Wednesday, November 5, 2014

Những cảnh báo mới về chiến tranh ở Châu Á

Nếu chiến tranh nổ ra giữa Nhật Bản và Trung Quốc về vấn đề quần đảo Sensaku/Điếu Ngư thì đồng minh của Hoa Kỳ là Australia có tham gia không? Để trả lời câu hỏi đó, xin mời bạn đọc blog tham khảo bản dịch bài viết "New warnings of war in Asia" của tác giả Peter Symonds.

Những cảnh báo mới về chiến tranh ở Châu Á

Trong khi truyền thông hướng sự chú ý vào cuộc chiến tranh mới do Hoa Kỳ lãnh đạo ở Trung Đông, cũng như sự đối đầu của Washington với Nga về Ukraina, chính sách “chuyển trục sang châu Á” của Hoa Kỳ nhằm chống lại Trung Quốc tiếp tục khoét sâu những căng thẳng ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. 

Một bản báo cáo đáng chú ý được phát hành vào thứ hai có tiêu đề “Xung đột ở biển Đông Trung Hoa: Liệu ANZUS có được áp dụng?” chỉ rõ những nguy cơ mà đất nước có thể tạo ra trong một cuộc chiến tranh về quần đảo tranh chấp Senskuku/Điếu Ngư, gài bẫy Trung Quốc đối đầu với Nhật Bản, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ. ANZUS liên hệ tới hiệp ước an ninh được ký năm 1951 giữa Australia, New Zeeland và Hoa Kỳ trong nguy cơ một cuộc chiến tranh Thái Bình Dương với Nhật Bản.

Bản báo cáo phản ánh sự bất đồng đang diễn ra trong bộ máy chính trị và chiến lược của Australia về sự thông thái của việc ủng hộ một cách nhất quán chính sách “chuyển trục” của Hoa Kỳ. Chi phí kinh tế đối với tư bản Australia đã được nhấn mạnh vào cuối tháng trước khi chính quyền Obama, với lý do an ninh, đã ép buộc chính quyền của thủ tướng Tony Abbott phải đảo ngược bất chấp nguyên tắc quyết định của chính phủ về việc gia nhập ngân hàng cơ sở hạ tầng mới do Trung Quốc hậu thuẫn.

Bản báo cáo hướng sự chú ý vào các nguy cơ chiến tranh thật sự và tức thời bằng các kịch bản chi tiết có thể châm ngòi xung đột ở biển Đông Trung Hoa: một vụ đụng độ giữa máy bay Trung Quốc và Nhật Bản, một vụ va chạm giữa tàu ngầm Trung Quốc và chiến hạm Hoa Kỳ, một vụ đối đầu giữa cảnh sát biển Nhật Bản và tàu du lịch Trung Quốc. Trong mỗi kịch bản, các sự kiện nhanh chóng vượt ra ngoài tầm kiểm soát và đặt ra vấn đề chính quyền Australia phải tham gia vào cuộc chiến tranh chống lại Trung Quốc.

Khi bản báo cáo được phát hành, một trong số các tác giả của nó, giáo sư Nick Bisley của La Trobe Asia tuyên bố: “Chúng [xung đột] là những điều mà chúng tôi thấy rằng rất hợp lý. Đây không phải là nguy cơ tưởng tượng.” Như bản báo cáo đã viết, quân đội Nhật Bản đã cho chiến đấu cơ phản lực đột ngột cất cánh hơn 230 lần trong nửa đầu năm nay để trả đũa việc các vụ việc bị coi là Trung Quốc xâm nhập không phận của họ. 

Báo cáo trích dẫn các bình luận của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng David Johnston vào tháng 6, nói rằng ông ta không tin rằng Hiệp Ước ANZUS sẽ buộc Australia sát cánh cùng Hoa Kỳ trong một cuộc chiến giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Những Bisley và đồng tác giả là giáo sư Brendon Taylor từ Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Phòng của trường Đại Học Quốc Gia Australia (ANU) đã chỉ ra vào ngày hôm qua trên tờ Australian rằng chính quyền có rất ít sự chọn lựa.

“Canberra đã buộc phải đóng góp quân sự mỗi khi Hoa Kỳ yêu cầu hỗ trợ. Hãy quên sự hợp pháp của hiệp ước liên minh mập mờ [ANZUS] được ký giữa Australia và Hoa Kỳ vào năm 1951 đi. Nếu xung đột nổ ra theo cách mà Washington kỳ vọng Australia sẽ tham gia thì đứng ngoài chiến tuyến không phải là một lựa chọn,” họ viết. 

Bisley và Taylor cũng cảnh báo rằng chính quyền sẽ đối mặt với sức ép phải tham gia vào cuộc chiến tranh với Trung Quốc từ Nhật Bản. “Trong khi cả hai phe chính trị từ lâu đã ủng hộ mối ràng buộc an ninh sâu sắc với Tokyo, điều này sẽ trở thành quyết định đối với chính quyền Abbott. Mối liên hệ Canberra-Tokyo được tầng lớp thượng lưu chính trị xác định, cả ở trong và ở quanh chính quyền Nhật Bản, gần như là đồng minh chính thức. 

Viết vào ngày hôm qua trên tờ Sydney Morning Herald, cựu ngoại trưởng Australia Bob Carr, người đã đóng góp vào bản báo cáo, cảnh báo phải chống lại bất cứ liên minh nào với Nhật Bản. “Chúng ta có thiện cảm với Nhật Bản và giá trị của họ, nhưng cần dè dặt về những quan điểm chủ nghĩa quốc gia trong chính sách của họ. Chúng ta không phải là đồng minh.” Carr tuyên bố.

Carr khuyến nghị: “Với ngoại giao khéo léo, Australia nên để Hoa Kỳ hiểu rằng lao vào cuộc chiến tranh với đối tác thương mại chủ chốt không phải là lợi ích của chúng ta, nếu có bùng nổ xung đột về những quần đảo không người ở, mà trong một thế giới lý tưởng sẽ là một phần của khu bảo tồn biển quốc gia.” Trong một cú đâm lén Tokyo sắc lẻm, ông ta nói các quần đảo tranh chấp đã ngủ yên “trong sự thờ ơ dễ chịu… cho đến khi Nhật Bản đơn phương thay đổi hiện trạng bằng cách quốc hữu hóa chúng vào năm 2012”.

Cả Carr cũng như bản báo cáo đều không nói thêm về “những quan điểm chủ nghĩa quốc gia” trong chính trị Nhật Bản, hay vai trò của Hoa Kỳ trong việc kích động chúng. Lập trường cứng rắng hơn của Nhật Bản về vấn đề quần đảo Sensaku xuất hiện sau vụ từ chức của thủ tướng Yukio Hatoyama vào tháng 6 năm 2010, người có khuynh hướng quan hệ gần gũi hơn với Trung Quốc nhưng bị đặt vào xung đột với chính sách “chuyển trục” đối đầu và gia tăng quân sự chống lại Trung Quốc của tổng thống Obama. 

Hatoyama đã bị buộc phải từ chức, với sự hỗ trợ của Washington, và được thay thế bới Naoto Kan, người đã áp dụng một chính sách cứng rắn hơn đối với Bắc Kinh. Vòng ngoại giao đầu tiên về quần đảo có tranh chấp diễn ra vào tháng 9 năm 2010 khi Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng tàu đánh cá Trung Quốc và đưa ông ta ra tòa. Căng thẳng leo thang dữ dội sau khi chính quyền Nhật Bản mua lại các hòn đảo từ các chủ sở hữu tư nhân vào tháng 9 năm 2012. 

Chính quyền Đảng Dân Chủ Tự Do cánh hữu của thủ tướng Shinzo Abe, giành được quyền lực vào tháng 12 năm 2012, đã áp dụng một lập trường không khoan nhượng về quần đảo Sensaku, từ chối ngay cả việc thừa nhận tranh chấp với Trung Quốc về hiện trạng của chúng. Abe đã gia tăng ngân sách quân sự, gia tốc định hướng chiến lược của quốc gia theo hướng “phòng thủ đảo”, thiết lập Ủy Ban An Ninh Quốc Gia theo kiểu Hoa Kỳ và tìm cách khôi phục các truyền thống quân sự Nhật Bản – tất cả đều làm gia tăng sự thù địch giữa hai quốc gia. Trong chuyến viếng thăm Tokyo vào tháng 4, Obama đã đổ thêm dầu vào lửa bằng cách tuyên bố rằng các quần đảo có tranh chấp được Hiệp Ước An Ninh Nhật Bản-Hoa Kỳ che chở.

Tại buổi công bố báo cáo vào thứ hai, giáo sư Taylor tuyên bố: “Đối với tôi sự quan ngại sâu sắc là ít hơn đối với mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Australia và nhiều hơn, theo một số cách nào đó, về sự gia tăng đáng báo động quan hệ Australia-Nhật Bản trong 12 tháng qua”. Kể từ khi nhậm chức cách đây một năm, thủ tướng Abbott đã tiến tới mối quan hệ an ninh gần gũi hơn với chính quyền Abe, mô tả Nhật Bản như là “người bạn tốt nhất ở Châu Á” của Australia. Chính quyền Abbott đã ký một thỏa thuận công nghệ quốc phòng với Nhật Bản năm nay và dường như là sẵn sàng để mua các tàu ngầm Nhật Bản.

Sự thể hiện công khai của những lo ngại về chiến tranh trong thiết chế chính trị Australia cho thấy mức độ sâu sắc của xung đột địa chính trị ở Châu Á, cũng như ở phần còn lại của thế giới. Sự ủng hộ của Canberra đối với “chuyển trục” được đánh giá theo cách mà nó ăn khớp với diễn biến ở Tokyo. Chỉ ít tuần sau khi Hatoyama bị buộc phải từ chức, thủ tướng Kevin Rudd đã bị lật đổ trong một cuộc đảo chính nội bộ đảng bởi một nhóm nhỏ liên minh và bộ phận nặng ký có quan hệ chặt chẽ với đại sứ quán Hoa Kỳ. Giống như Hatoyama, Rudd đã đề xuất một sự thỏa hiệp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, ngay sau khi Obama quyết định đối đầu với Bắc Kinh.

Người thay thế Rudd, Julia Gillard, đã đánh đu sau các kế hoạch của Hoa Kỳ, biến nghị viện Australia thành một sân khấu cho Obama công bố chính thức “chuyển trục” vào tháng 11 năm 2011. Kể từ đó, các phê phán đối với chính sách hiếu chiến của Washington ở Châu Á hầu như đã bị phớt lờ. Carr, người được Rudd trao vị trí bộ trưởng bộ ngoại giao vào tháng 3 năm 2012, đã vội vàng chỉ trích quyết định mở cửa các căn cứ quân sự của Australia cho quân đội Hoa Kỳ của Gillard, tuyên bố rằng Australia là một đối tác theo hiệp định của Hoa Kỳ, chứ “không phải là một tàu sân bay”. Khi tại nhiệm, Carr đè nén nỗi lo âu, nhưng đã bộc lộ, giữa những dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế và địa chính trị sâu sắc, để phục hồi những phê phán của ông ta.

Biển Đông Trung Hoa chỉ là một trong số những điểm bùng nổ ở Châu Á, như chương trình “Lateline” của tập đoàn truyền hình Australia vào thứ hai về tranh chấp lãnh thổ trên biển Nam Trung Hoa đã cho thấy rõ. Khi được hỏi về chiến tranh ở Châu Á, một phê phán khác của Hugh White, giáo sư nghiên cứu chiến lược của ANU, đã phác họa một so sánh với sự bùng nổ của thế chiến thứ nhất, ông ta nói: “Có một chút gì đó giống điều đã xảy ra năm 1914 và một loạt các tính toán sai lầm khác của cả hai bên có thể tạo ra tình huống mà tại đó cả hai bên buộc phải lao vào khủng hoảng với hy vọng là phe khác sẽ lùi bước hoặc đầu hàng và họ sẽ kết thúc trong một trận chiến mà không phe nào thực sự muốn có. Đó là kiểu khả năng mà chúng ta thật sự phải đối mặt ở Châu Á hiện nay và đó là một trong những lý do tại sao tôi nghĩ rằng Châu Á lúc này nguy hiểm hơn là đa số chúng ta thấy.” 

Hoa Kỳ là quốc gia khủng bố hàng đầu và tự hào về điều đó

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài bình luận của giáo sư Noam Chomsky, một chuyên gia hàng đầu về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, "Noam Chomsky: The Leading Terrorist State" . Bài bình luận nhấn mạnh vai trò của Hoa Kỳ trong việc tạo ra những kẻ khủng bố trên khắp thế giới. Tiêu đề do người dịch đặt.

Noam Chomsky: Quốc Gia Khủng Bố Hàng Đầu

“Tin chính thống: Hoa Kỳ là quốc gia khủng bố hàng đầu thế giới, và tự hào về điều đó.”

Đó nên là tiêu đề cho câu chuyện nổi bật trên tờ New York Time vào ngày 15 tháng 10, vốn được đặt tiêu đề rất lịch sự “Nghiên cứu về viện trợ bí mật của CIA dấy lên thái độ hoài nghi về sự trợ giúp những kẻ nổi loạn Syria.”

Bài báo đưa tin về một đánh giá của CIA đối với các chiến dịch bí mật của Hoa Kỳ nhằm xác định hiệu quả của chúng. Nhà Trắng kết luận rằng không may mắn là thành công rất hiếm hoi nên sự cân nhắc về chính sách đã được đặt ra.

Bài báo trích dẫn lời của tổng thống Barack Obam khi nói rằng ông ta đã yêu cầu CIA thực hiện đánh giá để tìm ra các trường hợp “tài trợ và cung cấp vũ khí cho sự nổi loạn ở một quốc gia hiện nay có kết quả tốt. Và họ đã không thể tìm ra”. Do đó Obama cảm thấy miễn cưỡng về việc tiếp tục những nỗ lực kiểu này.

Đoạn đầu của bài báo trên tờ Times trích dẫn ba ví dụ chính của “viện trợ bí mật”: Angola, Nicaragua và Cuba. Trên thực tế, mỗi trường hợp là một chiến dịch khủng bố trọng yếu của Hoa Kỳ.

Angola bị Nam Phi xâm lược, mà theo Washington là bảo vệ bản thân khỏi một trong những “nhóm khủng bố tàn bạo hơn” của thế giới – Đại Hội Dân Tộc Phi của Nelson Mandela. Đó là vào năm 1988.

Sau đó chính quyền Reagan dường như đã đơn độc ủng hộ chính quyền arpartheid, ngay cả khi vi phạm các biện pháp trừng phạt của Quốc Hội để gia tăng thương mại với đồng minh Nam Phi.

Khi đó Washington ủng hộ Nam Phi bằng cách cung cấp các viện trợ thiết yếu cho quân đội Unita của tên khủng bố Jonas Savimbi ở Angola. Washington tiếp tục làm việc đó ngay cả sau khi Savimbi đã bị đánh bại hoàn toàn trong một cuộc bầu cử tự do được theo dõi kỹ càng, và Nam Phi cũng đã hủy bó sự ủng hộ của họ. Savimbi là một “quái vật khát khao với quyền lực đã mang đến nghèo khổ cùng cực cho người dân của hắn”, theo lời của Marrack Goulding, đại sứ Anh ở Angola.

Hậu quả thật kinh hoàng. Một cuộc khảo sát năm 1989 của Liên Hiệp Quốc ước lượng rằng sự cướp bóc của Nam Phi đã dẫn đến cái chết của 1,5 triệu người ở quốc gia láng giềng, đó là chỉ tính riêng phần của Nam Phi. Quân đội Angola cuối cùng đã đẩy lui được những kẻ xâm lược Nam Phi và kêu gọi họ từ bỏ chiếm đóng bất hợp pháp Namibia. Hoa Kỳ đã một mình tiếp tục ủng hộ quái vật Savimbi.

Ở Cuba, sau thất bại trong cuộc xâm lược Vịnh Con Lợn năm 1961, tổng thống John F. Kenedy đã tiến hành một chiến dịch giết chóc và phá hủy để mang “sự kinh hoàng của trái đất” đến Cuba – theo lời một cộng sự thân tín của Kenedy, sử gia Arthur Shlesinger, trong tiểu sử bán chính thức của Robert Kennedy, người được gán trách nhiệm về cuộc chiến tranh khủng bố.

Sự tàn ác đối với Cuba là rất kinh khủng. Các kế hoạch khủng bố lên đến cực điểm trong cuộc nổi dậy vào tháng 10 năm 1962, dẫn đến cuộc xâm lược của Hoa Kỳ. Hiện nay, giới học giả thừa nhận rằng đó là lý do khiến thủ tướng Nga Nikita Khrushchev đặt tên lửa ở Cuba, khởi đầu cho cuộc khủng hoảng đến gần chiến tranh hạt nhân. Bộ trưởng Quốc Phòng Robert McNamara sau đó đã thừa nhận rằng nếu ông ta là lãnh đạo Cuba thì ông ta “sẽ tiên lượng một cuộc xâm lược của Hoa Kỳ” 

Cuộc tấn công khủng bố của Hoa Kỳ vào Cuba tiếp diễn hơn 30 năm. Chi phí mà Cuba phải gánh chịu dĩ nhiên là khắc nghiệt. Số lượng nạn nhân, hiếm khi được nghe thấy ở Hoa Kỳ, được báo cáo chi tiết lần đầu tiên trong một nghiên cứu của học giả Canada Keith Bolender vào năm 2010, “Tiếng nói từ phía khác: Một lịch sử truyền miệng về chủ nghĩa khủng bố chống Cuba”.

Thiệt hại trong cuộc chiến tranh khủng bố kéo dài được khuếch đại bởi lệnh cấm vận chí mạng, thứ vẫn tiếp tục thách thức cả thế giới cho đến ngày nay. Vào ngày 28 tháng 10, Liên Hiệp Quốc lần thứ 23 xác nhận “sự cần thiết phải chấm dứt các cấm vận kinh tế, thương mại, tài chính do Hoa Kỳ áp đặt đối với Cuba”. Kết quả bỏ phiếu là 188 thuận và 2 chống (Hoa Kỳ, Israel), với ba đảo quốc độc lập ở Thái Bình Dương thuộc Hoa Kỳ bỏ phiếu trắng.

Hiện nay, một số phản đối lệnh cấm vận đã lên cao ở Hoa Kỳ, ABC News đưa tin, bởi vì “đã từ lâu không còn cần thiết” (trích dẫn cuốn sách mới của Hillary Clinton “Những sự lựa chọn khó khăn”). Học giả người Pháp Salim Lamrani đánh giá chi phí cay đắng của người Cuba trong cuốn sách của ông ta vào năm 2013 “Cuộc chiến kinh tế chống Cuba”.

Nicaragua khó có thể không đề cập. Cuộc chiến tranh khủng bố của tổng thống Ronald Reagan đã bị Tòa Án Quốc Tế lên án, họ yêu cầu Hoa Kỳ ngừng “sử dụng vũ lực bất hợp pháp” và bồi thường. 

Washington phản hồi bằng cách gia tăng chiến tranh và phủ quyết một nghị quyết năm 1986 của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc kêu gọi mọi quốc gia – có nghĩa là cả Hoa Kỳ - tôn trọng luật pháp quốc tế.

Một ví dụ khác về chủ nghĩa khủng bố được kỷ niệm vào ngày 16 tháng 10, lễ tưởng niệm lần thứ 25 ngày 6 mục sư dòng Jesuit ở San Salvador bị một đơn vị khủng bố của quân đội Salvador sát hại. Quân đội Salvador được Hoa Kỳ vũ trang và huấn luyện. Theo lệnh của tư lệnh cấp cao quân đội, các binh lính xông vào trường đại học dòng Jesuit để giết hại các mục sư và mọi nhân chứng – bao gồm cả gia nhân và con gái của họ.

Sự kiện này đẩy những cuộc chiến tranh khủng bố của Hoa Kỳ ở Trung Mỹ lên đến cực điểm vào những năm 1980, nhưng hậu quả thì đến nay vẫn còn xuất hiện trên trang nhất báo chí trong các bản tin về “tị nạn bất hợp pháp”, chạy trốn khi không có bất cứ cách nào thoát khỏi hậu quả của của vụ tàn sát đó, và bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ để sống sót nếu họ có thể, trong đống hoang tàn đổ nát của quê nhà. 

Washington cũng vô địch thế giới trong kiến tạo khủng bố. Cựu chuyên gia phân tích CIA Paul Pillar cảnh báo về “tác động hình thành sự oán giận của các cuộc tấn công của Hoa Kỳ” ở Syria, có thể xui khiến các tổ chức jihad Jabhat al-Nusra và Nhà Nước Hồi Giáo “hàn gắn sự chia rẽ vào năm ngoài và cùng tiến hành các chiến dịch chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ bằng coi chúng là cuộc chiến chống lại Hồi giáo”. 

Cho đến hiện giờ những hậu quả tương tự của các chiến dịch của Hoa Kỳ đã phát tán chủ nghĩa jihad từ một góc của Afghanistan sang một phần lớn thế giới.

Biểu hiện rụt rè nhất của chủ nghĩa jihad là Nhà Nước Hồi Giáo, hay ISIS, thiết lập đế chế giết chóc của họ ở những khu vực rộng lớn của Iraq và Syria. 

“Tôi nghĩ Hoa Kỳ là một trong những người kiến tạo chủ chốt của tổ chức này”, cựu chuyên viên phân tích CIA Grahm Fuller, một nhà bình luận xuất sắc về khu vực đó, cho biết. Ông ta bổ sung thêm: “Hoa Kỳ không lập kế hoạch tạo ra ISIS, nhưng sự can thiệp phá hủy của họ ở Trung Đông và cuộc chiến Iraq là nguyên nhân căn bản sinh ra ISIS”. 

Chúng ta có thể bổ sung chiến dịch khủng bố lớn nhất thế giới vào đó: Dự án ám sát toàn cầu đối với “những kẻ khủng bố” của Obama. “Tác động hình thành sự oán giận” của những cuộc tấn công bằng máy bay không người lái và lực lượng đặc nhiệm đã quá rõ để có thể bình luận thêm.

Đây là một kỷ lục cần phải lo ngại.

© 2014 Noam Chomsky
Distributed by The New York Times Syndicate

Tuesday, November 4, 2014

Ba Lan gửi quân đội đến biên giới phía đông

Nội chiến ở Ukraina ngày càng nghiêm trọng. Mới đây nhất Ba Lan đã chuyển hàng ngàn lính sang phía đông, về phía biên giới với Ukraina. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Poland to send troops to eastern border" của Sonja Bach để biết thêm chi tiết. 

Ba Lan gửi quân đến biên giới phía đông

Chính quyền Ba Lan đang chuyển hàng ngàn quân đến biên giới phía đông trong một sự tái tập hợp mang tính lịch sử của quân đội. Sự di chuyển được Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Tomasz Siemoniak công bố vào tuần trước,  sau hội nghi thượng đỉnh NATO vào tháng 9, khi khối đồng minh do Hoa Kỳ lãnh đạo quyết định gia tăng đối đầu quân sự với Nga

Cho tới hiện giờ, đại đa số trong 120,000 lính Ba Lan đã đóng quân ở nửa phía tây của quốc gia. Hiện nay, hàng ngàn lính sẽ được triển khai tới các căn cứ quân sự ở phía đông, vốn đang được hiện đại hóa và nâng cấp. Năng lực của ba căn cứ, trong đó có Trung Tâm Phòng Không Siedlce, được gia tăng từ 30 đến 90%. 

Bên cạnh đó, chính quyền đang lập kế hoạch mua sắm các trực thăng mới bà trang bị tên lửa AGM-158 không đối đất cho các chiến đấu cơ phản lực F-16. Vào tháng 3, Hoa Kỳ đã đưa 12 máy bay loại đó đến Ba Lan.

Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng nói di chuyển quân đội là cần thiết bởi sự thay đổi trong “tình hình địa chính trị”. Ông ta nói với hãng thông tấn AP rằng Ba Lan coi đó là “cuộc khủng hoảng an ninh lớn nhất kể từ Chiến Tranh Lạnh” và phải “rút ra các kết luận từ điều đó”.

Siemoniak nhắc tới các sự kiện ở Ukraina mà không đề cập rằng chính quyền Ba Lan đã can dự sâu sắc vào việc kích động cuộc khủng hoảng, vốn được NATO sử dụng để biện minh cho đối đầu quân sự với Nga.

Vào tháng hai, phong trào đối lập bài Nga do Vitali Klitschko, Arseniy Yatsenyuk và gã phát xít Oleh Tyahnybok dẫn đầu giành quyền lực ở Kiev và lật đổ tổng thống dân cử Viktor Yanukovych. Ba Lan là một trong những tác nhân chính của cuộc đảo chính, vốn được Hòa Kỳ và Đức cổ vũ cũng như tài trợ.

Người sau này là bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, Radoslav Sirkorski, đã hợp tác chặt chẽ để thúc đẩy Hiệp Ước Gia Nhập giữa EU và Ukraina với mục đích phá vỡ ảnh hưởng của Nga tại nước cộng hòa cựu thành viên Soviet và mở cửa cho các nhà đầu tư Châu Âu cũng như liên minh quân sự với NATO. 

Khi Yanukovych từ chối ký Hiệp Định, biểu tình nổ ra ở Maidan (Quảng Trường Độc Lập), chính quyền Ba Lan đã ngay lập tức ủng hộ phong trào đối lập. Theo một số báo cáo, nhiều bộ phận của những nhóm du kích cực hữu đóng vai trò mũi nhọn trong cuộc đảo chính đã được huấn luyện ở Ba Lan.

Chính quyền mới của Ukraina có cả đảng phát xít Svoboda, họ được nắm giữ ba ghế bộ trưởng. Đảng này có nguồn gốc là Tổ Chức Độc Lập Quốc Gia Chủ Nghĩa (OUN), trước đây hợp tác với Phát xít Đức và phải chịu trách nhiệm về hàng loạt các vụ thảm sát ở Ba Lan tại khu vực biên giới của Volhynia và Đông Galacia trong thế chiến thứ II. Hiện nay các thành viên đảng Svoboda vẫn kỷ niệm các sự kiện kinh hoàng – trong đó lực lượng phát xít Ukraina đã giết hại hơn 100,000 người Ba Lan, hầu hết là phụ nữ và trẻ em, ở khu vực Ba Lan bị phát xít chiếm đóng – như là chiến thắng “cuộc xâm lược của Ba Lan-Đức”.

Kể từ các sự kiện Maidan và diễn biến tiếp theo ở Crimea, Ba Lan, vốn đã gia nhập NATO vào năm 1999, đã đóng vai trò trung tâm trong cuộc đối đầu với Nga. Vào tháng tư, ngay sau cuộc trưng cầu dân ý ở Crimea, người sau này là thủ tướng Ba Lan Donald Tusk đã kêu gọi NATO gửi nhiều quân hơn đến quốc gia của ông ta. 

Kể từ đó, 9 tàu chiến NATO đã được gửi tới Biển Đen. Vào tháng 3,600 lính đã được gửi tới Ba Lan và các nước vùng Baltic. Một cuộc tập trận tiếp theo đã được tổ chức vào tháng 9 ở gần Lvov tại phía tây Ukraina với sự tham gia của quân đội Ba Lan. 

Hội nghị thượng đỉnh NATO ở xứ Wales đã phác thảo một kế hoạch quân sự chi tiết để tăng cường lực lượng chống lại Nga. Thông cáo chính thức của hội nghị thượng đỉnh được phát ra vào cuối tháng 9 kêu gọi một “sự tiếp tục hiện diện trên không, trên bộ, trên biển và các hoạt động quân sự hữu ích ở phần phía đông của Liên Minh” 

Điều này bao gồm cả việc thiết lập một “lực lượng phản ứng nhanh” từ 3,000 đến 5,000 lính, để có thể gửi tới khu vực khủng hoảng trong ít ngày. Do các tài liệu thiết lập của Hội Đồng NATO-Nga vào năm 1997 cấm đóng quân NATO tại các nước cộng hòa cựu Soviet, quân đội đã được giữ tại các doanh trại của họ cho đến hiện tại. 

Trong bài phát biểu nhậm chức vào ngày 1 tháng 10, người kế vị Tusk, Ewa Kopacz nói rằng Ba Lan sẽ đáp ứng yêu cầu triển khai của NATO bằng cách gia tăng chi tiêu quân sự. Ngân sách quốc phòng sẽ được tăng thêm 190 triệu vào năm 2016, chiếm 2% GDP – mục tiêu được tổng thống Obama đưa ra tại hội nghị thượng đỉnh. Đồng thời Kopacz kêu gọi sự hiện diện lớn hơn của quân đội Hoa Kỳ ở Ba Lan.

Chính sách quân sự của quốc gia hợp tác chặt chẽ với Đức. Vào tháng 3, bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Đức Ursula von Leyen tham dự một cuộc họp công vụ ở Warsaw. Trong hội nghị các bộ trưởng quốc phòng của NATO vào tháng 6, được tổ chức ở Brussels, cả hai quốc gia đã cùng kêu gọi gia tăng nhân sự của Quân Đoàn Đa Quốc Gia Đông Bắc đóng ở Stettin của Ba Lan.

Một cuộc gặp tiếp theo của hai bộ trưởng đã được tổ chức vào tháng 6, tại đó “sự tăng cường và phát triển tiếp theo của quan hệ quốc phòng Đức-Ba Lan” đã được thảo luận, theo quan chức Đức.

Mới đây nhất, sau một gặp tại Hội Nghị Bundeswehr (quân đội Đức) ở Berlin vào ngày 29 và 30 tháng 10, bộ trưởng quốc phòng Ba Lan đã bình luận, “Rất dễ dàng để cho xe tăng, vũ khí phòng không và máy bay vào viện bảo tàng”. Cả hai quốc gia đã đồng ý phối hợp bộ binh.

Phía sau chính sách quốc phòng liên minh chặt chẽ với Đức và Hoa Kỳ của Ba Lan là tham vọng bành trướng khu vực ảnh hưởng của quốc gia về phía đông. Sự hợp tác với lực lượng phát xít bài Ba Lan như Svoboda và chính sách quân sự hiếu chiến nóng vội cho thấy rõ ràng là tầng lớp thượng lưu Ba Lan sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để kết thúc. Một sự khiêu khích quân sự của thành viên NATO có thể nhanh chóng biến thành cái cớ cho một cuộc chiến thảm họa với nước Nga được trang bị vũ khí hạt nhân.


Hoa Kỳ và Châu Âu tiếp tục đe dọa sau cuộc bầu cử của phe nổi dậy ở Ukraina

Ngay sau cuộc bầu cử nghị viện của chính quyền Ukraina, các khu vực nổi dậy đã tổ chức các cuộc bầu cử của riêng họ. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "US, Europe issue new threats after elections in Ukraine’s separatist regions" của tác giả Andrea Peters để biết thêm chi tiết các cuộc bầu cử tại khu vực nổi dậy. Tiêu đề do người dịch đặt.

Hoa Kỳ, Châu Âu đưa ra những đe dọa mới sau cuộc bầu cử tại khu vực của phe nổi dậy ở Ukraina 

Tổng thống Ukraina Petro Poroshenko và các lãnh đạo phương Tây đã lên án các cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày chủ nhật tại Cộng Hòa Nhân Dân Donetsk (DPR) và Cộng Hòa Nhân Dân Luhansk (LPR). Các cuộc bầu cử mang lại thắng lợi cho các lãnh đạo thân Nga tại cái nôi của khu vực nổi dậy ở đông nam Ukraina. Washington, Đức và Liên Minh Châu Âu đã ngay lập tức tuyên bố các cuộc bầu cử đó là phi pháp.

Aleksandr Zakharchenko và Igor Plotnitsky, những người đang phục vụ trong vai trò thủ tướng tự phong của DPR và LPR sau khi có sự thay đổi về lãnh đạo trong lực lượng nổi dậy vào tháng 8, đã thắng cử với 79% và 64% tổng số phiếu bầu. Các khối nghị viện liên minh với các lãnh đạo này cũng có chiến thắng cần thiết trong một cuộc bầu cử ở các khu vực đã đề cập.

Sau khi tuyên bố các cuộc bầu cử là một “trò hề” vào chủ nhật, tổng thống Ukraina kêu gọi một cuộc hội đàm cấp cao với lãnh đạo an ninh và quốc phòng vào thứ hai để “tái đánh giá tình hình” tại khu vực đông nam của người nổi dậy. Cơ quan an ninh Ukraina lên án cuộc bầu cử là sự “tiếm quyền”.

Kiev ra hiệu cho thấy sự sẵn sàng của họ trong việc tiếp tục các tấn công quân sự vào khu vực dựa trên lý do cuộc bầu cử ngày 2 tháng 11 đã vi phạm thỏa thuận hòa bình mong manh được ký với những người nổi dậy vào tháng 9.

Khoảng 4,000 người đã bị giết hại trong cuộc nội chiến và hơn nửa triệu người trở phải chạy tị nạn. Cơ sở hạ tầng khu vực Donbass đã bị phá hủy khốc liệt bởi các cuộc tấn công và cắt giảm hay tước đoạt các dịch vụ thiết yếu đối với cư dân còn lại. 

Các cư dân đã không nhận được lương hưu từ chính phủ trung ương, và nợ lương rất phổ biến. Hiệp định ngừng bắn đã liên tục bị vi phạm, với các cuộc tấn công liên tiếp vào các trung tâm dân sự và các đụng độ quy mô nhỏ giữa người nổi dậy và quân đội Ukraina.

Theo như hãng thông tấn Nga ITAR-TASS đưa tịn, kèm theo kế hoạch đã tuyên bố nhằm bãi bỏ luật đảm bảo quyền tự chủ giới hạn cho khu vực Donbass, Poroshenko đang kêu gọi Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ủng hộ các nỗ lực tái lập kiểm soát của họ đối với khu vực nêu trên và đề xuất biến khu vực đó thành khu vực tự do thương mại.

Lên án và đe dọa của Poroshenko đã được các quyền lực phương Tây hưởng ứng. Trong những ngày trước cuộc bầu cử chủ nhật, thủ tướng Đức Angela Merkel đã khẳng định các cuộc bầu cử ở DPR và LPR là vô giá trị. Từ đó, chính quyền của bà ta đã chỉ trích quyết định “tôn trọng” kết quả bầu cử của Nga, mổ tả chúng là “kém hiểu biết”. Berlin đang tuyên bố họ đã loại bỏ mọi trở ngại đối với các biện pháp trừng phạt đã được áp đặt để trả đũa sự ủng hộ của Nga đối với những người nổi dậy. 

Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu cũng đã từ chối công nhận các cuộc bầu cử, giám đốc chính sách đối ngoại EU Federica Mogherini coi chúng là “bất hợp pháp và vi hiến”.

Vào thứ hai, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mô tả cuộc bầu cử ngày chủ nhật ở DPR và LPR là “đáng xấu hổ”. Cho thấy rõ rằng họ đã chuẩn bị sử dụng cuộc bầu cử để kích động sự đối đầu mới với Kremlin, Bộ Ngoại Giao đe dọa, “Nếu Nga tiếp tục lảng tránh những đóng góp của họ [để tôn trọng luật bầu cử Ukraina] và tiếp tục gây bất ổn cũng như các hoạt động nguy hiểm, cái giá mà Nga phải gánh chịu sẽ gia tăng.” 

Những đe dọa đối với Nga đến cùng với tin tức cho biết Ba Lan, một thành viên NATO, với ý định tái tập hợp quân đội chủ chốt trong thời gian tới, đã chuyển hàng ngàn quân tới biên giới phía đông của họ. “Tình hình địa chính trị đã thay đổi. Chúng tôi có một cuộc khủng hoảng an ninh lớn nhất kể từ Chiến Tranh Lạnh và chúng tôi phải phác thảo các kết luận từ đó”, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Tomasz Siemoniak nói với hãng thông tấn AP vào cuối tháng 10.

Việc Hoa Kỳ và Châu Âu lên án các cuộc bầu cử ở DPR và LPR là bất hợp pháp cũng như vi hiến hoàn toàn đạo đức giả. Các thế lực phương Tây quyết định những cuộc bầu cử nào được thừa nhận hay phủ nhận chỉ dựa trên lợi ích đế quốc của họ. 

Cuộc đảo chính cực hữu do Hoa Kỳ và Đức hậu thuẫn đã lật đổ tổng thống dân cử Viktor Yanukovych vào tháng hai vừa qua được hoan nghênh như là một thắng lợi của dân chủ. Cuộc bầu cử nghị viện tháng trước ở Ukraina được thể hiện như một chiến thắng dân chủ khác, mặc dù nó đưa một nhóm theo chủ nghĩa quốc gia và phát xít mới đến quyền lực, để dùng bạo lực áp đặt các biện pháp thắt lưng buộc bụng bị căm ghét theo yêu cầu của phương Tây.

Dựa trên các tính toán chiến lược của họ, Đức và Hoa Kỳ đã nhiều lần công nhận “sự hợp hiến” của nhiều khu vực ly khai, có thể kể tên một số như Croatia, Slovenia, Bosnia và Kosovo, dẫn đến các cuộc nội chiến đẫm máu tước đoạt mạng sống của hàng chục nghìn người.

Cuộc bầu cử diễn ra vào chủ nhật ở đông nam Ukraina không hề ít hợp hiến hơn cuộc bầu cử nghị viện quốc gia diễn ra trong tuần trước đó, trong đó số người đi bỏ phiếu chỉ hơn 52%, giảm so với tất cả các cuộc bầu cử nghị viện trước đây. Tại những khu vực mà dân chúng được coi là thù địch với chính quyền Kiev, tỷ lệ tham gia bỏ phiếu thấp hơn 30%, với đa số người bỏ phiếu lựa chọn khối đối lập. 

Ủy Ban Bầu Cử Trung Ương của LPR khẳng định tổng số người bỏ phiếu đạt gần 60%. Do người bỏ phiếu xếp hàng quá dài tại các điểm bỏ phiếu nên họ tiếp tục mở cửa điểm bỏ phiếu thêm 2 giờ. Ngay cả các bản tin ở phương Tây cũng buộc phải công nhận dấu hiệu sự tham gia phổ biến của dân chúng, bao gồm đám đông tại các điểm bỏ phiếu.

Cư dân địa phương được báo chí phỏng vấn không bày tỏ sự nhiệt tình đối với các lãnh đạo nổi dậy của DPR hay LPR mà bày tỏ sự phẫn nộ về bạo lực chính quyền Kiev đối với họ. Một bản tin trên tờ Guardian mô tả “một đám đông khổng lồ tại trường học số 13, một trong ba điểm bỏ phiếu được mở trong thành phố [Ilovaysk]”, ở đó “cư dân nói họ bỏ phiếu cho một ‘tương lai hòa bình’”. 

“Valentina, một tiểu thương 61 tuổi ở Ilovaysk, nói bà đã phải trú ẩn 23 ngày dưới hầm cùng với vài tá người khác, và bị các tiểu đoàn quân tình nguyện Ukraina đe dọa, những người đó cố gắng sử dụng bà và những người khác làm lá chắn sống cũng như ăn cắp điện thoại di động và các của cải khác”, bản tin cho biết.

Tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền mới công bố một điều tra chi tiết cáo buộc quân đội Ukraina về việc sử dụng các đầu đạn chùm đã bị cấm trong các cuộc tấn công ở khu vực đông nam.

Tại DPR, quan chức địa phương cho biết có hơn một triệu cử tri trong tổng số ba triệu cư dân đủ điều kiện tham gia bỏ phiếu đi bầu cử. Mặc dù vậy, tỷ lệ bỏ phiếu khó có thể đánh giá, do cuộc khủng hoảng tị nạn và sự thật là nhiều cử tri đủ điều kiện về mặt kỹ thuật đang sống trong các khu vực thuộc sự kiểm soát của quân đội Ukraina. Bỏ phiếu trực tuyến là lựa chọn của những người này, mặc dù không rõ là có bao nhiêu nhiêu người sử dụng lợi thế đó. Các điểm bỏ phiếu cũng được thiết lập gần các tỉnh Rostov, Voronezh, Belgorod của Nga để phục vụ cho người tị nạn trong khu vực.

Tổ Chức An Ninh và Hợp Tác Châu Âu (OSCE), thường theo dõi các cuộc bầu cử, đã từ chối gửi các đại diện tới khu vực đông nam Ukraina để quan sát cuộc bầu cử. Việc chắp vá các lực lượng cánh hữu và giả cánh tả ở Châu Âu và Hoa Kỳ tạo thành các quan sát viên bầu cử và báo cáo không có vi phạm bầu cử chính yếu. Các cá nhân đó, bao gồm các thành viên đảng phái chính trị và chính quyền ở Hy Lạp, Pháp, Serbia, và mọi nơi khác, đã bị báo chí lên án là những quan sát viên bầu cử “dỏm” và bị chính quyền Kiev tuyên bố là “khách không mời” của quốc gia. Họ bị đưa vào “sổ đen”.

Theo các quan chức của DPT và LPR, người thắng cử ở DPR Aleksandr Zakharchenko đã giành được chức thủ tướng với 765,000 phiếu, trong khi Plotnitsky ở LPR đảm bảo chiến thắng với 445,000 phiếu. Các đối thủ của họ tụt xa phía sau. Aleksandr Kofman, phó chủ tịch Quốc Hội Novorossiya, đơn vị chính trị thống nhất của DPR và LPR, giành được 10% số phiếu bầu trong cuộc đua với Zakharchenko. Tại LPR, vị trí thứ hai thuộc về thủ lĩnh công đoàn Oleg Akimov, người giành được 15,5% tổng số phiếu bầu.

Các khối chinh trị liên kết với các lãnh đạo nổi dậy cũng đã thắng lợi dễ dàng trong cuộc đua vào nghị viện. Đảng Cộng Hòa Donetsk giành được 662,750 phiếu bầu ở DPR. Đảng Hòa Bình Luhansk áp đảo hoàn toàn đối thủ Liên Minh Kinh Tế và Liên Minh Nhân Dân Luhansk, họ giành được gần 70% số phiếu bầu.

Theo các bản tin, năm chính đảng đã bị loại khỏi cuộc bầu cử do những lý do kỹ thuật, trong đó có Đảng Cộng Sản. Mặc dù vậy, đâu đó có đưa tin ra Đảng Cộng Sản mới được thành lập trong khu vực ủng hộ việc lựa chon Zakharchenko.

Cần phải thấy rằng những người nổi dậy thân Nga đang kiểm soát DPR và LPR có sự ủng hộ của dân chúng, họ đã thu được điều đó dựa trên những lời hứa về cải thiện xã hội và triển khai các chương trình phúc lợi. Một sự pha trộn những người theo chủ nghĩa quốc gia Nga, vô chính phủ và bảo thủ cánh hữu sẽ gắn bó với nhiều lớp của tầng lớp cai trị ở Moscow, họ dùng hoài niệm về quá khứ Soviet để chống đỡ cho chính phủ còn non nớt của họ. 

Monday, November 3, 2014

Sự tấn công của doanh nghiệp vào nền dân chủ Châu Mỹ Latin

Việt Nam đang tham gia đàm phán Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương, trong dự thảo bị tiết lộ mới đây của Hiệp Định nêu trên có một phần đề cập tới giải quyết tranh chấp thương mại giữa doanh nghiệp đa quốc gia và chính quyền. Cơ chế đó cho thấy các quốc gia dân tộc không còn có thể tự bảo vệ mình trước những lợi ích của giai cấp tư sản quốc tế, buộc phải viện đến các thiết chế phi dân chủ do các đế quốc đầu sỏ hậu thuẫn. Trong hoàn cảnh đó, lợi nhuận của các công ty đa quốc gia sẽ được đặt trên lợi ích của nhân dân, dân chủ cuối cùng chỉ là hình thức khi bất cứ quyết định dân chủ nào cũng có thể bị các công ty đa quốc gia phá hủy bằng cơ chế hòa giải quốc tế.

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "The Corporate Assault on Latin American Democracy" của tác giả Jusin Doolittle về tình hình cơ chế hòa giải quốc tế ở các nước Châu Mỹ Latin. Tiêu đề do người dịch đặt.

Sự tấn công của doanh nghiệp vào nền dân chủ của Châu Mỹ Latin

Châu Mỹ Latin luôn luôn là mảnh đất màu mỡ cho các doanh nghiệp cá mập. Trong nhiều thập kỷ, dưới sự ủng hộ của các chính quyền do phương Tây hậu thuẫn, thân thiện với doanh nghiệp nhưng tàn bạo với công dân của họ, những con quái vật doanh nghiệp đã hút cạn máu của khu vực – đôi khi là theo nghĩa đen. Câu chuyện về cướp bóc tự do ở phần này của thế giới, cũng như sự phản ứng dữ dội của dân chúng đối với chúng ở Châu Mỹ Latin, không phải là điều gì mới. Trong những năm gần đây, cuộc chiến của doanh nghiệp dữ dội chưa từng thấy với các xã hội Châu Mỹ Latin đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn mà cuộc chiến chủ chốt được quyết định ở tầng thứ tư của trụ sở Ngân Hàng Thế Giới tại Washington, bởi thiết chế mờ ám nhưng đầy quyền lực được gọi là Trung Tâm Quốc Tế Giải Quyết Tranh Chấp Đầu Tư (ICSID). 

Điều đầu tiên bạn cần biết về ICSID là nó có quyền ra các quyết định ràng buộc có ảnh hưởng đến toàn bộ dân chúng. Hầu hết những quyết định đó được các tóa hòa giải nhỏ đưa ra, đặc trưng là tạo thành từ một nhúm người. Thiết chế bí mật này là một phần của Hiệp Ước ICSID, một hiệp ước đa phương có hiệu lực vào tháng 10 năm 1966, hiện nay có 150 quốc gia tham gia. Hiệp Ước ICSID “tìm cách tháo gỡ các cản trở chủ chốt đối với lưu thông quốc tế của đầu tư tư nhân được tạo ra bởi các rủi ro phi thương mại và sự thiếu vắng các phương pháp chuyên môn quốc tế đối với giải quyết tranh chấp đầu tư”. Nếu như câu đó làm bạn rùng mình, tốt thôi, nó phải vậy. 

Chi tiết cấu trúc và hành chính của ICSID thì tẻ nhạt và liên quan đến rất nhiều tiếng nói của doanh nghiệp. Nhưng về căn bản, ICSID có vẻ thiết lập và giám sát các tòa hòa giải độc lập đối với việc phân xử các tranh chấp chủ yếu giữa thực thể tư nhân và chính quyền. Một ví dụ, khi quốc gia X nói với doanh nghiệp Y rằng, sau những cân nhắc kỹ càng, họ muốn thay đổi chính sách và cấm khoan dầu tại những một khu vực có môi trường dễ tổn thương. Một tòa hòa giải được thiết lập và sự xét xử bắt đầu. Cả hai bên có tranh chấp phải đồng ý với các điều khoản được thảo ra, điều đó sẽ được ghi lại, và mỗi bên sẽ đưa ra các trọng tài được lựa chọn. Tuy nhiên, với ảnh hưởng của ICSID lớn dần theo quá trình xét xử, chúng ta phải xem xét sự thông thái trong những quyết định này, khi chúng thường xuyên tác động đến sức khỏe của môi trường cả về ngắn hạn cũng như dài hạn, được tạo ra thông qua quá trình mà các cư dân địa phương – người dân thực sự phải chịu ảnh hưởng của những quyết định nói trên – hầu như bị gạt bỏ. 

Trong những năm gần đây, Venezuela, Ecuador, và Bolivia đã rút khỏi Hiệp Ước ICSID, tất cả đều vì lý do tương tự. Các chính quyền đó trung thành với khái niệm cổ xưa là những nguồn tài nguyên trong xã hội của họ phải thuộc về những người dân sống ở đó, và họ coi ICSID là cách tạo điều kiện cho việc tiếp tục cướp bóc những nguồn tài nguyên đó (vốn thường được thừa nhận, dĩ nhiên, bởi sự suy thoái môi trường). Bolivia rút khỏi ICSID vào năm 2007; vào năm 2009, Ecuador tiếp bước. Venezuela hoàn thành việc rút khỏi ICSID vào năm 2012 khi chính quyền Chavez phải đối đầu với hàng loạt tranh chấp quanh chính sách quốc hữu hóa vào những năm 2000. Tất cả các chính quyền đó bày tỏ sự quan ngại về chủ quyền và sự thiên vị thường xuyên của ICSID đối với doanh nghiệp và tư bản (những quan ngại này phản ánh tình cảm phổ biến ở Châu Mỹ Latin). Họ đề xuất một hệ thống thay thế, tham gia vào các tòa hòa giải ở Nam Mỹ, để đối đầu với Washington, D.C. Trong mọi trường hợp, việc rút khỏi ICSID không phải là để bảo vệ khỏi sự đòi hỏi của lợi ích tư nhân, các quốc gia như Venezuela và Ecuador vẫn tiếp tục nhìn chằm chặp vào hàng tỷ dollar của các khoản thanh toán bồi thường tiềm năng chảy ra từ hàng sa số các vụ kiện trong thập kỷ qua. Các quốc gia không thể đơn giản lảng tránh các phán quyết, khi chúng bị coi là sự phá sản về chủ quyền, với tất cả rủi ro kinh tế theo sau.

Chúng liên quan đến các kiến thức chuyên môn chuyên biệt, và do đó hiếm khi được bàn thảo trong các cuộc tranh luận chính trị phổ thông, nhưng một sự thay đổi hình mẫu rộng hơn đã diễn ra trên sàn đấu những năm gần đây, một thứ đủ gây sốc, đáp ứng các quyền lợi của công ty đa quốc gia. Như bài viết của McClatchy mới đây về một tranh chấp giữa Oceana Gold Corp. và chính quyền El Salvador đã đưa ra, “các luật đầu tư quốc tế đang thúc đẩy doanh nghiệp hành động chống lại chính quyền nước ngoài dám cắt bớt lợi nhuận tương lai của họ”, “và ICSID là phương tiện được những doanh nghiệp sử dụng để đảm bảo rằng lợi nhuận của họ không bị đe dọa”.

Sự ngờ vực phổ biến rằng trò chơi này được dựng lên để đáp ứng các lợi ích tư nhân đầy quyền lực hoàn toàn không phải là vô căn cứ. Đây là Robert Bisso, giám đốc của Social Watch, một tổ chức mạng lưới công dân quốc tế, trong bài phát biểu với Liên Hiệp Quốc vào tháng 5: 
… hơn hai nghìn hiệp định thương mại và đầu tư song phương cũng như khu vực được ký kết trong một số ít những thập kỷ gần đây đã tạo ra các quyền mới cho công ty đa quốc gia, bao gồm các quyền mà con người không có: doanh nghiệp đòi quyền được phán xử ở bất cứ đâu họ muốn và mang theo họ bất cứ ai mà họ cho là cần thiết, họ được phép chuyển lợi nhuận mà không có bất cứ giới hạn nào và thậm chí kiện chính quyền về tổn thất lợi nhuận do những chính sách được quyết định dân chủ, không thông qua các tòa án địa phương mà qua các tòa hòa giải quốc tế, vốn được tạo ra để bảo vệ lợi ích kinh doanh và là nơi nhân quyền không nhất thiết thắng thế. ICSID, Trung Tâm Giải Quyết Tranh Chấp Quốc Tế, do Ngân Hàng Thế Giới tổ chức, là tổ chức hòa giải thiếu minh bạch đã thay thế phân xử của quốc gia và tự mình tạo ra luật lệ bằng cách loại bỏ các tiêu chuẩn nhân quyền cũng như các quy định về môi trường, ngay cả khi chúng được phê chuẩn trong các hiệp ước quốc tế. 
Khuynh hướng này sẽ dẫn đến sự quan ngại sâu sắc. Cần phải nhớ rằng những tranh chấp không phải là trừu tượng. Bên cạnh yếu tố dài hạn về môi trường, quyết định về những vấn đề này ảnh hưởng tới cuộc sống của dân thường theo hàng chục nghìn cách, và chúng cũng đe dọa khả năng tạo lập chính sách của xã hội dân chủ.

Hãy lấy ví dụ, tranh chấp đã được đề cập phía trên giữa El Salvador và Oceana Gold, trong đó ICSID sẽ phân xử vài lần trong ít tháng tới. Oceana Gold là một công ty khai mỏ bỉ ổi ở Australia – khoảng một phần tư số vụ ICSID phân xử liên quan tới khai mỏ, dầu, khí đốt và các vấn đề liên quan đến tài nguyên thiên nhiên – đã mua công ty Canada ở bên bờ Thái Bình Dương vào cuối năm 2013, và giờ có vẻ sẽ thực hiện một dự án khai mỏ bên bờ Thái Bình Dương được đặt gần đường biển chính của Ecuador, sông San Sebastian River. Hay nói cách khác, Oceana Gold muốn 301 triệu dollar tiền bồi thường – từ một quốc gia cực nghèo với ngân sách hàng năm dưới 1 tỷ dollar.

Cư dân sống gần mỏ El Dorado ở miền bắc quốc gia đã nổi dậy phản đối dự án khai mỏ (một đơn kiến nghị với 200,000 chữ ký được mới được gửi đến Oceana Gold). Họ không muốn nguồn nước của họ bị công ty nước ngoài đầu độc để tìm vàng; tỷ lệ các bệnh nan y liên quan đến chất độc arsenic trong đào vàng ở sông Lempa được báo cáo là gia tăng rõ ràng. Một xã hội nghèo nàn, đông đúc dân cư đã đương đầu với vấn đề khốc liệt liên quan đến chất lượng và số lượng nước của họ. Đó cũng là kiểu xã hội dễ tổn thương do suy thoái môi trường gây ra, không chỉ là sự quan ngại đối với Oceana Gold, hay ICSID, theo như Bisso nói, là sự khác biệt mang tính chất thể chế đối với tác động môi trường và nhân quyền. 

El Salvador đã hoàn toàn cấm khai mỏ vào năm 2008 và chính sách đã được lưỡng đảng ủng hộ. Vụ kiện đặc biệt, sau đó – và một vụ kiện khác tương tự - dấy lên câu hỏi căn bản về chính trị và chủ quyền. Một quốc gia-dân tộc có quyền thay đổi chính sách khi họ tin rằng sức khỏe của người dân và môi trường đang bị đe dọa? Hay quyền và lợi ích của các công ty đa quốc gia phải được ưu tiên theo đúng nghĩa đen ở mọi nơi? Phán quyết tới đây tại ICSID về vụ kiện El Dorado phản ánh một ngã rẽ quan trọng trên con đường đó. 

Điều này không dự đoán rằng ICSID là một thiết chế thiên vị trắng trợn sẽ tự động phân xử theo lợi ích của doanh nghiệp. Họ cũng có một số quyết định hợp lý. Mặc dù tòa hòa giải mới đây phán quyết Venezuela phải trả cho Exxon Mobil 1,6 tỷ dollar về giá trị dầu bị chiếm đoạt – phán quyết hiện giờ bị treo khi Venezuela tìm cách kháng án – người khổng lồ dầu mỏ đã đòi hỏi gấp 10 lần con số đó, và phán quyết được hoan nghênh như một chiến thắng của chính quyền Maduro.

Nhưng sự thật là công bằng đôi khi thắng những cuộc xâm lược kinh tế thô bỉ không có nghĩa rằng hệ thống hòa giải mờ ám, phản dân chủ đó công bằng và cần thiết. Hệ thống đó trên thực tế đe dọa quyền thiết lập chính sách đối với xã hội của các chính quyền dân chủ, và có khuynh hướng đe dọa sinh kế của những người dân không bao giờ đặt chân vào tòa nhà kỳ quặc ở Washington, D.C. và những ai mà ảnh hưởng của họ chỉ là ký tên vào bản kiến nghị. Khi người đưa ra các quyết định có hậu quả vô cùng to lớn bị tách ra khỏi những người phải chịu ảnh hưởng của những quyết định đó – về mặt xã hội, chính trị, kinh tế - dân chủ sẽ không được tôn trọng. Điều đó công bằng với lợi ích tư nhân, những kẻ luôn tìm kiếm lợi nhuận từ sự xói mòn của văn hóa dân chủ.

Justin Doolittle là nhà báo tự do ở Long Island, New York. Bạn có thể theo dõi ông tại trang Twitter @JD1871.

Sunday, November 2, 2014

Báo cáo yêu cầu Liên Hiệp Quốc lên án chính phủ Hoa Kỳ về "chương trình tra tấn quốc tế tội ác"

Sau vụ tiết lộ báo cáo về tra tấn của ủy ban thượng viện Hoa Kỳ, chính quyền Obama đã tìm mọi cách ngăn chặn thượng viện công bố báo cáo đó. Mới đây một nhóm luật sư đã đệ trình một báo cáo khác yêu cầu Liên Hiệp Quốc lên án Hoa Kỳ về các chương trình tra tấn vi phạm luật pháp quốc tế trên quy mô thế giới của chính quyền Hoa Kỳ dưới thời Bush và Obam. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết Report to UN condemns US government’s “international criminal program of torture” của tác giả Thomas Gaist để biết thêm chi tiết.

Báo cáo yêu cầu Liên Hiệp Quốc lên án “chương trình tra tấn quốc tế tội ác” của chính phủ Hoa Kỳ

Một báo cáo mới đây với Ủy Ban Chống Tra Tấn Liên Hiệp Quốc đã kết luận chính quyền Obama chịu trách nhiệm về các vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế đối trong việc hướng dẫn và che giấu chương trình tra tấn toàn cầu do Cục Tình Báo Hoa Kỳ phát triển trong những năm sau vụ tấn công ngày 9 tháng 11 năm 2011.

Bản báo cáo được xây dựng bởi “Các Luật Sư Truy Tố Tra Tấn Của Hoa Kỳ”, tiến sĩ Trudy Bond, giáo sư Benjamin Davis, tiến sĩ Curtis F. J. Doebbler, và Bệnh Viện Nhân Quyền Quốc Tế tại Trường Luật Havard, tuyên bố dứt khoát rằng toàn thể các cơ quan chức năng nhà nước chịu trách nhiệm đối với tội ác “nghẹt thở” chống lại luật pháp quốc tế.

“Các quan chức dân sự và quân sự ở cấp cao nhất đã tạo dựng, thiết kế, cấp phép và triển khai một chương trình tra tấn tội ác quốc tế tinh vi”, bản báo cáo tuyên bố.

Bản báo cáo mô tả chi tiết quy mô khổng lồ của hệ thống tra tấn, cho biết các tù nhân bị tra tấn không chỉ ở căn cứ quân sự tại vịnh Guantanamo của Cuba, mà còn ở hàng sa số các nhà tù bí mật trên khắp thế giới, bao gồm “Bosnia-Herzegovina, Canada, Djibouti, Egypt, Indonesia, Iraq, Italy, Jordan, Libya, Lithuania, Mauritania, Morocco, Pakistan, Poland, Romania, Russia, Syria, Thailand, the United Arab Emirates, the United Kingdom (Diego Garcia), and Yemen.”

Bản báo cáo kết luận, do “được hình thành và cấp phép tại cấp cao nhất” của chính quyền Hoa Kỳ, một số lượng lớn các quan chức hàng đầu phải gánh trách nhiệm đối với những tội ác đã tạo thành, bao gồm “tổng thống George W. Bush, tiếp đó là phó tổng thống Dick Cheney, giám đốc Cục Tình Báo Quốc Gia (CIA) George Tenet, cố vấn An Ninh Quốc Gia Condoleezza Rice, bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Donald Rumsfeld, Ngoại Trưởng Colin Powell, và Tổng Chưởng Lý John Ashcroft.”

CIA đã hợp tác với các nhân viên tình báo của các chính quyền Ai Cập và Saudi để chế tạo ra các kỹ thuật tra tấn, bản báo cáo cho biết.

“Các kỹ thuật trong hỏi cung, đôi khi được diễn tả là kỹ thuật thẩm vấn và đôi khi là thủ tục giam giữ, bao gồm nhấn nước, cấm ngủ nhiều ngày, và cưỡng bức khỏa thân”, bản báo cáo ghi nhận.

“Chúng đã khiến cho nhiều người đau đớn khủng khiếp, bao gồm một số tổn thương tinh thần và, trong một số trường hợp, là cái chết”, bản báo cáo nêu rõ.

“Chấp thuận pháp lý hồi tố” đã được các luật sư của chính quyền tại Văn Phòng Pháp Chế (OLC) của Bộ Tư Pháp làm giả.

Để đánh giá các phương pháp mới của “thẩm vấn nâng cao”, các luật sư tra tấn của chính quyền Bush đã thảo ra định nghĩa “chi tiết vô lý” về tra tấn nhằm biện minh cho chính sách của chính quyền.

Như các luật sư của CIA bình luận với nhân viên tại Vịnh Guantanamo khi tổng kết nội dung các biên bản tra tấn của chính quyền Bush, “… đối tượng cơ bản để nhận thức. Nếu tù nhân chết thì anh làm sai”.

“Sự thật là các quan chức cấp cao trong chính quyền Hoa Kỳ đã nài xin các thông tin về cách sử dụng các kỹ thuật hung dữ, định nghĩa lại luật để tạo ra sự xuất hiện hợp pháp của chúng, và cho phép họ sử dụng đối với các tù nhân”, một bản báo cáo của Ủy Ban Hoạt Động Vũ Trang Thượng Viện Hoa Kỳ ghi nhận, được trích dẫn trong báo cáo mới đây với Liên Hiệp Quốc.

Sử dụng các định nghĩa có lợi dưới thời Bush, cựu lãnh đạo Iraq Saddam Hussein “sẽ có thể tự tuyên bố vô tội” đối với việc tra tấn có hệ thống do chính phủ của ông ta thực hiện, luật sư Harold Koh của trường luật Yale nói với các báo cáo viên. 

Không chỉ giới hạn ở chính quyền Bush, bản báo cáo làm rõ rằng chính quyền Obama, Bộ Tư Pháp và nhiều toàn án liên bang đã tán thành rằng các khái niệm liên quan đến “nhấn nước, bắt nhịn ăn, dựng tường, đứng thời gian dài, cấm ngủ, dội nước” sẽ tạo ra sức đề kháng, và những kỹ thuật đó không tạo thành tra tấn.

Chính quyền Obam đã tìm cách bảo vệ tất cả các quan chức chính quyền cấp cao dưới thời Bush có trách nhiệm trực tiếp nhất trong việc tra tấn khỏi bị truy tố hay bất cứ hình thức pháp lý hoặc hành động trừng phạt đối với sự can dự của họ vào việc tra tấn.

Như bản báo cáo viết, tất cả các quan chức cấp cao Hoa Kỳ đã nhận được sự miễn trừ đối với việc can dự vào tổ chức mạng lưới tra tấn quy mô thế giới, và “các công cụ tư pháp cũng như khởi kiện hành chính đối với các hoạt động tra tấn hầu như chỉ giới hạn trong phạm vi các nhà thầu tư nhân hay binh lính cấp thấp”.

Tác giả kết luận rằng các phương pháp “thẩm vấn nâng cao” vi phạm Hiệp Ước Chống Tra Tấn hay Các Hành Vi và Trừng Phạt Độc Ác, Phi Nhân Đạo và Hạ Nhục Khác của Liên Hiệp Quốc, hiệp ước được xây dựng để cấm việc tra tấn bao hàm trong Tuyên Ngôn Phổ Quát về Quyền Con Người và Hiệp Ước Quốc Tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị

Bản báo cáo tiếp tục viết “tuyệt đối cấm tra tấn”, phủ nhận các khái niệm pháp lý của chính quyền Bush và kêu gọi truy tố các luật sư hàng đầu của chính quyền Bush, bao gồm người dự thảo ba “Biên Bản Tra Tấn” chính, phó trợ lý chưởng lý John Yoo. 

Sự thất bại của chính quyền trong việc đảm bảo trách nhiệm giải trình của các thành phần lãnh đạo, mà việc tổ chức tra tấn đã phá hủy “quy định ưu tiên chống tra tấn”, bản báo cáo ghi rõ. Tra tấn đang được mở rộng và được nhà nước ở mọi nơi dễ chấp nhận hơn cùng với sự lảng tránh không biết xấu hổ luật pháp quốc tế của Hoa Kỳ.

Trong kết luận khuyến nghị đối với Ủy Ban Chống Tra Tấn của Liên Hiệp Quốc, các học giả luật học yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ áp dụng phương hướng luật pháp và chính trị quay 180 độ, đối lập với những gì được chính quyền Obama theo đuổi từ khi nhậm chức. 

“Hoa Kỳ phải truy tố ngay lập tức và không thiên vị các quan chức dân sự cũng như quân sự cấp cao chịu trách nhiệm về việc cấp phép, ưng thuận hay đồng thuận theo bất cứ cách nào với các hành động tra tấn mà những người dưới quyền họ đã thực hiện”, báo cáo viên viết.

Nếu yêu cầu của báo cáo được thực hiện, kết quả sẽ là sự truy tố các thành phần chỉ huy và hàng loạt các cá nhân thuộc tầng lớp trên của các cơ quan quyền lực nhất trong chính phủ Hoa Kỳ, bao gồm CIA, quân đội và Bộ Tư Pháp, cùng với rất nhiều các thành viên cấp cao của chính quyền Bush và Obama.

Hàng sa số các nhân vật, nhiều trong số đó đang ẩn náu trong các thiết chế doanh nghiệp và học viện, sẽ phải đối mặt với án tù dài hạn. 

Tất cả các thiết chế chính trị sẽ không sẵn sàng với trách nhiệm giải trình, mặc dù vậy, có thể thấy rằng những kẻ tra tấn và những người bảo vệ họ là các quan chức chính trị nổi bật, và chuyên gia tình báo quân sự của giai cấp tư sản.

Chương trình tra tấn được phát triển và áp dụng như là một phần của sự bùng nổ chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ, khi tầng lớp cai trị tìm cách duy trì vị thế toàn cầu thông quan chiến tranh và bạo lực ở khắp mọi ngóc ngách của trái đất. Điều đó cũng là một phần của cuộc tấn công tổng lực vào quyền dân chủ, trực tiếp chống lại bất cứ sự đối đầu nào với chính sách của giới thượng lưu tài chính và doanh nghiệp.

Không những lảng tránh truy tố những người chịu trách nhiệm, chính quyền Obama đang tìm cách ngăn cản việc công bố kết luận của Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện về việc tra tấn của CIA, hợp tác chặt chẽ với các điệp viên của họ để che dấu tội ác.

Tác giả đề nghị độc giả đọc thêm:
[31 tháng 10 năm 2014]

Putin chỉ rõ nguy cơ chiến tranh

Lịch sử đang lặp lại theo đúng quy luật của nó. Nếu như trước đây giai cấp tư sản đã dựa vào nhà nước quốc gia dân tộc để đánh bại các lãnh chúa phong kiến xây dựng lên các quốc gia tư bản chủ nghĩa, thì giờ đây chính các quốc gia dân tộc đang ngày càng trở nên chật hẹp đối với giai cấp tư sản. Đã đến lúc giai cấp tư sản phải thanh toán các quốc gia dân tộc để mở đường cho một cấu trúc siêu quốc gia, cho một giai cấp tư sản thế giới. Các quốc gia dân tộc đang vỡ nát dưới sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, không phải vì chúng vô đạo đức hay tàn bạo, mà trước hết là vì chúng đã phá sản về mặt kinh tế. Một mặt các quốc gia dân tộc không còn có thể bảo vệ cho giai cấp tư sản khỏi sự thôn tính lẫn nhau về kinh tế, mặt khác chính các quốc gia dân tộc dưới sự thống trị của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bên cạnh việc phát triển sức sản xuất không ngừng lại đang lãng phí một cách vô độ các tài nguyên và lao động của quốc gia, sự lãng phí đó là nguồn nuôi dưỡng vô tận các phong trào cực đoan phản động nhất. Sự phá sản về kinh tế thể hiện ra thành sự phá sản về mặt chính trị khi các quốc gia dân tộc không ngừng đối đầu với nhau với quy mô ngày càng lớn và các lực lượng cực đoan phản động không ngừng gây ra các cuộc xung đột khu vực dữ dội. Trong cuộc đối đầu không thể tránh khỏi giữa chủ nghĩa tư bản và quốc gia dân tộc, giai cấp tư sản sẽ một lần nữa buộc phải đặt vũ khí vào tay giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản với vũ khí trong tay sẽ không đứng về phía đế quốc này để chống lại đế quốc kia, sứ mệnh của giai cấp vô sản là thanh toán chủ nghĩa tư bản đã phá sản hoàn toàn và xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Để hiểu thêm về sự đối đầu giữa các đế quốc hiện nay, mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Putin points to growing war dangers" của tác giả Nick Beams. 

Putin chỉ rõ nguy cơ chiến tranh đang gia tăng 

Tổng thống Nga Vladimir Putin đã thẳng thắn cảnh báo các hoạt động của Washington, vi phạm các quy tắc đã chi phối quan hệ quốc tế kể từ khi thế chiến thứ II kết thúc, có thể dẫn đến chiến tranh. 

Tuyên bố của ông ta xuất hiện trong một bài diễn văn vào ngày 20 tháng 10 tại một cuộc mít-ting được Câu Lạc Bộ Thảo Luận Quốc Tế Valdai tổ chức ở khu nghỉ dưỡng mùa đông Sochi của Nga. Chủ đề của cuộc thảo luận, có sự tham gia của các nhà báo, chuyên gia về chính sách đối ngoại, và các học giả của Nga cũng như quốc tế, là Trật Tự Thế Giới: Quy Tắc Mới hay Cuộc Chơi không Quy Tắc 

Putin đã mở đầu, “công thức này mô tả chính xác điểm nút lịch sử mà chúng ta đạt tới hôm nay và sự lựa chọn mà tất cả chúng ta phải đối mặt … Sự thay đổi của trật tự thế giới – và những gì chúng ta thấy hôm nay là những sự kiện ở quy mô này – thường xuyên được xác nhận bởi, nếu không phải là chiến tranh và xung đột toàn cầu, thì cũng là các chuỗi xung đột sâu sắc ở quy mô khu vực”. 

Bài phát biểu của Puti bao gồm hàng loạt các lên án đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ kể từ khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh. Ông ta nói, Hoa Kỳ đã tự tuyên bố là người chiến thắng, không thấy nhu cầu cần phải thiết lập “một cân bằng quyền lực mới, cấp thiết để duy trì trật tự và ổn định” và thay vào đó “tiến tới đẩy hệ thống vào mất cân bằng nghiêm trọng và sâu sắc”. 

Mặc dù vậy, điểm nhấn mạnh của Putin không chỉ là sự lên án đối với Hoa Kỳ mà cũng là hệ quả của việc Kremlin giải tán Liên Bang Soviet vào năm 1991 để khôi phục chủ nghĩa tư bản. Vào lúc đó, tất cả tầng lớp quan liêu chủ nghĩa Stalin đều nhất trí phủ nhận khái niệm chủ nghĩa đế quốc, coi đó là một điều hư cấu chính trị do Lenin và Đảng Bolshevik sáng tạo ra 

Kể từ đó, sự hình thành tầng lớp tư bản tài phiệt kinh doanh siêu giàu, xa lạ với nhân dân, cai trị một tập hợp các nước cộng hòa Soviet cũ dựa trên nền tảng của chủ nghĩa quốc gia dân tộc, đã tạo ra cho các quyền lực đế quốc NATO một mảnh đất màu mỡ để gieo trồng “cách mạng màu” và nội chiến sắc tộc. Điều đó dẫn đến cuộc đảo chính do Hoa Kỳ và Đức hậu thuẫn ở Ukraina vừa qua, đẩy Nga và NATO đến bờ vực chiến tranh. 

Putin kết nối các hoạt động của Hoa Kỳ với hành vi của những kẻ mới phất, “khi họ đột ngột kiếm được một tài sản lớn, trong trường hợp này là dưới dạng sự lãnh đạo và thống trị thế giới. Thay vì quản lý của cải của họ một cách khôn ngoan, tất nhiên là vì lợi ích của bản thân họ, tôi cho rằng họ đã gây ra nhiều điều rồ dại.” 

Trong thập kỷ qua, Putin nói, luật pháp quốc tế đã bị cưỡng bức phải thoái lui dưới hình thức của “chủ nghĩa vô chính phủ pháp lý”. Các quy định pháp lý đã bị thay thế bởi “sự diễn giải độc đoán và đánh giá thiên kiến.” Đồng thời, “kiểm soát toàn diện truyền thông toàn cầu đã tạo ra khả năng, nếu muốn, biến trắng thành đen và đen thành trắng.” 

Liên hệ với những sự tiết lộ về các chiến dịch của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, tổng thống Nga nói “đại ca” đang chi “hàng tỷ dollar để theo dõi toàn bộ thế giới, bao gồm cả các đồng minh thân cận nhất”. 

Phê phán các hoạt động của Hoa Kỳ ở Trung Đông, Afghanistan và Ukraina, Putin nói sự áp đặt độc đoán đơn phương thay vì dẫn đến hòa bình và thịnh vượng, đã tạo ra các kết quả trái ngược. “Thay vì giải quyết các xung đột thì dẫn đến sự leo thang của chúng, thay vì chủ quyền và quốc gia ổn định thì chúng ta thấy sự mở rộng của hỗn loạn, và thay vì dân chủ thì những lực lượng rất đáng ngờ, từ phát xít mới cho đến cực đoan Hồi giáo được hỗ trợ.” 

Ở Syria, Hoa Kỳ và đồng minh của họ có những kẻ nổi loạn được vũ trang và cung cấp tài chính, cũng như cho phép họ thu nhận lính đánh thuê từ nhiều quốc gia khác nhau. “Hãy cho tôi hỏi rằng những kẻ nổi loạn lấy tiền, vũ khí và chuyên gia quân sự từ đâu? Tất cả mọi thứ đến từ đâu? Làm thế nào mà nhóm ISIL khét tiếng trở thành một nhóm đầy quyền lực, một lực lượng vũ trang căn bản?” 

Không có gì phải hoài nghi khi Washington và các đồng minh Châu Âu đã đẩy thế giới tới bờ vực chiến tranh bằng cách chống lưng cho những tay sai Hồi giáo Sunni bảo thủ có liên hệ với Al Quaeda ở Trung Đông, và lực lượng phát xít như du kích Right Sector ở Ukraina. 

Tuy nhiên, sự phê phán của Putin là trống rỗng và bất lực về mặt chính trị. Chính phủ của ông ta dựa trên các gã côn đồ và du côn chủ nghĩa quốc gia để kiểm soát các khu vực thuộc Nga bị chia rẽ bởi chiến tranh sắc tộc, như Chechnya và Bắc Caucasus, cũng như ủng hộ du kích phản động Shiite do Iran hậu thuẫn ở Iraq và khắp Trung Đông. Các bình luận của Putin rút cục phản ánh nỗ lực triển khai thỏa thuận với các bộ phận của tầng lớp thống trị ở Hoa Kỳ cũng như Châu Âu, vốn đang quan ngại sự tin cậy của Hoa Kỳ đối với Al Qaeda và phát xít Ukraina có thể quá rủi ro đối với chính sách. 

Putin thúc giục một sự thừa nhận lớn hơn đối với các lợi ích của Kremlin, cho rằng thời kỳ đơn cực dưới sự thống trị của Hoa Kỳ đã cho thấy chỉ có một trung tâm quyền lực không làm cho chính trị thế giới dễ điều khiển hơn. Điều đó đã mở ra con đường cho sự thổi phồng tự hào quốc gia, thâu tóm ý kiến công chúng và “để cho những kẻ mạnh bắt nạt và đàn áp kẻ yếu. Về căn bản, thế giới đơn cực đơn giản là công cụ biện minh cho chế độ độc tài đối với nhân dân và quốc gia”. 

Putin cảnh báo rằng nếu không có một hệ thống các hiệp ước và cam kết rõ ràng để quản trị quan hệ quốc tế, cùng với cơ chế quản lý và xử lý các tình huống khủng hoảng, “hội chứng vô chính phủ toàn cầu sẽ gia tăng không thể tránh khỏi.” 

“Nhiều quốc gia không thấy con đường nào khác để đảm bảo chủ quyền của họ ngoài việc với lấy những quả bom của họ. Điều này cực kỳ nguy hiểm”, ông ta nói thêm. 

Những bình luận thẳng thắn của người đứng đầu một quốc gia trong số các quốc gia chính yếu sở hữu vũ khí hạt nhân là sự cảnh báo sâu sắc đối với giai cấp lao động. 

Mặc dù vậy, trong sự leo thang quân sự này, nguy cơ chủ yếu đối với giai cấp lao động quốc tế là chủ nghĩa sô vanh phản động Nga của chính quyền Putin. Thù địch mọi lời kêu gọi tình cảm chống chiến tranh của tầng lớp lao động quốc tế, mà họ sợ là sẽ gây nguy hiểm cho của cải phi nghĩa của họ, chính quyền Putin đã phản ứng với cuộc khủng hoảng Ukraina bằng cách gia tăng chủ nghĩa quân phiệt Nga và hoan nghênh chính quyền kiểu Sa hoàng. 

Trong bài phát biểu vào ngày 1 tháng 8 tại lễ kỷ niệm 100 năm thế chiến thứ I ở đồi Poklonnaya của Moscow, Putin đề cao cuộc tấn công “huyền thoại” của tướng Sa hoàng Aleksei Brusilov và lên án những người Bolshevik cũng như Cách Mạng Tháng Mười. Ông ta nói: “Chiến thắng đã bị đánh cắp khỏi đất nước. Chiến thắng bị đánh cắp bởi những kẻ kêu gọi sự bại trận của tổ quốc và quân đội, gieo mầm bất hòa cho trong nước Nga, và bất thình lình giành quyền lực, phản bội các lợi ích quốc gia”. 

Chủ nghĩa quốc gia phản cách mạng Nga sẽ phá sản hoàn toàn khi đối mặt với sự bùng nổ mới của khiêu khích và chiến tranh đế quốc. 

Bình luận mới nhất của Putin dường như được thúc đẩy, ít nhất là một phần, bởi nỗi sợ hãi đối với việc giá dầu toàn cầu sụt giảm nhanh chóng, cùng với các biện pháp trừng phạt được áp đặt ngoan cố của Hoa Kỳ, sẽ phá hủy kinh tế Nga. 

Giá dầu giảm, từ khoảng 100 dollar xuống 80 dollar/ thùng, có thể làm giảm 2 điểm phần trăm trong tổng sản phẩm quốc nội của Nga và ảnh hưởng nghiêm trọng tới ngân sách của chính quyền, do đó gây mất ổn định chính quyền Putin, vốn dựa trên một mạng lưới các tư bản tài phiệt hùng mạnh. 

Bất kể động cơ của bài phát biểu là gì, nguy cơ chiến tranh mà nó chỉ ra là có thực và đang gia tăng. Vấn đề được Putin công khai về vai trò của Hoa Kỳ không cần phải hoài nghi là sẽ được thảo luận sau những cánh cửa đóng kín tại các phòng họp chính trị ở các quốc gia chủ chốt. 

Tác động của giá dầu giảm đối với Nga đã cho thấy, những cẳng thẳng địa chính trị sẽ được thổi bùng lên bởi cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng hơn và khuynh hướng dẫn đến giảm phát cũng như trì trệ kinh tế khắp thế giới. 

Nguy cơ chiến tranh mà Putin mô tả được nhấn mạnh trong các bình luận về hội thảo của một chuyên gia Hoa Kỳ về Nga, Christopher Gaddy của viện Brookings. Hai ngày trước khi Putin phát biểu. Gaddy nhắc đến "Người Mộng Du", một cuốn sách về nguồn gốc thế chiến thứ I của nhà sử học Christopher Clark, và đưa ra sự tương đồng với tình hình hiện tại. 

“Tôi rất sợ rằng .. có các thành phần mộng du trong chính sách của những người chơi chủ chốt trên thế giới ngày nay”, Gaddy nói, đề cập rằng các biện pháp trừng phạt đối với Nga được Hoa Kỳ thiết kế và lôi kéo bởi một nhóm nhỏ với mục tiêu không rõ ràng cũng như kết quả đáng ngờ.