận văn này là giáo dục cấp hai cho nhóm nhỏ thượng lưu tại các nước thuộc địa. Ở Ấn Độ và châu Phi, trường học và trường cao đẳng được thiết lập, đào tạo của chúng lại phản ánh các thể chế tương đương ở “mẫu” quốc.15 Việc giáo dục của ở các trường do Pháp kiểm soát khác với trường do Anh kiểm soát chỉ phản ánh sự tồn tại của những triết lý đương thời khác nhau trong giáo dục của Pháp và Anh.

Ở mức tốt nhất, chương trình toán học của một số trường học buồn cười và bất hợp lý thảm hại. Mmari trích dẫn một số vấn đề đặc trưng trong sách giáo khoa thời thuộc địa của Tanzania (được các quan chức giáo dục thuộc địa Anh quốc khuyến nghị sử dụng trong trường học):16

Nếu một vận động viên criket ghi bàn với r runs trong x innings, vẫn còn n lượt, điểm trung bình của anh ta là r/(x-n) runs. Tìm điểm trung bình của anh ta khi anh ta ghi được 204 runs trong 15 innings, vẫn còn 3 lượt.

Quy đổi 207,042 farthings; 89,761 nửa pence; 5,708 và ½ shilling thành £.s.d

Thang máy ở nhà ga metro Holborn dài 156 feet và đi lên hết 65 giây. Tính tốc độ của thang máy theo đơn vị miles/giờ.

Nhưng sau đó, “sự thích hợp” được đánh giá hoàn toàn với góc độ chuyển giao văn hóa.

Ở mức tồi nhất, chương trình toán học là trừu tượng, phi lý, lượm lặt và xa xỉ - cũng giống như ở châu Âu – bị thống trị bởi những cơ sở như Chứng Nhận Quốc Tế của Cambridge, và chứa đựng văn hóa ở mức rất cao.17 Đó là một phần của chiến lược có chủ định trong đồng hóa – nỗ lực áp đặt có chủ định “điều tốt đẹp nhất của phương Tây” và thuyết phục về tính siêu việt của nó đối với mọi hệ thống toán học và văn hóa bản địa. Cũng như sự cần thiết của giáo dục chuẩn bị cho đại học, thúc đẩy sinh viên ham muốn đi học ở trường đại học phương tây. Họ được giáo dục trái với văn hóa và xã hội của họ. Ví dụ Watson trích dẫn Wilkinson, phê phán giáo dục Malayan vào cuối thế kỷ theo góc độ này: “thiếu thực tế, khiến con người hay kiện cáo, khiến mọi người chán ghét công việc chân tay và kỹ thuật, tạo ra một tầng lớp có học thức bất mãn, vô dụng trong cộng đồng và là nguồn gây rắc rối đối với Hoàng gia.”18 Toán học và khoa học – những chủ đề có thể dễ dàng kết nối với văn hóa và môi trường bản địa và có thể phù hợp với nhu cầu của xã hội bản địa – không bị đánh giá dưới góc độ này, trái ngược với ý định tốt đẹp của nhiều giáo viên. Chúng là hai cột trụ của văn hóa phương tây, phần đáng chú ý của giáo dục của cá nhân có văn hóa vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.19

Rõ ràng là thông qua ba trung gian là buôn bán, hành chính và giáo dục, biểu tượng hóa và các cấu trúc của toán học phương tây đã được áp đặt cho các nền văn hóa bản địa, cũng đáng chú ý như biểu tượng hóa ngôn ngữ và cấu trúc tiếng Anh, Pháp, Hà Lan hay bất cứ ngôn ngữ châu Âu nào khác thống trị tại nước thuộc địa.
Mặc dù vậy, cũng giống như ngôn ngữ, sự biểu tượng hóa cụ thể cũng được sử dụng, theo cách thức ít nhất là đáng chú ý trên phương diện toán học. Quan trọng hơn nữa, đặc biệt là trong dưới góc độ văn hóa, là các giá trị mà sự biểu tượng hóa mang theo. Dĩ nhiên, điều này diễn ra mà không cần nói rằng đó là sự thông thái truyền thống, tức là toán học là trung lập về giá trị. Làm sao nó có thể có những giá trị đó nếu nó phổ quát và trung lập về văn hóa? Hiện nay, chúng ta biết rõ hơn và một phân tích về lịch sử, các tài liệu nhân học và văn học liên văn hóa phỏng đoán rằng có bốn cụm giá trị được hàm chứa trong toán học Tây Âu, cũng như chúng phải có tác động ghê ghớm đối với văn hóa bản địa.

Thứ nhất, đây là lãnh địa của chủ nghĩa duy lý, trung tâm của toán học phương tây. Nếu người ta phải chọn lấy một giá trị và thuộc tính duy nhất đảm bảo cho quyền lực và thẩm quyền của toán học trong phạm vi văn hóa phương tây thì đó là chủ nghĩa duy lý. Như Kline nói: “Trên phương diện tổng quát thì toán học là tinh thần, tinh thần của sự duy lý. Đó là tinh thần đã thúc đẩy, điều khiển, tiếp sinh lực và dẫn dắt tư duy của con người tới sự thể hiện bản thân đầy đủ nhất.”20 Với sự tập trung vào diễn dịch duy lý và logic, nó trút sự khinh miệt vào thực hành thử nghiệm và thất bại, thông thái và ma thuật truyền thống. Theo như đoạn trích dẫn của Gay và Cole ở Liberia:

Một sinh viên đại học Kpelle chấp nhận tất cả  những khẳng định sau đây: (1) Kinh Thánh là đúng theo nghĩa đen, tức là tất cả sự sống được tạo ra trong sáu ngày như Sáng Thế Ký mô tả; (2) Kinh Thánh cũng giống như những cuốn sách khác, được những người tương đối cổ xưa viết sau một thời gian dài, có mâu thuẫn và sai lầm; (3) Tất cả sự sống đã tiến hóa qua hàng triệu năm từ các dạng nguyên thủy; (4) Một cây “linh hồn” bị đốn hạ ở làng bên, đã tự mọc lại và lớn lên đúng như cũ trong vòng một ngày. Anh ta học được những điều đó từ mục sư dòng chính thống, trong khóa học kinh thánh, trong khóa học vạn vật học và vẫn tràn ngập văn hóa bái vật giáo. Anh ta chấp nhận tất cả, bởi vì anh ta cảm thấy rằng phải tôn trọng tôn trọng tất cả những gì mà những người có thẩm quyền áp đặt.

Người ta có thể hiểu sự bực bội của Gay và Cole trong vấn đề này, nhưng người ta cũng hiểu nhiều hơn về mức độ bối rối của sinh viên khi được học rằng những gì không “hợp lý” theo nghĩa phương tây thì không đáng tin cậy.

Thứ hai, một tập hợp giá trị bổ sung gắn liền với toán học phương tây có thể gọi là chủ nghĩa khách quan, một cách nhận thức thế giới như là được tạo nên từ những sự vật đơn lẻ, có thể bị loại bỏ và trừu tượng hóa, tức là khỏi bối cảnh của chúng. Đưa ra khỏi bối cảnh cảnh, để có thể khái quát hóa, là trung tâm của toán học và khoa học phương tây; nhưng ngược lại nếu văn hóa của anh khuyến khích anh tin rằng mọi thứ thuộc về cũng như tồn tại trong mối quan hệ của chúng với nhau thì đưa chúng ra khỏi bối cảnh sẽ là hoàn toàn vô nghĩa. Trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại, có một xung đột sâu sắc về việc “vật” hay “quá trình” là cốt lõi của sự tồn tại. Hecralitos, vào khoảng năm 600-500 trước công nguyên, lập luận rằng đặc tính bản chất của hiện tượng là chúng luôn thay đổi, luôn di chuyển và luôn biến đổi. Democritus và phái Pythagore đề xuất quan điểm thế giới “hạt nhân”, trở thành phổ biến và được phát triển trong phạm vi toán học và khoa học phương tây.22

Horton xem xét chủ nghĩa khách quan theo một góc độ khác. Ông so sánh quan điểm này với những gì ông thấy khi người châu Phi sử dụng cách diễn đạt cá nhân để giải thích. Ông lập luận rằng điều này đã được phát triển cho người châu Phi truyền thống cảm giác rằng “thế giới” cá nhân và xã hội có thể nhận thức được, trong khi tính phi cá nhân và “thế giới sự vật” là không thể nhận thức được. Khuynh hướng trái ngược đúng với với người phương tây. Lập luận của Horton như sau:

Trong các xã hội công nghiệp phức tạp, thay đổi nhanh chóng, cuộc sống của con người cũng thay đổi. Trật tự, tính đều đặn, khả năng dự báo, tính đơn giản, tất cả dường như đều vắng mặt. Trong thế giới của những sự vật vô tri thì chỉ có những đặc tính là được thấy rõ nhất. Đây là lý do tại sao nhiều người cảm thấy bản thân ít ở nhà với người thân hơn là với đồ vật. Tôi cho rằng, điều này cũng lý giải tại sao tư duy trong yêu cầu giải thích tương tự biến hầu hết sự vật thành vô tri. Trong các xã hội truyền thống của châu Phi, chúng ta tấy tình hình hoàn toàn ngược lại. Cuộc sống của con người nơi đặc biệt nhất của trật tự, có thể dự đoán, đều đặn. Trong thế giới của sự vô tri [mà họ coi là “tự nhiên” chứ không phải là do con người tạo ra], những đặc tính này rất ít rõ ràng. Ở đây, việc ít ở nhà với mọi người hơn là với đồ vật là điều không thể tưởng tượng được. Ở đây, tư duy trong yêu cầu giải thích tương tự trở nên tự nhiên đối với mọi người và quan hệ của họ.23

Do vậy, chúng ta có thể thấy rằng với cốt lõi là chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa khách quan, toán học phương tây phản ánh sự phi nhân hóa, khách quan hóa quan điểm lý tưởng, cần phải xuất hiện thông qua việc dạy toán học cho trẻ em truyền thống của thuộc địa.

Nhóm giá trị thứ ba liên quan đến phương diện quyền lực và kiểm soát của toán học phương tây. Tư tưởng toán học được sử dụng trực tiếp như các công thức và kỹ thuật ứng dụng, hoặc gián tiếp thông qua khoa học và công nghệ, như là cách thức kiểm soát môi trường vật chất và xã hội. Như Schaaf nói về lịch sử của toán học: “Tinh thần của thế kỷ 19 và thế kỷ 20, được đặc trưng bằng việc con người gia tăng làm chủ môi trường vật chất.”24 Sử dụng con số và đo lường trong buôn bán, công nghiệp, thương mại và hành chính sẽ khẳng định cá giá trị sức mạnh và kiểm soát của toán học. Nó đã (và đang) là kiến thức hữu ích, kiến thức mạnh mẽ và hấp dẫn đa số những người tiếp xúc với nó.

Mặc dù vậy, nhóm giá trị bổ sung, liên quan đến tiến bộ và thay đổi, cũng lớn lên và phát triển để giành lấy việc kiểm soát môi trường của người khác nhiều hơn. Nhận thức về giá trị kiểm soát kết hợp với phân tích duy lý về vấn đề nuôi dưỡng giá trị bổ sung của sự tiến bộ duy lý và do vậy liên quan đến câu hỏi, sự hoài nghi cũng như yêu cầu sự thay thế. Horton lại đề cập tới giá trị này khi ông so sánh tư tưởng khoa học phương tây với giá trị truyền thống châu Phi: “Trong văn hóa truyền thống không có nhận thức đã phát triển để thay thế hệ thống nguyên lý lý thuyết đã được thiết lập; trong khi văn hóa định hướng khoa học lại là một nhận thức đã phát triển cao.”25 Bất kể là kết luận này có chính xác hay không, cũng không có gì đáng hoài nghi về tác động đáng lo ngại của giáo dục kiểu tinh hoa, tức là thuyết giáo về “kiểm soát” và “tiến bộ” trong các xã hội truyền thống, hoặc ai đó có thể tưởng rằng những giá trị đó là thứ cần thiết cho cư dân bản địa ở những quốc gia đã được đề cập.

Chắc chắn là ngay cả khi cư dân bản địa tìm kiếm sự tiến bộ thì rõ ràng là họ không cần thiết phải nhận một phiên bản tiến bộ bị phương tây hóa, công nghiệp hóa và định hướng theo sản phẩm, điều đó dường như chỉ gia tăng thêm sự chênh lệch giữa các thực dân đế quốc Châu Âu xâm lược hung hãn, năng động và tiến bộ với người dân thuộc địa truyền thống ổn định và không cải đạo. Sự tiến bộ được toán học thúc đẩy thông qua công nghệ và khoa học rõ ràng là lý do chính khiến cho các quyền lực thuộc địa đã tiến bộ như đã thấy, đó cũng là lý do khiến toán học trở thành một công cụ đáng chú ý trong hành trang văn hóa của thực dân đế quốc.

Tóm lại, những giá trị đó được gán cho sức mạnh văn hóa toán học-công nghệ, là thứ mà các nhà cầm quyền đế quốc nói chung đại diện. Toán học với chủ nghĩa duy lý rõ ràng và logic lạnh lùng, sự chính xác, thứ được gọi là sự thật “khách quan” (dường như không bị chi phối bởi văn hóa và giá trị), thiếu sự yếu đuối của con người, sức mạnh dự báo và kiểm soát, sự cổ vũ thách thức và hoài nghi, sự công kích để đạt được những kiến thức chắc chắn hơn, của nó thực sự là vũ khí mạnh mẽ. Khi kết hợp với sử dụng công nghệ để phát triển công nghiệp và thương mại thông qua các ứng dụng khoa học và gia tăng sự hữu ích của các sản phẩm thương mại hữu hình, vị thế của nó là không thể tranh cãi.

Từ thời thuộc địa tới nay, sức mạnh của văn hóa toán học-công nghệ đã phát triển nhanh chóng – nhanh đến mức mà toán học phương tây ngày nay được giảng dạy ở mọi quốc gia trên thế giới. Một lần nữa, nó được giảng dạy chủ yếu với các giả định về tính phổ quát và tính trung lập về văn hóa. Mặc dù vậy, từ chủ nghĩa thực dân cũ đến chủ nghĩa thực dân mới, chủ nghĩa đế quốc văn hóa của toán học phương tây đã được nhận biết và thấu hiểu hoàn toàn.  Sự thấu hiểu sâu sắc hơn về tác động của nó cần phải đạt được từng bước, nhưng người ta phải ngạc nhiên rằng ảnh hưởng lan tỏa khắp nơi của nó giờ đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát.

Khi sự nhận thức về bản chất văn hóa và ảnh hưởng của toán học phương tây được phổ biến và phát triển, nhiều mức độ phản ứng khác nhau cũng đã xuất hiện. Ở mức độ thứ nhất, toán học dân tộc được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn, thông qua các phân tích tài liệu nhân học cũng như khảo sát các tình huống của đời sống thực. Whilst thừa nhận rằng nhiều ý tưởng quan trọng hiện nay có thể đã không được các thế hệ nhà khảo cố trước đây nhìn nhận, có nghĩa là vẫn có thể thu lượm được nhiều thông tin từ tài liệu có sẵn.

Dĩ nhiên, kiểu phân tích tài liệu này có thể được các cấu trúc lý thuyết giúp chúng ta mô tả về toán học, như là một hiện tượng liên văn hóa, hỗ trợ. Cần phải nhắc lại rằng toán học là một sản phẩm văn hóa – một công nghệ mang tính biểu tượng, được phát triển thông qua việc tham gia vào các hoạt động môi trường đa dạng26. Sáu hoạt động phổ quát có thể được xác định, thông qua đó, tôi muốn nói rằng không có nhóm văn hóa đã được ghi nhận nào mà không thực hiện các hoạt động này dưới một số dạng27. Chúng là:
  • Đếm:  Sử dụng phương thức có hệ thống để so sáng và sắp xếp các sự vật cụ thể. Điều này có thể liên quan đến đếm ngón tay hay cơ thể, vạch dấu hoặc sử dụng các vật thể hay dây để ghi nhớ, hoặc các tên số đặc biệt. Tính toán cũng có thể được hoàn thành với các con số, với đặc tính ma thuật và tiên đoán gắn liền với một số chúng.
  • Định vị: Xác định môi trường không gian của một người, mô tả và gán biểu tượng cho môi trường đó, với mô hình, bản đồ, bản vẽ và các công cụ khác. Đây là khía cạnh hình học mà định hướng, dẫn đường, thiên văn học và địa lý học đóng vai trò quan trọng.
  • Đo lường: Định lượng các tính chất như độ dài và trọng lượng, nhằm mục đích so sánh và sắp xếp sự vật. Đo lường thường được sử dụng khi các sự vật không thể đếm được (ví dụ như nước, gạo), nhưng tiền cũng là một đơn vị đo lường giá trị kinh tế.
  • Thiết kế: Tạo ra hình dạng hoặc thiết kế một vật thể, hoặc một phần môi trường không gian của một người. Điều này có thể liên quan đến việc coi vật thể như là một “hình mẫu” có thể sao chép, hoặc vẽ lại chúng theo phương thức quy ước. Vật thể có thể được thiết kể cho mục đích công nghệ hoặc tinh thần và “hình dạng” là khái niệm hình học cơ bản.
  • Chơi: Bày trò và tham gia chơi, các trò chơi và trò tiêu khiển với các quy tắc ít nhiều được quy ước để mọi người chơi phải tuân thủ. Các trò chơi luôn luôn mô phỏng lại một khía cạnh đáng chú ý của hiện thực xã hội và thường liên quan đến lý lẽ mang tính giả thuyết.
  • Giải thích: Tìm cách để thể hiện các mối quan hệ giữa các hiện tượng. Cụ thể là khám phá ra “các hình mẫu” của con số, vị trí, đo lường và thiết kế, thứ tạo ra “thế giới nội tại” của các quan hệ toán học mà mô hình và do đó giải thích thế giới hiện thực bên ngoài28.

Hiện nay, chúng ta có các bằng chứng văn bản số lượng lớn từ nhiều nền văn hóa khác nhau xác nhận sự tồn tại của tất cả những hoạt động đó, cấu trúc này đã thúc đẩy nhiều nghiên cứu chuyên sau hơn trong việc nghiên cứu tài liệu. Mặc dù vậy, toán học dân tộc vẫn chưa phải là khái niệm được định nghĩa hoàn chỉnh29, nhất là khi xem xét ý tưởng và dữ liệu mà chúng ta đang có, tốt hơn cả là không nên sử dụng khái niệm đó mà cần phải chính xác hơn với việc dẫn chiếu toán học nào, của ai trong bất cứ hoàn cảnh nào. Hơn nữa, việc tìm kiếm cũng cần phải tập trung vào khía cạnh giá trị. Khi xem xét về vấn đề và hiện tượng của xung đột văn hóa trong giáo dục thì rất dễ dàng để dừng lại ở mức độ biểu tượng hóa và ngôn ngữ, sự khác biệt trong các giá trị văn hóa có thể tồn tại rất đáng chú ý về mặt giáo dục. Chúng cần phải được chú ý một cách nghiêm túc trong các nghiên cứu sau này.

Ở mức thứ hai, nhiều quốc gia đang phát triển và cựu thuộc địa đang có sự phản ứng hướng tới việc tạo ra một nhận thức sâu sắc hơn về văn hóa bản địa. Sự hồi sinh hay đánh thức văn hóa là mục tiêu được thừa nhận của quá trình giáo dục ở một số quốc gia. Ở Mozambique, Gerdes là nhà giáo dục toán học đã đầu tư nhiều công sức vào lĩnh vực này. Ông không chỉ tìm các trình bày các khía cạnh toán học quan trọng của xã hội Mozambique mà còn phát triển quá trình “rã đông” toán học “bị đóng băng” mà ông khám phá ra. Ví dụ, với các phương pháp bện dây mà ngư dân dùng để làm bẫy bắt cá, ông đã trình bày các ý tưởng hình học đáng chú ý, có thể dễ dàng đưa vào chương trình toán học để tạo ra giáo dục toán học thuần Mozambique cho thanh niên30

Rõ ràng là những ý tưởng ở cấp độ thứ nhất sẽ thông tin và thúc đẩy công việc ở cấp độ thứ hai – một lý do khác khiến nghiên cứu toán học dân tộc cần phải được cập nhật. Hoạt động này cũng không chỉ giới hạn tại các nước đang phát triển. Ở Australia với Aborigines, ở Bắc Mỹ với Navajos và các nhóm cư dân bản địa Mỹ khác cũng như ở các quốc gia khác, nơi có các nhóm thiểu số sắc tộc và văn hóa, việc khám phá và phát triển toán học địa phương, dân tộc hay bản địa, những thứ đã ngủ yên trong nhiều thế kỷ31, đang rất được quan tâm. Những ý tưởng này có thể giúp tạo ra một chương trình phù hợp hơn, có ý nghĩa văn hóa hơn tại trường học địa phương.

Một trong những điều nực cười nhất của toàn bộ lĩnh vực này là một số nền văn hóa và xã hội khác nhau đã đóng góp vào sự phát triển của cái được gọi là toán học phương tây: Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ, Arab, Hy Lạp, cũng như Tây Âu. Mặc dù khi chủ nghĩa đế quốc văn hóa phương tây áp đặt phiên bản toán học của nó cho các xã hội thuộc địa thì nó hiếm khi thừa nhận những thứ mà các xã hội đó đã đóng góp. Ví dụ, ở Iran, vào đầu những năm 1970, có rất ít nhà giáo dục toán học bản địa nhận thức được những đóng góp lớn của đế quốc Hồi Giáo đối với sự phát triển của toán học phương tây, thứ mà họ cố gắng dạy cho thanh niên. Ngày nay, cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa chính thống thì nhận thức về sự đóng góp và triết lý giáo dục Hồi Giáo cần thiết cũng gia tăng, điều này tác động tới chương trình toán học và khoa học tại các trường học chính thống32. Do vậy, chúng ta bắt đầu thấy tại nơi bị áp đặt toán học phương tây bị các nền văn hóa khác đồng hóa. Đây là sự phát triển toàn cầu và chỉ có thể thúc đẩy sự tái phát triển văn hóa.

Cấp độ phản ứng thứ ba đối với chủ nghĩa đế quốc về văn hóa của toán học phương tây là xem xét lại toàn bộ lịch sử toán học phương tây. Không phải ngẫu nhiên mà lịch sử toán học phương tây đã được viết chủ yếu bởi các nhà nghiên cứu, nam giới gia trắng, Tây Âu hoặc Mỹ, ví dụ như có sự lo ngại rằng sự đóng góp của người da màu đã bị đánh giá thấp. Cuốn sách Blacks in Science của Van Sertima là một tấn công có chủ định vào quan điểm định kiến về sự phát triển của toán học33. Nhiều tác giả tham gia cuốn sách này đã chỉ ra các ý tưởng và phát minh toán học, công nghệ, khoa học của Châu Phi nhiều thế kỷ trước đây, mặc dù vậy chúng ít được nhắc tới. Một số tác giả khác khẳng định rằng sự đóng góp của Hy Lạp đối với toán học đã bị đề cao quá mức: rằng họ chỉ củng cố và sắp xếp những gì đã được người Babylon và Ai Cập phát triển trước đó; rằng Euclid làm việc ở Alexandria và có vẻ như là người Châu Phi hơn là người Hy Lạp; rằng các bằng chứng khảo cổ học đã bị bỏ qua hoặc bị xuyên tạc34.

Joseph35 khẳng định vai trò lớn của đế quốc Hồi Giáo trong việc phổ biến các ý tưởng toán học từ phương đông, không chỉ ở Châu Âu. Công trình của Needham36 khẳng định những sự đóng góp lớn bắt đầu ở Trung Quốc và phát triển thông qua Ấn Độ, nơi mà Hồi Giáo tiếp xúc với chúng. Rõ ràng không có lý do nào để khẳng định rằng thứ mà chúng ta coi là toán học phương tây chỉ hoàn toàn là sản phẩm của văn hóa Châu Âu.   

Mặc dù vậy, theo quan điểm của tôi, những giá trị văn hóa đáng kể đã bị đánh giá thấp trong đa số những phân tích lịch sử đó và khi khuynh hướng này hoàn toàn được thừa nhận thì sẽ cần phải có rất nhiều đánh giá lại hơn. Rất khó có thể tách biệt hình tượng hóa ra khỏi các giá trị văn hóa nhưng chúng ta cũng biết cách thức mà tiếng Anh chuyển tải các thông điệp khác nhau ở hai bờ Đại Tây Dương bởi vì những giá trị văn hóa khác nhau tồn tại ở đó. Biểu tượng hóa tương tự của toán học có thể được thực hiện cùng với nhiều loại giá trị khác nhau của các nền văn hóa khác nhau trong quá khứ. Dĩ nhiên, ví dụ tốt nhất cho trường hợp này là Ấn Độ. Toán học Ấn Độ, cùng với các nhóm văn hóa phương đông khác, mang trong bản thân các giá trị tôn giáo và tinh thần mạnh mẽ. Mặt khác, toán học phương tây được đồng nhất dứt khoát với khoa học phương tây, với cái được gọi là kiến thức “khách quan” phi nhân hóa, với sự diễn giải kinh nghiệm và duy lý. Mặc dù vậy, tại hầu hết các trường học Ấn Độ ngày nay, toán học phương tây được giảng dạy và các giá trị phương tây được cổ vũ. Tất nhiên, rất nhiều sự biểu tượng hóa (các con số, vv) là cơ sở cho sự biểu tượng hóa cũng như nhiều ý tưởng số học của chúng ta đã được người Hindus phát triển. Các giá trị khác biệt một cách đáng kể. Một số nhà giáo dục toán học Ấn Độ37 hiện đang đòi hỏi phát triển để điều chỉnh sự cân bằng, mặc dù điều nực cười khác là loại hình phát triển giáo dục này được chú ý ở Anh hơn là ở Ấn Độ, đó là một ví dụ, tại Ấn Độ thì các xung đột giáo dục có vẻ như ít trầm trọng hơn. Tuy nhiên, quan hệ giữa các giá trị và biểu tượng hóa có vẻ như là một lĩnh vực nhiều hứa hẹn cho các nghiên cứu sâu hơn.

Tôi đã giải thiêng huyền thoại về tính trung lập văn hóa của toán học phương tây. Bằng chứng hiện đại ngày càng giúp phá hủy niềm tin ngây thơ này. Tuy vậy, niềm tin vào huyền thoại này đã có và sẽ tiếp tục có những ảnh hưởng mạnh mẽ. Những ảnh hưởng đó liên quan tới giáo dục, sự phát triển của quốc gia và sự tiếp diễn của chủ nghĩa đế quốc văn hóa. Không phải là cường điệu khi thừa nhận rằng hầu hết thế giới hiện đại đã chấp nhận toán học phương tây, các giá trị kèm theo, như là phần cơ sở của giáo dục. Đã có khoảng 3.000 nhà giáo dục toán học tham gia Đại Hội Giáo Dục Toán Học Quốc Tế lần thứ 6 tại Hungary vào năm 1988 (được tổ chức bốn năm một lần). Họ đến từ mọi quốc gia trên thế giới, những nước có thể hỗ trợ việc tham gia và những người không có mặt ở đó có thể mua bản sao của các tham luận và báo cáo. Đó là sức hút của toán học phương tây và các tăng thống của nó cũng như của giáo dục toán học phương tây. Rõ ràng là nhiều xã hội đã thừa nhận lợi ích của việc áp dụng toán học, khoa học và công nghệ phương tây đối với người dân.

Mặc dù vậy, khi nhìn nhận theo quan điểm rộng hơn, người ta phải đặt câu hỏi: có cần phải phản kháng nhiều đối với hơn sự thống trị văn hóa này? Thực sự có thể dựa vào một số nhận thức đã nêu. Bên cạnh đó là ba mức độ phản ứng đã được đề cập phía trên, trong những năm gần đây, khi các loại bằng chứng và vấn đề liên quan bài báo này được phổ biến rộng rãi và thảo luận nghiêm túc hơn, sự thừa nhận nhu cầu phản ánh những quan tâm này đã được chào đón hơn. Tại hội nghị ở Hungary, trọn một ngày đã được dành cho chủ đề “Giáo dục toán học và xã hội”, với nhiều nghiên cứu được trình bày, thảo luận được khuyến khích và nhận thức được khơi cảm hứng. Các chủ đề tập trung vào vấn đề mà bài báo này đề cập cũng nằm trong chương trình của ngày đó38.   

Sự phản kháng đang gia tăng, các luận chiến phê phán đang cho thấy sự phát triển về lý thuyết, cũng như nghiên cứu đang gia tăng, đặc biệt là trong các tình huống giáo dục do xung đột văn hóa được thừa nhận. Vũ khí bí mật không còn là bí mật nữa. 
     
Tham khảo

1.    1) G. A. Lean, Counting Systems of Papua New Guinea (Papua New Guinea, 1986); C. Zaslavsky, Africa Counts (Boston, 1973); M. P. Closs, Native American Mathematics (Austin, Texas, 1986).
2) K. Menninger, Number Words and Number Symbols: a cultural history of numbers (Cambridge, Mass, 1969)
3) R. Pinxten, I. van Dooren and F. Harvey, The Anthropology of Space (University of Pennsylvania Press, 1983).
4) D. F. Lancy, Cross-cultural Studies in Cognition and Mathematics (New York, 1983); H. Philph, “Mathematical education in developing countries” in A. G. Howson (ed.), Developments in Mathematical Education (Cambridge, 1973).
5) See, for example, U. d’Ambrosio “Ethnomathematics and its place in the history and pedagogy of mathematics”, For the Learning of Mathematics (1985), and P. Gerdes. “How to recognize hidden geometrical thinking: a contribution to the development of anthropological mathematics”, For the Learning of Mathematics (1986).
6) “Pan-cultural” is used to convey the sense that all cultures engage in mathematical ativities. 
7) In the late nineteenth century and early twentieth century, one can also recognize the increasing contribution of America and Australian influences, which nevertheless stem from the western European cultural tradition.
8) A fourth candidate would be “technology”. Its influence is clear: see, for example, D. R. Headrick’s The Tools of Empire (Oxford, 1981); but what is rather less clear is the mathematical relationship with technology. As science and mathematics developed in their power and control, they undoubtedly influenced technology, particularly later in the imperialist era.
9) See Zaslavsky, op. cit. and Menninger, op. cit.
10) J. Jones, Cognitive Studies with Students in Papua New Guinea (Papua New Guinea, 1974).
11) See Ascher, op. cit.
12) Even today, the abacus has survived the calculator invasion and is still in prolific use in the countries of Asia.
13) See P. W. Bridgeman, “Quo Vadis”, Daedalus (No. 87, 1958), and L. C. S. Dawe, “The influence of bilingual child’s first language competence on reasoning in mathematics” (unpublished PhD thesis, University of Cambridge, 1982). As Awoniyi points out: A foreign language is more than a different set of words for the same ideas; it is new and strange way of looking at things and unfamiliar grouping ideas”, T. A. Awoniyi, “Yoruba language and the schools system; a study in colonial language policy in Nigeria 1882-1952”, The International Journal of Afriacan Historical Studies (Vol. VIII, 1975).
14) In the main, of course, there was felt to be little need for anything beyond reading, in order to understand either the bible translated into a local language, or simple work instructions. In India, after the orientalist phase, English was the language used predominantly in the schools and acquisition of English became the goal of education to the exclusion of anything else.
15) For example, Budo College, Uganda, the Alliance High School, Kenya, Elphinstone College, India. See M. Carnoy, Education as Cultural Imperialism (Longman, 1974) and R. J. Njoroge and G. A. Benaars, Philosophy and Education in Africa (Nairobi, 1986).
16) G. R. V. Mmari, “The United Republic of Tanzania: mathematics for social transformation” in F. J. Swetz (ed.) Socialist Mathematics Education (Southampton. PA 1978). He also says: “Textbooks of the periode in question indicate the use of foreign units of measure off length, weight, capacity, volume, and currency which support this theory of direct interaction between business practices and the cultural background of the then dominant existing business community”.
17) P. Damerow says: “The transfer of European mathematics curriculum to developing countries was closely associated with the establishment of schools for the elite by colonial administrations. Under these circumstances it seemed natural to simply copy European patterns”, “Individual development and cultural evolution of arithmetical thingking” in S. Strauss (ed.) Ontogeny and Historical Development (Pennsylvania, 1986).
18) J. K. Watson Education in the Third World (London, 1982).
19Indeed, there was no great attempt in the “home” countries themselves to make science and mathematics relevant either.
20) M. Kline, Mathematics in Wester Culture (London, 1972).
21) J. Gay and M. Cole, The New Mathematics in an Old Culture (New York, 1976).
22) See C. A. Ronan, The Cambridge Illustrated History of the World’s Science (Cambridge Press, 1983), and C. H. Waddington, Tools for Thought (St Albans, 1977), for a recent analysis.
23) R. Horton, “African traditional thought and Western science” Africa, (Vol XXXVII, 1967), also in M. F. F. Young (edited), Knowledge and Control (London, 1971).
24) W. L. Schaaf, Our Mathematical Heritage (New York, 1963).
25) Horton, op. cit.
26) For a fuller examination of these ideas, se A. J. Bishop, Mathematical Enculturation: a cultural perspective on mathematics education (Dordrecht, Holland, 1988).
27) The caveat may perhaps seem unnecessary, but to a mathematician the word “universal” does cause certain problems. For further discussion of this general issue, see G. P. Murdoch, “The common denominator of cultures” in R. Linton (ed.), The Science of Man in the World Crisis (New York, 1945).
28) In order for mathematical knowledge to develop, it is necessary for these activities to integrate and interact. Without its integration, the set of activities could be argued to be pre-mathematical.
29) See d’Ambrosio op. cit. and M. Ascher and R. Ascher, “Ethnomathematics”, History of Science (Vol. XXIV, 1986) for different perspectives. The Aschers argue specifically for ethnomathematics to be province of “non-literate peoples”, while d’Ambrosio vew encompass all mathematical ideas not exposed by “mainstream” mathematics.
30) See Gerdes (1986) op. cit. and P. Gerdes, “On possible uses of traditional Angolan sand drawings in the mathematical classroom”, Educational Studies in Mathematics (No. 19, 1988).
31) See P. Harris Measurement in Tribal Aborginal Communities (Northern Territory Department of Education, Australia, 1980), and Closs, op. cit.
32) See S. H. Nasr, Islamic Science: an illustrated study (Essex, UK, 1976) and I. R. Al-Faruqui and A. D. Nasseef, Social and Natural Science: the Islamic perspective (London, 1981).
33) I. van Sertima, Blacks in Science (New Brunswick, 1986).
34) For example, B. Lumpkin, “Africa in the mainstream of mathematics history”, in  van Sertima op. cit.
35) G. G. Joseph, “Foundations of Eurocentrism in Mathematics” Race and Class (Vol. XXXVIII, 1987).
36) See C. A. Ronan, The Shorter Science and Civilization in China, Vol. II ( Cambridge, 1981).
37) See, for example, D. S. Kothari’s keynote address in the Proceedings of the Asian Regional  Seminar of the Commonwealth Association of Science and Mathematics Educators (London, 1978).

38) See A. J. Bishop, P. Damerow, P. Gerdes and C. Keitel, “Mathematics, Education and Society” in A. Hirst and K. Hirst, Proceedings of the Sixth International Congress on Mathematical Education (University of Southampton, 1988); also, there is a special UNESCO publication of the whole day’s papers and proceedings (C. Keitel, A. J. Bishop, P. Damerow and P. Gerdes Mathematics, Education and Society (Document Series 35, Paris 1989)).