Sunday, June 14, 2015

Một quốc gia bị giám sát

Chính quyền Hoa Kỳ luôn rao giảng cho nước khác về dân chủ và nhân quyền, nhưng chúng ta biết rằng đó chỉ là chiêu bài để họ áp đặt chính sách đế quốc lên các nước khác. Chính sách đế quốc của Hoa Kỳ phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp Hoa Kỳ chứ không phục vụ cho lợi ích của người dân lao động Mỹ, trái lại họ luôn tìm cách kiểm soát người dân Mỹ ở mọi lúc mọi nơi bất chấp mọi nguyên tắc về dân chủ và nhân quyền. John Whitehead cảnh báo người dân Mỹ về sự gia tăng của nhà nước giám sát toàn diện thông qua công nghệ cao trong bài viết "One nation under surveillance" đăng trên tạp chí ColdType số 99, tháng 6 năm 2015.

Một quốc gia dưới sự giám sát

“Mục tiêu tối cao của NSA là kiểm soát toàn bộ dân chúng.” – William Binney, người tiết lộ của NSA

Hoa Kỳ giờ đã có nhánh thứ tư của chính quyền. Như tôi đã viết trong cuốn sách mới “Chiến Trường Hoa Kỳ: Cuộc chiến đối với người dân Mỹ,” nhánh thứ tư xuất hiện mà không có bất cứ nghĩa vụ bầu cử hay trưng cầu dân ý hợp hiến nào, mặc dù vậy nó sở hữu siêu quyền lực, ở trên và ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan chính quyền cũng như cho quân sự. Nó biết hết, thấy hết và cực kỳ quyền lực. Nó vận hành ngoài tầm kiểm soát của tổng thống, quốc hội và tòa án, nó theo sát gót tầng lớp tinh hoa doanh nghiệp, những kẻ thực sự lãnh đạo ở Washington, DC.

Anh có thể gọi nhánh chính quyền này là Giám Sát, nhưng tôi đề nghị gọi là “sự chuyên chế công nghệ”, một khái niệm được nhà báo điều tra James Bamford tạo ra để đề cập tới sự chuyên chế mang tính công nghệ mà những bí mật, dối trá, do thám và sự ràng buộc với doanh nghiệp của chính quyền tạo ra.

Hãy cẩn thận với những gì anh nói, anh đọc, anh viết, nơi mà anh đi, người mà anh nói chuyện, bởi vì tất cả đều được ghi lại, lưu trữ và cuối cùng sử dụng để chống lại anh vào thời điểm và địa điểm mà chính quyền chọn lựa. Sự riêng tư đã chết, như chúng ta đã biết.

Nhà nước cảnh sát đã trao cây dùi cui cho nhà nước giám sát. 

Sau khi biến cảnh sát địa phương thành cánh tay nối dài của quân đội, Bộ An Ninh Nội Địa, Bộ Tư Pháp và FBI chuẩn bị biến cảnh sát vũ trang quốc gia thành chiến binh có tính công nghệ, hoàn chỉnh với máy quét tròng mắt, máy quét toàn thân, thiết bị radar cảm biến nhiệt Doppler, chương trình nhận dạng khuôn mặt, máy đọc bằng lái xe, thiết bị theo dõi điện thoại di động Stingray và nhiều thứ khác. 

Đó là bộ mặt mới của công việc cảnh sát ở Hoa Kỳ

Cục An Ninh Quốc Gia (NSA) đã hoàn toàn đánh lạc hướng, dẫn dụ chúng ta ra khỏi chiến dịch công nghệ quy mô lớn của chính quyền, khiến chúng ta vô vọng khi phải đối mặt với đôi mắt tọc mạch của họ. Trên thực tế, từ rất lâu trước khi NSA trở thành cơ quan bị chúng ta căm ghét, Bộ Tư Pháp, FBI và Cục Bài Trừ Ma Túy đã thực hiện việc giám sát quy mô lớn đối với dân chúng không bị tình nghi.

Mọi nhánh của chính quyền – từ dịch vụ bưu chính cho tới kho bạc nhà nước và tất cả các cơ quan khác trong đó – giờ đây có bộ phận giám sát riêng, được quyền theo dõi người dân Mỹ. Sau đó, trung tâm tổng hợp và chống khủng bố sẽ thu thập tất cả dữ liệu từ các cấp do thám nhỏ hơn của chính quyền – cảnh sát, y tế, vận tải, vân vân. – để tạo cho những người có quyền lực khả năng truy cập dữ liệu ấy. Dĩ nhiên là đều đó không thể bắt đầu mà thiếu sự đồng lõa của khu vực doanh nghiệp, họ mua và bán chúng ta từ trong nôi tới trong mộ, cho đến khi chúng ta không còn dữ liệu để khai thác nữa. 

Hàng sa số các cuộc tranh luận về số phận của chương trình giám sát nội địa bất hợp pháp, hoàn toàn vi hiến của NSA chỉ là sự ồn ào, như Shakespeare gọi là “âm thanh và cuồng nộ, nhưng vô nghĩa.” Điều đó chả có nghĩa gì: lập pháp, tiết lộ, lực lượng thi hành và những kẻ ngáng đường.

Chính quyền không từ bỏ, hay nhượng bộ. Họ không nghe lời chúng ta. Từ lâu, họ đã không còn nhận lệnh từ “nhân dân chúng ta”.

Nếu anh vẫn chưa nhận ra điều này, không có bất cứ thứ gì - thủ tục quân sự, giám sát, cảnh sát vũ trang, khám xét quần áo, lục soát bằng tay bất ngờ, chặn và lục soát, thậm chí là camera gắn theo người cảnh sát – là chống khủng bố. Đó là sự kiểm soát dân chúng. Bất chấp sự thực là việc thu gom dữ liệu đã cho thấy không có hiệu quả trong việc phát hiện, chưa nói đến ngăn chặn, các vụ tấn công khủng bố, NSA vẫn tiếp tục hoạt động hầu như là bí mật, giám sát điện thoại, email, tin nhắn và các thứ tương tự của hàng trăm triệu người Mỹ mà không có lệnh của tòa án, nằm ngoài sự kiểm soát của đa số quốc hội và người đóng thuế, những người bị buộc phải tài trợ hàng tỷ dollar cho ngân sách của các chiến dịch bí mật đen tối. 

Luật pháp như Luật Yêu Nước Hoa Kỳ chỉ nhằm hợp pháp hóa hành động của cơ quan bí mật dưới sự điều hành của chính quyền bóng tối. Ngay cả Luật Yêu Nước Hoa Kỳ được đề xuất và bị đánh bại, hướng tới mục tiêu giới hạn phạm vi chương trình giám sát điện thoại của NSA - ít nhất là trên giấy tờ - bằng cách buộc cơ quan này phải xin lệnh của tòa trước khi thực hiện giám sát công dân Hoa Kỳ và cấm cơ quan này lưu trữ các dữ liệu thu thập được về người Mỹ, cũng không hơn gì một con hổ giấy: đe dọa khi xuất hiện, nhưng không biết cắn.

Câu hỏi về cách xử lý NSA – một cơ quan hoạt động bên ngoài hệ thống kiểm soát và điều chỉnh do hiến pháp tạo ra – là chủ đề bất hòa đã chia rẽ ngay cả những người phản đối việc giám sát không cần lệnh tòa án của NSA, buộc tất cả chúng ta – kẻ hoài nghi, kẻ lý tưởng, chính khách và kẻ thực tế - vật lộn với sự bất mãn sâu sắc và một “giải pháp” chính trị mơ hồ cho vấn đề đang được vận hành bên ngoài tầm kiểm soát của cử tri và chính khác: Làm sao anh có thể tin cậy một chính quyền nói dối, lừa đảo, trộm cắp, lách luật và sau đó coi tất cả mọi sai lầm của bản thân là sự tuân thủ pháp luật?

Từ khi chính thức được bắt đầu vào năm 1952, khi tổng thống Harry S. Truman ban hành một quyết định bí mật, thiết lập NSA làm trung tâm cho các hoạt động tình báo nước ngoài của chính quyền, cơ quan – có biệt danh “Không Cơ Quan Nào Hết” – đã hoạt động bí mật, không báo cáo quốc hội bất cứ điều gì trong khi vẫn sử dụng tiền thuế để tài trợ cho các chiến dịch bí mật. Chỉ cho tới khi mà cơ quan này phình ra quá nhanh với 90.000 nhân viên và trở thành cơ quan tình báo lớn nhất thế giới với dấu vết rõ ràng bên ngoài Washington, DC, thì người ta không còn có thể phủ nhận sự tồn tại của nó nữa. Sau vụ Watergate vào năm 1975, thượng viện tổ chức một hội nghị với ủy ban của Church để xác định chính xác xem cơ quan tình báo dưới sự chỉ đạo của tổng thống Nixon đã tham gia vào các hoạt động trái phép nào và làm sao để chấm dứt các sự vi phạm pháp luật trong tương lai. Đó là lần đầu tiên NSA chịu sự giám sát của công chúng kể từ khi nó được tạo ra.

Cuộc điều tra cho thấy một chiến dịch tinh vi có chương trình giám sát không thèm chú ý chút nào tới những thứ như hiến pháp. Ví dụ, trong dự án SHAMROCK, NSA do thám điện tín đi và đến của Hoa Kỳ, cũng như thư tín của công dân Hoa Kỳ. Hơn nữa, theo bản tin của Bưu Điện Tối Thứ Bảy, “Trong dự án MIRANET, NSA theo dõi liên lạc của các lãnh đạo phong trào dân quyền và những người phản đối chiến tranh Việt Nam, trong đó có những mục tiêu như Martin Luther King, Jr., Mohamed Ali, Jane Fonda và hai thượng nghị sĩ tích cực. NSA tiến hành chương trình này vào năm 1967 để theo dõi các nghi phạm khủng bố và buôn lậu ma túy, nhưng tổng thống kế nhiệm đã sử dụng nó để theo dõi tất cả các đối thủ chính trị.”

Thượng nghị sĩ Frank Church (D-Ida.), là chủ tịch của ủy ban tình báo đã điều tra NSA, hiểu quá rõ về mối nguy hiểm tiềm ẩn khi cho phép chính quyền vượt quá thẩm quyền nhân danh an ninh quốc gia. Church thừa nhận rằng quyền lực giám sát “vào bất cứ khi nào cũng có thể bao vây người Mỹ, mọi người Mỹ đều không còn sự riêng tư nào hết, đó là khả năng theo dõi mọi thứ: điện thoại, điện tín, bất kể thứ gì. Không có nơi nào để lẩn trốn.”

Ghi nhận rằng NSA có thể trở thành nhà độc tài “áp đặt sự chuyên chế hoàn toàn” lên toàn bộ công chúng Hoa Kỳ không có khả năng phòng vệ, Church tuyên bố rằng ông không “muốn thấy đất nước này vượt qua giới hạn” của sự bảo vệ hợp hiến, giám sát của quốc hội và yêu cầu của công chúng về sự riêng tư. Ông thừa nhận “chúng ta,” bao gồm cả hai viện và các cử tri trong nhiệm vụ này, “phải nhìn nhận về việc cơ quan này cũng như mọi cơ quan khác có hoạt động công nghệ trong khuôn khổ pháp luật và dưới sự giám sát thích hợp, để chúng ta không bao giờ vượt qua giới hạn. Đó là giới hạn mà khi đã vượt qua thì không thể quay lại.”

Kết quả là sự thông qua Luật Giám Sát Tình Báo Nước Ngoài (FISA), tòa án FISA được thành lập nhằm mục đích giám sát và điều chỉnh cách thức thu thập và kiểm tra thông tin tình báo. Luật yêu cầu NSA phải xin phép tòa án FISA, một toàn án giám sát bí mật, trước khi thực hiện việc giám sát công dân Hoa Kỳ. Cho đến ngày nay, cái được gọi là giải pháp cho vấn đề cơ quan chính quyền tham gia vào việc giám sát bất công và bất hợp pháp – tòa án FISA – đã trở thành kẻ hợp pháp hóa những hoạt động đó, đóng dấu chấp nhận lên hầu hết các yêu cầu mà họ nhận được.

Vụ tấn công ngày 11 tháng 9 giống như giọt nước tràn ly trong lịch sử quốc gia của chúng ta, mở ra một thời đại mà các hoạt động bất hợp pháp hoặc phi đạo đức của chính quyền như giám sát, tra tấn, khám xét quần áo, đột kích của đội SWAT, được áp dụng để trả lời cho yêu cầu bảo vệ chúng ta “an toàn.”

Sau vụ tấn công ngày 11 tháng 9, George W. Bush đã bí mật cho phép NSA thực hiện giám sát không cần lệnh tòa án đối với điện thoại và e-mail của người Mỹ. Một chương trình nghe lén không dây được đưa tin là kết thúc vào năm 2007 sau khi tờ New York Time đưa tin, gây ra sự phẫn nộ ghê ghớm.

Không có thay đổi nào dưới thời Barack Obama. Trên thực tế, sự vi phạm còn tồi tệ hơn, với việc NSA được phép bí mật thu thập dữ liệu internet và điện thoại của hàng triệu người Mỹ cũng như của các chính quyền nước ngoài.

Chỉ sau những tiết lộ của Edward Snowden vào năm 2013 thì người dân Mỹ mới hoàn toàn hiểu rõ mức độ của việc họ bị lừa dối một lần nữa. Tóm tắt lịch sử của NSA cho thấy rõ ràng rằng anh không thể cải tổ NSA. Chừng nào mà chính quyền còn được phép nhạo báng luật pháp – bất kể là hiến pháp, luật FISA hay bất cứ luật nào khác nhằm hạn chế phạm vi và cắt giảm các hoạt động của họ - và được phép hoạt động sau những cánh cửa đóng kín, dựa vào những tòa án bí mật, ngân sách bí mật và giải thích bí mật các đạo luật của đất nước, thì sẽ không có cải tổ.

Tổng thống, chính khách, tòa án đã chứng kiến sự tiến triển của NSA trong 60 năm lịch sử, nhưng không có bất cứ ai làm gì để chấm dứt “chế độ chuyên chế công nghệ” của NSA.

Con quái vật đã phá vỡ xiềng xích. Nó sẽ không thể bị kiềm chế.

Sự căng thẳng gia tăng đã được nhìn nhận và cảm thấy khắp đất nước là sự căng thẳng giữa những người nắm giữ quyền lực theo lệnh của chính quyền – tổng thống, quốc hội, tòa án, quân đội, cảnh sát vũ trang, giới kỹ trị, các quan chức hành chính không được bầu cử tuân thủ mù quáng và thực hiện mệnh lệnh của chính quyền, bất kể là chúng có phi đạo đức hay bất công đến đâu, và doanh nghiệp – với những người cuối cùng cũng phải vùng dậy chống lại sự bất công, tha hóa và chuyên chế vô tận đã biến quốc gia của chúng ta thành nhà nước cảnh sát công nghệ.

Bất cứ khi nào, chúng ta bị cản trở trong yêu cầu về sự minh bạch, giải trình và dân chủ đại diện thông qua việc thiết lập văn hóa của bí mật: cơ quan bí mật, thí nghiệm bí mật, căn cứ quân sự bí mật, giám sát bí mật, ngân sách bí mật, tòa án bí mật, tất cả những thứ đó nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, vận hành bên ngoài sự hiểu biết của chúng ta và không trả lời “nhân dân chúng ta”.

Điều mà chúng ta thực sự không nhận thấy là NSA chỉ là một phần nhỏ của chính quyền bóng tối thường trực được tạo thành từ các quan chức không được bầu cử, họ đang theo sát các doanh nghiệp vì lợi nhuận, những kẻ thực sự lãnh đạo Washington, DC, và làm mọi cách để giám sát chúng ta, do vậy là giữ chúng ta trong tầm kiểm soát. Ví dụ, Google công khai hợp tác với NSA, Amazon đã xây dựng một cơ sở dữ liệu tình báo trị giá 600 triệu dollar cho CIA, ngành công nghiệp viễn thông kiếm bộn tiền nhờ việc theo dõi chúng ta cho chính quyền.

Hay nói cách khách, nước Mỹ doanh nghiệp kiếm bộn tiền bằng cách trợ cấp và tiếp tay cho chính quyền trong các hoạt động theo dõi nội địa của họ. Như Intercept mới đây cho biết, những kẻ bảo vệ to tiếng nhất của NSA đều có quan hệ tài chính với các nhà thầu của NSA. Do vậy, nếu chính phủ bí mật này không chỉ tồn tại mà còn thịnh vượng thì đó là bởi vì chúng ta cho phép họ bằng sự hờ hững, sự lãnh đạm, sự tin tưởng ngây thơ vào chính khách của chúng ta, chính khách vốn nhận mệnh lệnh từ nước Mỹ doanh nghiệp hơn là từ hiến pháp.

Nếu chính quyền bóng tối này vẫn ngang ngược thì đó là bởi vì chúng ta chưa đủ phẫn nộ để chống lại quyền lực của họ và chấm dứt chiến thuật độc đoán của họ. Nếu giới quan chức không được bầu cử này thành công trong việc chà đạp lên sự riêng tư và tự do của cuối cùng của chúng ta thì đó là bởi vì chúng ta tự lừa đối bản thân bằng niềm tin vào các vấn đề chính trị, như bỏ phiếu tạo ra sự khác biệt, hay chính khách thực sự đại diện cho dân chúng, hay tòa án quan tâm tới công lý và tất cả mọi thứ đều phục vụ cho lợi ích tối cao của chúng ta.

Như nhà khoa học chính trị Michael J. Glennon cảnh báo, anh có thể bỏ phiếu mọi thứ anh muốn nhưng những người mà anh lựa chọn không phải là những người lãnh đạo. “Người dân Mỹ đang bị đánh lừa … rằng các cơ quan nhân danh công chúng để thiết lập chính sách an ninh quốc gia,” Glennon khẳng định. “Họ tin rằng khi họ bỏ phiếu bầu tổng thống hay nghị sĩ quốc hội hoặc đưa một vụ án ra tòa thì chính sách đang thay đổi. Nhưng … hầu hết chính sách trong lĩnh vực an ninh quốc gia được tạo ra bởi các cơ quan bí mật.”

Hay nói cách khác, ai ngồi ở Nhà Trắng không quan trọng: chính quyền bí mật với các cơ quan bí mật, ngân sách bí mật và các chương trình bí mật sẽ không bị thay đổi. Họ tiếp tục hoạt động trong bí mật cho tới khi một vài người tiết lộ xuất hiện trong giây lát để kéo màn che lên và chúng ta nhanh chóng có trách nhiệm đóng vai công chúng phẫn nộ, yêu cầu giải trình và rung lắc cái cũi của mình, tất cả mọi thứ trừ việc thực sự cải cách.

Do vậy, bài học của NSA và mạng lưới đối tác do thám nội địa khổng lồ của họ là: nếu anh cho phép chính quyền phá vỡ luật lệ, bất kể là với lý do hợp lý nào, anh cũng từ bỏ khế ước giữa anh và chính quyền, cái khế ước được thiết lập để đảm bảo chính quyền hoạt động vì anh và tuân lệnh anh, công dân – người chủ lao động – người chủ. 

Một khi chính quyền bắt đầu hoạt động bên ngoài pháp luật, không trả lời ai ngoài chính bản thân, thì sẽ không có cách nào vãn hồi trật tự, chỉ có cách mạng. Với cách mạng, tôi muốn nói tới việc phá bỏ toàn bộ hệ thống, bởi vì sự tha hóa và vô chính phủ đã phổ biến khắp nơi.

Friday, June 12, 2015

Monsanto và sự chinh phục Ấn Độ

Giấc mơ cây trồng biến đổi gien đang trở thành ác mộng ở Ấn Độ, nhưng Colin Todhunter trong bài "Monsanto and the Subjugation of India" cho chúng ta biết rằng chính quyền Ấn Độ vẫn ủng hộ cây trồng biến đổi gien bất chấp mọi sự phản đối và các bằng chứng rõ ràng về tác động tiêu cực của GMO. Tác giả giải thích bằng âm mưu thống trị của Hoa Kỳ, nhưng thực tế đó là cách chủ nghĩa tư bản phát triển, ngoài sự phát triển bằng tàn phá và phá sản, chủ nghĩa tư bản không biết đến cách nào khác.

Monsanto và sự chinh phục Ấn Độ

Sau khi nghiên cứu GMO trong thời gian hơn 4 năm, ủy ban đại diện nông nghiệp đa đảng của quốc hội Ấn Độ đã khuyến nghị cấm cây lương thực biến đổi gien do chúng không có giá trị gì ở đất nước của những nông dân nhỏ. Tòa án tối cao chỉ định một ủy ban chuyên gia kỹ thuật (TEC), ủy ban này đề xuất trì hoãn vô thời hạn việc thử nghiệm thực địa cây trồng biến đổi gien cho đến khi chính quyền đặt ra các quy định phù hợp và cơ chế an toàn. Mặc dù vậy, không có cơ chế nào xuất hiện, việc thử nghiệm thực địa vẫn được tiếp tục. Cây trồng biến đổi gien được chấp nhận thử nghiệm thực địa bao gồm gạo, ngô, đậu Hà Lan, cà tím.

Cây trồng biến đổi gien thương mại duy nhất hiện nay có mặt ở Ấn Độ là bông Bt. Sự thành công trong việc vận động ủng hộ cây trồng biến đổi gien thật khó tin.

Pushpa M Bhargava là giám đốc sáng lập của Trung Tâm Sinh Học Tế Bào và Phân Tử ở Hyderabad, Ấn Độ. Viết trên tờ Hindustan Times, ông khẳng định rằng

*Bông Bt không thành công ở Ấn Độ. Chúng chỉ thích hợp ở khu vực ẩm ướt chứ không phải ở khu vực nhiều mưa chiếm tới 2/3 diện tích đất canh tác bông của quốc gia.

*Trong số 270.000 nông dân đã tự tử, nông dân trồng bông Bt chiếm số lượng đáng kể.

*Ở Andhra Pradesh, hàng ngàn gia súc đã chết khi ăn phần còn lại của cây bông sau khi bông đã được thu hoạch.

*Các loại sâu bọ kháng bông Bt tăng lên sau nhiều năm. Đáng chú ý là sự gia tăng số lượng của sâu bọ thứ cấp như bọ mạt.

*Đất trồng cây bông Bt sau một thời gian dài thì không thể trồng được bất cứ loại cây nào khác.

*Khoảng 90% các nước thành viên của Liên Hiệp Quốc, bao gồm hầu hết các nước Châu Âu, đã không chấp nhận cây trồng biến đổi gien hoặc dán nhãn cho thực phẩm biến đổi gien.

*Có hơn 500 nghiên cứu được các nhà khoa học trung thực, không có xung đột lợi ích, công bố về tác hại của cây trồng biến đổi gien đối với sức khỏe của con người, động vật và thực vật, cũng như đối với môi trường và đa dạng sinh học.

*Mặt khác, dường như mọi bài báo ủng hộ cây trồng biến đổi gien đều do các nhà khoa học có xung đột về lợi ích hoặc sự trung thực hay uy tín đáng ngờ công bố.

*Lập luận rằng chúng ta cần công nghệ biến đổi gien để nuôi sống dân số đang gia tăng của Ấn Độ là ngụy biện. Ngay cả với năng suất thấp, có thể tăng lên, Ấn Độ hiện giờ vẫn sản xuất ra đủ ngũ cốc để đáp ứng các nhu cầu của đất nước.

*Ấn Độ có thể tăng gấp đôi sản lượng lương thực bằng sử dụng các công nghệ không biến đổi gien như nuôi dưỡng phân tử.

*Một số lượng nhỏ kiểm nghiệm độc hại đã được thực hiện ở những nơi canh tác cây lương thực biến đổi gien. Bất cứ khi nào các kiểm nghiệm được thực hiện, thực phẩm biến đổi gien đều cho thấy sẽ dẫn đến ung thư.

Quay lại năm 2003, sau khi nghiên cứu mọi khía cạnh của cây trồng biến đổi gien, các nhà khoa học hàng đầu từ nhiều quốc gia trong Nhóm Khoa Học Độc Lập đã kết luận

“Cây trồng biến đổi gien không đáp ứng được hứa hẹn về lợi ích và tạo ra các vấn đề gia tăng đối với nông nghiệp. Sự lây nhiễm biến đổi gien hiện giờ đã được thừa nhận là không thể tránh khỏi và do đó không thể có sự đồng tồn tại giữa nông nghiệp biến đổi gien và không biến đổi gien. Quan trọng hơn hết, cây trồng biến đổi gien chưa được chứng minh là an toàn. Trái lại, các bằng chứng cho thấy sự lo ngại nghiêm túc về tính an toàn, mà nếu bỏ qua thì có thể gây ra những thiệt hại không thể bù đắp đối với sức khỏe và môi trường. Cây trồng biến đổi gien cần phải được từ chối thẳng thừng ngay.

Trong một ghi nhận tương tự, viết trên tờ The Statesman, Bharat Dogra trích dẫn giáo sư Susan Bardocz:

“Biến đổi gien là công nghệ không thể đảo ngược trong lịch sử nhân loại. Khi cây trồng biến đổi gien được giải phóng khỏi tầm kiểm soát của chúng ta thì không có cách nào thu hồi chúng….”

Dogra cũng cho biết 17 nhà khoa học khác nhau từ Châu Âu, Hoa Kỳ, Canada và New Zealand đã viết thư cho cựu thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh để cảnh báo về “những rủi ro đặc biệt (của cây trồng biến đổi gien) đối với an ninh lương thực, hệ thống nông nghiệp và tác động an toàn sinh học là thứ không thể đảo ngược.” Lá thư này nói thêm:

“Quá trình biến đổi gien là sự đột biến cao độ dẫn đến sự sụp đổ cấu trúc gien và chức năng của cây chủ, gây ra rối loại quá trình sinh hóa của thực vật. Điều này tạo ra chất độc lạ và dị ứng cũng như làm giảm/thay đổi chất lượng dinh dưỡng.”

Viết trên tờ The Hindu, Aruna Rodrigues khẳng định rằng sự đồng thuận về tác động tiêu cực của cây trồng biến đổi gien trong nhiều báo cáo chính thống ở Ấn Độ là đáng chú ý.

Mặc dù vậy, Ấn Độ có vẻ như vẫn tiếp tục ủng hộ cây trồng biến đổi gien. Một sự ngạc nhiên nhỏ sau đó là Bhargava khẳng định rằng các cơ quan chính quyền trung ương của Ấn Độ hành động như những kẻ nghiện công nghệ biến đổi gien, dường như thông đồng với các công ty đa quốc gia bán hạt giống biến đổi gien.

Không có “dường như” về chuyện đó và sự thông đồng còn nhiều hơn cả cây trông biến đổi gien.

Mục tiêu của Ngân Hàng Thế Giới/IMF/WTO theo lệnh của các công ty nông nghiệp lớn và sự mở cửa của Ấn Độ đã được ghi nhận. Với sự trợ giúp của các chính khách ngoan ngoãn, các công ty đa quốc gia muốn đất đai của nông dân và sự tiếp cận không giới hạn thị trường Ấn Độ. Điều này kéo theo việc “tái cấu trúc” của xã hội Ấn Độ với khẩu hiệu hư ảo “tự do thương mại”, dẫn đến (và đang dẫn) sự phá hủy sinh kế của hàng trăm triệu người [xem đây, đâyđây]

Hơn nữa, Monsanto, Walmart và các doanh nghiệp lớn Hoa Kỳ khác ngồi trên bàn lãnh đạo khi Sáng Kiến Kiến Thức Nông Nghiệp được ký kết với Hoa Kỳ. Monsanto cũng thống trị công nghiệp bông ở Ấn Độ và có ảnh hưởng lớn đến chính sách nông nghiệp cũng như hình mẫu kiến thức thông qua việc tài trợ cho nghiên cứu nông nghiệp tại trường đại học và viện nghiên cứu công cộng: Họ chính là “Công ty Đông Ấn đương đại”.

Nếu cần các bằng chứng khác về việc sắp đặt nghị trình, Vandana Shiva sẽ chỉ ra những cánh tay đang vung lên để mở cánh cửa cho GMO vào Ấn Độ, nhiều chính khách đã bị gạt bỏ cho đến khi ô trống trên tờ giấy phép thử nghiệm thực địa của GMO được ký tên.

Những người như Shiva và Rodrigues đấu tranh, phản kháng hợp pháp hay đưa ra các biện pháp xây dựng bị báo cáo của Cục Tình Báo bôi nhọ, tác giả của báo cáo có vẻ như được nhiều công ty đa quốc gia tài trợ, họ đang tìm cách nhào nặn Ấn Độ theo cách của họ.

Bhargava khẳng định rằng 64% dân số Ấn Độ sinh sống bằng các hoạt động liên quan đến nông nghiệp. Do đó, bất cứ ai kiểm soát nông nghiệp Ấn Độ cũng sẽ kiểm soát đất nước. Đây chính là mấu chốt của vấn đề. Để kiểm soát nông nghiệp Ấn Độ, nền tảng của quốc gia, người ta chỉ cần kiểm soát hạt giống và hóa chất nông nghiệp. Monsanto và những người ủng hộ họ trong Bộ Ngoại Giao biết rất rõ điều này. Kiểm soát chính khách Ấn Độ là để kiểm soát Ấn Độ.

Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ hầu như đã luôn dựa trên việc kiểm soát nông nghiệp:

“Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ hầu như đã luôn dựa trên xuất khẩu nông nghiệp, chứ không phải là xuất khẩu công nghiệp như người ta thường nghĩ. Thông qua việc kiểm soát nông nghiệp và nguồn cung thực phẩm mà ngoại giao Hoa Kỳ có thể kiểm soát hầu hết thế giới thứ ba. Chiến lược cho vay địa chính trị của Ngân Hàng Thế Giới đã khiến nhiều quốc gia thiếu lương thực bằng cách thuyết phục họ trồng cây nguyên liệu – trồng cây xuất khẩu – thay vì nuôi sống bản thân với việc canh tác lương thực.” Giáo sư Michael Hudson

Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ là về quyền lực và kiểm soát: quyền lực để kiểm soát lương thực, nhà nước và toàn bộ dân chúng.

Chính khách ở Ấn Độ và bất cứ đâu tiếp tục phớt lờ bằng chứng gắn liền với sự nguy hiểm của GMO. Họ là người hầu gái của lợi ích địa chính trị-doanh nghiệp của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ dựa vào các chính khách ngoan ngoãn ở nước ngoài. Điều này không chỉ quan trọng đối với các mục tiêu tiếp theo của Hoa Kỳ ở Ấn Độ mà còn cả ở những nơi khác nữa.

Colin Todhunter is an extensively published independent writer and former social policy researcher based in the UK and India.

Thursday, June 11, 2015

Chuyện cổ tích về thanh niên phương Tây bị Hồi Giáo tẩy não

Chúng ta thường nghe thấy trên truyền thông quốc tế chuyện về những thanh niên phương Tây từ bỏ thế giới văn minh và hòa bình để tham gia vào phe của những kẻ chặt đầu người công khai ISIS, nhưng William Blum lại hé mở cho chúng ta thấy một khía cạnh khác trong "Their precious young minds and our precious young minds", hóa ra không phải họ nổi loạn, họ chỉ theo đuổi những gì thuộc về bản chất, nhưng đôi khi họ đi theo con đường phi chính thống.

Tâm hồn thanh niên quý giá của họ và tâm hồn thanh niên quý giá của chúng ta

Cô ấy là kẻ nổi loạn cứng đầu cứng cổ, ca sĩ của gia đình, nói tục, một cô nàng xăm mình chìm đắm trong giấc mơ hip-hop là sẽ trở thành ca sĩ Eminem của Hà Lan. Rồi Besty tìm thấy Allah. Sau cuộc đối thoại bất ngờ với người Hồi giáo vào mùa hè năm ngoái, Besty mặc áo choàng của người Hồi giáo. Vào tháng giêng, một phụ nữ Hà Lan từng theo thuyết bất khả tri, lớn lên trong một căn nhà mà dấu hiệu duy nhất về tôn giáo là quyển kinh thánh đầy bụi trên giá sách, đã bảo vệ những kẻ khủng bố trưởng thành ở tổ quốc … Denis Cuspert, một nghệ sĩ hip-hop với biệt danh Deso Dogg, đã cải đạo vào năm 2010 và sau đó tham gia vào Nhà Nước Hồi Giáo [ISIS], phát hành một bản thánh ca theo kiểu nhạc rap mô tả con đường đi tới thánh chiến như là cơ hội để tạo động lực, củng cố tinh thần, trả thù và phiêu lưu … “Cánh cửa dẫn đến thánh chiến đang chờ đợi bạn,” một người Thụy Điển cải sang đạo Hồi nói trong một đoạn phim. “Đó là con đường nhanh nhất để tới thiên đường.”(1)

Những câu chuyện cổ tích được kể đi kể lại suốt những năm gần đây ở khắp Châu Âu và ở Hoa Kỳ. Cha mẹ và nhà cầm quyền đều đau khổ và bối rối. Tại sao những thanh niên trưởng thành ở phương Tây – xứ sở tự do, dân chủ, yêu chuộng hòa bình, nhân đạo, đầy vui tươi – lại tham gia vào Nhà Nước Hồi Giáo và ủng hộ việc công khai chặt đầu người sống? Mỗi người trong chúng ta theo một cách nào đó đều đánh mất linh hồn khi tìm kiếm câu trả lời cho sự bí ẩn nghiệt ngã của cuộc sống. Nhưng chuyện này thì sao? Đâu là câu hỏi cuộc đời mà Nhà Nước Hồi Giáo sẽ đáp ứng nhưng phương Tây đáng yêu của chúng ta không thể đáp ứng? ISIS là thứ độc nhất trên thế giới khiến cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trông có vẻ tốt đẹp. Bộ Quốc Phòng và Bộ Ngoại Giao đã đặc biệt nỗ lực nghiên cứu kẻ thù mới; Bộ Ngoại Giao thường xuyên đăng tải các đoạn phim phản đối các đoạn phim của Nhà Nước Hồi Giáo.

Tôi hy vọng rằng việc nghiên cứu câu hỏi sẽ đi sâu hơn nữa cũng như là đối với ISIS. Tại sao những thanh niên lớn lên ở phương Tây – cũng chính là phương Tây mà chúng ta biết và yêu mến – lạnh lùng xả súng máy bắn chết hàng tá người Iraq, đàn ông, phụ nữ, trẻ em, phóng viên, hoàn toàn là máu lạnh, trong các đoạn phim mà Chelsea Manning đã tung ra; nhưng dĩ nhiên chẳng chuyện gì có thể so sánh đươc với Fallujah, ở đó có những đứa trẻ sơ sinh hai đầu, thậm chí là ba đầu, một mắt ở giữa trán. Nhà Nước Hồi Giáo chẳng thể nào so sánh được với những chuyện Hoa Kỳ đã gây ra cho người dân của Fallujah. Có ai biết câu chuyện nào khủng khiếp hơn trong lịch sử không? Có đấy, nhưng không nhiều; và hầu hết người dân Fallujah bị trực tiếp xử tử bởi những thanh niên Hoa Kỳ sáng sủa, tự do, dân chủ, yêu chuộng hòa bình, nhân đạo.

Đây là thiếu tướng Ricardo Sanchez của Hoa Kỳ, trong hồi ký của ông ta, ngày 6 tháng 4 năm 2004, thời gian ở Fallujah, trong đoạn đàm thoại video với tổng thống Bush, ngoại trưởng Colin Powell và bộ trưởng bộ ngoại giao Donald Rumsfeld. “Chúng ta cần nhanh chóng phải đá đít một vài kẻ,” Powell nói. “Chiến thắng toàn diện phải ở đâu đó. Chúng ta cần phải có sự thể hiện quyền lực hung bạo.” Sau đó Bush nói: “Vào lúc kết thúc chiến dịch này thì al-Sadr phải tiêu. Ít nhất thì ông ta cũng phải bị bắt. Việc xóa sổ ông ta thực sự cần thiết. Đá đít hắn! Nếu ai đó cố gắng ngăn chặn hành trình đến dân chủ, chúng ta sẽ tìm ra hắn và giết hắn! Chúng ta phải khủng khiếp hơn cả địa ngục! Chuyện này không giống ở Việt Nam. Đó là tư duy. Chúng ta không thể gửi thông điệp ấy. Đó là một sự biện minh để chuẩn bị cho việc rút lui. … Có một chuỗi các cơ hội và đây là một trong số đó. Ý chí của chúng ta đã bị thách thức, nhưng chúng ta phải giải quyết. Chúng ta có cách tốt hơn. Hãy mạnh mẽ! Hãy thẳng tiến! Giết chúng đi! Hãy tin tưởng! Chiến thắng! Chúng ta sẽ xóa sổ tất cả bọn chúng! Chúng ta không nháy mắt!” (2)

“Nhiều năm tới, người Mỹ tìm kiếm một Trung Đông dân chủ, phát triển trong hòa bình và thịnh vượng, người Mỹ sẽ nói về những trận đánh như ở Fallujah đầy sợ hãi và kính nể cũng giống như những trận đánh khác của chúng ta ở Guadalcanal và Iwo Jima” trong Thế Chiến thứ II. – George W. Bush, 2006 (3)

Tốt thôi, George, chuyện đó cũng như Fallujah chẳng phải là lý do chính cho sự trỗi dậy của ISIS.

Quan điểm của tôi ở đây không phải là chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cũng dã man và suy đồi như Nhà Nước Hồi Giáo. Không phải vậy. Bất cứ khi nào. Tôi chỉ đơn giản hy vọng làm cho việc thấu hiểu kẻ thù đơn giản hơn bằng cách nhìn bản thân chúng ta mà không có ánh hào quang trong mắt. Tôi cũng chưa nói đến cái chuyện mà Hoa Kỳ đứng đầu thế giới trong hơn một thế kỷ - tra tấn. 

Chủ đề hấp dẫn và mới được tiết lộ về hệ tư tưởng

Jeb Bush đã tự gây rắc rối cho bản thân bởi vì, giống như mọi chính khách tranh cử khác, ông ta không thể đưa ra các câu trả lời trung thực đơn giản cho các câu hỏi thẳng thừng, sợ phải trái ý một số bộ phận này hay một số bộ phận khác của dân chúng. Thật dễ chịu khi có một chính khách chỉ nói những gì ông/bà ta thực sự tin tưởng, ngay cả khi điều đó là ngớ ngẩn.

Em trai của tổng thống trước đây đã thường xuyên bị hỏi: “Nếu ông biết điều mà chúng tôi biết hiện nay thì ông có ra lệnh xâm lược Iraq không?” Đầu tiên câu trả lời của ông ta là “có”, sau đó nhiều lúc là “Tôi không biết” hay thậm chí là “không”, hoặc ông ta từ chối trả lời. Rõ ràng là ông ta tìm kiếm cách trả lời có thể giành được điểm với đại đa số người dân, hoặc chỉ làm ông ta mất điểm một cách tối thiểu.

Điều này tạo ra một sự phản ứng nho nhỏ, ngay cả ở những người bảo thủ. Nhà đài cánh hữu Laura Ingraham đã có một bình luận hợp lý hiếm hoi: “Hiện giờ, một người có đầu óc lành mạnh không thể tiếp tục cho rằng việc đưa quân vào Iraq là đúng đắn. Nếu anh làm ngược lại thì anh sai lầm.”

Những tranh luận này luôn bỏ qua điểm mấu chốt. Tại sao hàng triệu người Mỹ và thậm chí là hàng triệu người nước ngoài, tuần hành phản đối cuộc chiến tranh vào mùa thu năm 2002 và đầu năm 2003, trước khi nó bắt đầu? Tại sao họ biết rằng anh em nhà Bush và hàng sa số các chính khách khác sẽ không biết? Đối với người biểu tình thì rõ ràng George W. Bush và Dick Cheney là những kẻ nói dối quen miệng, những kẻ không bao giờ quan tâm đến người dân Iraq, những người dân vô tội của một nền văn minh cổ xưa đã bị ném bom đưa về thời đồ đá; đại đa số người biểu tình đã biết những chuyện về ném bom ở Việt Nam, Campuchia, Lào, Panama, Nam Tư, hay Afghanistan; họ biết về bom na-pam, bom chùm, bom chứa uranium nghèo, vân vân. Những người tuần hành biết rằng chiến tranh là điều mà một người có đạo đức không thể ủng hộ; cuộc chiến tranh đó hoàn toàn là bất hợp pháp, một trường hợp điển hình của “chiến tranh xâm lược” trong sách giáo khoa; người ta không cần phải là chuyên gia về luật pháp quốc tế để biết điều đó.

Anh em nhà Bush, Hillary Clinton (người bỏ phiếu ủng hộ chiến tranh ở thượng viện), và băng đảng có biết về những điều nay? Dĩ nhiên là họ biết. Họ chỉ không thèm quan tâm; ủng hộ sự thống trị và mở rộng của đế chế là tiền đề, và cần phải tiếp tục; không có chính khách Hoa Kỳ nào đi xa đến mức – chắc chắn không phải là Nhà Trắng – đặt câu hỏi về quyền của chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ trong việc đặt bản thân lên trên nhân loại (dĩ nhiên là để phục vụ lợi ích của nhân loại).

Theo dõi các du jour đáng yêu của cánh tả Hoa Kỳ, thượng nghị sĩ Elizabeth Warren và Bernie Sander, thì thấy họ chỉ miễn cưỡng phê phán chính sách đối ngoại Hoa Kỳ hay ngân sách quân sự. Bộ phận chống chiến tranh/chống đế quốc của cánh tả Hoa Kỳ cần phải gây sức ép lên hai thượng nghị sĩ này. 

Ngài Sanders cần phải được hỏi tại sao ông ta thường xuyên nhận bản thân là “người xã hội chủ nghĩa dân chủ”. Tại sao không là “xã hội chủ nghĩa”? Điều này có vẻ như là di sản của Chiến Tranh Lạnh. Tôi cho rằng ông ta và các chính khách khác sử dụng khái niệm này, vô tình hay hữu ý, để phân biệt họ với chủ nghĩa cộng sản, Liên Bang Soviet, chủ nghĩa Marx, vân vân, tất cả những điều không tốt đối với bạn. (Từ “xã hội chủ nghĩa” từng để chỉ những người đàn ông bí mật nói giọng Châu Âu, râu ria hung ác và mang bom.)

Sẽ rất thú vị khi nghe thấy ông Sanders công khai tuyên bố rằng ông ấy đơn giản là một “người xã hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội có thể dân dủ; thực sự là dân chủ hơn chủ nghĩa tư bản rất nhiều, nhất là khi liên quan đến phân phối của cải và mọi sự phân chia trong đó. Đây là vài tư tưởng thích hợp về chủ đề này, của tôi và những người khác:

Chỉ duy nhất những người xã hội chủ nghĩa theo đuổi nguyên lý nền tảng: Nhân Dân cao hơn Lợi Nhuận, điều đó có thể coi là định nghĩa chính xác về chủ nghĩa xã hội, sự nguyền rủa lý tưởng đối với Cánh hữu và đám tự do, những kẻ luôn tin tưởng bất chấp mọi bằng chứng ở sự hợp lý của thị trường tự do. Tôi ủng hộ ý tưởng về nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. (Chúa ơi, gã cộng sản đáng nguyền rủa!) Xã hội hiện đại quá phức tạp và kỹ thuật để đặt sự vận hành nó vào tay của những gã tự do, công xã, hay vô chính phủ để quay trở lại cấp độ “cộng đồng” hay “làng”.

“Washington luôn coi chủ nghĩa xã hội dân chủ là mối đe dọa lớn hơn chủ nghĩa cộng sản toàn trị, vốn dễ bị nói xấu và là kẻ thù dễ chơi. Vào những năm 1960 và 1970, chiến thuật ưa thích để xử lý các vấn đề khó chịu của kinh tế và chính trị quốc gia là đánh đồng chúng với chủ nghĩa Stalin, cố ý xóa nhòa sự khác biệt giữa các thế giới quan.” – Naomi Klein

“Nếu đúng như thường nói, hầu hết các chính quyền xã hội chủ nghĩa biến thành chế độc chuyên chế, thì chủ yếu là bởi vì chế độ chuyên chế khó lật đổ hay phá hoại hơn dân chủ.” – Jean Bricmont, nhà văn người Bỉ của cuốn “Humanitarian Imperialism” (2006).

Không có tiền đề về viễn cảnh chủ nghĩa xã hội, sự thay đổi cực đoan trở thành quá nhiều thứ đối với quá nhiều cá nhân và nhóm.

“Cho dù gọi điều đó là dân chủ, hay gọi điều đó là chủ nghĩa xã hội dân chủ, thì cũng cần phải có sự phân phối của cải tốt hơn trong phạm vi đất nước này cho tất cả những đứa con của chúa.” – Martin Luther King

Hoa Kỳ sợ từ “chủ nghĩa xã hội” đến nỗi họ biến “khoa học xã hội” thành “khoa học hành vi”. 

Nếu không có lý do nào khác ngoài lý do bảo vệ môi trường, thế giới cần loại bỏ hệ thống tư bản chủ nghĩa. Mỗi ngày, mỗi nơi trên trái đất, theo hàng sa số cách khách nhau, các doanh nghiệp đối mặt với sự lựa chọn: tối đa hóa lợi nhuận hay làm điều tốt nhất cho hành tinh.

Đại đa số người dân trong các xã hội làm việc để lĩnh lương. Họ không cần phải thúc đẩy bằng động cơ lợi nhuận. Điều đó không nằm trong gien của bất cứ ai. Bất cứ ai nếu được lựa chọn cũng sẽ muốn làm những công việc xuất phát từ động cơ giúp đỡ người khác, cải thiện chất lượng cuộc sống của xã hội, cung cấp cho bản thân một công việc có ý nghĩa và đáng hài lòng. Thật là phi tự nhiên khi được thúc đẩy bằng cách giành lấy hay đánh cắp “khách hàng” của người khác, không khoan nhượng, những kẻ sống sót là những kẻ thích hợp nhất hoặc ít trung thực nhất. 

Cái được gọi là “dân chủ” hay “sự cai trị của đa số” là gì? Hàng triệu người tuần hành chống xâm lược Iraq trước khi cuộc chiến nổ ra. Tôi không biết từng người trong số đó, nhưng tôi chắc chắn có ai đó ở đâu đó. Thật tuyệt nếu họ nghe được điều này.

Cuối cùng, câu hỏi cho Jeb Bush và những người khác không phải là câu hỏi tốt nhất. Họ được hỏi: “Nếu biết điều mà chúng tôi biết hiện giờ thì ông có cho phép xâm lược Iraq không?” Câu hỏi quan trọng hơn là: “Nếu biết điều mà chúng tôi biết sau đó thì ông có cho phép xâm lược Iraq không?” Câu trả lời phải là “không”, bởi vì chúng ta biết rằng Saddam Hussein đã phá hủy vũ khí hủy diệt hàng loạt. Điều này được ghi nhận, từ nhiều nguồn khác nhau, cả quốc tế và Iraq, trong đó có Saddam và các sĩ quan chỉ huy của ông ta. (4)


Truyền thông chính thống Hoa Kỳ - Huyền thoại cổ điển về tuyên truyền

“Khi chiến đấu cơ Hoa Kỳ vô tình ném bom đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade vào năm 1999 trong chiến dịch Kosovo …”

Những từ này xuất hiện trên tờ Washington Post vào ngày 24 tháng 4 năm 2015, một phần của câu chuyện về vũ khí không người lái của Hoa Kỳ và cách máy bay không người lái Hoa Kỳ tấn công ở Afghanistan vào tháng giêng đã vô tình giết hại hai nhân viên cứu trợ phương Tây. Tờ Post cảm thấy cần phải nhắc lại sự kiện Belgrade, hoặc giải thích tiếp chuyện đó. Hầu như bất cứ người nào theo dõi tin tức quốc tế chỉ nghiêm túc một nửa thôi cũng biết về “sự cố” nổi tiếng ngày 7 tháng 5 năm 1999. Vấn đề duy nhất: Câu chuyện đó thuần túy là tuyên truyền.

Ba người ở trong đại sứ quán Trung Quốc đã bị giết hại và Washington xin lỗi Bắc Kinh rối rít, đổ lỗi cho các bản đồ lạc hậu. Mặc dù vậy, hai báo cáo điều tra rất thuyết phục khác trên tờ The Observer của London vào tháng 10 và tháng 11 cùng năm, dựa trên nguồn tin tình báo và quân sự của NATO cũng như Hoa Kỳ, đã cho biết tòa đại sứ Trung Quốc nằm trong mục tiêu tấn công sau khi NATO khám phá ra rằng nó được dùng để phát sóng truyền thông của quân đội Nam Tư. Người Trung Quốc làm điều này sau khi máy bay NATO đã bịt miệng được đài phát thanh của chính quyền Nam Tư (5). Cách truyền thông chính thống Hoa Kỳ che đậy câu chuyện thực tế đằng sau vụ ném bom tòa đại sứ là rất đáng ngạc nhiên (6).

Cao hơn các nhu cầu quân sự là các mục đích chính trị. Trung Quốc, sau đó và hiện giờ, rõ ràng là một rào cản chiến lược đối với sự thống trị của Hoa Kỳ ở Châu Á, nếu không nói là ở mọi nơi. Ném bom tòa đại sứ là cách nói quyến rũ của Washington với Bắc Kinh: Đây mới chỉ là ví dụ nhỏ cho thấy điều gì sẽ xảy ra nếu anh có ý tưởng chống lại hay cạnh tranh với đám âm binh Hoa Kỳ. Kể từ khi chiến dịch ném bom Belgrade của Hoa Kỳ được triển khai, Washington đã có thể có lý do tốt hơn “sự phủ nhận hợp lý” cho vụ ném bom đại sứ quán. Cơ hội có thể là không thể cưỡng lại đối với các lãnh đạo Hoa Kỳ. Một cơ hội không bao giờ đến lần thứ hai.

Tất cả vụ ném bom “nhầm lẫn” khác của Hoa Kỳ/NATO ở Nam Tư đều có chung một đặc trưng, theo sau nó là người phát ngôn nói với thế giới: “Chúng tôi rất lấy làm tiếc về thiệt hại sinh mạng.” Những lời tương tự cũng được IRA ở Bắc Ai Len sử dụng trong nhiều sự kiện trong nhiều năm sau khi các vụ đánh bom của họ có vẻ như là nhầm mục tiêu. Nhưng hành vi của họ bị gọi thẳng là “khủng bố”.

Không có gì hoài nghi, truyền thông Hoa Kỳ sẽ còn viết về “sự cố” Hoa Kỳ ném bom đại sứ quán Trung Quốc đến chừng nào đế chế còn tồn tại và Trung Quốc chưa trở thành thành viên của NATO.

Notes

1. Washington Post, May 7, 2015

2. Ricardo Sanchez, Wiser in Battle: A Soldier’s Story (2008), pages 349-350

3. Associated Press, November 11, 2006

4. William Blum, America’s Deadliest Export: Democracy, pp. 61-2

5. The Observer (London), October 17, 1999 (“Nato bombed Chinese deliberately”), and November 28, 1999 (“Truth behind America’s raid on Belgrade”)

6. Extra! Update (magazine of Fairness and Accuracy in Reporting [FAIR], New York), December 1999; appeared first as solitary article October 22, 1999 (“U.S. Media Overlook Expose on Chinese Embassy Bombing”)

Sunday, June 7, 2015

Lý do kinh tế của sự xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc

Những ngày này, báo chí dân túy Việt Nam đang ca tụng việc Hoa Kỳ can thiệp vào những tranh chấp trên biển Đông, bằng việc dùng tàu chiến để khiêu khích Trung Quốc ở ngoài phạm vi 12 hải lý (một trò đùa lố lăng), sau khi cố gắng bao vây Trung Quốc bằng một chuỗi căn cứ quân sự trên lãnh thổ các nước chư hầu trong khu vực. Nhưng những người Việt Nam còn tỉnh táo thì sẽ hiểu rằng Hoa Kỳ không can thiệp vào biển Đông vì quyền lợi của Việt Nam hay lợi ích của tự do lưu thông trên biển Đông, lý do thực sự là Hoa Kỳ đang muốn kiềm chế Trung Quốc, không để Trung Quốc trở thành kẻ lật đổ sự thống trị toàn cầu của họ. Người Việt Nam có lương tri hiểu rằng sự nhầm lẫn trong việc nhận định mục đích thực sự của Hoa Kỳ, hay nói cách khác là ảo tưởng ở sự can thiệp của Hoa Kỳ, sẽ khiến đất nước của chúng ta phải trả một cái giá rất đắt. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "An Economic Reason for the US vs. China Conflict" của giáo sư đại học ở Boston Bart Gruzalshi để hiểu thêm chi tiết về mục đích của Hoa Kỳ trong việc khiêu khích Trung Quốc trên biển Đông. Tác giả nói về việc Hoa Kỳ lo sợ đồng dollar của họ đánh mất vị thế thống trị thương mại thế giới, nhưng chúng ta phải hiểu rằng các ngân hàng Hoa Kỳ đang cung cấp đồng dollar cho thanh toán quốc tế, vì vậy việc đồng dollar bị loại bỏ đe dọa trực tiếp đến lợi nhuận của các ngân hàng Hoa Kỳ, giai cấp tư sản Hoa Kỳ sẽ không bao giờ tha thứ cho bất cứ ai dám làm điều đo.

Lý do kinh tế khiến Hoa Kỳ xung đột với Trung Quốc

Có nhiều lý do khiến Hoa Kỳ dồn ép Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa. Hai bài báo đăng trên Counterpunch trong những tuần qua đã tìm hiểu các lý do ấy. Nhưng không có bài báo nào đề cập tới lý do kinh tế quan trọng, cho dù chỉ là một phần, đã thúc đẩy Hoa Kỳ lao vào cuộc chiến và đóng vai trò quan trọng sự tranh chấp gia tăng với Trung Quốc: giá trị của đồng dollar.

Sự thống trị của đồng dollar trong thương mại thế giới là rất quan trọng đối với giá trị của nó và đối với kinh tế Hoa Kỳ. Sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ chế độ bản vị vàng, họ đã ký một thỏa thuận chắc chắn với Saudi Arabia và tất cả các nước OPEC ở Trung Đông để buộc các nước này phải mua bán dầu bằng đồng dollar. Do thỏa thuận này mà đồng dollar còn thường được gọi là “dollar dầu lửa”. Giá trị của dollar/dollar dầu lửa dựa trên năng lực thanh toán thương mại quốc tế của nó, không chỉ là đối với dầu lửa mà còn là vũ khí, thực phẩm cũng như mọi thứ khác. 

Hai cuộc chiến dollar

Như tôi đã thảo luận trong một bài báo trên Counterpunch vào năm 2013, lý do khiến Bush II xâm lược Iraq là bởi vì Iraq đã đe dọa Hoa Kỳ bằng việc mua bán dầu với đồng Euro. Nếu Saddam Hussein được phép tiếp tục, điều này sẽ là sự thách thức chủ yếu đối với sự thống trị của đồng dollar trong vai trò đồng tiền dự trữ của thế giới. Đồng euro dầu lửa có thể thay thế đồng dollar dầu lửa. Điều này có thể làm suy yếu giá trị của đồng dollar và phá hủy nền kinh tế Hoa Kỳ. Đây chính là lý do bị lảng tránh của việc lật đổ Saddam Hussein. Giá trị của đồng dollar đóng vai trò như là sức khỏe của nền kinh tế Hoa Kỳ. Cuộc chiến tranh Iraq thức hai đã loại bỏ nguy cơ này và dầu của Iraq lại được mua bán bằng đồng dollar.

Ron Paul đã công bố lý do này nhưng không được chú ý nhiều: “Saddam Hussein định mua bán dầu lửa bằng đồng euro. Sự ngạo mạn của ông ta là mối đe dọa đối với đồng dollar; quân đội nghèo nàn của ông ta không bao giờ là sự nguy hiểm … Không có sự thừa nhận công khai nào về việc lật đổ Saddam Hussein bởi vì đòn đánh của ông ta vào sự thống nhất của đồng dollar trong vai trò đồng tiền dự trữ bằng cách mua bán dầu lửa với đồng euro. Nhiều người tin rằng đây mới là lý do thực sự khiến Hoa Kỳ xâm lược Iraq. Tôi không cho rằng đó là lý do duy nhất nhưng nó đóng một trò đáng kể trong động cơ xâm lược Iraq của Hoa Kỳ.”

Ron Paul cũng công bố lý do của cuộc nổi loạn do Hoa Kỳ dẫn đầu để lật đổ Gaddafi ở Lybia. Một lần nữa, bảo vệ đồng dollar là lý do chủ chốt. Gaddafi đã lên kế hoạch mua bán dầu lửa bằng đồng dinar, đồng tiền vàng của châu Phi. Theo Ron Paul, Hoa Kỳ sẽ tấn công bất cứ quốc gia nào dám đe dọa đồng dollar bằng cách sử dụng các đồng tiền khác để thực hiện thanh toán quốc tế.

Tổn thất sự hài lòng với đồng dollar

Đồng dollar đã trở thành đồng tiền thống trị trong thanh toán quốc tế kể từ khi Nixon chấm dứt việc đổi đồng dollar lấy vàng. Bất chấp những sự thách thức của Iraq và Lybia, sự sắp xếp đó đã tiếp tục thêm một thập kỷ nữa trong thế kỷ 21.

Hai sự kiện đã diễn ra trong và sau sự sụp đổ niềm tin ở đồng dollar vào năm 2008. Sự kiện thứ nhất không được bất cứ gã tài chính Hoa Kỳ tinh ranh nào thừa nhận: sự phá hoại mà Hoa Kỳ gây ra cho các quốc gia đang phát triển khi Hoa Kỳ bị khủng hoảng. Do thiếu nguồn quỹ ở quốc nội, các khoản cho vay của Hoa Kỳ đã không thể đáp ứng nhu cầu về tiền của các quốc gia đang phát triển để họ có thể tiếp tục các dự án. Những quốc gia này không thể quên được sự tổn thất đột ngột và đau đớn của nguồn cung tiền. Sự kiện đó có thể lặp lại một lần nữa và trở nên tồi tệ hơn. Các quốc gia này hiểu rằng việc dựa vào đồng dollar là dựa vào điều kiện bên ngoài mà họ hoàn toàn không thể kiểm soát nhưng lại có thể hủy hoại nền kinh tế của họ. Điều thứ hai là gói nới lỏng định lượng của Bernanke đã pha loãng đồng dollar thành một cái bóng của chính nó (giống như việc tạo ra đồng dollar từ đồng dollar bản vị vàng vào năm 1971). Đây là cán cân dự trữ với các ngân hàng dự trữ liên bang. Vào ngày 17 tháng 9 năm 2008, các ngân hàng của FED có 47 tỷ dollar. Vào ngày 27 tháng 5 năm 2015, con số đó là 2.510,791 tỷ “Bernanke dollar,” mặc dù vậy là một sự pha loãng vi lượng đồng căn so với đồng dollar thời tiền Bernanke.

Các quốc gia nước ngoài đã nhận thấy điều này. Tiếng nói chủ yếu là Nga và Trung Quốc. Vào năm 2010, tờ Nhật Báo Trung Hoa đưa tin “Trung Quốc và Nga … [dự định] loại bỏ đồng dollar và sử dụng đồng nội tệ cho thương mại song phương.” Trung Quốc và Nga, cùng với ba quốc gia khác, cựu thành viên của BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi). Hãng Reuters đưa tin vào cuối tháng 7 năm ngoái về việc BRICS thành lập một “ngân hàng phát triển trị giá 100 tỷ dollar và một quỹ dự trữ tiền tệ là bước tiến cụ thể đầu tiên của họ trong việc tiến tới vẽ lại hệ thống tài chính quốc tế do phương Tây thống trị.”

Kế hoạch về ngân hàng BRICS

Amy Goodman và Juan Gonzalez đã phỏng vấn nhà kinh tế học được giải Nobel Joseph Stiglitz của Hoa Kỳ về ngân hàng BRICS. Stiglitz nói rằng BRICS rất quan trọng: 

“Đầu tiên, nhu cầu toàn cầu đòi hỏi nhiều đầu tư hơn cho các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là yêu cầu về khối lượng hàng nghìn tỷ dollar, vài nghìn tỷ dollar trong một năm. Các thể chế hiện nay không có đủ nguồn lực … [ngân hàng mới] bổ sung thêm vào dòng tiền tài trợ cho cơ sở hạ tầng, thích nghi với sự biến đổi khi hậu – tất cả những nhu cầu đó hiện rõ ở các quốc gia nghèo nhất.”

“Thứ hai, điều đó phản ánh một sự thay đổi căn bản trong kinh tế thế giới và quyền lực chính trị, ý tưởng đứng sau điều này là các nước BRICS hiện nay giàu hơn các quốc gia phát triển khi mà Ngân Hàng Thế Giới và IMF được thành lập. Chúng ta đang ở một thế giới khác … Các thể chế cũ không còn phù hợp.”

Một kỳ vọng mà người dân của các quốc gia khác đặt ra là, vào thế kỷ 21, những người lãnh đạo hàng đầu của IMF sẽ được “lựa chọn dựa trên phẩm chất, chứ không phải bởi vì họ là người Mỹ. Mặc dù vậy, Hoa Kỳ đã nuốt lời hứa về thỏa thuận đó.”

Gonzalez đã hỏi Stiglitz về cách thức Trung Quốc, đang nắm giữ khoản dự trữ tiền tệ khổng lồ, và Brazil, đã sở hữu ngân hàng phát triển riêng từ nhiều năm, sẽ hợp tác trong vai trò là các thành viên trụ cột của ngân hàng BRICS mới này.

“Trung Quốc dự trữ hơn 3 nghìn tỷ dollar,” Stiglitz trả lời. “Họ cần phải sử dụng khoản dự trữ đó tốt hơn là chỉ đặt chúng vào các trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ. Anh biết đấy, đồng nghiệp của tôi ở Trung Quốc nói rằng việc đó giống như đặt một miếng thịt vào tủ lạnh và sau đó rút phích cắm điện, bởi vì giá trị thực của tiền ở trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ đang giảm xuống. Thế nên họ nói, “Chúng ta cần sử dụng tốt hơn những quỹ này,” cũng như sử dụng nguồn tiền đó tốt hơn thay vì để xây dựng những căn nhà tồi tệ ở giữa sa mạc Nevada. Anh biết đấy, có những nhu cầu xã hội thực mà nguồn tiền đó chưa bao giờ được dùng để đáp ứng.”

Sau đó Stiglitz nói về Brazil. “Brazil đã có BNDES … một ngân hàng phát triển khổng lồ, lớn hơn Ngân Hàng Thế Giới. Người ta không biết điều này, nhưng Brazil đã cho thấy một quốc gia đơn lẻ có thể tạo ra một ngân hàng phát triển hiệu quả ra sao. Sự học hỏi được tiếp tục. Cách thức mà anh tạo ra một ngân hàng phát triển hiệu quả, thực sự thúc đẩy sự phát triển thực tế … trở thành một phần quan trọng của sự đóng góp là điều mà Brazil sẽ làm.”

Thương mại giữa Trung Quốc và Nga mà không có đồng dollar 

Vào tháng 10 năm 2014, trong một cuộc phỏng vấn bất ngờ với CNBC, thủ tướng Nga Dmitry Medevev nói rằng thế giới cần phải chấm dứt sự phụ thuộc vào đồng dollar của Hoa Kỳ, khẳng định rằng kinh tế thế giới sẽ có lợi từ hệ thống tiền tệ đa dạng hơn. “Chúng tôi không phản đối đồng dollar, nhưng chúng tôi tin rằng hệ thống tiền tệ ngày nay cần phải cân bằng hơn,” ông nói, kêu gọi một sự dự trữ nhiều hơn các đồng tiền chủ chốt. Cụ thể hơn, ông nói rằng đồng euro, nhân dân tệ, bảng Anh và dollar sẽ được nhóm lại. Ông đề cập tới việc BRICS là nhóm sẽ thực hiện sự thay đổi này. “Thứ không chỉ là một hệ thống tài chính này” hoàn toàn khả thi, ông nói.

Medevev nhấn mạnh rằng khi các quốc gia “thực sự phụ thuộc” vào đồng dollar, họ chịu sự ảnh hưởng của kinh tế Hoa Kỳ. “Kinh tế Hoa Kỳ đang được cải thiện nhưng chúng ta không có bằng chứng là nó sẽ không sụp đổ một lần nữa, do đó mọi người sẽ phải gánh chịu,” ông nói. “Chúng tôi tin rằng chúng tôi phải từ bỏ sự phụ thuộc này [vào bất cứ một đồng tiền nào] trong hệ thống tài chính thế giới.”

Medvedev chỉ ra rằng kết hợp các đồng tiền khác đã cho phép Nga giao thương trực tiếp với Trung Quốc. “Đây là một sự khẳng định rõ ràng cho thấy nếu ai đó rời khỏi chỗ của họ thì người khác sẽ thế chỗ [in nghiêng của tôi],” ông nói thêm. Thỏa thuận tháng 10 theo sau một hợp đồng cung cấp khí đốt khổng lồ với Gazprom, trị giá 400 tỷ dollar, để cung cấp khí đốt cho Trung Quốc trong hơn 30 năm.

Ngân hàng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng do Trung Quốc sáng lập vào năm 2014 

Cùng với việc là thành viên sáng lập của BRINCS, Trung Quốc đang thiết lập một ngân hàng phát triển, Ngân Hàng Đầu Tư Phát Triển Cơ Sở Hạ Tầng Châu Á (AIID). Hoa Kỳ kiểm soát cả Ngân Hàng Thế Giới và Ngân Hàng Phát Triển Châu Á. Cả hai tổ chức này phải đối mặt với sự cạnh tranh dữ dội khi ngân hàng phát triển của Trung Quốc tiến bước. Cùng với ngân hàng của BRICS, ngân hàng phát triển mới sẽ cung cấp sự thay thế quốc tế cho đồng dollar trong thương mại.

Theo tờ New York Times, “Hoa Kỳ, dĩ nhiên là tiếng nói chỉ trích … chủ yếu … đã không gây áp lực cho đề xuất của Trung Quốc. Trái lại, trong các cuộc đối thoại lặng lẽ với các đối tác tiềm năng của Trung Quốc, quan chức Hoa Kỳ đã vận động chống lại ngân hàng phát triển với sự cương quyết không ngờ và tham gia vào các chiến dịch mãnh liệt để thuyết phục các đồng minh quan trọng tẩy chay dự án, theo các quan chức cấp cao Hoa Kỳ và đại diện của các chính quyền liên quan khác [in nghiêng của tôi].” Tờ New York Times cũng đưa tin về sự phản đối các lập luận phê phán của Hoa Kỳ: “Các lập luận của Washington chống lại những nhu cầu rõ ràng về cơ sở hạ tầng ở Châu Á – những nhu cầu mà các thể chế hiện tại không thể đáp ứng, một số chuyên gia về phát triển nói. Ngân Hàng Phát Triển Châu Á ước tính vào năm 2009 là khu vực cần khoảng 8 nghìn tỷ dollar để đầu tư vào cơ sở hạ tầng vật chất cho tới năm 2020 – một số lượng vượt quá khả năng đáp ứng của họ hay Ngân Hàng Thế Giới, các chuyên gia của hai ngân hàng nói.”

Những tiến triển mới đây

Vào tháng 4 năm nay, thời hạn đã được đặt ra để các quốc gia tham gia vào ngân hàng phát triển Châu Á mới của Trung Quốc. Người Trung Quốc đã ngạc nhiên vì sự xin gia nhập vào phút chót của những quốc gia không mấy thân thiện với Bắc Kinh. Trong số những sự ngạc nhiên đó: Đài Loan và 14 trong số nhóm 20 nước. Nhật Bản là đồng minh Châu Á chủ chốt duy nhất vẫn sát cánh cùng chính quyền Obama. Ngay cả Australia và Hàn Quốc cũng quyết định tham gia. Ở Châu Âu, Anh Quốc là một trong số các quốc gia tham gia, quá đủ để chọc tức Hoa Kỳ.

Cùng lúc đó, Putin thông báo việc triển khai ngân hàng phát triển mới của BRICS trị giá 100 tỷ dollar. Họ cũng có 100 tỷ dollar khác làm dự trữ ngoại tệ để bảo vệ các đồng tiền của BRICS trước những biến động của kinh tế và thị trường thế giới. Việc triển khai diễn ra vào tháng 7 ở Ufa,Nga. “Chúng tôi dự định đạt được thỏa thuận ở Ufa về việc triển khai các hoạt động thực tế của ngân hàng BRICS và một quỹ dự trữ ngoại tệ,” Putin nói. Ngân hàng này sẽ là đối thủ cạnh tranh đối với IMF và Ngân Hàng Thế Giới và sẽ tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển. Họ cũng thách thức vai trò phương tiện thanh toán quốc tế của đồng dollar.

Động cơ hợp lý nhưng bị đánh giá thấp của việc khiêu khích Trung Quốc

Trong bài báo xuất sắc trên CounterPunch, Jack Smith viết rằng việc Hoa Kỳ khiêu khích Trung Quốc “xảy ra bởi một lý do chủ yếu. Hoa Kỳ ngạo mạn thống trị thế giới một mình, không được ủy quyền, không có sự cạnh tranh hay giám sát, kể từ khi Liên Bang Soviet sụp đổ gần 25 năm trước đây. Không có điều gì quan trọng hơn việc đó đối với giai cấp thống trị của Hoa Kỳ. Mọi mối nguy hiểm tiềm tàng đối với sự thống trị của Washington phải bị vô hiệu hóa. Cái bóng mờ ở Đông Á gây ra sự lo ngại bất an của Washington – Trung Quốc.”

Smith hoàn toàn chính xác như ông đã trình bày. Sự thống trị chính thống của Hoa Kỳ bắt đầu từ khi Liên Bang Soviet sụp đổ. Nhưng có một khía cạnh của sự thống trị mà Smith đã không đề cập: bảo vệ sự thống trị của đồng dollar trong thương mại thế giới. Trung Quốc và Nga đang tạo ra sự thay thế, đe dọa sự thống trị độc tôn của đồng dollar trong vai trò tiền tệ thế giới. Thông qua việc trao đổi không dùng đồng dollar, họ chống lại giá trị của đồng dollar và do vậy đe dọa nền kinh tế Hoa Kỳ.

Bart Gruzalski is a professor emeritus of Northeastern University, Boston. He has published three books and a number of articles online as well as in academic journals.

Thursday, May 28, 2015

GMO và sự phá sản của Argentina

Ngay cả ở những nước có quy mô canh tác nông nghiệp lớn như Argentina thì việc phát triển các sản phẩm biến đổi gien cũng khiến họ phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường và sức khỏe con người. Sau nữa, các sản phẩm biến đổi gien không phải là phương thuốc chữa trị cho đói nghèo, ngược lại, chúng gia tăng sự đói nghèo nhanh hơn, đó có lẽ sẽ là kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam khi xử lý vấn đề cây trồng biến đổi gien. 

Dưới đây là bản dịch chương 13 "In Argentina: Soybeans of Hunger" trong cuốn sách "The World According to Monsanto" của tác giả Marie-Monique Robin, bản tiếng Anh của George Holoch, nhà xuất bản New Press, New York, Hoa Kỳ, phát hành năm 2010.

Ở Argentina: Đậu nành đói khát

Sự gia tăng diện tích canh tác toàn cầu là bằng chứng về lợi ích của cây trồng kháng thuốc diệt cỏ, trong đó có các tác động môi trường tích cực.
—Monsanto, Báo cáo Cam kết, 2005

Đó là ngày 13 tháng 4 năm 2005, ở Buenos Aires, Miguel Campos khó có thể kiềm chế sự giận dữ. Trong nhiều tuần, bộ trưởng nông nghiệp, chăn nuôi, ngư nghiệp và thực phẩm Argentina đã tham gia vào một cuộc đấu tranh gay go với Monsanton. Kỹ sư nông nghiệp này không chỉ phản đối công nghệ sinh học, trái lại, ông được bổ nhiệm, cũng giống như những người tiền nhiệm khác trong 10 năm trước đó, chính xác là bởi vì ông là người ủng hộ vô điều kiện cho GMO. Trong suốt hai giờ đối thoại, ông thường xuyên tán dương lợi ích nông nghiệp và tài chính của đậu nành RR đồng thời cố gắng thuyết phục tôi rằng đạo đức của Monsanto tồi tệ đến mức không thể giải thích được.

“Monsanto chưa bao giờ có thể áp đặt bản quyền gien RR ở Argentina bởi vì luật pháp của chúng tôi không cho phép điều đó,” ông giải thích, nói một cách đầy thuyết phục. “Công ty đã đồng ý bãi bỏ phí bản quyền và hứa rằng không kiện những nông dân tái canh tác một phần vụ thoạch của họ, như họ đã làm, hoàn toàn hợp pháp. Giờ Monsanton lại nuốt lời hứa, đòi 3 dollar cho mỗi tấn đậu nành hoặc bột đậu nành xuất đi từ các cảng của Argentina, hoặc 15 dollar khi chuyến hàng cập bến ở các cảng của Châu Âu. Điều đó không thể chấp nhận được.”

Bắt cóc Argentina

Miguel Campos trông chán nản, giống như một học sinh giỏi bị giáo viên mà anh ta yêu quý đánh giá bất công. Nếu có quốc gia nào mà Monsanto có thể làm bất cứ điều gì mà họ muốn mà không có bất kỳ trở ngại nhỏ nào thì chắc chắn đó là Argentina. Khi Campos nói với tôi, một nửa diện tích canh tác của quốc gia này được trồng đậu nành biến đổi gen – 14 triệu ha và thu hoạch 37 triệu tấn đậu nành, 90% số đó được xuất khẩu, chủ yếu là sang Châu Âu và Trung Quốc. Nếu đạt được mục tiêu đã đề ra, Monsanto sẽ nhận được 160 triệu dollar mỗi năm chỉ riêng phần xuất khẩu sang Châu Âu – giải độc đắc.

“Ông không nghĩ rằng đó là cái bẫy?” Tôi hỏi.

Dường như Campos không chịu hiểu, “Một cái bẫy?” “Đầu tiên Monsanto tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc phổ biến đậu nành RR khắp đất nước, sau đó công ty yêu cầu anh trả tiền.”

“Nếu đó là chiến lược thì chiến lược đó là sai lầm. Anh không thay đổi luật chơi của 10 năm sau.”

“Ông sẽ trả tiền chứ?”

“Cuộc tranh chấp rất nghiêm trọng bởi vì Monsanto đe dọa sẽ tấn công lĩnh vực xuất khẩu của Argentina.” Trong một tuyên bố được tường thuật trên kênh tin tức Dow Jones vào ngày 17 tháng 3 năm 2005, Campos đã thẳng thừng lên án “thái độ giống như kẻ du côn” của Monsanto.

Mặc dù vậy, mười năm trước đây cuộc phiêu lưu biến đổi gien đã bắt đầu giống như chuyện cổ tích ở đất nước của gia súc và những người chăn bò này. Khi FDA cho phép bán đậu nành RR trên thị trường Bắc Mỹ năm 1994, Monsanto đã để mắt tới vùng đất phía Nam. Dĩ nhiên mục tiêu của họ là Brazil, nhà cung cấp đậu nành lớn thứ hai thế giới. Nhưng thỏa thuận khó có thể đạt được do hiến pháp Brazil yêu cầu cây trồng biến đổi gien phải trải qua các thử nghiệm ban đầu về tác động môi trường trước khi được cấp phép. Do vậy Monsanto chuyển hướng sang Argentina, chính quyền Carlos Menem, theo sự dẫn dắt của chính quyền Bush nhiệm kỳ đầu tiên, đã thường xuyên ủng hộ tự do hóa. Trong mười năm cai trị (1989-1999), Menem, người bị ra tòa vào tháng 11 năm 2008 vì tội buôn bán vũ khí trái phép, đã cố gắng hết sức để hoàn thành công việc đã bắt đầu dưới chế độ độc tài quân sự (1976-1983): ông ta vô hiệu hóa những gì đảm bảo cho Argentina là nhà nước phúc lợi, tư nhân hóa bất cứ thứ gì có thể và mở rộng cửa cho tư bản ngoại quốc. Chính sách này đã tàn phá khu vực nông nghiệp, các hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ để đặt toàn bộ sản xuất vào sự điều khiển của các quy luật của thị trường.

Monsanto đã chuẩn bị và thâm nhập qua lỗ hổng vào đầu những năm 1990, trở thành đối tác đặc quyền của Conabia, Ủy Ban Giám Sát Công Nghệ Sinh Học Nông Nghiệp Quốc Gia, do Menem thành lập vào năm 1991 để xây dựng luật pháp cho Argentina với sự xuất hiện của GMO. Ủy ban này, dưới sự giám sát của Bộ Nông Nghiệp, chỉ có vai trò cố vấn và có sự tham gia của các cơ quan công cộng, như Viện Hạt Giống Quốc Gia (INASE) hay Viện Công Nghệ Nông Nghiệp Quốc Gia (INTA) và tổ chức tư nhân trong công nghệ sinh học như Syngenta, Novartis và dĩ nhiên là Monsanto, sự can thiệp thường xuyên của họ không khó để hình dung. Các ý kiến của Conabia trực tiếp dựa trên các mô hình Bắc Mỹ; ngay từ đầu họ đã áp dụng nguyên tắc tương đồng về giá trị, như website của họ khẳng định: “Tiêu chuẩn của Argentina dựa trên đặc trưng và các rủi ro của sản phẩm công nghệ sinh học và không dựa trên quá trình sản xuất.” Cụ thể hơn, ủy ban không làm gì ngoài việc phân tích các dữ liệu do các tập đoàn đa quốc gia cung cấp; nếu các kiểm tra được triển khai, mục đích duy nhất của chúng là đánh giá khả năng áp dụng hạt giống biến đổi gien trong các điều kiện nông nghiệp của Argentina.

Vào năm 1994, Monsanto bán giấy phép cho các công ty hạt giống chủ chốt của quốc gia này như Nidera và Don Mario, họ đã cấy gien kháng thuốc diệt cỏ Roundup Ready cho các giống trong danh mục của họ. Một sự trùng hợp tình cờ, hai tờ tạp chí lớn nhất nước, Nación và đặc biệt là Clarín (có số lượng phát hành lớn nhất nước), nhảy vào xúc tiến – một số người gọi là tuyên truyền – công nghệ sinh học, chụp mũ những người phản đối, thậm chí cả những người ôn hòa nhất, là những kẻ cuồng tín phản tiến bộ hoặc những kẻ lạc hậu, theo lời của cựu bộ trưởng Nông Nghiệp Dan Glickman* dưới thời Bill Clinton. Hàng sa số các bài xã luận ca tụng cuộc cách mạng công nghệ sinh học với các lập luận gợi nhớ đến những điều đã được một công ty cụ thể ở Missouri trình bày: “Với GMO, khoa học đã có một đóng góp quyết định vào cuộc chiến chống lại nạn đói,” ví dụ như tuyên bố của Carlos Menem trên một tờ báo nông nghiệp.1 William Kosinski, “nhà đào tạo công nghệ sinh học” của Monsanto khẳng định:

“Công nghệ sinh học đã tạo ra các vụ thu hoạch có chất lượng tốt hơn, năng suất cao hơn và một nền nông nghiệp bền vững bảo vệ môi trường.”2

“Việc nhập khẩu GMO vào Argentina đã diễn ra mà không hề có tranh luận công khai hay tranh luận ở quốc hội,” theo Walter Pengur, một kỹ sư nông nghiệp chuyên về cây trồng biến đổi gien ở trường đại học Buenos Aires mà tôi gặp ở Buenos Aires vào tháng 4 năm 2005.3 “Vẫn chưa có luật kiểm soát việc marketing của cây trồng biến đổi gien và xã hội dân sự, thậm chí chưa có mặt ở Conabia, vẫn bị đặt ngoài các quyết định. Sau khi chúng được cấp phép vào năm 1996, đậu nành RR được phổ biến khắp Argentina với một tốc độ chưa từng có trong lịch sử nông nghiệp: trung bình hơn tám trăm ngàn ha mỗi năm. Giờ đây chúng ta thấy sa mạc xanh đang nuốt chửng một trong những giỏ bánh mỳ lớn nhất thế giới.”




Hạt giống thần kỳ

Khi ra khỏi Buenos Aires về phía bắc, anh sẽ sửng sốt: chạy hết tầm mắt là đậu nành và đậu nành, điểm xuyết là những bãi cỏ với đàn bò lớn. Tôi ở đó vào tháng mùa thu phương nam, đúng vụ thu hoạch và con đường quốc lộ số 9 chật cứng những xe tải chạy qua lại giữa kho chứa đậu nành và các cảng của Río Parana. Đây là trái tim của pampas, đồng bằng huyền thoại của Argentina bao phủ 20% diện tích lãnh thổ quốc gia, 250.000 dặm vuông nằm ở phía nam khu vực Chaco, phía tây của Río Parana, phía bắc là Río Colorado và phía đông là dãy Andes. Cũng màu mỡ như vành đai ngũ cốc của Hoa Kỳ, llanura pampeana là một trong những vùng đất canh tác tốt nhất thế giới và từ thế kỷ 19 đã trở thành khu vực phát triển nông nghiệp thần tốc, trước khi GMO xuất hiện, cây trồng ở đây là ngũ cốc (ngô, lúa mỳ, kê), cây cho dầu (hoa hướng dương, lạc, đậu nành) cũng như rau cỏ và cây ăn trái, đó là chưa kể đến sản xuất sữa, thứ đã phát triển tốt trong khu vực  được coi là “bể sữa”. Trên phương diện quốc gia, pampas được coi là niềm tự hào của quốc gia, có khả năng sản xuất thực phẩm đủ cho 10 lần dân số của nó và do đó đủ cho xuất khẩu. “Canh tác nông nghiệp là phụng sự quốc gia,” đó là lời của một tranh cổ động ở lối vào trụ sở Hiệp Hội Nông Thôn Argentina.

Người đàn ông mà tôi gặp sau khi lái xe 5 giờ đồng hồ thuộc về một gia đình nông dân thực thụ với tầm nhìn hữu ích về nông nghiệp. Khoảng 40 tuổi, Héctor Barchetta canh tác 125,6 ha ở cách thủ đô Rosario của đế chế biến đổi gien 35 dặm. Một thành viên của Hiệp Hội Nông Dân Argentina, một hiệp hội có 17 ngàn nông dân nhỏ và vừa, ông thú nhận rằng ông đã “thất bại hoàn toàn”. Khi đi dạo trên các cánh đồng đậu nành RR đang chiếm tới 70% diện tích nông trại, ông kể với tôi câu chuyện về sự kỳ diệu đã biến thành ác mộng. Vào những năm 1990, ông đối mặt với một vấn đề mà mọi nông dân ở pampas đều bị ảnh hưởng: sự thoái hóa của đất canh tác do sự khai thác quá mức. Theo INTA, sản lượng thu hoạch đã giảm xuống 30%. “Chúng tôi không biết làm thế nào,” ông nói với tôi, “và đó là khi đậu nành RR xuất hiện. Đầu tiên, chúng là thực sự là hạt giống thần kì, bởi vì chúng tôi lại có sản lượng cao, với chi phí giảm và công việc ít hơn.” Trên thực tế, cũng giống như ở Hoa Kỳ, nông nghiệp biến đổi gien được phát triển với kỹ thuật “gieo hạt trực tiếp” (siembar directa), cho phép gieo hạt trực tiếp mà không cần cày xới đất, ngay trên những gì còn sót lại của vụ trước. Aapresid, Hiệp Hội Nông Dân Không Canh Tác Argentina, khuyến khích và cung cấp các hướng dẫn kỹ thuật, cũng giống như đồng nhiệm Hoa Kỳ, họ chịu ảnh hưởng lớn của Hiệp Hội Đậu Nành Hoa Kỳ (ASA).

Tập hợp của 15 nhà sản xuất lớn, Aapresid là tác nhân chủ chốt thúc đẩy đậu nành RR và là đồng minh trung thành nhất của Monsanto ở Argentina. “Kỹ thuật siembra directa là phần không thể tách rời của mô hình canh tác biến đổi gien,” theo nhà nông học Walter Pengue. “Trước hết nó dẫn đến sự hồi phục độ màu mỡ của đất canh tác thông qua sự gia tăng các thành phần hữu cơ do phế phẩm trên bề mặt cung cấp, đồng thời chúng cũng giữ nước. Kỹ thuật này không thể tách khỏi cái mà Monsanto gọi là “hành trang kỹ thuật”, hạt giống biến đổi gien và thuốc diệt cỏ Roundup được bán cùng nhau, công ty thể hiện kỹ năng tuyệt vời của họ bằng cách chuyển giao “hành trang” với giá chỉ bằng 1/3 so với ở Hoa Kỳ.” Trên thực tế, giá cả thấp đến mức các nhà sản xuất Bắc Mỹ, ngay cả khi họ được trợ cấp nhiều, đã kêu la trong một cuộc biểu tình chống lại “sự cạnh tranh không lành mạnh” này.

Barchetta là người đã đón nhận miếng mồi một cách nồng nhiệt. Ông nói với tôi, “Trước đây, để diệt cỏ dại thì tôi phải phun thuốc diệt cỏ bốn đến năm lần, nhưng với đậu nành RR thì chỉ cần hai lần là đủ. Sau đó, cuộc khủng hoảng bò điên đã khiến giá đậu nành tăng vọt và tôi đã ngừng canh tác ngô, lúa mỳ, hoa hướng dương và đậu lăng, giống như những người hàng xóm của tôi.” Châu Âu cấm các thức ăn gia súc có nguồn gốc động vật dẫn tới nhu cầu tăng vọt về đạm thực vật, trong đó có bột đậu nành. Giá đậu nành cao lịch sử, dẫn đến một cuộc đổ xô đi tìm vàng xanh ở pampas.

“Nhờ vào sự bùng nổ của đậu nành nên tôi đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng,” ông nói tiếp. “Mọi thứ được làm để bảo vệ nhà sản xuất. Trong khi lãi suất tăng vọt thì chúng tôi có thể nhận được “hành trang” của Monsanto và không cần phải trả tiền cho đến vụ thu hoạch”.

Vào năm 2001, Argentina ở bên bờ vực phá sản. Chính phủ Fernando de la Rúa bị buộc phải từ chức dưới sức ép của công chúng. Trong khi piqueteros – những người nổi dậy – chiếm đóng đường phố, sự nghèo khổ thống trị đất nước, 45% dân số sống dưới mức nghèo khổ. Bị trói buộc bởi khoản nợ nước ngoài khổng lồ, chính phủ Eduardo Duhalde và sau đó là Néstor Kirchner đã dùng đậu nành làm cứu cánh. “Đó là động lực của nền kinh tế,” theo Campos. “Nhà nước thu 20% thuế đối với dầu và 23% đối với hạt giống, khoảng 10 tỷ dollar [mỗi năm], mang lại 30% lượng tiền mặt quốc gia. Không có đậu nành thì quốc gia đã sụp đổ.”

Đậu nành bắt cóc đất nước

Cuộc khủng hoảng của Argentina là cơ hội để Monsanto thực hiện những khát vọng hoang dại của họ. Đậu nành RR lan ra từ pampas như lửa cháy rừng, lan sang phía Bắc đến các tỉnh Chalco, Santiago del Estero, Salta, và Formosa. Từ chỗ chỉ có 36.000 ha vào năm 1971, đậu nành đã lan ra 8 triệu ha vào năm 2000, 9,6 triệu ha vào năm 2001, 11,6 triệu ha vào năm 2002, và hơn 15,6 triệu ha vào năm 2007, chiếm tới 60% diện tích đất canh tác. Hiện tượng này thu hút sự chú ý tới mức có hội thảo về sojisación đất nước, một từ mới được tạo ra để chỉ sự tái cấu trúc sâu sắc ngành nông nghiệp, nhưng tác động tai hại của chúng sẽ sớm xuất hiện.

Đầu tiên, bất chấp những cuộc khủng hoảng tàn phá kinh tế quốc gia, giá đất đai tăng vọt, bởi vì chúng trở thành khoản đầu tư an toàn mang lại lợi nhuận đáng kể một cách nhanh chóng. Héctor Barchetta nói, “Ở vùng của tôi, giá của 0,4 ha đất tăng từ 800 dollar lên 3.000 dollar. Những nhà sản xuất yếu nhất đã bán sạch đất đai, dẫn đến sự tập trung sở hữu đất.” Trong vòng một thập kỷ, quy mô trung bình của nông trại ở pampas tăng từ 246,8 ha lên 531,2 ha và số lượng nông trại giảm xuống 30%. Theo một điều tra nông nghiệp của Viện Thống Kê và Điều Tra Quốc Gia (INDEC), 150.000 nông dân đã từ bỏ kinh doanh trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến 2001, 103.000 người trong số họ rời bỏ sau khi đậu nành biến đổi gien bắt đầu được gieo trồng. Vào cuối giai đoạn đó, 6.000 chủ đất chiếm hữu một nửa diện tích đất canh tác của quốc gia, trong khi 15,6 triệu ha đã nằm trong tay người nước ngoài, một quá trình đã được gia tốc kể từ khi đó.

Theo Eduardo Buzzi, chủ tịch của Hiệp Hội Nông Nghiệp Argentina, “Chúng ta đã chứng kiến một sự mở rộng chưa từng thấy của kinh doanh nông nghiệp, nông nghiệp công nghiệp hóa hướng tới xuất khẩu, gây thiệt hại cho canh tác gia đình đang dần biến mất. Nông dân bỏ đi được thay thế bằng những người không thuộc về lĩnh vực nông nghiệp: các quỹ hưu trí hoặc các nhà đầu tư ném tiền của họ vào “bể hạt giống”, những người lao vào độc canh đậu nành RR, hợp tác với các doanh nghiệp đa quốc gia như Cargill và Monsanto, tất cả đều với tổn thất của cây lương thực.”

Khi đậu nành RR tiếp tục phát huy sức mạnh không thể kháng cự của chúng, biến giỏ bánh mỳ của thế giới thành nhà sản xuất thức ăn gia súc cho thị trường Châu Âu, các nhà sản xuất thực phẩm teo lại với tốc độ cực nhanh. Theo số liệu chính thức, từ năm 1996-97 đến 2001-2, con số tambos (nông trại sữa) giảm đi 27% và lần đầu tiên trong lịch sử, Argentina đã phải nhập khẩu sữa từ Uruguay. Tương tự, sản xuất gạo đã giảm 44%, ngô giảm 26%, hạt hướng dương giảm 34% và thịt lợn giảm 36%. Cùng với sự biến động đó giá các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu đã tăng liên tục: ví dụ vào năm 2003, giá bột mỳ tăng 162%, giá đậu lăng – thành phần quan trọng trong bữa ăn của quốc gia – tăng 272% và giá gạo tăng 130%. Theo Pengue, “Người Argentina trung bình ăn ít hơn 30 năm trước đây. Điều nực cười là chúng ta được khuyến khích thay thế sữa bò và thịt bò, một phần của thực đơn quốc gia, bằng sữa đậu nành và bít tết đậu nành.”

Bình luận của Pengue không phải là chuyện khôi hài mà là mô tả hiện thực. Ở một quốc gia mà  dulce de leche (kẹo sữa) và carne de vaca (thịt bò) là các thành phần quan trọng của di sản văn hóa, bộ trưởng bộ nông nghiệp Miguel Campos nhanh nhảu giới thiệu cho anh địa chỉ của một nhà hàng sojero ở Buenos Aires. Ông ấy ca tụng sự hào phóng của chương trình Soja Solidaria được Aapresid phát động năm 2002, để “giúp đỡ” 10 triệu người bị suy dinh dưỡng, trong đó có 1/6 là trẻ em, theo cách của họ. Ý tưởng rất đơn giản: “Trích ra 1 kg đậu nành từ mỗi tấn xuất khẩu.” Chương trình được các hãng truyền thông chủ chốt ủng hộ, nhanh chóng giới thiệu Soja Solidaria như là một “ý tưởng tuyệt vời sẽ thay đổi lịch sử.”4 Héctor Huergo, biên tập viên của tờ Clarín Rural, đã khuyến nghị chính quyền “thay thế các chương trình phúc lợi xã hội hiện nay bằng một chuỗi các hoạt động đoàn kết mà không tốn phí nhờ vào mạng lưới phân phối đậu nành, một trong những thực phẩm hoàn hảo nhất chỉ mới được du nhập vào văn hóa của chúng ta.”5 Những người ủng hộ GMO tham gia một cách rộng rãi vào chương trình: nhờ vào dầu diesel miễn phí của Chevron-Texaco, các chuyến hàng đậu nành được chuyên chở đến hàng trăm ngân hàng thực phẩm và nhà ăn trường học ở các khu dân cư nghèo và ổ chuột, nhà tế bần, bệnh viện và tất cả các loại tổ chức từ thiện ở Argentina. Khắp đất nước, các cuộc hội thảo được tổ chức và các tình nguyện viên – đại học Thiên Chúa Giáo Córdoba gọi họ là “chiến sĩ đậu nành” – dạy cách nấu nướng, cách làm sữa, bánh hamburger và các loại thịt thay thế khác từ đậu nành. Ví dụ trên website nutri.com, người ta được thấy một chương trình đào tạo sáu ngàn người ở Chimbas, một tỉnh hẻo lánh của San Juan, cách “tiêu dùng đậu nành” và hàng ngàn tình nguyện viên đã đi khắp nơi để phân phối sữa đậu nành cho 12 ngàn trẻ em.

Khi Soja Solidaria tổ chức lễ kỷ niệm lần đầu tiên, Victor Trucco, chủ tịch của Aapresid, không che dấu sự hài lòng của mình. Ông viết trên tờ Clarín rằng, “Vào lúc này, chúng ta sẽ còn nhớ đến năm 2002 khi đậu nành được du nhập vào bữa ăn của người Argentina.”6 Ông đưa ra một bảng tổng kết: “Chúng ta đã đóng góp 700.000 tấn đậu nành, tương đương với hơn 600.000 pound protein giá trị cao, 8 triệu quart sữa, 5 triệu pound trứng hay 3 triệu pound thịt.” Thống kê dường như được thiết kế để cho thấy mục tiêu mà trang web của Soja Solidaria tóm tắt trong một câu: “Kế hoạch hỗ trợ việc phổ biến đậu nành” tại quốc gia này.7

Đậu nành nổi loạn: Tiến tới thoái hóa đất canh tác

Hôm đó, Walter Pengue sắp xếp chuyến viếng thăm Jésus Bello, một nông dân ở pampas đã trồng đậu nành RR từ năm 1997. Trong 7 năm, Pengue đã theo dõi một số nông trại trong vùng và kiểm tra cẩn thận sản lượng thu hoạch của họ. Ông nói, “Lúc đầu, tôi ủng hộ đậu nành biến đổi gen bởi vì tôi cho rằng với phương thức luân canh và sử dụng thuốc diệt cỏ một cách hợp lý, chúng có thể tốt cho môi trường và cho sổ sách của nhà sản xuất, do diệt cỏ chiếm tới 40% chi phí sản xuất. Nhưng giờ thì tôi rất lo lắng, bởi vì mọi thứ đều đang báo động đỏ.” Bello gật đầu đồng ý: “Chúng tôi đã lao đầu vào tường. Chúng tôi tiêu tốn ngày càng nhiều tiền và đất canh tác bị thoái hóa.” Bello, cũng giống như Héctor Barchetta ở cách đó hai trăm dặm, cũng phải đối mặt với vấn đề đang tồi tệ hơn mỗi năm: cỏ dại đề kháng thuốc diệt cỏ. “Trên phương diện nông học, điều đó đã được biết từ trước,” Pengue nói. “Trước khi đậu nành biến đổi gien được canh tác, nhà sản xuất sử dụng 4 hay 5 loại thuốc diệt cỏ khác nhau, một số rất độc như 2,4-D, Atrazine và Paraquat.** Nhưng sự luân chuyển các sản phẩm khác nhau ngăn chặn sự phát triển sức đề kháng đối với từng loại thuốc diệt cỏ. Hiện giờ, việc sử dụng quá mức Roundup vào mọi thời điểm trong năm đã dẫn tới sự xuất hiện của cỏ dại kháng thuốc diệt cỏ; để diệt loại cỏ dại đó thì cần phải tăng liều lượng thuốc diệt cỏ. Cỏ dại kháng thuốc diệt cỏ đã được thấy ở một số khu vực của pampas.”

“Quảng cáo thương mại của Monsanton về công nghệ Roundup Ready làm giảm việc sử dụng thuốc diệt cỏ là sai lầm?”

“Hoàn toàn sai lầm,” Bello nói. “Tôi phải phun thuốc diệt cỏ hai lần, lần thứ nhất sau khi trồng, lần thứ hai là hai tháng trước khi thu hoạch. Trước kia, tôi sử dụng chưa đến một lít thuốc diệt cỏ cho 0,4 ha; giờ thì tôi phải phun gấp đôi.”

Pengue nói thêm: “Trước khi đậu nành RR được trồng, người Argentina sử dụng trung bình 1 triệu lít thuốc diệt cỏ mỗi năm. Vào năm 2005, chúng tôi dùng tới 150 triệu tấn. Monsanto không phủ nhận vấn đề kháng thuốc diệt cỏ và thông báo về một loại thuốc diệt cỏ mới, mạnh hơn với thế hệ GMO mới, nhưng đó không phải là cách thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này.”

Phí tổn đối với nhà sản xuất là rất lớn. Đã qua rồi cái thời, để kích cầu, Monsanto giảm giá tới 2/3 cho thuốc diệt cỏ của họ. Giá cả nhanh chóng trở lại bình thường, khiến cho các nhà sản xuất quay sang các loại thuốc diệt cỏ phổ thông (chủ yếu là Trung Quốc) ngay khi bản quyền của công ty hết hạn vào năm 2000. Nhưng cùng lúc đó thì một vấn đề mới nổi lên dẫn đến các khoản chi phí gia tăng khác: đó là “đậu nành nổi loạn” ở Argentina (“các tình nguyện viên” ở Canada), cho thấy rằng ở Nam cũng như Bắc Mỹ thì cùng một nguyên nhân dẫn đến cùng một kết quả. Như ở Hoa Kỳ, Syngenta, đối thủ cạnh tranh người Thụy Sĩ của Monsanto, nhà chế tạo Atrazine và Paraquat, đã nắm lấy cơ hội: vào năm 2003, một trong những quảng cáo chủ chốt của họ tuyên bố, “Đậu nành là cỏ dại.”

Thêm vào đó, sử dụng tập trung Roundup có khuynh hướng làm đất đai cằn cỗi. “Tôi thường xuyên phải sử dụng khối lượng phân bón tăng lên, Bello thừa nhận. “Nếu không mùa màng sẽ thất bại.” Khó có thể kỳ vọng rằng thuốc diệt cỏ tiêu diệt mọi loại thực vật lại có thể bảo vệ hệ vi thực vật cần thiết cho sự màu mỡ của đất canh tác. Theo Pengua, “Sự biến mất của những vi khuẩn nhất định khiến đất đai bị trơ lỳ, ngăn cản quá trình phân rã và thu hút ốc sên không vỏ và nấm như fusarium.”

Trên hết, vào năm 2004 giá đậu nành bắt đầu giảm, tiếp tục cho đến năm 2005, tới mức khiến cho các nhà sản xuất như Bello và Barchetta lo lắng.*** “Chúng ta đang làm gì vậy?” Barchetta hỏi, đôi mắt của ông nhìn đăm đăm về phía thửa đất đang thu hoạch. “Trước kia, tôi canh tác 15 loại cây thực phẩm khác nhau; giờ tôi chỉ trồng đậu nành biến đổi gien. Có thể chúng tôi đã rơi vào bẫy. Có thể chúng tôi đang hy sinh Đất và tương lai của con cái.”

Thảm họa sức khỏe cộng đồng

Bác sĩ Darío Gianfelici bực bội khi lái xe dọc theo con đường: “Hãy nhìn này! Ngay cả các rãnh bên đường họ cũng trồng đậu nành. Khi họ phun thuốc diệt cỏ, anh cũng hoàn toàn chìm trong thuốc. Cơ quan sức khỏe công cộng của đất nước này hoàn toàn vô trách nhiệm.” Khi tôi gặp ông vào tháng 4 năm 2005, Gianfelici là bác sĩ ở Cerrito, một thành phố nhỏ với 5.000 dân cách  Paraná ba mươi dặm đường, ở tỉnh  Entre Ríos, ngay trung tâm của vương quốc đậu nành. Ở khu vực đã từng được chú ý về sự đa dạng nông nghiệp của pampas, diện tích canh tác đậu nành tăng từ 0,6 triệu ha vào năm 2000 lên gần 1,2 triệu ha ba năm sau đó. Trong cùng thời gian ấy, diện tích canh tác lúa giảm từ 148.000 ha xuống 51.200 ha.8 Ít nhất là hai lần một năm, máy bay phun thuốc hoặc mosquistos (thiết bị nông nghiệp được kéo bằng máy kéo để phun thuốc diệt cỏ với những cánh tay cơ khi dài có hình dạng như những chiếc cánh) dìm ngập khu vực với Roundup, thường xuyên đến tận cửa nhà, do đậu nành RR đã xâm chiếm toàn bộ khu vực.

“Điều đó giống như cơn sốt, một dạng bệnh dịch,” Gianfelici nói, đề cập tới món xúc xích cay chorizo, các bể chứa nước sốt cay nằm dọc theo vệ đường bởi vì chả còn chỗ nào để chứa khối lượng đỗ tương khổng lồ ấy. Bác sĩ trở thành nhà hoạt động chống GMO không phải xuất phát từ lý tưởng mà do ông lo lắng về sự tiến triển của các loại bệnh tật mà ông bắt gặp trong hoạt động chữa bệnh. “Tôi không biết là công nghệ sinh học nguy hiểm với sức khỏe cộng đồng hay không, nhưng tôi lên án sự tàn phá sức khỏe do phun thuốc Roundup với quy mô lớn gây ra, cũng như việc sử dụng quá mức đậu nành RR.” Ông đề cập tới sự độc hại của thuốc diệt cỏ và nhất là chất hoạt động bề mặt, chất này giúp cho thuốc diệt cỏ thấm vào thực vật, như polyethoxylated tallowamine. Ở Argentina, hiều hơn bất cứ nơi nào khác, quảng cáo của Monsanto đảm bảo rằng Roundup là “phân hủy sinh học” và “tốt cho môi trường” khiến cho mọi người không phòng ngừa khi phun thuốc, có nghĩa là chất đó lây nhiễm toàn bộ môi trường: không khí, đất canh tác và nguồn nước. Trong khi đó đại diện của nhà nước, Miguel Campos khẳng định một cách hoàn toàn hài lòng rằng “Roundup là loại thuốc diệt cỏ ít độc nhất”. Gianfelice nói rõ: “Một số đồng nghiệp trong khu vực và tôi đã quan sát thấy sự gia tăng đáng kể trong việc tái sản xuất ra các biến dị như sảy thai và chết bào thai đẻ non; rối loạn chức năng tuyến giáp, hệ thống hô hấp – như sưng phổi – thận và hệ thống nội tiết; các bệnh gan và da; nhiều vấn đề về mắt. Chúng tôi cũng lo ngại về tác động Roundup có thể gây ra khi thâm nhập vào cơ thể người ăn đậu nành, bởi vì chúng tôi biết một số chất hoạt động bề mặt gây rối loạn nội tiết. Chúng tôi đã quan sát thấy một số lượng đáng kể chứng hở tinh hoàn và hở niệu đạo **** ở bé trai, rối loạn chức năng hormone ở bé gái, một số có kinh nguyệt khi ba tuổi.

Chỉ có một số ít người như Gianfelici không ngại ngần lên tiếng chống lại các tác động phá hoại của chính sách đậu nành. Dĩ nhiên là các tổ chức như Greenpeace và các nhà sinh thái học cực đoan của tổ chức Grupo de Reflexión Rural đã lên án việc thương mại hóa GMO và chỉ ra những nguy cơ của công nghệ sinh học, nhưng họ chỉ nói với cái đầu gối. “Cùng với khủng hoàng, có hàng ngàn vấn đề khác,” theo Horacio Verbitsky, nhà báo của tờ nhật báo cánh tả Página 12, ông đã viết rất nhiều bài báo về đậu nành biến đổi gien. “Tôi thừa nhận rằng thậm chí tôi chẳng biết gì về chúng.” Điều ngạc nhiên là chương trình Soja Solidaria đã dẫn đến những cảnh báo hợp pháp đầu tiên – không phải là về GMO và là về nguy cơ đối với những đứa trẻ ăn quá nhiều sản phẩm từ đậu nành. Ví dụ vào năm 2002, Cosejo Nacional de Coordinación de Políticas Sociales tổ chức một diễn đàn về chủ đề có đề cập tới việc “sữa đậu nành không nên được gọi là “sữa” và nó không bao giờ có thể thay thế sữa.” Các chuyên gia về sức khỏe đã chỉ ra rằng đậu nành có ít calcium hơn sữa bò và sự tập trung cao độ của acid phytic ngăn sự hấp thụ kim loại như sắt và kẽm của cơ thể, gia tăng nguy cơ của bệnh thiếu máu.***** Trên hết, họ cực lực lên án việc cho trẻ em dưới 5 tuổi ăn các sản phẩm từ đậu nành, vì một lý do đơn giản: đậu nành rất giàu isflavone, có tác động như hormone thay thế đối với phụ nữ tiền mãn kinh và do vậy có thể gây ra sự mất cân bằng hormone đáng kể ở cơ thể đang lớn. ††

“Chúng tôi đang gieo trồng hạt giống của thảm họa sức khỏe cộng đồng,” theo Gianfelici, “nhưng đáng tiếc là nhà cầm quyền không chịu thừa nhận và bất cứ ai dám nói về điều đó cũng bị coi là một người điên rồ chống lại phúc lợi của quốc gia.”

Vào ngày đó, bác sĩ có cuộc hẹn ở trường học Thiên Chúa Giáo của một nữ tu người Đức. Tòa nhà kiểu thuộc địa nổi bật nằm giữa những thảm đậu nành khổng lồ. Nữ tu hiệu trưởng nói, “Tuần trước, họ phun Roundup ngay trước khi trời mưa. Sau đó ánh nắng làm bốc hơi. Nhiều học sinh bắt đầu nôn mửa và kêu đau đầu.” Bà yêu cầu cơ quan y tế tỉnh điều tra và họ xác định đó là một loại “virus”. “Họ đã phân tích nước nhưng không tìm thấy gì.”

“Họ có xem xét khả năng nhiễm độc do các sản phẩm hóa chất không?” bác sĩ hỏi.

“Không,” Angela, một giáo viên, trả lời. “Khi chúng tôi nhắc tới giả thuyết đó, họ phủ nhận ngay lập tức.”

Angela biết bà nói về chuyện gì. Bà sống trong một căn nhỏ có cánh đồng đậu nành bao quanh. Mỗi khi họ phun thuốc, bà bị đau nửa đầu dữ dội, buồn nôn, ngứa mắt và đau khớp. “Tôi đã nói với các kỹ thuật viên,” bà nói. “Điều duy nhất mà tôi được nhận lại là họ cảnh báo tôi khi chuẩn bị phun thuốc diệt cỏ và tôi rời khỏi nhà, cùng với gia đình, trong hai ngày. Họ đề nghị tôi bán căn nhà, nhưng tôi sẽ đi đâu? Đậu nành đáng giá hơn cuộc sống của chúng tôi.”


Đập đầu người khác vào tường

Khi tôi thấy cách Campos nổi nóng về câu hỏi liên quan đến các tác động đối với sức khỏe và môi trường của Roundup, tôi hiểu rằng đó không phải là đối tượng được chính quyền ưu tiên. “Một câu hỏi vinh dự của một phóng viên Châu Âu,” ông nói dứt khoát. “Mức độ sử dụng thuốc diệt cỏ của chúng tôi thấp hơn Pháp. Chúng tôi là quốc gia ít ô nhiễm nhất thế giới.”

Bộ trưởng bộ nông nghiệp rõ ràng là đã không đọc các tờ tạp chí của nước mình. Ví dụ, khi xem chúng, bạn sẽ thấy một thẩm phán mở cuộc điều tra ở Rosario, sau khi một cặp vợ chồng có nhà nằm ở giữa cánh đồng đậu nành khiếu nại. Con trai của họ sinh ra không có ngón chân ở bàn chân trái và nhiều vấn đề về tinh hoàn và thận.9 Tương tự, ở Córdoba, các bà mẹ trong khu dân cư Ituzaingó tổ chức biểu tình cộng đồng ngăn cản việc phun thuốc trên cách cánh đồng quanh đó, sau khi họ nhận thấy tỷ lệ bệnh ung thư bất thường, đặc biệt là ở trẻ em và thiếu nữ. Sự kiện gây ra một vài xáo trộn ở nghị viện trước khi mất hút trong hệ thống tư pháp hỗn độn. “Mọi thứ luôn như vậy,” nhà nông học Luis Castellán làm việc cho tổ chức phát triển nông nghiệp ở Formosa, miền bắc Argentina nói. “Bất cứ khi nào có vấn đề môi trường nghiêm trọng, anh không thể tìm được một chuyên gia nào sẵn sàng chống lại sự vận động hùng mạnh của đậu nành.” Castellán hiểu điều mà ông nói: vào tháng 2 năm 2003, các nông dân ở vùng nông thôn Colonia Loma Senés của tỉnh Formosa gần biên giới với Paraguay đã liên lạc với ông. Họ đã tìm kiếm vô vọng một chuyên gia để chứng nhận những thiệt hại mà việc phun thuốc Roundup và 2,4-D trên thửa ruộng rộng 30 ha bị “đậu nành nổi loạn” xâm thực đã gây ra cho cây lương thực của họ. Họ có một người hàng xóm sống ở Paraná, người này cho một công ty ở tỉnh Salta thuê đất, công ty này lại thuê một công ty khác để gieo hạt và phun thuốc.

Hoan nghênh đến với vương quốc của GMO! “Kỹ thuật viên” – thường là lao động công nhật không có đồ bảo hộ, tự đầu độc bản thân vì đồng lương chết đói – đến vào một sáng thứ bảy và phun thuốc cho tới sáng chủ nhật. “Hôm đó rất nóng và có gió mạnh trong vùng,” nông dân Felipe Franco canh tác 10 ha nhớ lại. “Thuốc diệt cỏ bay hơi rất nhanh và bị cuốn đi khoảng 365 m.” Hai mươi ba gia đình đang sống trong các căn nhà bằng gạch xỉ bị nhiễm độc. “Khi tôi tới đó, mắt của họ đỏ và họ có các vết lớn trên mặt và thân trên. Nhiều người bị đau đầu dữ dội và buồn nôn, phàn nàn về phát nhiệt và khô cổ.” Một số người không bao giờ khỏi, một bà già đã được chăm sóc 8 tháng ở Buenos Aires và vẫn phàn nàn về sự đau khớp và xương không thể chịu nổi. Khu dân cư yêu cầu cơ quan y tế tỉnh viết báo cáo, nhưng họ kết luận vệ sinh kém là nguyên nhân của mọi vấn đề. Các gia đình đưa đơn kiện ở tòa án El Colorado, nhưng vụ kiện bị từ chối vì không có báo cáo sức khỏe. Chỉ có Castellán đồng ý chuẩn bị một mô tả khoa học về những thiệt hại đối với cây trồng.

“Chúng tôi mất tất cả,” Franco nói. “Sắn, khoai lang, bông đều bị tàn phá. Gà và vịt chết; một số lợn nái bị sảy thai còn một số khác đẻ ra lợn con gầy nhẳng. Vào ngày phun thuốc, ngựa kéo cày bị tiêu chảy và ngã ra sàn; một số bị chết.”

Castellán chụp ảnh và lấy mẫu các cây trồng bị ảnh hưởng, ông đem chúng đi phân tích ở phòng thí nghiệm của trường đại học Littoral ở Santa Fé. “Tôi suy nghĩ rất nhiều trước khi tham gia vào việc này, bởi vì tôi biết là sẽ phải gánh rủi ro.” Ông thú nhận.

“Tất cả các nhà nông học của Bộ Kinh Tế và Sản Xuất đều từ chối, chúng tôi phải đối mặt với cảnh sát và các chính khách muốn chúng tôi im lặng. Một số người hàng xóm đã bỏ cuộc và chuyển tới các khu ổ chuột ở Formosa.” Franco xác nhận.

“Monsanton nói rằng đậu nành biến đổi gien có thể cùng tồn tại với cây lương thực. Ông nghĩ sao?” Tôi hỏi

“Điều đó là không thể, nhất là ở những khu vực như thế này, nơi những nhà sản xuất nhỏ bị các cánh đồng GMO lớn bao quanh. Nếu có điều gì đó tương tự xảy ra một lần nữa, tôi không biết bao còn bao nhiêu nhà sản xuất nhỏ sẽ tiếp tục ở lại.”

Franco tiếp tục: “Vấn đề cũng là mục đích của mô hình sản xuất này. Những người trồng đậu nành biến đổi gien chỉ có mục đích thương mại thuần túy; họ không sống ở nơi họ canh tác, do vậy họ không phải gánh chịu các thiệt hại liên đới. Còn chúng tôi sản xuất để sống. Chúng tôi chú ý tới môi trường và chất lượng của những gì sản xuất ra, bởi vì chúng tôi tiêu dùng chúng hoặc bán ở chợ. Công nghệ biến đổi gien không phục vụ cho nông dân mà là cho các doanh nghiệp kinh doanh, chủ của chúng sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để trở nên giàu có.”

Trục xuất và phá rừng

Mili là một xã nông thôn nhỏ có 98 hộ gia đình sống trong khu vực bán khô hạn rộng 6.800 ha cách Santiago del Estero thuộc miền bắc Argentina 35 dặm. Anh đi đến đó bằng con đường đất đỏ đầy ổ gà, xuyên qua những đồng cỏ đuôi chồn, đây đó xuất hiện một số cây quebrachos, loại cây gỗ quý có nguy cơ tuyệt chủng. Phong cảnh đặc trưng của vùng Gran Chao, trải dài tới tận biên giới Bolivian.

“Ở đây, chúng đơn giản được gọi là el monte,” luật sư Luis Santucho của tổ chức nông dân Mocase nói, đó là khi tôi gặp ông vào tháng 4 năm 2005. “Trước khi GMO xuất hiện, chả ai thèm quan tâm đến vùng đất khốn khổ này, hàng ngàn nông dân nhỏ đã sống kiểu tự cấp tự túc trong vài thế hệ.” Santucho háo hức được gặp lãnh đạo của xã Milli, sự tồn tại của xã đang bị các nhà sản xuất đậu nành đe dọa, họ thường xuyên mở rộng phạm vi canh tác về phía bắc. Một năm trước chuyến viếng thăm, quan tòa địa phương đã xuất hiện với quân lính và máy ủi. “Đây là đất công, không có chứng nhận sở hữu, nhưng với tiền của đậu nành thì mọi mưu mẹo đều có thể.” Santucho giải thích. Các Sojeros đã thay đổi chiến thuật. Họ cố gắng chia rẽ cộng đồng bằng cách trả tiền mặt cho 10 ha của một số gia đình, những người đó do dự vì họ chưa từng thấy nhiều tiền như vậy.

“Điều này dẫn đến rất nhiều rắc rối, nhưng chúng tôi không chấp nhận, bởi vì đây là đất công, nó không thuộc về riêng bất cứ ai. Chúng tôi sẽ đi đâu? Cuộc sống ở đây thật sự vất vả, nhưng chúng tôi đủ ăn hàng ngày.” Gà, vịt và một gia đình lợn đen đang chạy quanh khoảnh sân đất nện. Đằng sau túp lều nhỏ gần rãnh nước là một con bò cái và một con ngựa đang ăn cỏ. Tất cả các gia đình đều trồng sắn, khoai tây và một khoảng nhỏ gạo hay ngô. “El monte là cách sống, nhưng sự đa dạng sinh vật và thực vật của nó đang bị đe dọa.” 

Tỉnh Santiago del Estero có đặc trưng đáng buồn là tỉnh có tỷ lệ phá rừng cao nhất thế giới. Mỗi năm trung bình có 0,81% rừng rậm bị đốn hạ, so với tỷ lệ trung bình thế giới là 0,23%. Ví dụ, từ năm 1998 đến 2002, 216.000 ha rừng đã biến thành khói và được thay thế bằng đậu nành RR.****** Từ năm 1998 đến 2004, gần 800.000 ha đã bị đốn hạ ở Argentina,” giám đốc phụ trách rừng của Bộ Môi Trường và Phát Triển Bền Vững Jorge Menéndez giải thích. “Tình hình đáng lo ngại đến mức tôi không ngủ được. Tất cả bosques natives [rừng nguyên sinh] đều bị đe dọa: chúng là các khu rừng rậm đa dạng sinh thái với hệ động thực vật có từ trước khi Châu Mỹ được phát hiện. Một số loài động vật như báo, báo đốm Mỹ, mèo Andes và heo vòi, không thể sống ngoài hệ sinh thái đặc biệt này. Nếu chúng ta không kiểm soát việc canh tác đậu nành, thiệt hại sẽ không thể sửa chữa được.”

“Chức năng của bộ có phải là xây dựng các luật lệ không?”

“Đúng, nhưng chúng tôi không có nhiều trọng lượng.”

Để thấy được quy mô của thảm họa, mọi người chỉ cần đi dọc theo con đường quốc lộ số 16 theo hướng Salta hoặc Chaco. Các thân cây thường được chất đống bên lề đường. Đôi khi khói đen bốc lên tiết lộ hoạt động của carboneros, hay những người đốt than, thường là các nông dân nhỏ đã bỏ đất đai và đáng bán sức lao động để kiếm sống.

Hoàn toàn cay đắng: bị sự hung bạo dồn đuổi, họ phải giảm đi để nuôi dưỡng chúng. Một lính canh kiểm soát lối vào khu vực. Tôi thuyết phục và anh ta cho tôi vào. Bốn bánh xe đi dọc theo con đường hoang vắng. Chạy dài hết tầm mắt là những bụi cây câm lặng, những thân cây sứt sẹo và các bụi rậm bị moi ruột. “Máy ủi,” Guido Lorenz thì thầm. Lorenz là nhà địa lý học người Đức của trường đại học Santiago del Estero. Cùng với Pedro Colonel, kỹ sư lâm nghiệp, ông thường xuyên đi quanh khu vực để đo lường phạm vi của tai họa. Chúng tôi tiến lại gần các lò đốt than. Những người đàn ông ám bồ hóng đang dỡ xe gỗ. Đâu đó có âm thanh của điệu tango. Ông trưởng nhóm giải thích rằng ông bị mất việc và tìm được công việc này, kéo dài ít nhất hai năm. Đó là dọn sạch khu đất 1.600 ha thuộc về con trai thống đốc của tỉnh Tucumán lân cận. Bản thân vị thống đốc đó cũng sở hữu hàng ngàn ha khác không xa đây. “Chúng tôi đốn hạ, đốt, sau đó trồng đậu nành,” người đàn ông nói.

Chúng tôi đi tiếp. Lorenz và Colonel đã nghe thấy tin đồn về một chiến dịch phá rừng bất hợp pháp rất lớn cách đấy một trăm dặm. Chuyện đó liên quan đến khu đất rộng 24.000 ha mà một nhà đầu tư mới giành được. Trên giấy tờ, luật pháp Argentina rất chặt chẽ: để có thể đốn hạ cây, chủ sở hữu phải xin giấy phép về tỷ lệ rừng được đốn hạ, phụ thuộc vào kiểu đất canh tác. Trong khu vực được xếp hạng “dễ tổn thương” này, con số có thể không quá 15%. “Nhưng một lần nữa, tiền của đậu nành đã dàn xếp mọi chuyện.” Colonel nói. Tham nhũng và thiếu trừng phạt đã để cho các máy ủi tự do san phẳng mọi thứ đến hết tầm mắt.

“Họ nói đang mở rộng nông nghiệp nhưng họ thực sự để lại phía sau một sa mạc,” Colonel tiếp tục. “Họ trồng đậu nành trong một hay hai năm, sau đó họ sẽ buộc phải bỏ đi. Sự màu mỡ của đất canh tác gắn liền với thực vật một ngàn năm tuổi; khi chúng biến mất, đất canh tác sẽ sớm bị thoái hóa.”

“Đây là môi trường dễ tổn thương, bởi vì chúng ta đang ở khu vực khí hậu khô hạn hoặc bán khô hạn,” Lorenz giải thích. “Việc phá rừng dẫn đến suy giảm dự trữ các tổ chức hữu cơ, khiến đất canh tác bị thoái hóa, do chúng mất khả năng giữ nước. Ở mức độ của toàn bộ hệ tuần hoàn nước, nước từ kênh mương gây ra ngập lụt ở các khu vực khác. Phá rừng là nguồn gốc của nước lụt bất thường mà chúng ta được chứng kiến gần đây ở tỉnh Santa Fé. Thêm vào đó, với kỹ thuật gieo trực tiếp, Roundup tồn lại trên bề mặt; khi mưa xuống, thuốc diệt cỏ tồn dư được dòng nước đưa đi xa và gây ô nhiễm ở các khu vực khác trong hệ tuần hoàn nước. Nước khiến các động vật có vú bị nhiễm độc khi uống và do vậy nhiễm vào sữa bò.”

“Bất hạnh thay, đó không chỉ là vấn đề sojeros,” Colonel nói. “Họ là các doanh nghiệp hoặc thương nhân lớn đến từ Santa Fé hay Córdoba và coi đậu nành như nguyên liệu thô. Một nhà thầu phụ gửi người với máy gieo trồng đến, một nhà thầu phụ khác gửi người với máy bay phun thuốc đến, và nhà thầu thứ ba đến cùng với máy liên hợp để thu hoạch đậu và mang chúng đi. Họ không sử dụng lao động địa phương, ngoại trừ khi họ đốn hạ cây.”

“Chúng tôi thật sự đang ở trong tình trạng khẩn cấp, nhưng không một quan chức nào hiểu điều đó,” Lorenz kết luận. “Điều này rất nghiêm trọng, bởi vì thiệt hại là không thể bù đắp được.”

Chú thích:

*Người ủng hộ GMO quan trọng nhất ở Argentina là Héctor Huergo, biên tập viên phụ san Clarín Rural.

**Cần phải nhắc lại rằng 2,4-D là thành phần của chất độc màu da cam; theo lý thuyết là bị cấm ở Liên Minh Châu Âu và Hoa Kỳ vào năm 2003. Atrazine bị cấm ở Liên Minh Châu Âu vào năm 2003. Còn Paraquat, cũng giống như Roundup, một trong những loại thuốc diệt cỏ phổ biến nhất thế giới, bị cấm ở Liên Minh Châu Âu vào ngày 10 tháng 7 năm 2007.

Chúng là Parietaria debilis, Petunia axilaris, Verbena litoralis, Verbena bonariensis, Hybanthus parviiflorus, Iresine diffusa, Commelina erecta, and Ipomoea sp.

***Sau khi đạt mức 230 dollar/tấn vào năm 2003, giá giảm xuống 200 dollar/tấn vào năm 2004, sau đó là 150 dollar/tấn vào giữa năm 2005. Nhưng vào năm 2006, có sự hồi phục ngoạn mục, đạt tới đỉnh cao vào năm 2007, chủ yếu là để chế tạo nhiên liệu sinh học.

****Cryptorchism là dị tật bẩm sinh như tinh hoàn hở; hypospadias là dị dạng niệu đạo (nó không dài tới đỉnh dương vật).

*****Phytates là hỗn hợp phốt pho liên kết với một số kim loại cụ thể, ví dụ như sắt, ngăn cản ruột hấp thụ chúng.

†† Thường được gọi là “phyto-estrogens,” isoflavones tương tự như estrogen của nữ giới.

******Trong cùng thời kỳ, 116.000 ha rừng ở tỉnh lân cận Chaco và 168.000 ha rừng khác ở tỉnh Salta đã bị đốn hạ.

1.    Ámbito financiero, Sec. Ámbito agropecuario, August 11, 2000, 4–5.
2.     La Nación, July 23, 2000.
3.     See Walter Pengue, Cultivos trnasgénicos: Hacia dónde vamos? (Buenos Aires: Lugar Editorial, 2000).
4.     Revista Gente, January 29, 2002.
5.     Ibid.          
6.     Clarín, January 11, 2003.
7.     www.sojasolidaria.org.ar (no longer accessible).
8.     La Nación, February 14, 2003.
9.     La Capital, March 25, 2005.