Thursday, October 23, 2014

Một huyền thoại chống Cộng Sản: Bức Tường Berlin

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài báo "The Berlin Wall: Another Cold War Myth" của tác giả nổi tiếng William Blum về sự thật phía sau Bức Tường Berlin. Tiêu đề do người dịch đặt.

Bức Tường Berlin: Một Huyền Thoại Chiến Tranh Lạnh Khác

Ngày 9 tháng 11 là dịp kỷ niệm lần thứ 25 ngày Bức Tường Berlin sụp đổ. Sự huyên náo cuồng nhiệt đã bắt đầu nhiều tháng trước ở Berlin. Ở Hoa Kỳ, chúng ta có thể tiên đoán rằng tất cả những sáo ngữ thời Chiến Tranh Lạnh về Thế Giới Tự Do đối đầu với Chuyên Chế Cộng Sản sẽ được được tuôn ra ào ạt và câu chuyện cổ tích ngây ngô về bức tường sẽ được nhắc lại: Vào năm 1961, cộng sản Đông Berlin đã dựng một bức tường để ngăn công dân bị đàn áp của họ khỏi trốn sang Tây Berlin và tự do. Tại sao? Bởi vì cộng sản không thích nhân dân tự do hay biết được “sự thật”. Còn lý do nào khác nữa không?

Đầu tiên, trước khi bức tường được dựng lên vào năm 1961 hàng ngàn người Đông Đức vẫn đi làm hàng ngày ở phía Tây và sau đó trở về nhà ở phía Đông vào buổi tối; nhiều người quay lại và tiếp tục mua sắm hay vì lý do khác. Rõ ràng là không có gì ở phía Đông chống lại ý muốn của họ. Tại sao bức tường được dựng lên? Có hai lý do chính:

1) Phía Tây làm phía Đông điêu đứng với một chiến dịch lớn tuyển dụng lao động chuyên môn và lành nghề, những người vốn được đào tạo bằng kinh phí của chính quyền cộng sản. Điều này dẫn tới khủng hoảng lao động và sản xuất nghiêm trọng ở phía Đông. Một trong những ghi nhận về điều đó, tờ New York đưa tin vào năm 1963: “Tây Berlin gánh chịu hậu quả kinh tế từ bức tường khi mất khoảng 60.000 lao động lành nghề, những người đi từ nhà của họ ở Đông Berlin đến làm công việc hàng ngày ở Tây Berlin.”

Cần phải ghi nhận rằng vào năm 1999, tờ USA Today đưa tin: “Khi Bức Tường Berlin sụp đổ [1989], người Đông Đức tưởng tượng về một cuộc sống tự do thừa thãi hàng tiêu dùng và khó khăn bị đẩy lùi. Mười năm sau, 51% nói rằng họ hạnh phúc hơn với chủ nghĩa cộng sản”. Các khảo sát trước đó hơn thậm chí còn cho thấy hơn 51% thể hiện cùng quan điểm, trong mười năm nhiều người trong còn nhớ cuộc sống ở Đông Đức với sự yếu mến đã qua đời; mặc dù vậy mười năm sau nữa, vào năm 2009, tờ Washington Post đã đưa tin: “Người Tây [Berlin] nói rằng họ chán ngấy với xu hướng đánh bóng các hoài niệm về thời cộng sản của những người đồng bào phía đông”. Đó là thời kỳ hậu thống nhất mà câu tục ngữ của nước Nga mới và Đông Âu được khai sinh: “Mọi thứ cộng sản nói về chủ nghĩa cộng sản là dối trá, nhưng mọi thứ họ nói về chủ nghĩa tư bản lại trở thành sự thật”. 

Cũng cần phải ghi nhận thêm rằng sự phân chia nước Đức thành hai quốc gia vào năm 1949 – đánh dấu 40 năm thù địch trong Chiến Tranh Lạnh – là quyết định của Hoa Kỳ, không phải là quyết định của Soviet.

2) Trong những năm 1950, những người hùng chiến tranh lạnh Hoa Kỳ ở Tây Đức đã thiết lập một chiến dịch phá hoại và lật đổ thô thiển chống lại Đông Đức, nhằm phá hoại bộ máy kinh tế và hành chính của nước này. CIA và các cơ quan tình báo khác của Hoa Kỳ cùng với quân đội đã tuyển mộ, trang bị, huấn luyện và tài trợ cho các nhóm hành động và cá nhân người Đức, cả Đông lẫn Tây, để thực hiện các hoạt động từ tội phạm vị thành niên cho tới khủng bố; bất cứ thứ gì gây khó khăn cho cuộc sống của người Đông Đức và làm suy yếu sự ủng hộ của họ đối với chính quyền; bất cứ thứ gì làm cho cộng sản có vẻ xấu xa. 

Đó là những âm mưu đáng chú ý. Hoa Kỳ và các tay sai của họ đã sử dụng chất nổ, phóng hỏa, cắt đường dây điện và những phương pháp khác để phá hoại các trạm điện, bến tàu, kênh, tòa nhà công cộng, trạm xăng, cầu…; họ làm chệch đường ray tàu hàng, gây thương tích nghiêm trọng cho công nhân; đốt cháy 12 toa của một tàu chở hàng và phá hủy nồi hơi của một tàu khác; sử dụng a xít để phá hoại máy móc của các nhà máy phục vụ cho đời sống; bỏ cát vào tua bin của một nhà máy, khiến nó ngừng hoạt động; phóng hỏa một nhà máy sản xuất ngói; kích động lãn công trong các nhà máy; đầu độc chết 7.000 con bò của một hợp tác xã sữa; bỏ xã phòng vào sữa bột cung cấp cho các trường học Đông Đức; bị bắt khi lưu trú, mang theo một lượng lớn chất độc cantharindin với kế hoạch sản xuất thuốc lá độc để giết hại các lãnh đạo Đông Đức; đặt bom bẩn để phá rối các cuộc họp chính trị; âm mưu phá hoại Liên Hoan Thanh Niên Thế Giới ở Đông Berlin bằng cách gửi các giấy mời bị tẩy xóa, lừa dối về chỗ ngủ và đi lại miễn phí, giả các thông báo về thay đổi chương trình… ; thực hiện các vụ tấn công người tham dự với chất nổ, bom cháy, và các thiết bị quấy nhiễu; tẩy xóa và phân phát một số lượng lớn các phiếu khẩu phần ăn gây rối loạn, thiếu hụt và oán giận, tẩy xóa các bản fax thông báo và hướng dẫn khác của chính quyền rồi gửi đi để ly gián tổ chức và vô hiệu hóa các ngành công nghiệp cũng như công đoàn… tất cả những chuyện như vậy và còn hơn nữa. 

Trung Tâm Học Giả Quốc Tế Woodrow Wilson, ở Washington DC, chiến binh chiến tranh lạnh bảo thủ, một trong số các nghiên cứu của họ, Văn Bản Nghiên Cứu Dự Án Lịch Sử Chiến Tranh Lạnh Quốc Tế (#58, trang 9) viết: “Biên giới mở ở Berlin đã đưa đến GDR [Đông Berlin] hàng loạt các hoạt động gián điệp cũng như lật đổ, và theo như hai tài liệu trong phụ lục cho thấy, việc đóng cửa đã giúp cho cộng sản an toàn hơn”.

Suốt những năm 1950, Đông Đức và Liên Bang Soviet thường xuyên đưa các bản kháng với nghị đồng minh trước kia của Soviet ở phía Tây và Liên Hiệp Quốc về hoạt động phá hoại và gián điệp nghiêm trọng cũng như kêu gọi đóng cửa các văn phòng ở Tây Berlin mà họ khẳng định là phải chịu trách nhiệm, họ cũng cung cấp tên và địa chỉ của những văn phòng đó. Các kháng nghị của họ đã bị lờ đi. Không còn cách nào khác, Đông Đức buộc phải đóng các lối vào từ phía Tây, dẫn đến bức tường tai tiếng. Mặc dù vậy, ngay cả khi bức tường đã được dựng lên thì vẫn thường có dòng người di cư hợp pháp tuy có giới hạn từ đông sang tây. Vào năm 1984, Đông Đức cho phép 40.000 người rời khỏi. Vào năm 1985, tạp chí Đông Đức khẳng định hơn 20.000 cựu công dân đã định cư ở phía Tây muốn quay trở về nhà sau khi thất vọng với hệ thống tư bản. Chính quyền Tây Đức nói rằng có 14.300 người Đông Đức đã trở về nhà trong 10 năm trước đó.

Chúng ta đừng quên rằng khi Đông Đức đã tẩy sạch phát xít, ở Tây Đức hơn một thập kỷ sau chiến tranh, các vị trí cao nhất trong chính quyền từ hành pháp, lập pháp cho tới tư pháp vẫn còn hàng sa số các “cựu” phát xít.

Cuối cùng, cần phải nhớ rằng miền đông Châu Âu trở thành cộng sản là do Hitler, với sự chấp thuận của phương Tây, đã dùng họ như là đường cao tốc tiến đến Liên Bang Soviet nhằm xóa sổ vĩnh viễn chủ nghĩa Bôn-sê-vích, và nước Nga trong thế chiến thứ I cũng như thứ II đã tổn thất 40 triệu người bởi phương Tây sử dụng con đường cao tốc này để xâm lược nước Nga. Không có gì ngạc nhiên khi sau thế chiến thứ II Soviet quyết định đóng cửa con đường cao tốc đó.

Một quan điểm bổ sung và rất thú vị về kỷ niệm Bức Tường Berlin, xin hãy xem bài báo “Humpty Dumpty and the Fall of Berlin’s Wall” của tác giả Victor Grossman. Grossman (tên khác là Steve Wechsler) trốn khỏi quân đội Hoa Kỳ ở Đức do những đe dọa thời kỳ MacCarthy, trở thành một nhà báo và nhà văn trong suốt những năm ông ở Cộng Hòa Dân Chủ (Đông) Đức. Ông hiện vẫn sống ở Berlin và gửi đi “Bản tin Berlin” về sự phát triển của Đức trên nền tảng sai lệch. Bạn có thể gửi đăng ký theo dõi vào địa chỉ email Wechsler_grossman@yahoo.de . Tiểu sử của ông: “Crossing the River: a Memoir of the American Left, the Cold War and Life in East Germany” được xuất bản bởi University of Massachusetts Press. Ông khẳng định là mình cá nhân duy nhất trên thế giới có bằng cử nhân của cả đại học Harvard và và đại học Karl Marx ở Leipzig.

Wednesday, October 22, 2014

Hoa Kỳ: Cảnh sát bảo vệ hay xâm lược cộng đồng?

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Ferguson Killing Exposes the Reality Of Militarized, Racist Policing directed against African Americans" của hai tác giả Kevin Zeese and Margaret Flowers bình luận về chính sách quân sự hóa cảnh sát ở Hoa Kỳ sau sự kiện ở thành phố Ferguson. Tiêu đề bài viết do người dịch đặt.

Vụ giết người ở Ferguson cho thấy hiện thực phân biệt chủng tộc và quân sự hóa cảnh sát trực tiếp chống lại người Mỹ gốc Phi

Vụ giết hại Michael Brown do một sĩ quan cảnh sát, người được xác định vào thứ sáu là Darren Wilson, và cuộc bạo động trong đó cảnh sát vũ trang và bạo lực được sử dụng để đối phó với người biểu tình ôn hòa cũng như phóng viên cho thấy những thứ đã được tích tụ trong suốt nhiều năm. Nhiều người đã viết về quân sự hóa cảnh sát và tác động bất thường của nó đối với người da màu, nhưng giờ đây nhiều người Mỹ hơn đã được chứng kiến sự thật đó và không thể thoát khỏi nó.

Michael Brown là một trong số bốn người da đen không có vũ trang bị cảnh sát giết hại vào những tháng trước. Vào ngày 17 tháng 7, Eric Garner bị giết bằng một đòn khóa bất hợp pháp ở New York. Vào ngày 5 tháng 8, John Crawford bị bắn tại một cửa hàng ở Beavercreek, OH. Ngay sau cái chết của Brown, vào ngày 9 tháng 8, Ezell Ford, một thanh niên bị bệnh thần kinh đã bị bắn ở Los Angeles. Đó là bốn trong số rất nhiều trường hợp, theo một nghiên cứu mới đây, cứ mỗi 28 giờ lại có một người da đen bị cảnh sát, nhân viên an ninh hay dân phòng giết hại. Cả quốc gia đang chứng kiến những thảm kịch này; hiện thực đã được cưỡng bức áp đặt cho chúng ta. 

Phản ứng của công chúng trước sự kiện đã phổ biến nhanh chóng. Vào tối thứ năm biểu tình được tổ chức từ bờ này đến bờ kia đại dương thể hiện tình ái hữu với người dân Ferguson và sự đau buồn trước cái chết của Michael Brown cũng như những cái chết do cảnh sát gây ra trên khắp cả nước. Lời kêu gọi phi quân sự hóa cảnh sát của Tổng Chưởng Lý và các quan chức dân cử đang được thúc đẩy. Bộ Tư Pháp (DOJ) đã công bố một cuộc đánh giá rộng rãi về các hoạt động cảnh sát dẫn đến thiệt hại nhân mạng. Người dân đang kêu gọi gây sức ép buộc DOJ phải hành động, xin hãy xem: Yêu cầu Bộ Tư Pháp chấm dứt cảnh sát phân biệt chủng tộc và quân sự hóa.

Đây là thời điểm đáng chú ý và là cơ hội để thúc đẩy việc thay đổi ngành cảnh sát. Hàng trăm ngàn người Mỹ theo dõi sự kiện bộc lộ ở Ferguson. Công chúng thấy cảnh sát bắn hơi cay vào cộng đồng trong đám tang, bắn đạn cao su và dùng loa công suất lớn để giải tán họ. Công chúng thấy cảnh sát theo kiểu quân đội lùa họ vào các khu dân cư để tiếp tục bắn hơi cay và đạn cao su. Công chúng thấy các phóng viên bị ngược đãi và bị bắt giữ khi đội SWAT chiếm nhà hàng McDonald, nơi họ đang tường thuật tin tức và các phóng viên khác bị tấn công bằng hơi cay, sau đó cảnh sát tước các trang thiết bị của nhà báo.

Những sự kiện này khiến cho các trang tin tức tường thuật về hoạt động của cảnh sát cấp tập hơn. Trả lời về vụ bắt giữ một trong số các phóng viên của họ, Ryan Grim viết trên tuyên bố chính thức của Huffington Post về việc bắt giữ nhà báo nêu một điểm chính yếu: “Quân sự hóa cảnh sát là một trong những sự phát triển tự mãn và thiếu được chú ý nhất trong thời đại chúng ta.” Cảnh sát Ferguson đã tỏ ra xuất sắc trong việc thu hút sự chú ý của quốc gia đối với hiện thực cảnh sát của thế kỷ 21 và nhu cầu thay đổi cấp thiết đối với phương hướng của nó.

Hùng biện về “cuộc chiến” chống ma túy cũng như “cuộc chiến” chống tội phạm từ lâu không còn là hùng biện. Trong một số thập kỷ qua, lực lượng cảnh sát ở Hoa Kỳ, cả cảnh sát ở các thị trấn nhỏ, đã được chính phủ liên bang quân sự hóa. Quân sự hóa là một phần của sự leo thang đàn áp bất đồng chính kiến; và mục tiêu của hoạt động cảnh sát cực đoan là các cộng đồng da màu. Các thực tiễn như “chặn và khám xét” và “lái xe khi da đen”, cũng như hoạt động cảnh sát nhắm vào người Arab và người Hồi giáo, đã cho thấy sự phân biệt chủng tộc là một chính sách có chủ ý về cảnh sát trên khắp đất nước.

Phần lớn điều đó diễn ra tại các sở cảnh sát trong bí mật và không minh bạch hay có sự tranh luận công khai. Liệu công chúng có muốn lực lượng cảnh sát quân sự hóa khi họ có tiếng nói trong việc ra quyết định? Thiếu vắng quy trình dân chủ, Hoa Kỳ dường như đã tạo ra đội quân thường trực xâm phạm các nền tảng của của Hiến Pháp Hoa Kỳ. Cảnh sát quân sự hóa áp dụng luật lệ không công bằng, vi phạm các luật bảo vệ quyền bình đẳng cũng như hủy hoại hệ thống tư pháp khi cảnh sát vừa là quan toà vừa là người thi hành.

Chúng ta rơi vào tình trạng này ra sao? 

Cảnh sát phân biệt chủng tộc không hề mới. Như Victor E. Kappeler chỉ ra, “cảnh sát St. Louis đã được thành lập để bảo vệ các cư dân trước dân bản địa tại thành phố biên giới” và “vào năm 1704, thuộc địa của Carolina đã thàng lập đơn vị tuần tra nô lệ đầu tiên của quốc gia”. Những đơn vị tuần tra đã phát triển thành các đơn vị cảnh sát. Mục tiêu của cảnh sát ban đầu là kiểm soát nô lệ và bảo vệ lợi ích tài sản của chủ nô. Di sản phân biệt chủng tộc đó còn tiếp tục tới ngày nay. 

Ferguson không phải là bất thường khi đề cập tới sự bất bình đẳng chủng tộc trong hoạt động cảnh sát, sự căng thẳng giữa cảnh sát và cộng đồng người Mỹ gốc Phi đã tích tụ nhiều năm. Một cộng đồng có 2/3 là người Mỹ gốc phi, nhưng chỉ có 3/53 sĩ quan cảnh sát là người da màu. Theo báo cáo hàng năm của Tổng Chưởng Lý Missouri về hoạt động cảnh sát, mặc dù chiếm 63% dân số Ferguson nhưng người da màu chiếm tới 86% các vụ bị chặn xe. Người da màu bị khám xét gần gấp đôi và bị bắt gấp hai lần so với người da trắng mặc dù người da trắng mang hàng lậu thường xuyên hơn. So với các thống kê tồi tệ đó thì tình trạng ở Missouri còn tồi tệ hơn. Tổ chức NAACP cáo buộc St. Louis về sự phân biệt chủng tộc trong việc chặn xe. Một cư dân nói với tờ Washington Post: “Mọi người trong thành phố này là nạn nhân của DWB [lái xe khi là da đen]”.

Quân sự hóa cảnh sát đang là hiện tượng rõ nét hơn. Peter Kraska của Đại Học Miền Đông Kentucky đã viết về hiện tượng này từ đầu những năm 1990. Ông ấy ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng của các đơn vị cảnh sát bán quân sự (PPU, đội SWAT không chính thức) được mô phỏng theo các đơn vị đặc nhiệm trong quân đội. PPU đã không tồn tại ở bất cứ đâu cho đến năm 1971, khi Los Angeles dưới sự lãnh đạo của cảnh sát trưởng Daryl Gates, tổ chức đơn vị đầu tiên và sử dụng nó để đột kích các ngôi nhà với xe bọc thép trang bị cọc lao. Vào năm 2000, có 30.000 đội cảnh sát SWAT; báo cáo của Kraska cho biết cuối những năm 1990, 89% sở cảnh sát thành phố hơn 50.000 dân có PPU, hầu hết tăng gấp đôi số lượng so với giữa những năm 80; và ở các thị trấn nhỏ giữa 25.000 và 50.000 dân, 80% sở cảnh sát có PPU tăng gấp bốn lần so với 20% vào giữa những năm 80.

Kraska cho biết đội SWAT đã thực hiện 45.000 nhiệm vụ trong năm 2007 so với 3.000 vào đầu những năm 80. Ông chỉ ra nhiệm vụ thông thường nhất là thực hiện lệnh khám xét ma túy, chiếm 80% số lần, nhưng họ cũng được gia tăng sử dụng trong tuần tra khu dân cư. Những con số này phù hợp với báo cáo mới đây của ACLU.

Một trong những nhà sử học quan trọng khác về sự gia tăng quân sự hóa trong cảnh sát là Radley Balko, tác giả của cuốn sách Rise of the Warrior Cop: The Militarization of America’s Police Forces. Ông cho biết “việc sử dụng đội SWAT gia tăng 1.500% trong hai thập kỷ qua” và viết trên tờ ABA Journal vào năm 2013 rằng “đội SWAT đột kích đầy bạo lực vào nhà tư nhân hơn 100 lần mỗi ngày.” Việc họ dùng lựu đạn choáng gây ra tổn thương cho trẻ em và một bé gái bẩy tuổi bị bắn chết lúc đang ngủ khi đội SWAT đột kích nhầm nhà. Có rất nhiều ví dụ tương tự như vậy. 

Colin Jenkins đã chỉ ra trong bài Coming Home to Roost: American Militarism, War Culture, and Police Brutality, rằng đó là quá trình diễn ra dần dần. Chưa bao giờ có tranh luận về việc quân sự hóa cảnh sát, thay vào đó là hàng loạt các quyết định về phong trào biểu tình những năm 60, cuộc chiến chống ma túy và hoạt động cảnh sát sau ngày 11 tháng 9. Xu hướng trở nên đặc biệt đáng chú ý vào những năm 1980, khi cuộc chiến chống ma túy dưới thời Reagan tạo ra ngoại lệ đối với Luật Posse Comitatus, một luật về thời kỳ tái cấu trúc buộc quân đội đứng ngoài việc hành pháp nội địa. Đó là khi đội SWAT bắt đầu được sử dụng để thực hiện lệnh khám xét ma túy. Kỷ nguyên hậu 9 tháng 11 đã mang lại cho cảnh sát quyền lực lớn hơn với Luật Yêu Nước và có vẻ như là nguồn lực không giới hạn để chống khủng bố. Dĩ nhiên quân sự hóa cảnh sát hiếm khi được sử dụng chống khủng bố nội địa bởi thực sự là không có nhiều khủng bố ở Mỹ.

Jenkins chỉ ra hàng tỷ dollar thiết bị quân sự đã chảy vào các sở cảnh sát trên khắp đất nước: “Họ có mọi thứ từ áo giáp, vũ khí hỏa lực mạnh cho tới xe bọc thép, thậm chí cả máy bay không người lái”. Ông hỏi tại sao, chỉ ra rằng đó không phải bởi vì sự an toàn, ghi nhận là có 50 thiệt mạng hàng năm trong số 900.000 sĩ quan cảnh sát trên cả nước. Có nghĩa là chỉ có 1 trong số 18.000 cảnh sát bị giết mỗi năm (sự kỳ quặc là bị chết bởi sét đánh trong đời bạn có tỷ lệ là 1/3.000). Ông lên án văn hóa chiến tranh Mỹ và tin rằng cảnh sát trở thành quân sự bởi họ chuyển từ phòng thủ sang tấn công vào những nơi họ đối đầu và đàn áp nhân dân, hơn là bảo vệ và phục vụ cộng đồng.

Vấn đề có thể bị làm tồi tệ thêm bởi những chương trình như của Phòng Thương Mại, ‘Thuê Những Người Hùng Của Chúng Ta’, nhằm tuyển mộ những lính đương nhiệm và cựu binh vào các sở cảnh sát. DOJ có một chương trình được gọi là ‘COPS’ xét tuyển nhanh các thành viên của quân đội tham gia vào hoạt động cảnh sát. Sở Cảnh sát San Antonio kiêu hãnh về các thành viên quân đội chuyển đổi dễ dàng vào công việc cảnh sát. Dĩ nhiên là đơn giản bởi vì họ đang sử dụng cùng một trang thiết bị và kỹ thuật. Điều đó dấy lên sự lo ngại về tác động của hoạt động cảnh sát trong môi trường quân sự hóa đối với những cựu binh đã trải qua Rối Loạn Căng Thẳng Hậu Chấn Thương. Đó là vấn đề về sử dụng steroid trong cảnh sát, có tác động tâm lý, được gọi là “điên khùng roid.”

Huấn luyện quân sự cho sĩ quan cảnh sát có thể tạo ra việc các chiến thuật hung hãn được thi hành đối với cộng đồng. Báo cáo của ACLU cho biết Vệ Binh Quốc Gia đang huấn luyện cảnh sát, và đó cũng là chương trình huấn luyện do Lực Lượng Phòng Vệ Israel tổ chức.

Newsweek tường thuật trang thiết bị quân sự là do sự phình ra của quân đội Hoa Kỳ. Ngân sách của họ chiếm hơn nửa chi tiêu khả biến và vào năm 1990 Quốc hội bổ sung vào Luật Ủy Quyền Phòng Vệ Quốc Gia một điều khoản, mục 1033, cho phép Bộ Quốc Phòng (DoD) chuyển giao các trang thiết bị quân sự không còn cần thiết sang các đơn vị liên bang và bang để hỗ trợ cuộc chiến chống ma túy.

ACLU cho biết 4,3 tỷ dollar trang thiết bị đã được chuyển giao theo điều khoản này. Chương trình bao gồm 17.000 đơn vị hành pháp của tất cả các bang và lãnh thổ. Chương trình được mở rộng từ 1 triệu dollar năm 1990 lên 450 triệu dollar vào năm 2013. Sự lãng phí trong ngân sách của DoD được tiết lộ qua sự thật là 36% số trang thiết bị được chuyển giao chưa từng được quân đội sử dụng.

ACLU nghiên cứu tại 20 bang với 800 đội SWAT trong năm 2011-2012. Họ thấy rằng “tổng số 15.054 vật phẩm đồng phục chiến đấu hoặc trang bị bảo vệ cá nhân được cấp cho 63 đơn vị hồi đáp… và khoảng 500 đơn vị hành pháp nhận được loại xe chống mìn phục kích, được chế tạo để chống lại bom xuyên giáp trên mặt đường”. Đội SWAT sử dụng chủ yếu (79% số lần) trong việc khám xét ma túy, báo cáo cũng kết luận rằng quân sự hóa cảnh sát tác động chủ yếu tới người da màu. Khi cảnh sát có các trang thiết bị dạng này, không có gì ngạc nhiên là họ sử dụng chúng và các hoạt động của họ có tính quân sự hơn.

Rất quan trọng khi nhấn mạnh rằng chúng ta rơi vào tình trạng này mà không có tranh luận công khai. Trong thực tế các nỗ lực thu thập thông tin về quân sự hóa cảnh sát và đội SWAT thường xuyên bị ngăn chặn. Ở Massachusetts, nhóm Privacy SOS của ACLU cố gắng thu thập thông tin thông qua yêu cầu ghi nhận thông tin công khai. Họ được cho biết là đội SWAT được miễn trừ bởi vì đó là thực thể cá nhân, Hội Đồng Thực Thi Pháp Luật, không phải là đối tượng của luật ghi nhận thông tin công khai. Họ sẽ không cung cấp các thông tin cơ bản như số vụ đột kích mà họ thực hiện. 

Rất nhiều hoạt động thực thi pháp luận bán quân sự được thực hiện với các lực lượng liên ngành, thiếu sự minh bạch. Nhóm Privacy SOS cho biết công việc được hoàn thành thông qua Khu Vực Buôn Bán Ma Túy Cường Độ Cao New England (NEHIDTA). Khi được yêu cầu về tài liệu, họ từ chối với lý do rằng “HIDTA không phải thực thể hợp pháp có thể cung cấp bất cứ thông tin gì. Hơn nữa HIDTA là sự phối hợp của nhiều đơn vị chức năng bộ và ngành. Mọi thông tin truyền qua HIDTA được coi là tài sản duy nhất của đơn vị ban đầu, và không phải là là tài sản của HIDTA”. Nhóm Privacy SOS chỉ ra rằng việc quân sự hóa cảnh sát đã được thực hiện song song với liên bang hóa cảnh sát địa phương và cả hai đều không gặp phải bất cứ cuộc tranh luận công khai nào. Cảnh sát tự trị, hơn là bị cai trị bởi nhân dân theo bất cứ cách dân chủ nào.

Một khu vực khác nơi cảnh sát bị quân sự hóa được sử dụng để đàn áp bất đồng chính trị. Trong các cuộc cắm trại chiếm đóng, cảnh sát quân sự hóa được sử dụng rất hung hãn trên khắp cả nước để cưỡng bức dỡ bỏ trại. Một lần nữa, điều này xảy ra diễn ra thông qua liên bang hóa cảnh sát địa phượng trong Lực Lượng Thực Thi Hỗn Hợp với các đơn vị liên bang như FBI hay An Ninh Nội Địa. Nó không chỉ tác động tới Chiếm đóng mà quân đội đã được cả Đại Hội Đảng Dân Chủ cũng như Đảng Cộng Hòa vào năm 2012 kêu gọi một lần nữa hợp tác với cảnh sát địa phương dưới sự bảo trợ của Lực Lượng Thực Thi Hỗn Hợp trong phạm vi Tư Lệnh Quân Sự Miền Bắc. 

Cần điều gì để chấm dứt quân sự hóa hoạt động cảnh sát? 

Một khảo sát của Reason Rupe vào tháng 12 năm 2013 cho thấy 58% người Mỹ đồng ý rằng cảnh sát đã đi quá xa khi họ sử dụng các trang thiết bị quân sự. Giờ đây khi mọi người khám phá ra sự lạm dụng sở Ferguson, con số đó sẽ tăng lên. Chúng ta có thể thấy sự gia tăng của phe đối lập đối với việc quân sự hóa cảnh sát và phân biệt chủng tộc trong cuộc biểu tình từ bờ này đến bờ kia đại dương diễn ra tuần này.

Các cựu chiến binh đang lên tiếng. Paul Szoldra một lính thủy nghỉ hưu đã từng phục vụ ở Afghanistan, biết tại sao bạn cần bộ đồ rằn ri trong hoạt động quân sự, nhưng không phải là trong hoạt động cảnh sát và kết luận “dường như các sĩ quan cảnh sát đã cởi bỏ bộ đồng phục xanh để mặc đồng phục và trang bị quân sự, đang mang theo tâm trạng đó cùng với nó”. Ông viết, thông điệp mà người lính mặc đồng phục ở Afghanistan là: “’Chúng tôi là quân đội, và chúng tôi đang kiểm soát’. Nhiều người Afghanistan nhìn chúng tôi như những kẻ chiếm đóng”. Đâu là thông điệp mà cảnh sát Hoa Kỳ đang chuyển tới cộng đồng mà họ phải “bảo vệ và phục vụ”?

Andrew Exum, cựu sĩ quan bộ binh tóm tắt tình hình trong một tweet: “Quân sự hóa lực lượng hành pháp là trái ngược với hoạt động cảnh sát nội địa và cần phải chấm dứt”. Chúng ta kỳ vọng đây là lúc ý kiến của công chúng phát tán nhanh chóng tại Hoa Kỳ. Điều gì cần phải làm để điều chỉnh, để phi quân sự hóa và mang lại nhận thức thông thường đối với hoạt động cảnh sát?

Những lời kêu gọi phi quân sự hóa hoạt động cảnh sát đang gia tăng kể từ khi các sự kiện nổ ra ở Ferguson của Tổng Chưởng Lý Holder và thượng nghị sĩ Cộng Hòa Henry Johnson (D-GA) đã gửi một lá thư “Các đồng nghiệp kính mến” mời các nghị sĩ cùng tham gia với ông hạn chế trang bị quân sự cho các sở cảnh sát. Ông viết: 

“Chúng ta phải tỏ ra quan ngại về việc chúng ta cung cấp một số lượng không hạn định trang thiết bị quân sự  cho cảnh sát địa phương và khuyến khích sử dụng chúng nhằm thực thi các hoạt động hành pháp thông thường. Đó là lý do tại sao tôi sẽ sớm triển khai chương trình cải tổ “Chấm Dứt Quân Sự Hóa Hoạt Động Hành Pháp”. Dự luật của tôi sẽ giải thực hiện hai điều. (1) Giới hạn kiểu trang thiết bị có thể chuyển giao. (2) Yêu cầu các bang xác nhận rằng họ có thể thống kê toàn bộ các trang thiết bị. 

Chúng ta vui lòng thấy Bộ Tư Pháp cuối cùng cũng thông báo một cuộc đánh giá rộng rãi về hoạt động cảnh sát. Mặc dù trong nhiệm kỳ của tổng thống Obama thường xuyên có các vụ giết hại người Mỹ gốc Phi. Cuối cùng thì DOJ thông báo họ sẽ đánh giá các hoạt động cảnh sát dẫn đến lạm dụng. Trong phạm vi điều tra có việc sử dụng lực lượng sát thương, hành xử của cảnh sát với người bị bệnh thần kinh và các công nghệ mới được cảnh sát sử dụng. Người dân có thể thoải mái liên lạc với Bộ Tư Pháp về những quan ngại (địa chỉ email của họ là AskDOJ@usdoj.gov.). Vì một hoạt động dân chủ, người dân cần tham gia, hợp tác và biểu lộ quan điểm. 

Một số đang chống lại các vụ sát hại mang tính phân biệt chủng tộc của cảnh sát trên vũ đài quốc tế. Ron Davis, bố mẹ của một thanh niên da màu bị sát hại khác, đang giận dữ về những kẻ thủ ác không bị trừng phạt trên cả nước. Ông ấy sử dụng cuộc họp thứ 85 của Ủy Ban Xóa Bỏ Phân Biệt Chủng Tộc ở Geneva, Thụy Sĩ để gây sức ép buộc Washington phải chấm dứt việc “tội phạm hóa chủng tộc” ở Hoa Kỳ. Trong cuộc họp, Hoa Kỳ bị buộc phải trả lời các câu hỏi về vấn đề nỗ lực thực hiện trách nhiệm của Hoa Kỳ.

Chúng tôi đã viết một bài báo cho Green Shadow Cabinet về trách nhiệm lành mạnh đối với một dịch bệnh như nạn giết hại thanh niên da màu. Thay vì quân sự hóa cảnh sát gia tăng căng thẳng trong các cộng đồng bị tổn thương, cảnh sát và các cơ quan chính quyền khác nên ủng hộ các cuộc biểu tình hòa bình; điều đó sẽ gia tăng sự minh bạch về chi tiết và điều tra đối với các sự kiện cũng như các nhân viên xã hội và chuyên gia tâm lý học nên sẵn sàng hỗ trợ cho các thành viên cộng đồng.

Chúng tôi đồng tình với khuyến nghị của tổ chức ACLU, mà chúng tôi tóm tắt như sau:

Các cải tổ ngành cảnh sát phải theo hệ thống, đây không phải là một vài trái táo thối mà là vấn đề về hoạt động cảnh sát cấp độ quốc gia. Chính phủ liên bang có quyền lực để đảm bảo các trang thiết bị quân sự không được sử dụng trong hoạt động cảnh sát thông thường, như khám xét ma túy hay tuần tra đường phố, chỉ giới hạn trong những tình huống thực sự nguy hiểm, như cố thủ, tình huống con tin hay có kẻ bắn chủ động. Chính quyền liên bang nắm giữ nguồn cung và kiểm soát trang thiết bị quân sự do đó họ có thể có tạo ra ảnh hưởng lớn bằng cách cắt giảm hay thậm chí ngừng chuyển giao trang thiết bị quân sự cho các bang.

Nhà nước và chính quyền địa phương phải giới hạn việc sử dụng các đội SWAT cho các tình huống đặc biệt. Các tiêu chuẩn cần được thiết lập rõ ràng để các quyết định chủ quan của cảnh sát không dẫn đến việc dùng sai đội SWAT. 

Đội SWAT không bao giờ được triển khai đơn nhất dựa trên cơ sở là khả năng hiện diện ma túy. Sự hiện diện của ma túy không thể đánh đồng với bạo lực và nhiều vụ lạm dụng của đội SWAT đã dẫn đến giả định sai lầm đó. Đội SWAT chỉ thích hợp nếu tình huống được chỉ ra rằng cảnh sát thông thường sẽ không thể thực hiện lệnh một cách an toàn.

Khi đội SWAT được sử dụng thì cần phải có tỷ lệ thích hợp. Một đội SWAT hoàn chỉnh là 20 sĩ quan và trong nhiều trường hợp triển khai một phần là thích hợp hơn cũng như không gây leo thang căng thẳn hay gây nguy hiểm đối với công dân. 

Các chương trình huấn luyện thúc đẩy tinh thần “chiến binh” cần được hạn chế.

Cần có sự minh bạch để công chúng biết được cách cảnh sát bảo vệ cộng đồng của họ và có cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết định. Một ánh sánh mạnh cần soi tỏ những chính sách này, hành động và trang thiết bị, cần phải đặt dưới sự giám sát của công chúng. Điều này đòi hỏi thu thập dữ liệu về trang thiết bị nhận được, chúng ở đâu và được sử dụng ra sao. Ngay hiện giờ không có lưu trữ thường xuyên được thực hiện.

Cuối cùng chúng tôi thúc giục các cá nhân sĩ quan cảnh sát, những người thừa nhận rằng quân sự hóa hoạt động cảnh sát là hủy hoại khả năng khiến họ trở thành một phần của cộng đồng, để phục vụ công dân và bảo vệ họ, hãy lên tiếng. Chúng tôi đã chứng kiến tác động của hoạt động cảnh sát thông minh khi thống đốc Nixon giao trọng trách cho Tuần Tra Đường Cao Tốc Bang và đại úy Ron Johnson tham gia đoàn tuần hành và bỏ mũ sắt. Tất nhiên một nỗ lực lớn hơn để phi quân sự hóa cảnh sát sẽ khởi đầu với các sĩ quan cảnh sát về hưu, nhưng điều quan trọng đối với đa số cảnh sát im lặng, những người chứng kiến vấn đề của việc quân sự hóa, là nói ra. Hãy để đồng nghiệp của bạn biết rằng cảnh sát là một phần của cộng đồng, không phải kẻ chiếm đóng cộng đồng.

Friday, October 17, 2014

Mười sự thật về người vô gia cư ở Hoa Kỳ

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "10 Facts About Being Homeless in the USA" của tác giả Bill Quigley, một giảng viên luật học, trình bày những thống kê căn bản về người vô gia cư ở Hoa Kỳ.

10 Sự Thật Về Người Vô Gia Cư ở Hoa Kỳ

Ba câu chuyện có thật

Renee Delisle là một trong số 3.500 người vô gia cư ở Santa Cruz khi cô ấy biết mình mang bầu. 

Tờ The Santa Cruz Sentinel đưa tin cô bị đuổi khỏi nhà tạm cư vì họ không có chỗ cho cô. Trong khi những người vô gia cư khác ngủ trong xe hơi hoặc dưới cống ngầm thì Rene sống trong một hầm thang máy bỏ hoang cho tới khi cô vỡ ối. 

Jerome Murdough, 56 tuổi, một cựu lính thủy vô gia cư, bị bắt vì tội xâm nhập ở New York do người ta tìm thấy ông ta ngủ ở chân cầu thang nhà công cộng vào một đêm lạnh giá. Tờ The New York Times đưa tin một tuần sau, Jerom chết bởi suy giảm thân nhiệt trong một phòng giam được sưởi ấm tới hơn 100 độ. 

Paula Corb và hai con gái mất nhà và phải sống trong một chiếc xe tải mini suốt bốn năm. Họ phơi đồ trong chái nhà thờ, sử dụng nhà tắm ở trạm xăng, và học dưới đèn đường, theo tờ America Tonight.

Sự thật thứ nhất. Hơn nửa triệu người vô gia cư

Bất cứ đêm nào, có hơn 600.000 người vô gia cư ở Hoa Kỳ theo Bộ Nhà Ở và Phát Triển Đô Thị (HUD). Hầu hết mọi người qua đêm tại các nhà tạm cho người vô gia cư hoặc ở một số dạng nơi trú ngụ chuyển tiếp ngắn hạn. Khoảng hơn một phần ba sống trong xe hơi, dưới gầm cầu hay theo cách không nhà khác. 

Sự thật thứ hai. Một phần tư số người vô gia cư là trẻ em 

Các báo cáo của HUD vào một đêm bất kỳ có hơn 138,000 người vô gia cư ở Hoa Kỳ là trẻ em dưới 18 tuổi. Hàng ngàn trong số đó không có người bảo trợ theo thống kê của HUD. Một chương trình liên bang khác, Không Trẻ Em Bị Bỏ Rơi, định nghĩa trẻ em vô gia cư rộng hơn và bao gồm không chỉ những trẻ em sống trong nhà tạm hay nhà chuyển tiếp mà cả những trẻ em phải chia sẻ nơi trú ngụ với các cá nhân khác do kinh tế khó khắn, sống trong xe hơi, công viên, trạm xe bus hay tàu điện, hay chờ nơi nhận chăm sóc. Theo định nghĩa này, Trung Tâm Quốc Gia về Giáo Dục Vô Gia Cư báo cáo vào tháng 9 năm 2014 rằng các trường địa phương ở quận cho biết có hơn một triệu trẻ em vô gia cư trong các trường công.

Sự thật thứ ba. Hàng chục ngàn cựu chiến binh vô gia cư 

Hơn 57,000 cựu chiến binh vô gia cư hàng đêm. Sáu mươi phần trăm số họ ở trong nhà tạm, phần còn lại không nhà. Gần 5000 trong số đó là nữ. 

Sự thật thứ tư. Bạo lực gia đình là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng vô gia cư ở nữ giới

Hơn 90% phụ nữ vô gia cư là nạn nhân của nhiều dạng lạm dụng thân thể hoặc lạm dụng tình dục và thoát khỏi sự lạm dụng là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng vô gia cư của họ.

Sự thật thứ năm. Nhiều người vô gia cư vì họ không thể trả tiền thuê nhà 

Thiếu khả năng đáp ứng nhà ở giá phải chăng là nguyên nhân căn bản của tình trạng vô gia cư theo Trung Tâm Luật Quốc Gia về Vô Gia Cư và Nghèo Khổ. HUD cho thấy ngân sách bị cắt giảm hơn 50% trong thập kỷ qua đã gây tổn thất 10,000 đơn vị thu nhập thấp được trợ cấp chỗ ở mỗi và hàng năm. 

Sự thật thứ sáu. Có ít nơi cho người nghèo thuê hơn trước đây 

Một phần tám nguồn cung quốc gia cho chỗ ở thu nhập thấp đã biến mất vĩnh viễn kể từ năm 2001. Hoa Kỳ cần ít nhất thêm 7 triệu căn hộ nữa cho các hộ gia đình thu nhập thập và kết quả là hàng triệu gia đình chi hơn nửa thu nhập hàng tháng của họ cho tiền thuê nhà. 

Sự thật thứ bẩy. Trong vài năm qua hàng triệu người đã mất nhà 

Hơn năm triệu căn nhà đã bị tịch biên kể từ năm 2008, một trong mười căn nhà là vật cầm cố. Điều này là nguyên nhân khiến càng nhiều người hơn tìm kiếm căn hộ cho thuê có giá vừa phải. 

Sự thật thứ tám. Chính quyền không giúp được nhiều như bạn nghĩ 


Sự thật thứ chín. Một phần năm người vô gia cư phải chịu đựng các tổn thương tinh thần mà không được chăm sóc

Trong khi có khoảng 6% dân số phải chịu đựng các tổn thương tinh thần, có từ 20 đến 25% người vô gia cư phải chịu đựng các tổn thương tinh thần theo các nghiên cứu của chính phủ. Một nửa số đó tự chăm sóc và dẫn đến rủi ro nghiện thuốc và thiếu sức khỏe. Một nghiên cứu của đại học Pennsylvania theo dõi gần 5000 người vô gia cư trong hai năm đã phát hiện ra rằng đầu tư cho hỗ trợ sức khỏe toàn diện và chăm sóc tổn thương cơ thể cũng như tinh thần tốn kém ít hơn tống giam, cung cấp nơi ở tạm, và dịch vụ y tế cho những người vô gia cư không được chăm sóc. 

Sự thật thứ mười. Các thành phố đang ngày càng coi vô gia cư là tội phạm 

Một khảo sát năm 2014 tại 187 thành phố do Trung Tâm Luật Quốc Gia Về Vô Gia Cư Và Nghèo Khổ đã cho thấy: 24% số thành phố coi ăn xin ở nơi công cộng là tội phạm; 33% coi đứng quanh hay lảng vảng tại bất cứ đâu trong thành phố là bất hợp pháp; 18% coi việc ngủ ở bất cứ nơi công cộng nào cũng là tội phạm; 43% coi việc ngủ trong xe hơi là bất hợp pháp; và 53% coi việc ngồi hay nằm tại một nơi công cộng cụ thể là bất hợp pháp. Số lượng thành phố coi vô gia cư là tội phạm đang tăng dần lên. 

Từ Pol Pot đến ISIS

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "From Pol Pot to ISIS" đăng trên tạp chí Cold Type số 90 tháng 10 năm 2014 của nhà báo nổi tiếng John Pilger, người đã từng có mặt trong các cuộc chiến tranh ở Đông Dương cũng như Trung Đông. Bài báo chỉ ra sự tương đồng giữa Pol Pot ở Campuchia trước kia với ISIS ở Iraq hiện nay.

Từ Pol Pot đến ISIS

Truyền tải mệnh lệnh của tổng thống Richard Nixon về ném bom “hàng loạt” ở Campuchia vào năm 1969, Henry Kissinger đã nói, “Bất cứ thứ gì bay trên mọi thứ nhúc nhích”. Khi Barack Obama kích động cuộc chiến thứ bảy chống lại thế giới Hồi giáo kể từ lúc ông ta nhận giải Nobel Hòa Bình, sự cuồng loạn và dối trá có tổ chức lại gợi nhớ đến sự trung thực chết chóc của Kissinger.

Với tư cách người chứng kiến hậu quả đối với con người của các cuộc không kích dã man – cũng như chặt đầu nạn nhân, trang trí cây cối và các cánh đồng với mảnh thi thể của họ - Tôi không ngạc nhiên bởi sự thờ ơ về ký ức cũng như lịch sử, lại một lần nữa. Ví dụ đang được nói tới là sự trỗi dậy của Pol Pot và quân du kích Khmer, họ có rất nhiều tương đồng với Nhà Nước Hồi Giáo Iraq và Syria (ISIS) ngày nay. Họ cũng là những người trung cổ tàn nhẫn bắt đầu với một nhóm nhỏ. Họ cũng là sản phẩm của sự hủy diệt do Hoa Kỳ tạo ra, lần này là ở châu Á.

Theo Pol Pot, phong trào của ông ta được tạo thành bởi “dưới 5.000 du kích được trang bị nghèo nàn, không xác định về chiến lược, chiến thuật, sự trung thành và lãnh đạo”. Khi máy bay B52 của Nixon và Kissinger thực hiện “Chiến dịch Menu”, ác quỷ tối thượng của phương tây đã không thể tin vào may mắn của mình.

Hoa Kỳ ném một khối lượng bom tương đương với năm quả bom nguyên tử ở Hiroshimas xuống khu vực nông thôn Campuchia trong những năm 1969-1973. Họ đã san phẳng hết làng này tới làng khác, quay lại ném bom cả những đống đổ nát và xác chết. Những hố bom tạo thành chuỗi vòng khủng khiếp tô điểm cho cuộc tàn sát, vẫn còn thấy rõ khi nhìn từ không trung. Sự khủng bố thật không thể tưởng tượng được. Một cựu sĩ quan du kích Khmer mô tả về những người sống sót “tê liệt và họ đi loanh quoanh trong sự câm lặng ba hay bốn ngày. Bị khủng hoảng và nửa điên khùng, những người đó sẵn sàng tin vào bất cứ thứ gì mà người ta nói với họ… Điều đó khiến cho du kích Khmer dễ dàng thuyết phục được mọi người.”

Một Ủy Ban Điều Tra của Chính Phủ Phần Lan ước lượng có khoảng 600.000 người Campuchia chết trong cuộc nội chiến tiếp theo và mô tả việc ném bom là “giai đoạn khởi đầu của một thập kỷ diệt chủng”. Những gì mà Nixon và Kissinger bắt đầu, thì Pol Pot, kẻ hưởng lợi của họ, hoàn thành. Dưới bom đạn của họ, du kích Khmer đã phát triển thành đạo quân ghê ghớm với 200.000 người.

ISIS có quá khứ và hiện tại tương tự. Theo phần lớn các tính toán học thuật, cuộc xâm lược Iraq của Bush và Blair vào năm 2003 đã dẫn đến đến cái chết của khoảng 700.000 người - ở một đất nước không có lịch sử về thánh chiến. Người Kurd đã thực hiện xong các thỏa thuận về lãnh thổ và chính trị; Sunni và Shia có các tầng lớp và nhóm riêng, nhưng họ hòa bình với nhau; hôn nhân khác nhóm là bình thường. Ba năm trước cuộc xâm lược, tôi đi quanh Iraq mà chẳng cần phải sợ hãi. Trên đường đi tôi gặp những người tự hào, trên tất cả, được là người Iraq, người thừa kế của nền văn minh mà dường như đối với họ là đương đại. 

Bush và Blair đã thổi bay tất cả. Iraq giờ đây là một cái ổ thánh chiến. Al-Qaeda – giống như “chiến binh thánh chiến” của Pol Pot – tận dụng cơ hội được tạo ra từ cuộc tấn công Sốc và Sợ Hãi cũng như cuộc nội chiến tiếp theo đó. “Phản loạn” Syria cung cấp một phần thưởng còn lớn hơn, với vũ khí, logistic và tiền của CIA cũng như các quốc gia vùng Vịnh chảy qua Thổ Nhĩ Kỳ. Sự tham gia của các tân binh nước ngoài là không thể tránh khỏi. Một cựu đại sứ Anh, Oliver Miles, mới đây viết, “Chính quyền [Cameron] dường như theo đuổi hình mẫu của Tony Blair, người đã bỏ qua lời khuyên kiên định của Văn Phong Đối Ngoại, MI5 và MI6 rằng chính sách Trung Đông của chúng ta – và đặc biệt là các cuộc chiến ở Trung Đông – là lý do để tuyển chọn các thành phần Hồi giáo ở Anh cho khủng bố ở đó”.

ISIS là kẻ nối dõi của Washington và London, những người đã phá hủy Iraq cả về mặt nhà nước cũng như xã hội, thực hiện một tội ác khủng khiếp chống lại nhân loại. Giống như Pol Pot và du kích Khmer, ISIS là sự chuyển hóa của khủng bố nhà nước phương tây được dung túng bởi tầng lớp thống trị đế quốc vụ lợi đối với hậu quả của những hành động nhằm xóa sổ cả về mặt không gian lẫn văn hóa. Tội lỗi của họ không nên nhắc đến trong xã hội “của chúng ta”.

Đã 23 năm kể từ vụ diệt chủng diễn ra ở Iraq, ngay sau Chiến Tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, khi Hoa Kỳ và Anh chiếm đoạt Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và áp đặt “các biện pháp trừng phạt” khốc liệt đối với dân chúng Iraq – thật nực cười là để củng cố quyền lực nội địa của Saddam Hussein. Điều đó giống như một cuộc bao vây thời trung cổ. Hầu hết mọi thứ cần thiết cho một quốc gia hiện đại, theo thuật ngữ chuyên môn, “bị chặn” – từ chlorine để làm sạch nước tới bút chì cho trường học, linh kiện cho máy chụp X quang, thuốc giảm đau thông dụng cũng như thuốc men cho các bệnh ung thư chưa từng được biết đến trước đó sinh ra từ khói bụi của các chiến trường ở miền nam có lẫn Uranium nghèo.

Ngay trước Giáng Sinh năm 1999, Bộ Thương Mại và Công Nghiệp ở London đã cấm xuất khẩu vắc xin giúp trẻ em Iraq chống lại bệnh sốt vàng và bệnh bạch hầu. Kim Howells, một tiến sĩ dược và nghị sĩ Hạ Viện của chính quyền Blair, đã giải thích rằng: “Vắc xin trẻ em có thể được sử dụng cho vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chính quyền Anh có thể thoát khỏi sự phẫn nộ bởi truyền thông đưa tin về Iraq – phần lớn bị điều khiển bởi Văn Phòng Đối Ngoại – lên án Saddam Hussein về mọi thứ.

Với Chương Trình Đổi Dầu Lấy Lương Thực “nhân đạo” giả tạo, 100 dollar được phân phối cho mỗi đầu người Iraq cho một năm. Số tiền đó phải thanh toán cho toàn bộ cơ sở hạ tầng xã hội và các dịch vụ cần thiết, như điện và nước. “Hãy tưởng tượng”, Trợ lý Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Hans Von Sponeck, nói với tôi, “dùng số thù lao rẻ mạt này để giải quyết nạn thiếu nước sạch, sự thật là đa số người bệnh sẽ không thể được chăm sóc và tổn thương tăng lên hàng ngày, bạn loáng thoáng thấy ác mộng. Đừng có nhầm lẫn, điều này là khách quan. Tôi chưa từng muốn dùng từ diệt chủng, nhưng giờ điều đó là không tránh khỏi.”

Phẫn nộ, Von Sponeck đã từ chức điều phối viên nhân đạo của Liên Hiệp Quốc ở Iraq. Người tiền nhiệm của ông ta, Denis Halliday, một người quan chức Hoa Kỳ cấp cao rất khác biệt, cũng đã từ chức. Halliday nói, “Tôi được chỉ thị thực hiện một chính sách đáp ứng các định nghĩa về diệt chủng: một chính sách có chủ ý đã giết hại hơn một triệu người, trẻ em cũng như trưởng thành.”

Một nghiên cứu của Quỹ Trẻ Em Liên Hiệp Quốc, UNICEF, cho thấy giữa năm 1991 và 1998, đỉnh cao của thời kỳ cấm vận, có khoảng 500.000 cái chết “cao hơn” ở trẻ em Iraq dưới năm tuổi. Một phóng viên truyền hình Hoa Kỳ hỏi Madaleine Albright, đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc, “Cái giá có đáng không?”, Albright trả lời, “Chúng tôi nghĩ rằng cái giá đó là đáng”.

Vào năm 2007, quan chức cấp cao Anh quốc trả lời về sự trừng phạt, Carne Ross, được biết đến như là “Ngài Iraq”, nói với ủy ban quốc hội, “[Chính quyền Hoa Kỳ và Anh] đã loại bỏ phương tiện cần thiết cho cuộc sống của toàn bộ dân chúng”. Khi tôi phỏng vấn Carne Ross ba năm sau đó, ông ta tỏ ra ăn năn và hối lỗi. “Tôi cảm thấy xấu hổ”, ông ta nói. Hiện nay ông ta một người nói thật hiếm có về việc chính quyền lảnh tránh và truyền thông theo đuôi đóng một vai trò quan trọng trong phổ biến và duy trì sự lường gạt. “Chúng tôi cung cấp cho [các nhà báo] những câu chuyện đã được tình báo chỉnh sửa hoặc cho họ ra rìa”, ông ta nói.

Vào ngày 25 tháng 9, tiêu đề của tờ Guardia: “Chúng ta phải hành động để đối mặt với sự kinh hoàng của ISIS”. Cụm “chúng ta phải hành động” là bóng ma nổi lên, một cảnh báo về sự kìm nén của ký ức được thông tin, sự thật, bài học đã được học và sự ăn năn hay xấu hổ. Tác giả của bài báo là Peter Hain, cựu bộ trưởng của Văn Phòng Đối Ngoại phụ trách vấn đề Iraq dưới thời Blair. Vào năm 1998, khi Denis Halliday tiết lộ sự thống khổ trải rộng ở Iraq mà chính quyền Blair có trách nhiệm hàng đầu, Hain đã gọi Halliday trong bản tin tối trên BBC là “kẻ xin lỗi của Saddam”. Vào năm 2003, Hain ủng hộ cuộc xâm lược của Blair đối với Iraq nghèo khó dựa trên sự dối trá rõ ràng. Trong một cuộc họp sau đó của Đảng Lao Động, ông ta bác bỏ cuộc xâm lược là “kết quả quá khích”.

Hiện giờ Hain đòi hỏi “tấn công không lực, máy bay không người lái, trang thiết bị quân sự và những hỗ trợ khác” để “đối mặt với diệt chủng” ở Iraq và Syria. Điều đó sẽ thúc đẩy “sự cấp bách của một giải pháp chính trị”. Obama có quan điểm tương tự khi ông ta đưa ra cái được gọi là “sự hạn chế” về ném bom và tấn công bằng máy bay không người lái. Điều này có nghĩa là tên lửa và bom 500 bảng có thể san phẳng các ngôi nhà của nông dân giống như họ đã làm không có sự hạn chế ở Yemen, Pakistan, Afghanistan và Somalia - giống như họ đã làm ở Campuchia, Việt Nam và Lào. Vào ngày 23 tháng 9, một tên lửa hành trình Tomahawk bắn trúng một ngôi làng ở tỉnh Idlib Syria, giết chết khoảng một tá thường dân, có cả phụ nữ và trẻ em. Không có ai phất lá cờ đen. 

Vào ngày bài báo của Hain xuất hiện, Denis Halliday và Hans Von Sponeck có mặt ở London và tới thăm tôi. Họ không bị sốc bởi tính đạo đức giả sát nhân của chính khách, nhưng tỏ ra buồn phiền về sự kéo dài, sự thiếu vắng không thể giải thích được về ngoại giao thông minh trong việc đàm phán ngừng bắn tạm thời. Khắp thế giới, từ Bắc Ai Len tới Nepan, những người coi nhau là khủng bố và dị giáo đã lần lượt đối mặt với nhau trên bàn. Tại sao giờ không phải là ở Iraq và Syria.

Giống như bệnh Ebola từ Tây Phi, một vi khuẩn được gọi là “chiến tranh vĩnh viễn” đã vượt qua Đại Tây Dương. Ngài Richards, cho đến khi là lãnh đạo của quân đội Anh quốc, muốn “khởi động trên chiến trường” ngay. Một sự kéo dài lê thê tẻ nhạt hầu như là dịch bệnh xã hội từ Cameron, Obama và “Liên Minh Quyết Tâm” của họ - đáng chú ý là sự hung hăng khó hiểu của Tony Abbot ở Australia – như họ kê đơn nhiều bạo lực hơn từ độ cao 30.000 feet cho nơi mà máu từ các cuộc phiêu lưu trước đó chưa bao giờ khô. Họ không bao giờ nhìn thấy ném bom và họ dường như yêu thích nó chừng nào mà họ muốn nó lật đổ một trong những đồng minh sáng giá, Syria. Không có gì mới, theo như tài liệu được tiết lộ sau đây của tình báo Anh-Hoa Kỳ thể hiện: 

“Để tạo thuận lợi cho hành động của lực lượng độc lập [sic] …một nỗ lực đặc biệt cần được thực hiện để tiêu diệt các cá nhân chủ chốt [và] tiếp tục quấy dối tại Syria. CIA đã chuẩn bị, và SIS (MI6) sẽ tiến hành các cuộc trừng phạt nhỏ và tập kích [sic] trong phạm vi Syria, thực hiện thông qua liên hệ với các cá nhân … một cấp độ sợ hãi cần thiết… đụng độ mặt trận và biên giới [được dàn xếp] sẽ tạo ra cớ để can thiệp … CIA và SIS phải sử dụng … các khả năng cả về tâm lý chiến và hành động để thúc đẩy sự căng thẳng.”

Những điều đó được viết vào năm 1957, mặc dù như thể là được viết ngày hôm qua. Trong thế giới đế quốc, không có gì thay đổi. Năm ngoái, cựu bổ trưởng Ngoại giao Pháp Roland Dumas tiết lộ rằng “hai năm trước mùa xuân Ả Rập”, ông ta đã được nghe ở London là một cuộc chiến ở Syria đã được lên kế hoạch. “Tôi sẽ nói với anh điều này”, ông ta nói trong buổi phỏng vấn với kênh truyền hình Pháp LPC, “Tôi đã ở Anh hai năm trước khi bạo lực nổ ra ở Syria trong một công việc khác. Tôi đã gặp quan chức hàng đầu của Anh, người thú nhận với tôi rằng họ chuẩn bị một số thứ ở Syria. Họ thậm chí cũng đã hỏi tôi, mặc dù tôi không còn là bộ trưởng ngoại giao, rằng tôi có muốn tham gia … Chiến dịch này đã quay trở lại. Nó đã được chuẩn bị, hình thành và lập kế hoạch.”

Đối thủ đáng kể nhất của ISIS là những ác quỷ được thừa nhận của phương tây – Syria, Iran, Hezbollah. Cản trở là Thổ Nhĩ Kỳ, một “đồng minh” và là thành viên NATO, nước đã âm mưu cùng với CIA, MI6 và các kẻ trung cổ ở vùng Vịnh một kênh hỗ trợ “phiến quân” Syria, trong đó có cả những kẻ mà hiện giờ tự gọi mình là ISIS. Hỗ trợ Thổ Nhĩ Kỳ trong khát vọng lâu dài về thống trị khu vực thông qua việc lật đổ chính quyền Assad đã khơi dậy một cuộc chiến kinh điển và sự tan rã kinh hoàng của quốc gia đa dạng sắc tộc nhất Trung Đông. 

Sự ngừng bắn – mặc dù khó có thể đạt được – là con đường duy nhất thoát khỏi mớ bòng bong đế quốc; mặt khác, những vụ chặt đầu sẽ tiếp tục. Các cuộc đàm phán chân thành với Syria có thể bị coi là “đáng ngờ về mặt đạo đức” (tờ Guardia) cho thấy giả định về sự ưu việt đạo đức của những người ủng hộ tội phạm chiến tranh Blair không chỉ là nực cười, mà là nguy hiểm.

Cùng với ngừng bắn, cần phải có sự chấm dứt ngay lập tức chuyển giao trang thiết bị chiến tranh cho Israel và công nhận nhà nước Palestin. Vấn đề Palestine là vết thương hở nhức nhối nhất của khu vực, và thường được dùng để biện minh cho sự trỗi dậy của Hồi giáo cực đoan. Osama bin Laden đã cho thấy rõ. Palestine cũng đưa ra hi vọng. Hãy mang công lý cho người Palestine và bạn sẽ thay đổi thế giới quanh họ.

Hơn 40 năm trước đây, Nixon-Kissinger ném bom Campuchia đã tạo ra một chuỗi đau khổ khiến cho quốc gia này không bao giờ có thể hồi phục. Đó là điều tương tự về tội ác của Blair-Bush ở Iraq. Với sự lựa chọn thời điểm hoàn hảo, tập sách nghiên cứu mới nhất của Kissinger đã được phát hành với tiêu đề châm biếm, “Trật Tự Thế Giới”. Trong một bình luận bợ đỡ, Kissinger được mô tả như là “người thảo kế hoạch chủ chốt của trật tự thế giới đã ổn định trong một phần tư thế kỷ”. Hãy nói điều đó với người dân Campuchia, Việt Nam, Lào, Chi Lê, Đông Timor và tất cả các nạn nhân khác bởi “tài năng chính trị” của ông ta. Chỉ khi “chúng ta” thừa nhận các tội phạm chiến tranh giữa chúng ta thì máu mới ngừng chảy.

Saturday, October 11, 2014

Biểu tình ở Hong Kong năm 2014

Hong Kong, thiên đường của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Thành phố này đứng thứ ba thế giới trong số các thành phố có nhiều tỷ phú dollar nhất, 10 tỷ phú giàu nhất Hong Kong có tổng tài sản lên tới 130 tỷ USD. Phía sau những tòa nhà chọc trời, những khu thương mại sầm uất là 1/5 dân số sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực, rất nhiều người phải sống trong những cái cũi sắt. Người lao động Hong Kong phải làm việc trong những điều kiện cực kỳ bất công: 49 giờ/tuần, không bảo hiểm hưu trí, không đàm phán tập thể, không trợ cấp thất nghiệp, lương tối thiểu mới chỉ được áp dụng từ năm 2010 ở mức 3,6 USD/giờ.

Cuộc biểu tình năm 2014 không phải là cuộc biểu tình lớn nhất và duy nhất. Từ năm 2000 đến năm 2013, đã diễn ra ít nhất mười cuộc biểu tình lớn ở Hong Kong (theo tờ Bloomberg Businessweek). Đáng chú ý nhất là cuộc biểu tình năm vào năm 2003 với nửa triệu người tham gia để phản đối dự luật an ninh, khiến thống đốc Hong Kong là ông Đổng Kiến Hoa phải từ chức sau đó. Tiếp theo là cuộc biểu tình năm 2004 với hơn nửa triệu người tham gia đòi quyền bầu cử dân chủ và cải thiện mức sống. Vào năm ngoái, 500 công nhân cảng đã bãi công đòi tăng lương thành công, nhưng hầu như không có báo chí phương Tây nào đưa tin để thúc đẩy dân chủ và nhân quyền.

Hình ảnh cuộc biểu tình ở Hong Kong năm 2003 trên trang bìa tạp chí Time ấn bản châu Á là một phụ nữ mạnh mẽ, hấp dẫn, gợi cảm nổi bật trên nền đám đông với lá cờ của đặc khu.
Khi cuộc biểu tình năm 2014 diễn ra, báo chí phương Tây đã nhanh chóng áp đặt các định kiến đối với chính quyền Trung Quốc trong các bản tin. Thứ nhất, họ mô tả dường như là Bắc Kinh đã nuốt lời hứa cho người dân Hong Kong bầu cử tự do. Thứ hai, họ mô tả tình trạng dân chủ hiện nay ở Hong Kong tồi tệ hơn thời còn là thuộc địa của Anh. Về điểm thứ nhất rõ ràng là bóp méo sự thật. Quá trình bầu cử hiện nay được tổ chức tuân thủ theo Luật Cơ Bản của Hong Kong như tờ Diplomat đã đưa tin. Theo kế hoạch, Hong Kong phải lập ra một Ủy Ban Bầu Cử gồm 1200 người đại diện cho 4 nhóm doanh nghiệp, chuyên gia, lao động, và lập pháp, mỗi nhóm có đều có một số lượng bằng nhau là 300 người. Ủy Ban Bầu Cử sẽ tuyển chọn các ứng cử viên, sau đó tổ chức cho người dân bỏ phiếu trực tiếp bầu thống đốc. Vấn đề là nhiều phe phái chính trị hiện nay không đồng ý với việc lựa chọn ứng cử viên thông qua Ủy Ban Bầu Cử, nên họ biểu tình đòi áp dụng ứng cử trực tiếp. Cuộc biểu tình hiện nay không phải đòi quyền bầu cử tự do mà là ép buộc Hội Đồng Lập Pháp phải sửa đổi Luật Cơ Bản của Hong Kong về phương thức bầu cử. Không phải Bắc Kinh không giữ lời hứa mà các phe phái đối lập ở Hong Kong không muốn lời hứa đó được thực hiện. Về điểm thứ hai thì ngay cả ngoại trưởng một nước thân phương Tây như Singapore, ông Shanmugam cũng phải tỏ ra phẫn nộ với sự thiên lệch của báo chí phương Tây. Ông này phát biểu rằng: Sự thật là Hong Kong chưa bao giờ có hệ thống dân chủ dưới sự cai trị của Anh trong suốt 150 năm... và "đề xuất của Bắc Kinh hơn bất cứ thứ gì Hong Kong từng có dưới thời Anh quốc". Tranh luận về việc Bắc Kinh hạn chế dân chủ của Hong Kong sẽ không đi đến đâu vì chủ yếu dựa trên suy đoán, song động cơ của phe biểu tình đã rõ ràng, họ cảm thấy không thể thắng được cuộc bầu cử sắp tới nên đòi sửa đổi phương thức bầu cử.

Hình ảnh cuộc biểu tình năm 2014 trên trang bìa tạp chí Time ấn bản châu Á là một đứa trẻ ngơ ngác, yếu đuối, tách biệt đám đông, với điện thoại di động trên tay.
Điểm yếu của cuộc biểu tình năm 2014 có thành phần chủ yếu gồm học sinh, sinh viên và thanh niên là việc giai cấp lao động không tham gia. Chỉ có khoảng 200 công nhân của công ty phân phối Coca Cola ở Hong Kong tham gia biểu tình. Liên Đoàn Công Đoàn, công đoàn lớn nhất ở Hong Kong đại diện cho tầng lớp lao động, không muốn sửa đổi phương thức bầu cử mà chỉ muốn có nhiều đại diện của nhóm lao động hơn trong Ủy Ban Bầu Cử. Điều này giải thích tại sao quy mô cuộc biểu tình năm 2014 có số lượng người tham gia thấp hơn nhiều so với năm 2003 hay 2004. Các nhà lãnh đạo biểu tình đã sớm tìm cách rào đón khi tuyên bố rằng giá trị của một cuộc biểu tình không nằm ở số lượng người tham gia.

Trong trường hợp yêu cầu của phe biểu tình được chấp thuận thì phương thức bầu cử trong Luật Cơ Bản Hong Kong sẽ phải sửa đổi và phải được nhận được 2/3 số phiếu thuận của Hội Đồng Lập Pháp . Khi đó sẽ là một cuộc chiến khác. Trong Hội Đồng Lập Pháp thì phe đa số, được cho là thân Bắc Kinh, hiện có 43 ghế, còn phe đối lập có 27 ghế. Sẽ không phe nào có đủ 2/3 số phiếu để thông qua sửa đổi Luật Cơ Bản. Trên vũ đài chính trị thì điều này có nghĩa là thắng lợi của phe đối lập, với một số phiếu ít hơn nhưng họ có quyền lực hơn. Quyền lực thì sẽ đòi hỏi quyền lợi, những lợi ích nhất định sẽ phải san sẻ cho họ. Mặc dù có lợi rất lớn nhưng phe đối lập trong Hội Đồng Lập Pháp lại không bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ với người biểu tình. Cuộc tấn công của một nhóm dân cư địa phương vào nhóm biểu tình đã cho thấy lý do. Phe đối lập muốn được lợi nhưng cũng không muốn mất phiếu bầu của tầng lớp buôn bán kinh doanh nhỏ, vốn chiếm số lượng đông đảo ở Hong Kong, trong cuộc bầu cử thống đốc tới đây. Cuộc biểu tình đã gây ra nhiều khó khăn cho các hộ kinh doanh buôn bán nhỏ, và họ không muốn điều đó kéo dài.

Cho dù kết quả cuộc biểu tình ở Hong Kong có kết quả ra sao đi chăng nữa thì những người thắng cuộc chắc chắn không phải là những người đang cầm ô đứng ngoài đường mà là các nghị sĩ trong phòng họp. 

Wednesday, October 8, 2014

Một dạng hối lộ mới ở Việt Nam từ kinh nghiệm của Nhật Bản

Mới đây báo chí đưa tin ông cựu bộ trưởng Bộ Giao Thông trở thành lãnh đạo của một công ty xây dựng đã nhận được nhiều ưu ái của ông thời còn tại vị, chỉ sáu tháng sau khi ông rời văn phòng bộ. Tình trạng các cựu quan chức trở thành lãnh đạo của các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội dân sự hay các doanh nghiệp đang ngày càng trở nên phổ biến, dễ nhận thấy là trong lĩnh vực ngân hàng. Một mặt điều đó giúp cho doanh nghiệp tận dụng được trình độ cũng như kinh nghiệm của các cựu quan chức, mặt khác lại tạo ra nguy cơ về một dạng hối lộ mới, bên cạnh các dạng hối lộ trực tiếp bằng tiền bạc hay tài sản. Các quan chức có thể ưu đãi cho doanh nghiệp để đổi lấy một vị trí béo bở tại doanh nghiệp đó sau khi về hưu. Ở Việt Nam điều này có lẽ là còn mới mẻ, nhưng ở Nhật Bản thì không phải là mới. Người Nhật đã phải nhiều năm đối đầu với dạng hối lộ đó, dạng hối lộ mà họ gọi là amakudari.

Một trong những ví dụ điển hình về amakudari là Yamada Corporation và Bộ Quốc Phòng Nhật Bản. Công ty Yamada được đưa vào danh sách các nhà thầu quốc phòng và có một thỏa thuận bất thành văn là sẽ thuê một quan chức bộ hay sĩ quan quân đội nghỉ hưu cho mỗi tỷ Yên mà họ được thanh toán. Với thỏa thuận đó, công ty đã thuê 10 cựu sĩ quan bộ binh, không quân và hải quân làm cố vấn và khoảng 120 người làm nhân viên ở các cấp khác nhau. Công ty Yamada đã lập ra một công ty bình phong ở Hoa Kỳ để chuyển lợi nhuận, nhưng thực tế không làm bất cứ việc gì ngoài việc trả lương cho ban giám đốc.

Nhật Bản có một danh sách dài các cựu thứ trưởng được thuê làm chủ tịch hội đồng quản trị, chủ tịch/ủy viên hội đồng quản trị tại ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính và các doanh nghiệp lớn khác. Họ thực tế chỉ làm việc vài ngày tại một tổ chức, và thường xuyên thay đổi công việc tại những doanh nghiệp nhất định với một khoản tiền nghỉ hưu lớn.

Một báo cáo của Cục Nghiên Cứu Hạ Viện vào tháng 3 năm 2007 cho thấy trong năm 2005 có 29 công ty cung cấp dịch vụ công cộng thuộc quyền quản lý của Bộ Đất Đai, Cơ sở Hạ Tầng và Giao Thông đã thuê 523 cựu quan chức nhà nước, trong đó có 73% làm nhân viên toàn thời gian. Doanh thu của các công ty này đã tăng lên từ 33 đến 100% nhờ vào trợ cấp quốc gia. Khoản trợ cấp quốc gia tính bình quân trên mỗi nhân viên toàn phần là cựu quan chức là ít hơn 100 triệu Yên ở 8 công ty, khoảng từ 100-500 triệu Yên ở 14 công ty, và hơn 500 triệu Yên ở 5 công ty.

Các đời thủ tướng Nhật đều rất nỗ lực để chấm dứt nạn amakudari, nhưng hiệu quả cũng rất hạn chế bởi hệ thống chính trị phụ thuộc vào quan chức hành chính hơn là các chính khách, trong việc xây dựng chính sách. Mặt khác các quan chức chính trị cũng e ngại rằng cấm các cựu quan chức nhận các công việc có đãi ngộ cao trong lĩnh vực dân sự sẽ làm giảm chất lượng của những người muốn gia nhập bộ máy nhà nước. 

Nhật Bản đã ban hành Luật Bổ Sung về Phục Vụ Dân Sự vào ngày 30/6/2007, sau này trở thành một phần của Luật Công Chức Dân Sự nhằm kiểm soát amakudari. Các nội dung chính bao gồm:

1. Thiết lập một ngân hàng nhân lực trong phạm vi văn phòng chính phủ vào năm 2008 để hỗ trợ các quan chức nghỉ hưu kiếm việc làm.

2. Cấm các quan chức các bộ và các ngành kiếm việc thông qua môi giới nhân sự tư nhân vào năm 2011.

Việc đề xuất và bổ nhiệm các cựu quan chức cho vị trí điều hành tại các công ty dịch vụ công cộng phải được thông qua ở cả thượng và hạ viện. Nhưng vấn đề là khi một đảng chiếm đa số tại hai viện thì các yêu cầu được thông qua không mấy khó khăn. Vào năm 2007, lần đầu tiên sau 56 năm một cuộc bỏ phiếu thông qua việc bổ nhiêm bị phe đối lập ngăn chặn thành công với cáo buộc amakudari. Điều này cho thấy việc kiểm soát amakundari bằng nghị viện là không hiệu quả.

Trở lại với Việt Nam, sau khi bị báo chí lên án dữ dội, ông cựu bộ trưởng Bộ Giao Thông đã từ chức ở công ty xây dựng. Dư luận cũng chìm xuống. Điều đó cho thấy Việt Nam chưa sẵn sàng để đấu tranh với nạn amakudari. Vấn đề không phải là lên án một quan chức về một dạng hối lộ tinh vi, mà vấn đề là kiểm soát để các quan chức không thể tiếp cận nó. 

Chăm sóc trẻ em dưới ba tuổi

Ở Việt Nam hiện nay bà mẹ chỉ được nghỉ 6 tháng sau khi sinh con, nhưng nhà trẻ công chỉ nhận trẻ em từ ba tuổi. Thế là nảy sinh ra vấn đề quan trọng, từ 6 tháng đến 3 tuổi trẻ em sẽ được chăm sóc ra sao khi mẹ phải đi làm. Thông thường nhất là trông cậy vào ông bà (nếu ông bà còn khỏe) hoặc nhà có điều kiện kinh tế thì thuê người giúp việc. Một lựa chọn khác là gửi nhà trẻ tư, nhưng nhà trẻ tư thì nhận chỉ nhận trẻ từ 1 tuổi, tức là cho đến khi trẻ tròn 1 tuổi thì gia đình vẫn phải tự xoay sở. 

Ở các nước Châu Âu như Đức thì bà mẹ được nghỉ làm ở nhà hưởng lương để chăm sóc con, cho đến khi trẻ đủ tuổi đi nhà trẻ. Còn ở Mỹ thì tình hình cũng như Việt Nam, tức là có một hệ thống đa dạng các nhà giữ trẻ công cũng như tư, và người giúp việc, để trông trẻ khi bố mẹ đi làm. Các ông bố bà mẹ ở Mỹ cũng như Việt Nam đều phải đối đầu với tình trạng khó kiếm nơi giữ trẻ và lo lắng về chất lượng của nơi giữ trẻ. Đối với trẻ dưới ba tuổi thì yếu tố hàng đầu là chăm sóc sức khỏe, nếu được chăm sóc sức khỏe tốt, đứa trẻ sẽ phát triển tốt và ít bệnh tật. Các cơ sở giữ trẻ tư nhân thì chủ yếu làm công việc trông trẻ chứ không đầu tư cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em, vì điều đó quá đắt đỏ. Ở Việt Nam thì gần đây báo chí hay đưa tin về các nhà ngục trẻ em, tức là các nhà giữ trẻ tư nhân nhưng thường đánh đập và hành hạ trẻ em. Bố mẹ của trẻ, đặc biệt là tầng lớp lao động có thu nhập thấp thì chỉ còn trông chờ vào may mắn, hy vọng con mình không rơi vào một trong những nhà ngục đó.

Trước đây khi Liên Bang Soviet chưa sụp đổ thì họ đã có cách giải quyết rất đáng chú ý đối với vấn đề này. Các cơ sở chăm sóc trẻ em dưới ba tuổi có thể do bất cứ đơn vị sản xuất nào như nhà máy, doanh nghiệp hay nông trại xây dựng ở gần nơi làm việc để các bà mẹ có thể cho con ăn, và thời gian cho con ăn vẫn được tính là giờ là việc. Các cơ sở này được Bộ Y Tế giám sát, có chức năng chủ yếu là chăm sóc sức khỏe cho trẻ em và được một bác sĩ điều hành. Trẻ em được dạo chơi, được nghe các bài hát dân gian do một cô điều dưỡng hát và được ăn đúng giờ ngủ đủ giấc. Giờ giữ trẻ tuân theo giờ làm việc của bà mẹ, có nghĩa là cơ sở sẽ trông trẻ cả ban đêm nếu bà mẹ phải làm ca đêm.

Điều mấu chốt ở đây là các cơ sở của chế độ Xô Viết được đặt dưới sự giám sát của Bộ Y Tế chứ không phải Bộ Giáo Dục, cho thấy cách đây nửa thế kỷ họ đã nhận thức rất đúng đắn về vấn đề trẻ em dưới ba tuổi. Thứ hai là giờ cho con ăn được tính là giờ làm việc, riêng điểm này thì họ tiến bộ hơn xã hội hiện nay rất xa. Điểm thứ ba là các cơ sở có thể được lập ra theo nhu cầu của từng đơn vị sử dụng lao động nên tránh được tình trạng thiếu nơi giữ trẻ như Việt Nam đang phải đối đầu. 

Nhân đọc sách cũ mà ghi lại vài ý vậy.