Friday, August 8, 2014

Những điều John Kerry thực sự đã làm ở Việt Nam

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "What John Kerry Really Did in Vietnam" của tác giả Jeffrey St. Clair. Một bài viết rất lý thú mổ xẻ tiểu sử của đương kim ngoại trưởng Mỹ John Kerry, về những chiến công mà người hùng chiến tranh này có ở Việt Nam.

[Lời dẫn của tác giả]

John Kerry trong một chức vụ hoàn toàn theo kiểu Henry Kissinger, lượn lờ khắp khu vực Trung Đông, ép buộc những người Palestin và đồng minh của họ trong khu vực cũng như châu Âu phải ký vào một thỏa ước hòa bình nhục nhã để phục vụ cho lợi ích của Israel và Hoa Kỳ, rất đáng để xem xét tiểu sử của người kiến tạo hòa bình này, đặc biệt là trong những năm tháng ngài ngoại trưởng khắc tên mình lên thân cây trong rừng rậm Đông Nam Á. Mặc dù Kerry thể hiện như là một nhà hoạt động chống chiến tranh, hợp đồng dài hạn ngắn ngủi ở Vietnam và Cambodia vẫn rất đáng chú ý đối với cả những hành động tàn bạo cũng như thiếu sự ăn năn về việc ông ta can dự vào những hành động tàn bạo mà ở một xã hội có lương tâm sẽ bị coi là tội ác chiến tranh. – JSC 

[Nội dung bài viết]

Trong năm cuối cấp ở Yale vào năm 1966, John Kerry đăng nhập Hải Quân Hoa Kỳ, với việc nhập ngũ dự định vào mùa hè sau khi ông ta tốt nghiệp. Đã được nhận thấy một cách rõ ràng về khát vọng chính trị, ông ta chứng tỏ bản thân mình trong vị trí hàng đầu tại liên minh chính trị của Yale, đồng thời nhập ngũ.

Trong khi George W. Bush, học sau Kerry 2 năm, cố bán một gói cocain nặng cỡ một ounce ở Yale, (gợi nhắc lại quá khứ) Kerry vẫn chăm chú theo dõi không khí chính trị và nhận thấy xung đột giữa việc tham gia chiến tranh của bản thân và tinh thần phản chiến của đám đông, mà ông ta hy vọng một trong số đó sẽ bỏ phiếu cho ông trong một thời gian không xa.

Đó là thời kỳ cho những quyết định quan trọng và Kerry cân nhắc về việc gia nhập quân ngũ và lẩn trốn trên một hòn đảo ở sông St Lawrence. Ông ta đã quyết định đúng đắn khi vứt bỏ bài diễn văn về chủ đề “cuộc sống sau tốt nghiệp”, chọn lựa việc lên án chiến tranh một cách cuồng nhiệt và một LBJ. Bài diễn văn được đón nhận bởi sinh viên và một số giáo sư. Phần lớn phụ huynh đều kinh hoàng, nhưng bố mẹ của Kerry thì không.

Không như Bill Clinton và George Bush, Kerry đã tình nguyện nhập ngũ. Sau một năm huấn luyện ông ta được biên chế vào chiến hạm USS Gridley, triển khai tới Thái Bình Dương, có vẻ như là chở tên lửa hạt nhân. Bị xâm chiếm bởi sự buồn bã, Kerry nhận được tin một trong những người bạn tốt của ông ta, cháu nội của “Black Jack” Pershing đã bị giết ở Việt Nam. Kerry đầy tức giận và bị kích động về việc trả thù, theo như ông ta kể lại nhiều năm sau đó cho người viết tiểu sử Douglas Brinkley. (Cuốn tiểu sử được khuyến nghị do Brinkley viết, Chuyến du hành của trách nhiệm: John Kerry và chiến tranh Việt Nam, cung cấp nhiều đoạn tường thuật cho các độc giả siêng năng. Hầu hết dựa trên toàn bộ nhật ký của Kerry và thư từ hồi đó). 

Kerry dàn xếp để được thuyên chuyển tới đơn vị tuần tra bằng tàu cao tốc. Chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân đã dẫn đến hàng loạt các chiến dịch tìm diệt khủng khiếp của Hoa Kỳ ở Việt Nam, bao gồm cả các chương trình ám sát như Phượng Hoàng. Một phần của Hải Quân Hoa Kỳ cũng tham gia hành động, đô đốc Elmo Zumwalt và người đồng đội thân tín đại úy Roy “Latch” Hoffman đã xây dựng “Chiến Dịch Chúa Tể Biển Khơi”, theo đó các tàu cao tốc sẽ tuần tra các con kênh và dòng chảy thứ cấp trên châu thổ sông Mekong, đặc biệt chú trọng vào các khu vực gần biên giới Campuchia. Kế hoạch cơ bản, sau này được nhiều cựu binh tàu cao tốc thừa nhận, là khủng bố để nông dân phải chống lại Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc, hay còn gọi là Việt Cộng. Toàn bộ khu vực, ngoại trừ một số được coi là “những làng thân thiện”, là vùng nổ súng tự do, có nghĩa là người Mỹ sẽ bắn tùy thích và coi mọi người mà họ giết là Việt Cộng.

Đến Việt Nam vào ngày 17 tháng 11 năm 1968, Kerry được giao tuần tra quanh vịnh Cam Ranh và đã dàn xếp thành công để được chỉ định tiếp tục vào việc tìm diệt. Ông ta không phải là Al Gore, bình yên hút cần sa, bắn bia trong doanh trại ở Việt Nam và viết về nhà những bài luận phê phán chiến tranh về mặt đạo đức. “Tôi phản đối chiến tranh hơn bao giờ hết”, Kerry nói với Brinkley vào năm 2003, “mặc dù vậy chiến đấu do bị thôi thúc bởi lòng yêu nước. Tôi cho rằng nếu chừng nào anh còn ở đó thì anh vẫn sẽ muốn thử làm như vậy”.

Ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác, những chiếc tàu cao tốc rẽ sóng, xua đuổi và thường xuyên giết hại dân làng, ngư dân và nông dân. Trong chương trình ấy, nhằm quấy rối nông dân để buộc họ phải tuân phục, Kerry đã tỏ ra rất sốt sắng. Một trong những đại úy hải quân dưới quyền ông ta, James R. Wasser, đã mô tả ông ta bằng những từ ngữ như sau: “Kerry là một sĩ quan cực kỳ hung hăng và tôi cũng như vậy. Tôi thích ông ta chiến đấu với kẻ thù, ông ta dẻo dai và gan góc – không ngần ngại phải đổ máu cho tổ quốc”.

Vào ngày 12 tháng 12, Kerry đi tuần chuyến đầu tiên trên những con kênh. Đã gần nửa đêm khi lính nhìn thấy một chiếc xuồng tam bản. Các quy tắc không yêu cầu đụng độ, cũng không thấy rõ ai ở trên xuồng tam bản. Kerry bắn một phát pháo sáng, ra hiệu cho lính của ông ta thổi bay chiếc xuồng với hai khẩu súng máy và súng trường M16. Kerry mô tả ngư dân “chạy trốn như linh dương”.

Kerry bị một vết thương rất nhỏ ở tay, dường như là do mảnh vỡ từ chiếc tàu của ông ta văng ra. Vết xước đó đã mang lại cho ông ta Trái Tim Tím đầu tiên, một mề đay cho những người bị thương trong chiến trận. Thực tế không có bằng chứng nào cho thấy có bất cứ ai bắn trả hay Kerry ở trong chiến trận, điều đó hoàn toàn rõ ràng khi chúng ta đọc một đoạn trong nhật ký của ông ta về cuộc hành quân tiếp đó, được viết vào ngày 11 tháng 12 năm 1968, 9 ngày sau sự kiện mà Kerry nhận được mề đay. “Một bầu không khí tự mãn về sự vô địch bao quanh kênh Lòng Tàu, bởi vì chúng tôi vẫn chưa bị bắn, và người Mỹ trong chiến tranh mà chưa bị bắn thì được phép tự mãn”. 

Ông ta nhận được thêm hai mề đay Trái Tim Tím nữa, cả hai cho những vết thương tương đối nhỏ. Rõ ràng là Kerry không bao giờ quên ngày làm nhiệm vụ mà nhờ đó nhận được mề đay về thương tích.

Khát khao nhiều hoạt động hơn, Kerry xin được điều chuyển đến An Thới, mũi cực nam Việt Nam, một trong những trung tâm mà làn sóng giết chóc Phượng Hoàng quét qua và là nơi có trại thẩm vấn không mấy danh tiếng đang giam giữ khoảng 30,000 tù nhân.

Nhiệm vụ đầu tiên của Kerry trong khuôn khổ chương trình Phượng Hoàng là chuyên chở một đơn vị biệt kích cấp tỉnh (PRU) của quân đội miền Nam Việt Nam, được chỉ huy bởi một gã mũ nồi xanh hoặc một viên chức CIA. Sau khi thả hết nhóm biệt kích xuống, Kerry đưa tàu cao tốc vào phía sau rặng đước. Hai giờ sau đó, một pháo hiệu màu đỏ cho họ biết là nhóm biệt kích cần “can thiệp” khẩn cấp. Tàu của Kerry tới đón nhóm PRU, cùng với hai tù nhân. Trưởng nhóm PRU nói với Kerry rằng khi họ bắt cóc hai dân làng (trong đó có một cô gái) ở trong lều, họ nhìn thấy có 4 người trên xuồng tam bản và đã giết chết hết ngay lập tức. Hai tù nhân bị bắt chỉ là một phần trong lộ trình bắt bớ thông thường nhằm cung cấp các nạn nhân cho trại thẩm vấn và tra tấn An Thới.

Những lời kể của Kerry cho Brinkley về những điều đã xảy ra – và xuất hiện rất nhiều trong thời gian ngắn của ông ta ở Việt Nam – là “sự tàn bạo ngoài ý muốn”.

Trong các nhiệm vụ vào ban ngay, tàu cao tốc được trực thăng chiến đấu Cobra hộ tống, họ sẽ bắn phá hai bên bờ sông và phần xác rừng còn lại sau khi đã bị tàn phá bởi bom na-pam và chất độc màu da cam. “Helos quật ngã VC [có nghĩa là bất kỳ ai đó trên mặt đất] nhiều hơn bất cứ thứ gì mà chúng ta có thể có”, Kerry nói với Brinkley, “và bất cứ cơ hội nào mà chúng ta có họ đi cùng thì đều được hoan nghênh”.

Một ví dụ về hoạt động của Cobra. Vào ban ngày, dân chúng không bị thiết quân luật. Tàu của Kerry đi ngược dòng kênh, với một chiếc Cobra hộ tống phía trên đầu. Họ bất thình lình bắt gặp một chiếc tam bản với vài người. Trực thăng lượn phía trên chiếc tam bản, sau đó trút sạch đạn súng máy vào đó, giết chết tất cả mọi người và đánh chìm chiếc tam bản. Kerry, trong nhật ký của ông ta, không than vãn về việc chết chóc nhưng lại phàn nàn về việc lính trực thăng Cobra sử dụng đạn lãng phí, khi viên phi công trực thăng “yêu cầu cho phép rời đi để bổ sung đạn dược, trong một chiến dịch đã để lại chúng tôi không được hộ tống hơn 45 phút ở một khu vực mà sự hộ tống là rất cần thiết”.

Đêm Giáng Sinh 1968, Kerry chỉ huy tuần tra ngược dòng kênh dọc theo biên giới Campuchia. Việc ngừng bắn nhân dịp Giáng Sinh có hiệu lực. Vậy nên chiếc tàu cao tốc làm gì ở đó là một câu hỏi. Họ phát hiện hai chiếc xuồng tam bản và dồn chúng vào một làng chài nhỏ. Tàu bị bắn vài phát đạn bắn tỉa, (hay ít nhất là Kerry nói như vậy). Kerry ra lệnh cho xạ thủ súng máy James Wasser bắn yểm hộ.

Trong một đoạn ghi chép về sự ân hận, nhưng không phải của Kerry, Wasser kể cho Brinkley nghe anh ta đã thấy mình bắn chết một ông già đang dắt trâu. “Tôi bị ám ảnh bởi khuôn mặt của ông già đó. Ông ấy chỉ làm công việc nông nghiệp hàng ngày, không làm tổn hại ai. Ông ấy bị bắn vào ngực bằng đạn súng máy M-60. Đó có thể là đêm Giáng Sinh, nhưng tôi thực sự buồn rũ rượi sau đó…khi nhìn ông già bị bắn gục”. Thực tế là tàu của Kerry đã bắn vào một trong số các làng “thân thiện”, với một đơn vị đồn trú lính cộng hòa miền Nam, hai trong số họ đã bị thương.

Sự buồn bã của Wasser trái ngược với thái độ tự cho mình là đúng đắn của Kerry trong nhật ký của ông ta về những vụ bắn giết, thường xuyên nhằm vào lãnh thổ Campuchia. “Đôi khi chúng tôi bắn qua biên giới khi bị kích động bởi lính bắn tỉa hay phục kích, nhưng không có sai phạm để bị chính quyền Campuchia lên án chính thức hay dẫn đến các cáo buộc tấn công cũng như vô ý giết hại thường dân. Tôi không hoài nghi rằng đôi khi một số người vô tội bị bắn nhầm, nhưng không phải mọi trường hợp ở Việt Nam đều có thể coi là thảm sát, điều này hoàn toàn là sai”.

Rất mâu thuẫn khi chúng ta không bao giờ tìm thấy trong bất cứ nhật ký hay thư từ nào của Kerry một ấn tượng nhỏ về sự ăn năn hay hối tiếc – và Brinkley chắc chắn sẽ đánh dấu chúng nếu như Kerry từng viết những từ ngữ như vậy. Kerry không bao giờ viết, trong sự nghiệp sau này khi là ngôi sao tự phong của phong trào chống chiến tranh, thậm chí ngay cả trong những lời ba hoa về tai nạn của chiến tranh, hay như những cựu chiến binh khác vô tình để lộ cảm xúc của họ về sự kinh hoàng mà họ đã gây ra.

Không phải là ông ta không thể gợi lên cho cử tọa một vài đoạn khủng khiếp. Ví dụ, vài tuần sau sự cố ở biên giới Campuchia tàu của Kerry tiến vào sông Cửa Lớn chảy ra vịnh Square, khi một trong số lính hét lên về “xuồng tam bản chắn mũi tàu”. Kerry ra lệnh cho súng máy bắn vào thuyền cá. Chiếc xuồng tam bản dừng lại và Kerry cùng với lính nhảy sang. Họ tìm thấy một người phụ nữ đang ôm một đứa trẻ sơ sinh, và cạnh cô ta là xác của một đứa trẻ bị thủng lỗ chỗ bởi đạn súng máy, mặt úp vào giữa những túi gạo. Kerry nói với Brinkley rằng ông ta không muốn nhìn đứa trẻ chết, ông ta nói, “khuôn mặt này sẽ theo tôi suốt phần đời còn lại và tốt hơn không nên biết nó cười hay nhăn nhó, là trai hay gái”. Phương thức được Kerry ưa chuộng luôn chỉ có một. “Nhiệm vụ của chúng tôi”, ông ta nói với Brinkley sau đó vài trang, “là phá hủy tất cả những cái chòi và xuồng tam bản mà chúng ta tìm thấy”.

Trong chiến dịch Chúa Tể Biển Khơi, Kerry chở người Nùng trong các nhiệm vụ ám sát. Người Nùng được trả tiền để giết chóc, và Kerry mô tả tương phản họ một cách thích thú với vệ binh PF của Nam Việt Nam, gọi một cách chế giễu vệ binh là “Cream Puffs” [một loại bánh nhân kem]. Một lần, Kerry chở người Nùng tới một ngôi làng, ở đó họ bắt được một ông già và buộc ông ta phải làm máy dò mìn sống, đi trước họ một khoảng xa. Không có mìn và người Nùng cũng không chạm trán với kẻ thù. Nhưng đối với với ông già thì đó là hành trình một đi không trở lại. Người Nùng cắt cổ ông già, moi ruột và để lại lời cảnh báo trên xác chết.

Khi Kerry được tặng thưởng Ngôi Sao Bạc, ông ta được đô đốc Elmo Zuwalt cài nó lên ngực và tại lễ mừng ông ta có cơ hội gặp tư lệnh Adrian Lonsdale, chỉ huy chiến dịch Chúa Tể Biển Khơi. Kerry đã nắm lấy cơ hội để chỉ trích cách chỉ đạo chiến tranh: “Không phải là binh lính sợ đi trên các dòng sông”, ông ta nói với Lonsdale. “Cũng không phải là họ không sẵn sàng mạo hiểm mạng sống, hay họ không đồng ý với những nguyên tắc đã được thực hiện ở đây. Chỉ là họ muốn có một cơ hội công bằng để làm điều gì đó mang lại kết quả và những gì họ đang làm không mang lại gì hết. Nếu chúng ta ủng hộ họ, một số thứ sẽ đảm bảo rằng chúng ta sẽ thu được gì đó, nhưng đối với một quốc gia với tất cả quyền lực mà chúng ta có, chúng ta đang buộc binh lính chiến đấu theo kiểu bất chấp lý do… Điều mà chúng ta cần, thưa ngài, là một số đơn vị để quét sạch các khu vực và bảo vệ chúng sau khi chúng ta rời đi; nếu không chúng ta sẽ bị đẩy vào địa ngục sau khi chúng ta đi qua, và chằng thu hoạch được gì”.

Vâng, đây cũng chính là Kerry, người vào năm 2004 tại đỉnh điểm cuộc nổi dậy của người Sunni đã kêu gọi gửi thêm 40.000 lính Mỹ đến Iraq.

Cách ông ta giành được những Ngôi Sao Bạc và Đồng

Sự kiện bất ngờ khiến cho đại úy Hải Quân Hoa Kỳ John Kerry nhận được Ngôi Sao Bạc, do đó biến ông ta trở thành một “người hùng chiến tranh”, xảy ra vào ngày 28 tháng 2 năm 1969. Tàu cao tốc của ông ta chở “các chuyên gia chất nổ” Hoa Kỳ và một số lính miền Nam Việt Nam đi trên dòng sông Đông Cung. Sau khi thả người xuống, tàu của Kerry bị tấn công bằng hỏa lực nhẹ. Kerry quay tàu về phía phát ra tiếng súng, cập bờ và bắn vào rừng với súng máy trên tàu.

Khi cho tàu cập bờ thì Kerry đã không tuân thủ theo các mệnh lệnh tiêu chuẩn vốn cấm điều đó, bởi mặt đất thuộc về máy bay và lính trên tàu chỉ là các cầu thủ dự bị. Động cơ của Kerry là gì? Một lính trên tàu Michael “Duke” Medeiros giải thích cho người viết tiểu sử của Kerry, Douglas Brinkley, đó là vấn đề về kỹ năng xác minh. “Chúng tôi không bao giờ biết được chúng tôi có giết được VC hay không. Khi nổ súng, ông ấy [Kerry] muốn cập bờ và xông vào tóm lấy kẻ thù”.

Súng máy của tàu cao tốc đã giết chết một người Việt Nam, được coi là “du kích VC”, và họ mang bằng chứng [không được mô tả] về cái xác.

Chiếc tàu tiếp tục đi xuôi dòng và tiếp tục bị bắn một lần nữa, bằng súng phóng đạn rốc két. Dưới đây là những phần tường thuật có sự mâu thuẫn rõ ràng về sự kiện, phụ thuộc vào lợi ích của những người kể lại. Phần trích dẫn cho Ngôi Sao Bạc của Kerry mô tả sự kiện như sau: “Với sự kiên quyết bất chấp an toàn của bản thân và đạn rốc két của kẻ thù, ông ấy đã ra lệnh tấn công kẻ thù, cập bờ chỉ cách vị trí bắn rốc két của kẻ thù mười feet, và tự mình dẫn đội đổ bộ lên bờ đuổi theo kẻ thù. Ngay lập tức rà soát để phát hiện ra phần còn lại của kẻ thù và khu vực tiếp tế đã bị phá hủy. Sự can đảm phi thường và sự dũng cảm cá nhân của Đại úy (cấp bậc thấp) Kerry trong cuộc tấn công với một lực lượng vượt trội về số lượng khi phải đối mặt với hỏa lực mãnh liệt là nguyên nhân dẫn đến một nhiệm vụ rất thành công. 

Trích đoạn này, được đô đốc Admiral Elmo Zumwalt cung cấp, dựa trên báo cáo về sự kiện, được viết bởi John Kerry. Cái thiếu trong phần trích dẫn của Zumwalt là cuộc đối đầu bi kịch được Kerry mô tả 27 năm đó, vào năm 1996, tại tâm điểm của cuộc chiến tái cử bẩn thỉu chống lại đại biểu phe cộng hòa William Weld, khi Kerry tìm cách trúng cử thượng nghị sĩ nhiệm kỳ thứ ba. Kerry truyền đạt cho Jonathan Carrol, viết cho dân New York, một câu chuyện như sau: Ông ta đã đối mặt với một Việt Cộng, đứng cách ông ta vài feet với khẩu một khẩu B-40. “Cũng không biết là chuyện đó bất ngờ với hắn hay với chúng tôi”, Kerry nói với Carroll. “Điều đó rất đơn giản. Tôi không biết tại sao lại không phải là chúng tôi – Tôi muốn nói rằng, ngay cả bây giờ. Hắn ta chĩa súng vào tàu của chúng tôi. Hắn như chui ra từ địa ngục vậy, không ai trong chúng tôi thấy hắn cho tới khi hắn đứng trước mặt chúng tôi, chĩa súng bắn rốc két vào chúng tôi, và không hiểu vì lý do gì, hắn không kéo cò súng – hắn quay lưng và chạy. Hắn bị choáng váng khi nhìn thấy tàu của chúng tôi ngay trước mặt. Nếu hắn kéo cò súng, tất cả chúng tôi đã chết. Tôi không nói về chuyện đó. Tôi không nói và không thể. Câu chuyện đó thật sự khiến tôi không bao giờ kể với ai. Sẽ không có ai hiểu đâu”.

Ông ta có thể không muốn nói nhưng chắc chắn là ông ta thích ghi hình. Lần đầu tiên Kerry đưa ngôi sao Hollywood Dana Delaney về nhà ở Eighties, cô kể lại rằng ông ta đã cho cô thấy một đoạn video ghi lại thời kỳ ông ta trong hải quân ở Việt Nam. Cô ấy không bao giờ đi lại với ông ta nữa. (Khi ông ta chuẩn bị dọn đường cho mình tại đại hội đảng Dân Chủ ở Boston, câu chuyện là Kerry diễn lại cuộc đụng độ, ghi hình với máy quay 8mm cho các mục đích chính trị sau này.) 

Hai lính của Kerry, Medeiros và xạ thủ súng máy Tommy Belodeau, không cho là có gì huyền bí khi VC không bóp cò súng B-40. Người Việt Nam đã hết đạn. Anh ta chưa kịp nạp đạn lại sau phát bắn đầu tiên vào tàu của Kerry khi nó đi xuôi dòng sông.

Sau đó vào năm 1996 Belodeau mô tả toàn bộ sự kiện cho David Warsh của tở Boston Globe. Belodeau kể với Warsh rằng anh ta khai hỏa khẩu súng máy M-60 vào người Việt Nam ở cự ly mười feet sau khi họ cập bờ. Đạn súng máy bắn trúng chân người Việt Nam, và người đàn ông bị thương bò vào sau một cái lều gần đó. Vào lúc ấy, Belodeau nói, Kerry cầm lấy khẩu M-16, nhảy ra khỏi tàu, tiến tới chỗ người đàn ông mà Belodeau nói đã gần chết, và kết liễu anh ta.

Khi tờ Globe xuất bản hồi ký mà Warsh ghi theo lời kể của Belodeau, đó là cáo buộc Kerry về tội ác chiến tranh, chiến dịch của Kerry nhanh chóng dẫn Madeiros tới báo chí và ông ta mô tả người Việt Nam sau khi bị súng máy của Belodeau bắn ngã, đã vùng dậy, tóm lấy khẩu súng bắn rốc két và chạy theo đường mòn vào rừng và biến mất ở lối rẽ. Họ chạy vòng tới góc khuất và thấy người Việt Nam một lần nữa chĩa súng B-40 vào họ ở khoảng cách chỉ 10 feet. Anh ta không bắn và Kerry bắn chết anh ta bằng khẩu súng trường. 

Trên trang web của cựu chiến binh vào đầu năm 2004 có một thư điện tử của Mike Morrison, người cũng như Kerry nhận được Ngôi Sao Đồng ở Việt Nam. Morrison là người sau này viết bài diễn văn cho Lee Iacocca, đã rất hoài nghi về chiến công của Kerry. Trong lá thư viết cho em trai Ed, ông ta viết như sau: 

“Tôi đã nghĩ từ rất lâu rằng thành tích của Kerry là giả mạo. Chúng ta sẽ nói về điều đó khi em ở đây. Đó hoàn toàn là bản năng bởi vì, như em đã biết, không bất cứ người nào giành được mà lại khoe khoang nó không hề xấu hổ cho những lợi ích chính trị”.

“Tôi đã ở khu vực châu thổ ngay sau khi ông ta rời khỏi. Tôi biết rất rõ về khu vực. Tôi biết những chiến dịch mà ông ta đã tham gia. Tôi biết các chiến thuật và học thuyết được áp dụng. Tôi biết về trang thiết bị. Mặc dù tôi được chỉ định vào CTF-116 (PBRs) nhưng tôi đã ở trong CTF-115 (đơn vị tàu cao tốc) một thời gian khá dài, đơn vị mà Kerry là chỉ huy”. 

Đây là những vấn đề và sự nghi vấn: 

“(1) Kerry chỉ mới ở đó ít hơn 4 tháng và giành được một Ngôi Sao Đồng, một Ngôi Sao Bạc và 3 Trái Tim Tím. Tôi chưa từng thấy bất cứ ai trong mọi binh chủng mà tôi từng cùng làm việc (bao gồm Đặc Nhiệm Lính Thủy Đánh Bộ, Sói Biển, Riverines và Lực Lượng Tuần Tra Đường Thủy) có thể kiếm mề đay nhanh như vậy, và với những hành động tẻ ngắt như vậy. Tàu cao tốc đã thực hiện những công việc đáng được tuyên dương. Nhưng nhiệm vụ không phải là những điều tồi tệ mà bạn có thể vẽ ra. Họ chỉ hoạt động dọc theo bờ biển và trên các dòng chảy chính (Bassac và Mekong). Những vấn đề khó khăn trong các khu vực nóng bỏng được xử lý bằng các PBRs nhỏ hơn và nhanh hơn. Đáng nghi.”

“(2) Ba Trái Tim Tím mà không bị què. Mọi vết thương đều nhỏ tới mức không phải nghỉ dưỡng thương. May mắn đến kinh ngạc. Hay là ông ta tự trao mề đay cho mình mỗi khi ông ta va đầu vào cửa phòng lái tàu? Đụng độ trên tàu phần lớn là ở cự ly gần. Bạn không thể có những vết thương nhỏ. Ít nhất là không thường xuyên. Không phải ba lần liên tiếp. Sau đó ông ta dùng ba Trái Tim Tím để yêu cầu được về nhà tám tháng trước khi kết thúc nghĩa vụ. Đáng nghi.”

“(3) Chi tiết về sự kiện mà ông ta nhận được Ngôi Sao Bạc chả có nghĩa lý gì cả. Đột nhiên, một quả đạn B-40 bắn về phía tàu và trượt. Charlie nhảy lên với khẩu B-40 trong tay, xạ thủ súng máy bắn ngã anh ta, Kerry cập bờ, nhảy xuống, bắn hạ Charlie, và cướp được khẩu súng. Nếu sự thật như vậy, ông ta đã làm sai hết. (a) Thủ tục tiêu chuẩn khi bạn bị nã rốc két là quay đuôi tàu và chạy khỏi đó. Một khẩu B-40 có tầm bắn là 25 yard, nên bạn giữ khoảng cách 50 yard hay giữa bạn và bờ sông, sau đó sử dụng súng máy. (Bạn có thấy ai bị bắn hạ bằng súng cỡ 50 ly mà đứng dậy được không? Người đó chắc chắn chết hoặc hấp hối. Khẩu B-40 không có đạn. Thế nên chả có lý do gì đuổi theo anh ta (trừ khi bạn biết rằng anh ta không còn nguy hiểm – chỉ là ném mình vào đâu đó trong cơn hấp hối, và bạn muốn có hành động gan dạ trong báo cáo chiến sự). Và chúng tôi không bắn người bị thương. Chúng tôi cũng có luật cấm việc đó.”

“Kerry ra khỏi tàu. Đây là sự vi phạm thủ thục nghiêm trọng. Không có bất cứ thành viên nào được rời tàu trong khu vực nổ súng. KHÔNG BAO GIỜ! Lý do rất đơn giản. Nếu bạn để mọi người lên bờ thì tàu của bạn không được bảo vệ. Nó không thể chạy và cũng không thể bắn lại. Thật là ngớ ngẩn khi đưa lính của mình vào nguy hiểm. Ông ta phải bị cách chức và bị quở trách. Tôi chưa từng thấy bất cứ lính thủy nào rời tàu trong khi hay sau khi đọ súng.” 

“Một số thứ rất khả nghi”

“Câu chuyện có ý nghĩa đối với tôi là của Belodeau. Đó là ba khẩu súng đầy uy lực máy trên tàu và một người Việt Nam ở cự ly gần trên mặt đất và Belodeau nói khẩu súng máy của ông ta đã hạ mục tiêu. Ngay cả khi chiến binh Việt Nam vùng dậy một cách kỳ diệu và chạy xuôi theo đường mòn, thì lần thứ hai bắn anh ta vào một phần nào đó ở chân. Dường như tàu đã sử dụng súng máy lần nữa, làm rõ những Kerry kể về việc họ làm, ngày này qua ngày khác, đêm này qua đêm khác?”

Ngôi Sao Đồng của Kerry vào ngày 13 tháng 3 năm 1969, hai tuần sau câu chuyện khiến ông ta nhận được Ngôi Sao Bạc được Kerry coi phần cuối cùng trong cuộc chiến đấu. Nó đem lại cho ông ta Ngôi Sao Đồng và Trái Tim Tím thứ ba, điều đó có nghĩa là ông ta có quyền yêu cầu được thuyên chuyển khỏi Việt Nam. 

Kerry nhận được Ngôi Sao Đồng nhờ việc kéo một đại úy khác ra khỏi mặt nước sau khi tàu cao tốc của người đó va phải mìn. Vụ nổ mình đó hất Kerry văng vào vách ngăn trên tàu, làm thâm tím tay của ông ta. Đó được coi là một vết thương, có nghĩa là Trái Tim Tím thứ ba. Sau đó, giữa làn đạn súng trường, Kerry điều khiển tàu tới chỗ đại úy Rassman và lôi ông ấy lên bong.

Cả hai con tàu thực hiện hai nhiệm vụ khác nhau, chở Lính Mũ Nồi Xanh, Đặc Nhiệm Hải Quân và sát thủ người Nùng tới một ngôi làng. Một lần nữa họ lại nhầm lẫn tấn công vào làng thân thiện, ở đó họ khai hỏa vào nhóm lính miền nam Việt Nam đang thẩm vấn một nhóm phụ nữ và trẻ em xếp hàng dọc theo một bức tường.

Khi đám mũ nồi xanh và đặc nhiệm hải quân khai hỏa, lính miền nam Việt Nam nhảy qua bức tường và để lại ít nhất mười phụ nữ và trẻ em bị giết. Khi đó, trái với mệnh lệnh, Kerry đã rời tàu, đứng cùng với đám người Nùng và ra lệnh bằng lời nói, “bắn và thổi bay những thứ đó đi”. Một người Nùng ném lựu đạn vào chiếc lều chất đầy những bao gạo. Kerry bị gạo rơi vào đầu và một mẩu kim loại găm vào mông, vết thương nặng nhất mà ông ta nhận được ở Việt Nam.

Với ba Trái Tim Tím, Ngôi Sao Bạc và Ngôi Sao Đồng, Kerry sẽ được thuyên chuyển sang làm trợ lý riêng cho một sĩ quan cấp cao ở Boston, New York hay Washington DC. Ông ta quyết định chọn New York để làm việc cho đô đốc Walter F. Schlech ở New York. Vào tháng giêng năm 1970 ông ta xin được giải ngũ. Theo như ông ta viết, ông ta quyết định tham gia phong trào phản chiến nhưng trong khuôn khổ hệ thống và cố gắng giành một ghế trong quốc hội của quận 

Zumwalt: “Thành tích của Kerry sẽ ám ảnh ông ta”

Một cựu trợ lý bộ trưởng bộ quốc phòng và giáo sư trường ngoại giao Fletcher, W. Scott Thompson, nhắc lại một đoạn đối thoại với đô đốc Elmo R. Zumwalt Jr. mà trong đó có sự khác biệt rõ ràng với hồi ký của Kerry về cuộc tranh luận: “Vị chỉ huy huyền thoại và xuất sắc của các chiến dịch hải quân, đô đốc Elmo Zumwalt, nói với tôi – 30 năm trước khi ông ấy vẫn là CNO [chỉ huy hải quân ở Việt Nam] trong thời kỳ ông ấy chỉ huy lực lượng hải quân Hoa Kỳ ở Việt Nam, mối bận tậm lớn nhất của ông ấy trong vai trò CNO, là anh chàng Kerry trẻ tuổi đã gây ra hàng mớ các vấn đề lớn cho bản thân và các chỉ huy cấp cao, bằng cách giết hại rất nhiều thường dân và theo đuổi các mục tiêu phi quân sự khác.

“Chúng tôi đã phải mặc áo người điên cho anh ta để kiểm soát được anh ta”, đô đốc nói. “Bud” Zumwalt có lý khi ông ấy đánh giá Kerry có tham vọng lớn – nhưng cam đoan rằng sự nghiệp ở Việt Nam sẽ ám ảnh ông ta nếu ông ta đạt đến tầm quốc gia.”

Tuesday, August 5, 2014

Think tank Mỹ thúc đẩy xu hướng chiến tranh trên biển Nam Trung Hoa

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Influential Washington think tank pushes US war drive in the South China Sea" của tác giả Joseph Santolan bình luận về bản báo cáo mới đây của Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế Hoa Kỳ. 

Từ ngày 10 đến 11 tháng 7, Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) đã tổ chức hội thảo kéo dài hai ngày về Biển Nam Trung Hoa, trong đó họ công bố một bản báo cáo dài 22 trang có tên là “Các xu hướng hiện nay trên biển Nam Trung Hoa và chính sách của Hoa Kỳ”.

CSIS đã đóng vai trò chủ chốt trong “sự chuyển trục” sang châu Á của chính quyền Obama. Những khuyến nghị thẳng thừng của họ về sự mở rộng quy mô có tính khiêu khích của quân đội Hoa Kỳ nhằm bao vây và cô lập Trung Quốc về mặt ngoại giao đã thường xuyên được đưa ra. Một báo cáo về chính sách của Hoa Kỳ trên biển Nam Trung Hoa từ CSIS có thể được coi như một trạng thái bán chính thức.

Bản báo cáo mở đầu với một câu chuyện giả tạo về những sự kiện trong năm qua trên biển Nam Trung Hoa, với những cáo buộc gây căng thẳng khu vực do sự hung hăng và không khoan nhượng của Bắc Kinh. Sự thật là xu hướng dẫn tới chiến tranh ở khu vực đã được thúc đẩy liên tục bởi Washington, với CSIS đóng vai trò chủ chốt.

Trong sáu tháng qua đã xảy ra liên tục các đối đầu có vũ trang trên biển Nam Trung Hoa giữa Bắc Kinh với cả Manila lẫn Hà Nội. Manila đã đệ đơn kiện – được Washington hậu thuẫn – phản đối tuyên bố chủ quyền biển của Trung Quốc lên Tòa Hòa giải Quốc tế về Luật biển (ITLOS). Hoa Kỳ đã ký một thỏa thuận – Thỏa ước nâng cao về Hợp tác Phòng thủ (EDCA) – với Manila, cho phép một số lượng quân đội Hoa Kỳ không giới hạn được đóng ở bất cứ đâu trên lãnh thổ Philippine.

Trong bản báo cáo mới đây, CSIS đã đặt ra một nghị trình hung hăng hơn cho Washington, với hai mũi đột kích cơ bản: thiết lập các tiền đề pháp lý để phủ nhận đòi hỏi của Bắc Kinh trên biển Nam Trung Hoa, và gia tăng sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại khu vực.

Kể từ khi cựu ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố về “sự chuyển trục”, Washington đã luôn khẳng định là nó trung lập với những đòi hỏi lãnh thổ trên biển Nam Trung Hoa và chỉ quan tâm tới việc đảm bảo “tự do hàng hải”.

Việc đệ đơn kiện lên ITLOS của Manila đã phản ánh sự khởi đầu nỗ lực của Washington nhằm vô hiệu hóa về mặt pháp lý hầu như toàn bộ đòi hỏi lãnh thổ của Trung Quốc. Dựa trên điều này, CSIS kêu gọi Bộ Ngoại Giao phác thảo một bản đồ về tranh chấp khu vực “dựa một cách chính xác trên sự chồng lấn của vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) bờ biển/thềm lục địa và chủ quyền lãnh hải tiềm tàng của các đảo bị tranh chấp”.

Hoàn toàn không có dẫn chiếu tới các đòi hỏi lãnh hải về mặt lịch sử, thứ được coi là cơ sở của cái được gọi là bản đồ đường 9 đoạn về biển Nam Trung Hoa mà Trung Quốc sử dụng. Một bản đồ được vẽ trong chính sách Hoa Kỳ tuân theo tiêu chuẩn mà CSIS đặt ra sẽ vô hiệu hóa hơn 90% đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh.

CSIS kêu gọi tạm ngưng các hoạt động xây dựng trên khu vực tranh chấp, coi điều này là một biện pháp để giảm căng thẳng. Điều đó hoàn toàn vô nghĩa. Cũng hệt như việc đệ đơn kiện lên ITLOS, thứ dựa trên lập luận rằng lãnh thổ mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền chỉ là đá chứ không phải là đảo, và do đó không có đường cơ sở lãnh thổ.

Mối lo ngại của Washington và Manila là việc xây dựng của Bắc Kinh quần đảo Trường Sa có thể biến “đá” thành “đảo”. Đồng thời, bản báo cáo cũng ghi nhận rằng cả Đài Loan và Philippine cũng đang xây dựng sân bay trên các khu vực có tranh chấp. Bản báo cáo tuyên bố rằng ngoại trưởng John Kerry sẽ “không lưỡng lự khuấy động chủ đề này tại Diễn Đàn khu vực ASEAN (ARF) vào ngày 10 tháng 8 tới đây.

CSIS kết hợp phương thức chiến tranh pháp lý với việc gia tăng các hoạt động quân sự nhằm thắt chặt vòng vây quanh Trung Quốc.

Bản báo cáo kêu gọi xem xét lại lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Điều này sẽ giúp Việt Nam trở thành “ một sự ngăn chặn đáng tin cậy đối với sự bành trướng của Trung Quốc”.

Lý do Washington cấm bán vũ khí sát thương cho Hà Nội là vấn đề nhân quyền của Việt Nam, trong họ khi tiến hành những cuộc chiến đẫm máu, ám sát, bắt giam trái phép và tra tấn khắp mọi ngóc ngách của trái đất, trưng bày sự quan ngại của họ về nhân quyền bất cứ khi nào họ muốn áp đặt sự độc đoán về chính trị và kinh tế. Nói về sự quan ngại nhân quyền ở Việt Nam – một đất nước mà người dân ở đó đã phải nếm trải những đặc sản Hoa Kỳ như chất độc màu da cam, bom na-pam và hàng thập kỷ chiến tranh đế quốc – thật sự là quá đạo đức giả.

Cũng như những gì họ đã làm với Miến Điện trước đây, Washington chuẩn bị công nhận thành tích nhân quyền của Việt Nam để đổi lấy những nhượng bộ về kinh tế. Ứng cử viên cho chức đại sứ ở Việt Nam của Obama, đã làm rõ điều này trong buổi điều trần của ông ta trước ủy ban Quan hệ Quốc tế của Thượng viện vào ngày 17 tháng 6. Ông ta kêu gọi công nhận thành tích nhân quyền của Hà Nội, tuyên bố rằng: “Không có lúc nào tốt hơn lúc này để làm cho Việt Nam quan tâm tới mối quan hệ đối tác sâu sắc với chúng ta”. Bằng chứng mà ông ta đưa ra cho sự quan tâm của Việt Nam là sự sẵn sàng của họ trong việc gia nhập Hiệp Định Đối Tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) do Hoa Kỳ dẫn dắt.

Đặc biệt khiêu khích là khuyến nghị của CSIS về việc Hoa Kỳ phải thể hiện rõ rằng họ có “nghĩa vụ đáp trả theo các điều khoản của Hiệp Ước Phòng Thủ Tập Thể [MDT] với Philippine nếu các hành động không kiềm chế của Trung Quốc tại khu vực tranh chấp trực tiếp dẫn đến cái chết hay thương vong của binh lính Philippine”. Các điều khoản của MDT buộc Hoa Kỳ có nghĩa vụ phải tham chiến trong trường hợp Philippine bị tấn công trên Thái Bình Dương hay tại quần đảo của họ. Giai cấp tư sản Philippine lại đang lo ngại rằng các điều khoản của MDT không áp dụng cho biển Nam Trung Hoa.

CSIS đang biện hộ cho việc mở rộng hiệp ước như một ngòi nổ chiến tranh tới vùng biển tranh chấp, nơi mà từ hai năm qua quân đội Philippine đã thường xuyên có đối đầu vũ trang với Trung Quốc. 

Bản báo cáo kêu gọi sử dụng EDCA để phát triển một căn cứ ở vịnh Oyster trên đảo Palawan nhằm mục đích lập tức triển khai quân đội Hoa Kỳ trên biển Nam Trung Hoa.

Cuối cùng CSIS biện hộ cho việc thiết lập các cơ sở trinh sát ngoại tuyến bổ sung trên khắp khu vực để thiết lập sự giám sát theo thời gian thực toàn bộ vùng biển. Các thương lượng với Philippine đã cho thấy rõ rằng điều này sẽ bao gồm cả việc sử dụng các máy bay giám sát không người lái.

Báo cáo của CSIS là một văn kiện gây chiến phản ánh rõ ràng nghị trình của chính quyền Obama và tất cả Washington xiết chặt những chiếc đinh ốc vào Trung Quốc. Điều này đặc biệt trở nên rõ ràng bởi những người tham gia tổ chức hội thảo từng là trợ lý ngoại trưởng dưới thời Obama, trợ lý giám đốc tình báo quốc gia dưới thời Bill Clinton, một cố vấn an ninh quốc gia đặc biệt của George W. Bush, và cựu tư lệnh của hải quân Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương.

Nhà tổ chức sắp xếp một sự kích động về mặt ngoại giao cho trò chơi chiến tranh trên biển Nam Trung Hoa. Trong sự kích động này, Manila đã bắt giam 12 ngư dân Trung Quốc vì đánh bắt trộm và Bắc Kinh đáp lại bằng việc cảnh sát biển của họ bao vây 8 lính thủy Philippine trên một tàu bỏ hoảng tại biển Nam Trung Hoa. Những sự kiện này đã xuất hiện trên các tiêu đề báo trong bốn tháng qua. 

Nhà tổ chức tuyên bố rằng họ cần phải “đặt một cái giá” cho Bắc Kinh, và những người lính thủy Philippine bị bỏ rơi là bằng chứng nhân đạo để can thiệp. Họ gửi tàu chiến Littoral từ Singapore, một phần của hạm đội Hoa Kỳ ở Okinawa, một số lính thủy ở Darwin tại miền bắc Australia và chiến hạm từ căn cứ trên ở vịnh Subic của Philippine để phá vòng vây của Trung Quốc. Sự kích động thực hiện với kỳ vọng là Trung Quốc sẽ lùi bước. Đó là sự tán thưởng.

Không giống như chủ nghĩa lạc quan tao nhã của những kẻ gây chiến thuộc CSIS, câu chuyện có thể sẽ không kết thúc gọn gàng. Nó có thể dễ dàng leo thang thành chiến tranh thế giới.

Sunday, August 3, 2014

Làm báo mạng kiểu Tuổi Trẻ

Làm báo, nhất là báo mạng thì luôn phải cẩn trọng, không có ngày tự mình vả gẫy răng mình mà không biết!

Mới đây, có vụ ồn ào về máy xét nghiệm sinh hóa tự động có giá 648 triệu đồng ghi nguồn gốc xuất xứ ở Đức nhưng trong ruột lại có phụ tùng như các cánh quạt sản xuất ở Trung Quốc, tất nhiên báo Tuổi Trẻ nhanh chóng dùng những từ kiểu như "đầu dê, ruột chó" mà chưa cần biết nội tình ra sao. Tạm gác qua vụ thiết bị này, chỉ cần xem cách đưa tin của báo Tuổi Trẻ.

Trong bài "Thiết bị y tế vỏ Đức ruột Trung Quốc" đăng ngày 30.07.2014, báo Tuổi Trẻ Online viết: 

Được đưa vào sử dụng từ năm 2010, nhưng đến tháng 3-2013 thì máy tại Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức bị hỏng bóng đèn, tháng 6-2013 máy đặt tại Bệnh viện Đa khoa Thường Tín cũng hỏng bóng đèn đến nay chưa khắc phục được, chưa kể các trục trặc phần mềm phải sửa chữa.

Theo báo cáo của trưởng khoa xét nghiệm Bệnh viện Đa khoa Thường Tín Nguyễn Thị Phương, tốc độ trả kết quả xét nghiệm của máy Greiner GA240 kể trên rất chậm, 2 giờ 30 phút mới được 38 kết quả, trong khi lý thuyết thì mỗi giờ máy trả được 180 kết quả.

Bà Phương đề nghị phải mua máy mới hoặc mượn máy của hãng để đáp ứng nhu cầu xét nghiệm. Theo thông tin chúng tôi nhận được, các máy Greiner GA240 ở các bệnh viện còn lại nhận thiết bị này cũng rất “tậm tịt”, có máy đã phải sửa tới... 35 lần trong vòng hai năm.

Vâng, rất tai hại, rất bức xúc, rất ghê ghớm, rất đáng lên án, tại sao người ta có thể nhẫn tâm sử dụng thiết bị kém chất lượng cho nhân dân cần lao đáng thương. Cái máy xét nghiệm sinh hóa tự động ở bệnh viện đa khoa Hoài Đức không những hỏng bóng đèn mà còn rất "tậm tịt" nữa chứ. Làm sao người ta có thể ngồi yên trước một việc kinh khủng như vậy? Ai lại để con mẹ Phó Đoan cứ đong đưa cái mông mãi thế? Cái thằng cha Xuân Tóc Đỏ chết dấm chết dúi đâu rồi? Hay nó lại đang mải cắm mặt vào chỗ mấy con hót gơn hót geo "ngực to không lo chết đói"? 

Vâng, xin bà con tạm gác nỗi bức xúc lại, đọc tiếp tờ báo của nhân dân cần lao, tờ báo mạng Tuổi Trẻ danh tiếng, vâng đó là bài viết "Lằng nhằng hóa xã hội y tế" đăng ngày 21.10.2013. Chao ôi cũng chao cũng chả xa xưa gì lắm nhỉ, mới chỉ có 9 tháng trước đây chứ đâu? Và đây là nguyên văn những gì họ viết:

Đầu tháng 10, trao đổi với TTCT, chị Hoàng Thị Nguyệt, người đưa ra ánh sáng vụ “nhân bản” xét nghiệm tại BV Đa khoa Hoài Đức (Hà Nội), cho biết ngay sau khi vụ việc tại BV này bị phanh phui, vị giám đốc mới về BV (tháng 8-2013) đã yêu cầu sửa thiết bị xét nghiệm sinh hóa do Nhà nước đầu tư đang bị đắp chiếu vì hỏng bóng đèn dây bơm, trong khi thiết bị “xã hội hóa” do BV đi “mượn” về thì làm không hết việc.

Theo chị Nguyệt, chỉ sửa chữa một chút thì từ đó đến nay, máy do Nhà nước đầu tư hoạt động rất tốt.

Theo nguồn tin mới nhất của báo mạng Tuổi Trẻ thì cái máy "đầu dê, ruột chó" ấy hỏng bóng đèn còn theo nguồn tin trước đây 9 tháng thì nó hỏng bóng đèn dây bơm, túm cái váy là không biết nó hỏng cái gì. Cũng theo nguồn tin mới nhất của báo Tuổi Trẻ thì cái máy đó rất "tậm tịt" mặc dù theo nguồn tin trước đây 9 tháng thì sau khi được sửa chữa xong nó đã chạy rất tốt, túm cái váy là không biết nó chạy tốt hay tậm tịt.

Nghe đến đây thì thằng cha Xuân Tóc Đỏ mới quát lên rằng "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!". 

Thursday, July 24, 2014

Vụ rơi máy bay MH17 và bộ mặt chính trị của phương Tây

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "What are the politics of the crash of Malaysian Airlines flight MH17?" của Alex Lantier bình luận về những tin tức mới nhất trong sự kiện máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia rơi tại miền đông Ukraina. Tiêu đề do người dịch đặt lại.

Một cuộc họp báo ngắn trong ngày thứ hai của Bộ Ngoại Giao với người phát ngôn Marie Harf về vụ rơi máy bay MH17 ở miền đông Ukraina đã phơi bày sự thực là chính quyền Hoa Kỳ không có bằng chứng đáng tin cậy cho các cáo buộc của họ về việc Nga can dự vào thảm kịch kinh hoàng đó. Trong khi không ngừng chống đỡ các công kích của phóng viên Matt Lee thuộc hãng thông tấn AP, Harf đã không thể đưa ra bất cứ thông tin chính xác nào.

Đầu tiên, Lee trích dẫn báo cáo của quân đội Nga về dữ liệu radar và các hình ảnh vệ tinh cho thấy chiến đấu cơ của chính quyền Kiev và dàn phóng tên tửa đã theo dõi máy bay MH17 ngay trước khi chiếc máy bay bị rơi. Sau đó, ông ta hỏi bà Harf về phản ứng đối với việc Moscow yêu cầu Washington công bố các tài liệu chứng minh cho sự kiện, như dữ liệu vệ tinh do thám của Hoa Kỳ mà Moscow quan sát thấy có mặt tại khu vực vào thời điểm xảy ra vụ rơi máy bay.

Câu trả lời của Harf hoàn toàn ngớ ngẩn. Bà ta nói, “Chúng tôi biết, chúng tôi đã thấy trên truyền thông xã hội sau đó, chúng tôi đã xem các video, chúng tôi đã xem các bức ảnh mà những người ly khai thân Nga khoe khoang về việc bắn hạ một máy bay và họ sau đó họ…xin lỗi, đã rút xuống khi nhận ra rằng đó có thể là máy bay dân sự”.

Lee hỏi Harf rằng Washington có đưa ra các bằng chứng xác đáng như dữ liệu mà quân đội Nga đã cũng cấp không. Harf đã từ chối bình luận về việc đó, chỉ đơn giản khẳng định rằng bà ta không lấy làm phiền phải theo dõi trình bày của quân đội Nga. “Tôi chưa hề thấy bất cứ thứ gì của sự trình bày đó”, bà ta nói. 

Lee dồn ép Harf về chuyện Washington trên thực tế biết gì về việc tên lửa được bắn đi từ khu vực do lực lượng thân Nga kiểm soát. Harf trả lời, “Trước hết chúng tôi biết rằng những người ly khai thân Nga có một hệ thống SA-11 [tên lửa đất đối không] vào ngày thứ hai, 14 tháng 7. Điều này thu được từ việc chặn bắt trao đổi thông tin của những người ly khai mà chính quyền Ukraina đã đưa lên mạng YouTube.

Lee cắt ngang Harf bằng câu hỏi Washington có thể đưa ra bất cứ bằng chứng nào cho những khẳng định của họ ngoài những thứ được đăng trên truyền thông xã hội không. Câu trả lời của Harf cho thấy rõ ràng là không thể: “Nếu có thêm thông tin liên quan mà chúng tôi có thể chia sẻ, chúng tôi sẵn lòng làm điều đó. Chúng tôi đang tiếp tục tìm kiếm thông tin về sự kiện. Nhưng hãy chú ý, đây là những gì chúng chúng tôi đang nắm được. Dựa trên các thông tin công khai theo lẽ thông thường, đúng vậy, chúng tôi biết về nơi tên lửa đã được bắn đi, chúng tôi biết ai có vũ khí đó”. Bà ta bổ sung thêm, “Tôi biết là nó gây bực dọc. Hãy tin tôi, chúng tôi cố gắng thu thập thông tin trong chừng mực có thể. Và vì một số lý do, đôi khi chúng tôi không thể”.

Thật kinh ngạc là chính quyền Hoa Kỳ có thể mong đợi mọi người chấp nhận những thứ vô nghĩa là bằng chứng cho tất cả. Các điệp viên tình báo Hoa Kỳ đã tiêu tốn hàng tỷ dollar mỗi năm vào các chiến dịch giám sát quy mô lớn; họ dường như đã theo dõi khu vực có máy bay rơi qua vệ tinh. Mặc dù vậy, bằng chứng duy nhất mà Harf trích dẫn là một đoạn thu âm cuộc đối thoại giữa hai người không rõ danh tính được cơ quan an ninh Ukraina, vốn nằm dưới sự kiểm soát của CIA, đưa lên mạng YouTube.

Nội dung của đoạn thu âm đó chẳng chứng được minh điều gì. Quân đội Ukraina cũng có hệ thống tên lửa SA-11 và có thể bắn vào máy bay MH17. Dàn phóng tên lửa, số hiệu 312, mà truyền thông mới cáo buộc đã bắn tên lửa vào máy bay MH17 đã được chứng minh là thuộc về kho vũ khí của quân đội Ukraina.

Đây là cách làm việc mà chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ đã sử dụng nhiều năm: dựa trên các cáo buộc chưa được xác minh về công cụ khủng bố như vũ khí hủy diệt hàng loạt hay rơi máy bay để dẫn dắt nhân dân Hoa Kỳ tới chiến tranh, với những hậu quả khủng khiếp. Thuyết trình năm 2003 của Bộ trưởng Ngoại giao Colin Powell tại Liên Hiệp Quốc, tuyên bố rằng Iraq sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt, đã được chứng minh là dối trá. Cáo buộc vào năm ngoái về việc Syria sử dụng vũ khí hóa học, nhằm thúc đẩy một cuộc chiến tranh, đã bị nhà báo Seymour Hersh phơi bày là chuyện bịa đặt của Thổ Nhĩ Kỳ, Al Qaeda và các cơ quan chức năng nhà nước Hoa Kỳ 

Đáng chú ý, tổng thống Obama và ngoại trưởng John Kerry đã dấy lên câu hỏi về cuộc khủng hoảng hiện tại với Nga, với cảnh báo của Obama về “thông tin sai lệch” trên truyền thông và Kerry bày tỏ rằng ông ta không muốn nhận xét về việc Nga “có tội” trong thảm họa này. 

Ít nhất, chiến dịch chống Nga của truyền thông phương Tây vẫn không suy yếu. Viết trên tờ New York Times vào thứ tư, Bernard-Henri Lévy điên cuồng lên án Putin, đổ lỗi cho ông ta về vụ rơi máy bay. Lévy viết: “Ông ta đã thu nạp đám côn đồ, trộm cắp, hiếp dâm, tù tội, phá hoại và biến chúng thành lực lượng bán quân sự… Với bộ sưu tập tạp nham đó, ngài Putin, tổng thống Nga, đã tạo ra một vũ khí khủng khiếp mà những người lính nghiệp dư không thể so sánh và với những gì chúng đã làm, giống như những đứa trẻ với pháo hoa.”

Những lời lên án cay độc đối với Putin và Nga đang kêu gọi sự can thiệp của NATO vào Ukraina là nguy cơ trực tiếp thúc đẩy cuộc nội chiến, được tạo ra sau cuộc đảo chính được NATO hậu thuẫn và phát xít đóng vai trò xung kích trong tháng hai vừa qua, trở thành chiến tranh hạt nhân toàn cầu. Trong bài báo bẩn thỉu trên tờ New York Times, nhà báo Roger Cohen kêu gọi bỏ qua kết quả điều tra vụ rơi máy bay MH17 và thay vào đó là xâm lược Ukraina cũng như lao vào chiến tranh thế giới.

Bài báo của ông ta có tiêu đề “Mặt trời tháng tám”, ông ta viết: “Một thế kỷ trôi qua kể từ thế chiến thứ nhất, không ai muốn khẩu súng của tháng tám. Mặc dù vậy cần phải hỏi rằng liệu những năm tháng chờ đợi cho kết luận lẩn tránh của một cuộc điều tra chính thức về số phận của chiếc máy bay số 17 có tốt hơn hành động ngay lập tức về thứ mà chúng ta đã biết rõ không… Nga sẽ phủ quyết bất cứ nghị quyết nào của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cho phép thực hiện một nhiệm vụ giới hạn để bảo vệ thi hài và bằng chứng. Nhưng Ukraina, trên lãnh thổ của họ có những mảnh vụn và thi hài đang nằm, sẽ ủng hộ điều đó. Các chính quyền Mỹ, Anh, Hà Lan và Australia sẽ đưa ra tối hậu thư dựa trên sự đe dọa nghiêm túc về việc buộc phải thực hiện yêu cầu tiếp cận không giới hạn với địa điểm máy bay bị rơi.

Những cảnh báo khẩn cấp nhất đối với giai cấp lao động quốc tế là cần thiết. Những nhà báo như Cohen và các nhân viên tình báo, qua những gì mà họ thể hiện, có nguy cơ gây ra một cuộc chiến tranh với tổn thất ít nhất có thể lên đến hàng trăm triệu mạng người. Trong bài phát biểu tuần này, tổng thống Nga Putin tuyên bố rằng ông ta sẽ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Nga và có các vũ khí để làm điều đó. Kho vũ khí của quân đội Nga, giống như Hoa Kỳ, có đủ vũ khí hạt nhân để phá hủy hành tinh này vài lần.

Trong khi bằng chứng thực sự vẫn chưa cho phép các nhân viên điều tra xác định nguyên nhân vụ rơi máy bay, bằng chứng chính trị tích lũy mỗi ngày cho thấy truyền thông phương Tây, phát ngôn cho một số bộ phận giai cấp thống trị Hoa Kỳ và Châu Âu, có ý định gây chiến. Cái gì khiến người ta sẵn sàng chấp nhận sự hiếu chiến đó đối với sinh mạng của 298 người trên máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia?


Sunday, July 20, 2014

Vụ máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia rơi ở Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "The crash of Malaysian Airlines flight MH17 in Ukraine" của Alex Lantier. Vụ máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia bị bắn rơi trên bầu trời miền đông Ukraina có thể làm thay đổi cục diện cuộc nội chiến ở Ukraina. Cho đến nay, phương Tây vẫn không đưa ra được bất cứ bằng chứng nào cho thấy Nga can dự hay viện trợ cho phe ly khai ở miền đông Ukraina, nhưng ngay khi chiếc máy bay MH17 bị bắn rơi thì truyền thông phương Tây đã lập tức lên án Nga, và theo đúng kịch bản quen thuộc "Anh bị coi là có tội cho đến khi anh chứng minh được rằng mình vô tội".

Những lời bình luận của tổng thống Obama về thảm kịch rơi máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia ở miền đông Ukraina làm dấy lên nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. 

Obama tiếp tục củng cố chiến lũy tuyên truyền của quan chức và truyền thông Hoa Kỳ, lên án Nga và lực lượng ly khai thân Nga ở miền đông Ukraina về việc bắn hạ chiếc máy bay cũng như yêu cầu những người ly khai đầu hàng chính phủ được phương Tây hậu thuẫn ở Kiev. Mặc dù vậy, những lời bình luận của ông ta tự nó đã nhấn mạnh rằng chiến dịch tuyên truyền đó chẳng dựa trên một cơ sở thực tế nào và đang đẩy Washington tới sự đối đầu dữ dội với Nga. 

Obama nói: “Theo như những gì chúng ta biết. Bằng chứng cho thấy chiếc máy bay bị bắn hạ bởi hệ thống tên lửa đất đối không được phóng đi từ khu vực bị những người ly khai thân Nga kiểm soát trong phạm vi lãnh thổ Ukraina. Chúng ta cũng biết rằng đây không phải là lần đầu tiên một máy bay bị bắn rơi ở miền đông Ukraina. Trong những tuần vừa qua, những kẻ ly khai thân Nga đã bắn hạ một máy bay vận tải và một máy bay trực thăng của Ukraina, và họ đã nhận trách nhiệm về việc bắn hạ một chiến đấu cơ phản lực của Ukraina. Hơn nữa, chúng ta biết rằng những kẻ ly khai này đã nhận được sự hỗ trợ đều đặn từ Nga”. 

Nếu đọc lại những lời bình luận của Obama một cách cẩn thận, bạn sẽ thấy không có bất cứ điều gì ông ta nói chứng minh rằng lực lượng thân Nga bắn tên lửa vào máy bay MH17. Những người nổi dậy đã bắn rơi những máy bay quân sự của Ukraina khi chúng bay ở tầm thấp với tên lửa vác vai, nhưng điều đó không có nghĩa là họ dự định hay có khả năng phá hủy một máy bay dân dụng bay ở độ cao hơn 10.000 m – một hành động mà họ biết rằng sẽ mang tới cho Washington vũ khí tuyên truyền tối thượng. 

Khi Obama khẳng định rằng những người ly khai kiểm soát khu vực mà từ đó tên lửa được phóng đi thì ông ta cũng không đưa ra bất cứ bằng chứng nào, điều đó chả có nghĩa lý gì trong hoàn cảnh hỗn loạn ở miền đông Ukraina. Ở thành phố Donetsk, pháo đài của những người ly khai chống lại chính quyền Kiev, lực lượng trung thành với chính quyền Kiev vẫn kiểm soát sân bay, từ đó họ thường xuyên nã pháo vào thành phố. Thực tế là ngay trước khi chiếc máy bay MH17 được coi là bị bắn hạ bởi tên lửa BUK ở gần Donetsk, chính quyền Kiev đã tăng viện các khẩu đội pháo phòng không cho khu vực. 

Đáng chú ý là Obama cho thấy chính quyền của ông ta không biết ai và tại sao đã bắn hạ chiếc máy bay MH17. Ông ta nói, “Tôi nghĩ là còn quá sớm để chúng ta có thể phỏng đoán về mục đích của người phóng tên lửa đất đối không… Theo nghĩa là xác định được cá nhân hay nhóm cá nhân nào, các bạn biết đấy, cá nhân ra lệnh bắn tên lửa, điều đó diễn ra như thế nào – tôi cho rằng sẽ cần phải thu thập thêm thông tin”. 

Một lần nữa, đọc cẩn thận lại tuyên bố của Obama, có thể thấy ngoài những tuyên bố tình trạng và những lời rào đón, ông ta không nói gì về người bắn tên lửa. Bình luận của Obama trực tiếp mâu thuẫn với phát ngôn của đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Samantha Power, người vừa tuyên bố rằng có “bằng chứng đáng tin cậy” cho thấy Nga phải chịu trách nhiệm về vụ rơi máy bay, thêm vào đó, “Nga có thể kết thúc cuộc chiến này. Nga phải kết thúc cuộc chiến này”. 

Obama tiếp tục đưa ra một dấu hỏi về toàn cảnh sự kiện máy bay MH17 bị rơi: “Tôi muốn lưu ý về sự nhiễu loạn thông tin. Tôi nghĩ rằng điều quan trọng đối với dân chúng là phân biệt được đâu là sự thật và đâu là suy đoán”. 

Bức tranh về hoàn cảnh được đưa ra trong phát biểu của Obama là đáng chú ý. Qua sự thừa nhận của ông ta, Hoa Kỳ và đồng minh của họ đang lao vào một cuộc đối đầu quân sự với Nga, ngay cả khi Nhà Trắng không biết ai phải chịu trách nhiệm về vụ chiếc máy bay MH17 rơi và các lực lượng chính trị đầy uy quyền được tin cậy đang cung cấp các thông tin sai lệch cho truyền thông. 

Ngay cả khi khẳng định rằng CIA đã không báo cáo ông ta trước khi theo dõi quan chức Đức, Obama dường như cố gắng phác thảo những gì mà chính quyền của ông ta sẽ làm – mọi thứ trong khi đổ tội cho Nga 

Có thể khẳng định rằng mọi sự giải thích có lý về vụ bắn tên lửa vào máy bay MH17 đều cho thấy câu hỏi nghiêm trọng nhất về nguy cơ một cuộc đụng độ trực tiếp giữa các quyền lực phương Tây và Nga. 

Trong khi đó thì truyền thông Hoa Kỳ lại làm thinh về khả năng lực lượng trung thành với Kiev có thể đã bắn hạ chiếc máy bay MH17 với tên lửa BUK. Chiến dịch truyền thông của Hoa Kỳ đã cho thấy động cơ phía sau hành động đó: lên án Nga, thúc đẩy chiến dịch can thiệp vào Ukraina của NATO, và tìm cách tập hợp các đồng minh của châu Âu của Washington, những người đang lẩn tránh áp đặt trừng phạt đối với Nga. 

Khả năng lớn nhất là các lực lượng ủng hộ Kiev đã bắn hạ chiếc máy bay, có thể kể tới các lực lượng có quan hệ mật thiết với các hoạt động của CIA, lính đánh thuê của công ty Hoa Kỳ Blackwater, điệp viên tình báo châu Âu, và quân du kích phát xít đóng vai trò mũi nhọn trong lực lượng vũ trang Ukraina. Điều đó dẫn tới khả năng về việc đồng lõa trực tiếp của một bộ phận trong nhà nước Hoa Kỳ với vụ giết hại các hành khách và phi hành đoàn trên máy bay MH17. 

Đáng chú ý là truyền thông Nga đưa tin máy bay MH17 bay sớm hơn qua đường bay của máy bay chở tổng thống Nga Vladimir Putin trở về từ World Cup và hội nghị quốc tế tại Brazil, và cơ quan ở Moscow tin rằng tên lửa bắn hạ chiếc MH17 có thể là nhằm vào Putin. Không thể xác minh được bản tin đó có chính xác hay không. Mặc dù vậy, nếu cơ quan nhà nước Nga tin rằng tình báo Hoa Kỳ và châu Âu âm mưu ám sát người đứng đầu nhà nước Nga, thì sự dính líu thật không thể tin được. 

Mặt khác, nếu theo như chiến dịch tuyên truyền của Hoa Kỳ khẳng định, chiếc máy bay MH17 bị lực lượng liên minh với Nga hay được Nga viện trợ trực tiếp bắn hạ, thì thông điệp mà Nga muốn đưa ra là gì khi họ sẵn sàng giết hại gần 300 người. Điều đó có thể cho thấy Moscow muốn đưa cuộc khủng hoảng Ukraina đi xa hơn mức mà Washington có thể kiểm soát, và tình hình sẽ cực kỳ nguy hiểm. 

Truyền thông và chính khách Hoa Kỳ, trong khi cấp tốc lên án Nga, dường như hoàn toàn không quan tâm tới câu hỏi đó. Đây là thái độ vừa khinh suất vừa bộp chộp. Thảm họa MH17 đã tiết lộ cuộc khủng hoảng sâu sắc của chủ nghĩa đế quốc phương Tây và nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới.

Friday, July 18, 2014

Tiền lương và năng suất lao động

Từ hàng trăm năm nay, giai cấp tư sản đã vô vọng và từ bỏ mọi hy vọng chứng minh vốn đẻ ra lợi nhuận. Khoa kinh tế học từ lâu đã coi việc vốn tạo ra lợi nhuận là tội tổ tông mà giai cấp tư sản phải đau khổ gánh lấy, mặc dù cái tội tổ tông không bắt họ đổ mồ hôi kiếm miếng ăn hàng ngày, thậm chí còn đem lại cho họ một cái thiên đường trần thế sáng láng hơn cái thiên đường ở thế giới bên kia nhiều.

Để thể hiện sự công bằng với giai cấp cần lao hàng ngày phải đổ mồ hôi kiếm miếng ăn thì các đại biểu của giới chủ doanh nghiệp tuyên bố rằng tiền lương tương ứng với lao động mà giai cấp cần lao thực hiện. Song vấn đề là ở chỗ nếu người lao động nhận được đúng những gì mà họ đóng góp vào quá trình sản xuất thì lợi nhuận sẽ không tồn tại. Vì vậy các đại biểu của giới chủ doanh nghiệp đã lảng tránh câu trả lời bằng cách đưa ra lập luận là người lao động nhận được tiền lương tương ứng với năng suất lao động. 

Đó là một câu chuyện kiểu anh chàng Robinson trên hoang đảo. Hãy tưởng tượng một người công nhân ngồi bên máy may, mỗi ngày anh ta may được 100 bộ quần áo thì nhận được mức lương cụ thể nào đó, nếu anh ta may được 200 bộ quần áo thì lương sẽ gấp đôi, còn nếu may được 500 bộ thì chả mấy chốc anh ta sẽ giàu nứt đố đổ vách. Song ở thiên đường trần thế thì sự thực trái ngược hoàn toàn, tại nước tư bản phát triển nhất thế giới từ năm những năm 70 của thế kỷ trước đến nay năng suất lao động đã tăng lên gấp đôi nhưng tiền lương của công nhân vẫn dậm chân tại chỗ, thậm chí lương khởi điểm trung bình của công nhân ngành ô tô còn tụt xuống thấp hơn mức lương 5 USD/ngày (khi quy đổi theo đồng dollar hiện tại) mà hãng Ford trả cho công nhân vào năm 1914, phần lớn của cải được tạo ra rơi vào túi một nhóm nhỏ giai cấp tư sản. Có thể coi đó là vụ cướp bóc lớn nhất mọi thời đại, cướp bóc mà không cần đến vũ khí và đe dọa, một vụ cướp bóc mà tất cả những kẻ cướp táo bạo nhất trong lịch sử loài người cũng không thể tưởng tượng ra được.

Cái ví dụ quen thuộc về một kỹ sư xây dựng khi làm thuê cho doanh nghiệp nội địa chỉ nhận được mức lương bằng 1/5 so với khi làm thuê cho doanh nghiệp nước ngoài thường được dùng để chứng minh cho lập luận tiền lương tương xứng với năng suất lao động thì thật ra chứng minh cho điều ngược lại, cũng một người lao động ấy với năng suất lao động cá nhân ấy nhưng mức lương nhận được lại khác xa nhau, tức là tiền lương không có liên quan gì đến năng suất lao động cá nhân cả. Năng suất lao động cá nhân một người lao động là bao nhiêu không quan trọng, bởi vì khi làm thuê cho một nhà tư bản nào đó thì anh ta gia nhập vào một hệ thống sản xuất, tại đó anh ta phải đạt được cái năng suất lao động trung bình tính trên đầu lao động của hệ thống đó. Trong một hệ thống sản xuất nhất định thì người lao động không làm việc một mình, anh ta là một mắt xích trong một dây chuyền, đầu vào của anh ta là sản phẩm của người lao động khác và sản phẩm đầu ra của anh ta lại là đầu vào của một người lao động khác. Nếu anh ta làm được ít hơn so với năng suất trung bình thì sẽ trở thành trở ngại đối với cả hệ thống và ngay lập tức bị sa thải. Nhưng nếu anh ta làm được nhiều hơn thì tình cảnh cũng không khá khẩm hơn, hoặc là bán thành phẩm sẽ bị chất đống lại, hoặc khiến cho dây chuyền sản xuất bị đình trệ, hoặc sau khi hoàn thành công việc của mình nhanh chóng thì anh ta sẽ bị sử dụng vào các công việc phi sản xuất mà không nhận được thêm đồng nào, hoặc nếu anh ta láu cá sử dụng thời gian tiết kiệm được cho bản thân mình thì sẽ bị coi là kẻ chây lười trốn việc và cũng sẽ bị sa thải. Người ta thường cho rằng năng suất lao động thấp là do người lao động lười biếng và dẫn chứng bằng tình trạng người lao động tụ tập tại quán xá trong giờ làm việc, nhưng việc đó chứng minh chính cái điều ngược lại, vì người lao động có năng suất lao động cá nhân cao hơn năng suất trung bình của hệ thống nên họ có thể hoàn thành công việc được giao với thời gian ít hơn và có thời gian rảnh rỗi để tụ tập. Điều bí ẩn nằm ở chỗ: Năng suất lao động trung bình tính trên đầu lao động của một hệ thống sản xuất phụ thuộc vào cái gì? 

Năng suất lao động trung bình tính trên đầu lao động của một hệ thống phụ thuộc vào mức độ phân công lao động trong hệ thống ấy. Tại nơi nào mà một người lao động phải tự làm hoàn chỉnh một sản phẩm hoặc phải làm nhiều phần của sản phẩm ấy thì năng suất trung bình bao giờ cũng thấp hơn ở những nơi mà mỗi người lao động chỉ làm một phần nhỏ của sản phẩm ấy. Ví dụ như ở xưởng may, nếu một người thợ may phải may hoàn chỉnh một chiếc áo thì số lượng áo mà người đó may được trong ngày sẽ ít hơn rất nhiều so với người lao động trong một xưởng may khác mà tại đó mỗi người chỉ may một phần của chiếc áo. Phân công lao động trong một hệ thống sản xuất không phụ thuộc vào ý chí của nhà tư bản sở hữu nó mà phụ thuộc vào lượng vốn mà nhà tư bản đó có thể đầu tư vào hệ thống sản xuất ấy, vì phân công lao động chi tiết hơn không chỉ đòi hỏi một số lượng công nhân nhất định mà còn đòi hỏi nhiều tiền hơn để mua sắm các máy móc tinh vi hơn, có tốc độ cao hơn và nhiều nguyên vật liệu hơn. Một người lao động may được gấp ba người lao động khác trong cùng thời gian thì cũng đòi hỏi số lượng nguyên vật liệu gấp ba lần và một số lượng nhất định các máy móc có tốc độ cao hơn hoặc các công cụ lao động tinh xảo hơn.

Thế nên khi người lao động phải làm việc cho một doanh nghiệp có năng suất lao động trung bình thấp và nhận lương thấp thì điều đó không liên quan đến năng suất lao động cá nhân của anh ta. Điều đó cho thấy lượng vốn mà nhà tư bản đầu tư vào sản xuất là không đủ lớn, do vậy chỉ có thể tổ chức phân công lao động đơn giản. Để duy trì một hệ thống kém hiệu quả đó thì nhà tư bản trút gánh nặng lên vai người lao động bằng cách hạ thấp tiền lương của họ xuống dưới giá trị sức lao động của họ, chỉ trong điều kiện đó nhà tư bản mới duy trì được mức lợi nhuận đủ để hệ thống tồn tại. Tiền lương thấp cuối cùng không phải là do người lao động có năng suất lao động kém mà chỉ là túi tiền của nhà tư bản quá bé. Cái tình trạng ấy phản ánh vào hành vi của người lao động ở chỗ, một mặt họ sẽ chỉ làm đúng mức năng suất cần thiết bởi vì làm có muốn làm hơn cũng không có đủ tư liệu sản xuất phù hợp, mặt khác do chỉ được trả công dưới sức lao động bỏ ra nên người lao động sẽ tìm các tiết kiệm sức lao động của mình để bù vào khoản thâm hụt. Nhà tư bản thì đứng ngồi không yên vì sức lao động mà họ đã bỏ tiền ra mua không hoạt động hết công suất, nó bị lãng phí đi mà không đem lại chút lợi nhuận nào, vì vậy hoặc là họ sẽ phung phí sức lao động đã mua được ấy vào những công việc phi sản xuất hoặc sẽ tìm cách hạ thấp tiền lương xuống. Cái mâu thuẫn ấy biểu hiện ra thành vòng luẩn quẩn quen thuộc: Năng suất lao động thấp dẫn đến tiền lương thấp, tiền lương thấp lại dẫn đến năng suất lao động thấp.

Khi người lao động làm thuê cho một nhà tư bản đầu tư lượng vốn lớn hơn thì họ nhận được tiền lương cao hơn, người ta lầm tưởng rằng điều đó là do năng suất lao động của họ đem lại, nhưng thực ra cái mức lương cao hơn đó chỉ là mức ngang bằng với giá trị sức lao động mà họ bỏ ra, cao hơn là khi so với việc họ đã bị tước đoạt một phần giá trị sức lao động khi làm thuê cho những nhà tư bản có túi tiền bé hơn. Nhưng ngay cả khi được trả đúng giá trị sức lao động thì tình cảnh của người lao động cũng không khá hơn là bao nhiêu, bởi vì mức lương họ nhận được chỉ đủ để tái sản xuất sức lao động hàng ngày nhưng cái sức lao động mà họ phải tiêu hao đi thì không chỉ có cái phần bù nguyên vật liệu và máy móc đã tiêu hao đi, bù lại tiền lương đã trả cho họ mà còn phải tạo ra lợi nhuận của nhà tư bản nữa. Lợi nhuận của nhà tư bản càng lớn thì cuộc đời của người lao động lại càng ngắn lại.

Monday, July 7, 2014

Kinh doanh chiến tranh: Từ Việt Nam đến Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "War is our business and business looks good" của giáo sư kinh tế Edward S. Herman, một tác giả có uy tín lâu năm về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và quan hệ quốc tế. Bên cạnh những phân tích sâu sắc về cuộc khủng hoảng Ukraina, bài viết cũng đã so sánh sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Ukraina hiện nay với sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam trước kia. Tiêu đề bài viết do người dịch đặt lại.

Thật thú vị khi được chứng kiến chính quyền Hoa Kỳ, được dẫn dắt bởi chủ nhân giải Nobel [Hòa Bình], đã hiếu chiến như thế nào trong việc xử lý cuộc khủng hoảng Ukraina. Cuộc khủng hoảng được cho là bắt đầu khi chính phủ Yanukovich từ chối chương trình cứu trợ của EU để tiếp nhận chương trình của Nga. Truyền thông chính thống (MSM) dường như đã không chỉ bỏ qua sự thật là đề xuất của EU kém hào phóng hơn Nga, mà còn ở chỗ kế hoạch của Nga không ngăn chặn các thỏa thuận tiếp theo với EU, trong khi kế hoạch của EU đòi hỏi phải ngừng các thỏa thuận tiếp theo với Nga. Cũng như thỏa thuận với Nga không có ràng buộc quân sự, trong khi EU yêu cầu Ukraina phải liên kết với NATO. Khi MSM tường thuật về các gói cứu trợ, họ không chỉ bỏ qua sự ngăn cản và tính chất quân sự trong đề xuất của EU, họ có khuynh hướng coi các thỏa thuận của Nga là thủ đoạn kinh tế kém đứng đắn, như “cái dùi cui”, còn đề xuất của EU là “xây dựng và có lý” (Xã luận, NYT, 20.11.2014). Tiêu chuẩn kép dường như đã được nội tại hóa hoàn toàn trong phạm vi hoạt động của Hoa Kỳ. Những người biểu tình xuất hiện chắc chắn là do sự bất bình thật sự đối với chính quyền tha hóa, nhưng họ bị các nhóm cánh hữu cũng như sự cổ vũ của Hoa Kỳ và đồng minh đẩy đi xa, và ủng hộ việc bài Nga cũng như nhanh chóng thay đổi chính quyền. Họ đã gia tăng mức độ bạo lực. Xạ thủ giết hại cảnh sát và người biểu tình ở Maidan vào ngày 21 tháng 2 năm 2014, đã đẩy cuộc khủng hoảng tới thái cực mới. Bạo lực bùng phát đã phá hủy giải pháp được đàm phán dưới sự trung gian của các thành viên EU với hy vọng chấm dứt bạo lực, thiết lập chính phủ lâm thời và tiến hành bầu cử vào tháng 12. Bạo lực gia tăng đã chấm dứt kế hoạch chuyển tiếp, sau đó là một cuộc đảo chính cùng với sự trốn chạy của Victor Yanukovich.

Có bằng chứng đáng tin cậy về việc xạ thủ bắn vào cả người biểu tình lẫn cảnh sát là một chiến dịch đổ vạ xuất phát một bộ phận người biểu tình, chiến dịch đã rất hiệu quả, bạo lực của “chính quyền” là một trong những lý do Yanukovich bị lật đổ. Đáng chú ý nhất là thông điệp điện thoại bị tiết lộ giữa ngoại trưởng Estonia Urmas Paet và giám đốc đối chính sách đối ngoại EU Catherine Upton, trong đó Paet tường thuật một cách rõ ràng về bằng chứng cho thấy các phát đạn giết chết cả cảnh sát lẫn người biểu tình được bắn đi từ khu vực của người biểu tình. Sự kiện này hoàn toàn bị MSM bỏ qua. Ví dụ, tờ New York Times không bao giờ đề cập tới điều đó trong suốt hai tháng tiếp theo. Rất đáng ngạc nhiên là những người biểu tình ở Maidan không bao giờ bị MSM gọi là “chiến binh”, mặc dù đa số và bộ phận tích cực nhất được vũ trang và hung tợn – trong khi khái niệm đó lại được dùng để chỉ những người biểu tình ở miền đông Ukraina, những người được coi là “thân Nga” cũng như chiến binh (xin xem chi tiết hơn trong bảng tại Herman and Peterson, “The Ukraine Crisis and the Propaganda System in Overdrive,” in Stephen Lendman, ed,, Flashpoint in Ukraine). Có mọi lý do để tin rằng cuộc đảo chính và hoạt động của cánh hữu cũng như chính phủ bài Nga được quan chức Hoa Kỳ khích lệ và ủng hộ tích cực. 

Câu nói “Đ.m. EU” bị tiết lộ của Victoria Nuland cho thấy sự thù địch của bà ta đối với cái nhóm mặc dù quy phục và quỵ lụy nhưng đã đi lạc hướng khỏi kế hoạch tân bảo thủ với một chính phủ thích hợp ở Kiev dưới sự lãnh đạo của những người như “Yats”. Mặc dù vậy bà ta đã được hài lòng khi kế hoạch chuyển tiếp do EU hậu thuẫn bị kết liễu bằng bạo lực và đảo chính. Sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với chính phủ đảo chính là rất nhiệt tình và không hạn chế. Trong khi Kerry và cộng sự trì hoãn công nhận chính quyền dân cử của Maduro ở Venezuela và mạnh mẽ thúc giục ông ấy đối thoại cũng như đàm phán với những người biểu tình Venezuela – trên thực tế là đe dọa nếu ông ấy không làm – Kerry và cộng sự đã không làm điều tương tự ở Ukraina khi quân đội của chính phủ Kiev từng bước mở rộng quy mô tấn công vào miền đông Ukraina, không phải vào “người biểu tình”, mà là vào “các chiến binh”. 

Quân đội của chính quyền Kiev hiện đang sử dụng các chiến đấu cơ phản lực và máy bay trực thăng ném bom miền đông, sử dụng pháo hạng nặng và súng cối trong các chiến dịch bộ binh. Mục tiêu của họ bao gồm cả bệnh viện và trường học. Vào ngày 8 tháng 6, thiệt hại thường dân đã lên đến hàng trăm. Một vụ thảm sát 40 hoặc hơn những người biểu tình thân Nga ở Odessa vào ngày 2 tháng 5 được tổ chức hoàn hảo bởi những cán binh tân phát xít, cũng có thể là các nhân viên của chính quyền Kiev, là đỉnh điểm của chiến dịch bình định. Chính quyền Kiev cũng như “cộng đồng quốc tế” đã không có cuộc điều tra về vụ tấn công, và sự ủng hộ của phương Tây đối với chính quyền Kiev cũng không bị ảnh hưởng chút nào. Đồng thời MSM cũng rất ít quan tâm tới tin tức đó (Tờ New York Times chôn vùi sự kiện đó trên trang sau với sự tiếp tục câu chuyện về “Đụng độ chết chóc xảy ra ở Ukraina”, ngày 5 tháng 5, che dấu xác thực về những kẻ sát nhân). Kerry đã im lặng, mặc dù chúng ta có thể tưởng tượng ra sự phẫn nộ của ông ta nếu các nhân viên của Maduro thực hiện hành động tương tự ở Venezuela. Điều này gợi nhớ đến “vụ thảm sát Racak”, có 40 người chết được khẳng định là nạn nhân của quân đội Serb đã tạo ra sự phẫn nộ quốc tế. Nhưng đó là trong trường hợp Hoa Kỳ cần một cái cớ cho chiến tranh, còn trường hợp Odessa thì chỉ là một cuộc chiến bình định được tay sai của Hoa Kỳ tiến hành, thế nên MSM cần phải im lặng theo mệnh lệnh.

Một trong những đặc trưng thú vị trong việc đưa tin của truyền thông về cuộc khủng hoảng ở Ukraina là sự tập trung thường xuyên vào cáo buộc hay khả năng Nga tham gia viện trợ, kiểm soát và can dự vào các hoạt động của người biểu tình/chiến binh/người nổi loạn ở miền đông Ukraina. Đây là bằng chứng về sự chấp nhận có tính lừa dối của tờ Times trong việc khẳng định rằng những bức ảnh về người nổi loạn có một người Nga được chụp ở Nga, sau đó được thừa nhận là có vấn đề (Andrew Higgins, Michael Gordon, and Andrew Kramer, “Photos Link Masked Men in East Ukraine to Russia,” NYT, 20.4.2014) cũng như bài báo hàng đầu khác, hoàn toàn chỉ là sự suy đoán (Sabrina Tavernise, “In Ukraine Kremlin Leaves No Fingerprints,” NYT, 1.6.2014). Nhưng điều thú vị là việc đưa tin bừa bãi về vấn đề Ukraina, với sự cố ý làm sai lệch, lại không tiếp tục với các bằng chứng về viện trợ và sự kiểm soát của Hoa Kỳ và NATO. Chuyến viếng thăm của Biden, Cain, Nuland và các nhân vật tình báo cũng như Lầu Năm Góc được đề cập đôi lần, nhưng với phạm vi và tính chất như hỗ trợ và cố vấn, “dấu vết” của Hoa Kỳ không được thảo luận và dường như không đáng quan tâm. Trong thực tế là được bình thường hóa như kế hoạch cứu trợ mà đề xuất của Nga là “dùi cui” còn kế hoạch của Hoa Kỳ và EU là “xây dựng và có lý”, tiêu chuẩn kép đã có tác dụng rõ ràng.

Có nguy cơ là Nga sẽ tham chiến để bảo vệ đa số thân Nga ở miền đông Ukraina đang bị tấn công? Có khả năng, nhưng không hoàn toàn như vậy, khi Putin nhận ra rằng đám đông tổ hợp công nghiệp-quân sự-tân bảo thủ-Obama sẽ chào mừng điều đó và sẽ sử dụng nó, ở mức độ tối thiểu, là công cụ để tiếp tục chia rẽ Nga với các chính quyền Châu Âu, tiếp tục quân sự hóa các tay sai và đồng minh của Hoa Kỳ, củng cố sự chỉ huy của MIC [tổ hợp công nghiệp quân sự] đối với ngân sách quốc gia Hoa Kỳ. Tất nhiên lực lượng quan trọng tại quốc gia này mong muốn được chứng kiến một cuộc chiến tranh với Nga và đáng chú ý là sự phổ biến của những bình luận, phê phán và phủ nhận chính trị về sự phản ứng yếu đuối của Obama đối với “sự xâm lược” của Nga (e.g., David Sanger, “Obama Policy Is put to Test: Global Crises Challenge a Strategy of Caution,” NYT, 17.3.2014). Nhưng rõ ràng là Putin vẫn chưa cắn câu.

Đáp lại sức ép từ các thể chế đầy quyền lực hiếu chiến và gây chiến Hoa Kỳ, Obama đã mạo hiểm lên án Nga và nhanh chóng loại Nga ra khỏi nhóm G-8, áp đặt trừng phạt đối với quốc gia bất lương, gia tăng quân đội và thúc đẩy viện trợ quân sự cho các quốc gia gần với Nga dựa trên cáo buộc về sự đe dọa của Nga, triển khai huấn luyện và tập trận quân sự với các đồng minh và tay sai đó, đảm bảo với họ về tính thiêng liêng trong những đóng góp của chúng ta đối với với an ninh của họ, thúc đẩy các quốc gia và các đồng minh chủ yếu gia tăng ngân sách quân sự. Có một điều mà ông ta vẫn chưa làm là kiềm chế các tay sai ở Kiev trong việc xử lý những người nổi dậy ở miền đông. Một điều khác là lôi kéo Putin vào việc tạo dựng một giải pháp. Putin đã nhấn mạnh tầm quan trọng của trật tự hợp hiến của một liên bang Ukraina mà trong đó Ukraina chấp nhận sự tự trị của các tỉnh miền đông. Đã có hội nghị Geneva và tuyên bố chung vào ngày 17 tháng 4, trong đó tất cả các bên cam kết giảm xung đột, tước vũ khí những lực lượng phi chính quy và cải cách hiến pháp, nhưng điều đó là chưa đủ mạnh, không có cơ chế áp thực thi và không có hiệu lực. Điều kiện quan trọng nhất trong việc giảm xung đột là chấm dứt chương trình bình định của Kiev ở miền đông Ukraina. Điều đó đã không diễn ra, bởi vì Obama không muốn nó diễn ra. Trên thực tế, ông ta cho rằng tình hình phụ thuộc vào việc Nga kiềm chế những người ly khai ở miền đông Ukraina và ông ta đã buộc các con rối G-7 phải đồng ý đặt ra thời hạn một tháng để Nga làm điều đó hoặc phải đối mặt với nhiều sự trừng phạt hơn. 

Tình huống này gợi nhớ đến phân tích của Gareth Porter về “những hiểm họa của địa vị thống trị”, trong đó ông ấy lập luận rằng cuộc chiến Việt Nam đã nổ ra và trở nên rất lớn bởi vì các quan chức Hoa Kỳ nghĩ rằng ưu thế vượt trội về quân đội của họ sẽ buộc Bắc Việt Nam cùng với đồng minh ở miền nam phải đầu hàng và chấp nhận các điều kiện của Hoa Kỳ - quan trọng nhất là miền nam Việt Nam do Hoa Kỳ kiểm soát – khi quân sự leo thang và người Việt Nam phải chịu đựng thiệt hại gia tăng (Perils of Dominance: Imbalance of Power and the Road to War in Vietnam). Điều đó đã không có tác dụng. Trong bối cảnh Ukraina, Hoa Kỳ lại một lần nữa có ưu thế vượt trội về quân sự. Bằng lực lượng của bản thân và qua cánh tay NATO, họ đã bao vây Nga với các vệ tinh được tạo dựng bằng cách vi phạm lời hứa của James Baker và Hans-Dietrich Genscher đối với Mikhail Gorbachev rằng sẽ không tiến về phía đông “một inch” nào nữa, họ đã đặt hệ thống phòng thủ tên lửa ngay cạnh biên giới Nga. Giờ đây họ lại dàn xếp cuộc đảo chính ở Ukraina để dựng lên một chính quyền công khai thù địch với Nga, đe dọa cả người Ukraina nói tiếng Nga cũng như sự kiểm soát căn cứ hải quân chủ chốt của Nga ở Crimea. Hành động sáp nhập Crimea trở lại Nga của Putin là không thể tránh khỏi để tự vệ trước những nguy cơ nghiêm trọng đối với an ninh của Nga. Điều đó có thể làm chính quyền Obama bất ngờ, cũng như người Việt Nam từ chối đầu hàng đã làm chính quyền Johnson bất ngờ. Tiếp tục áp bức Việt Nam bằng leo thang quân sự đã không có tác dụng, mặc dù việc đó đã giết hại và làm bị thương hàng triệu người và chặn đứng con đường phát triển của người Việt Nam. Tiếp tục và mở rộng các hoạt động chống Nga trong năm 2014 có thể có những nguy cơ nghiêm trọng đối với những kẻ xâm lược thực sự và thế giới, nhưng lại có lợi ích rõ ràng đối với Lockheed và các thành viên khác của MIC.

Bổ sung ngày 25.08.2014:

Nếu ai đó xem lại các công trình nghiên cứu của Edward S. Herman thì sẽ phát hiện ra tiêu đề "War is our business and business looks good" muốn ám chỉ điều gì. Trong một nghiên cứu có tiêu đề "Counter-Revolution Violence Bloodbaths in Fact and Propaganda" đã được xuất bản năm 1973, tại phần phân tích về chiến dịch Speedy Express của quân đội Mỹ ở Việt Nam vào nửa cuối năm 1968, Edward S. Herman có mô tả một chiếc trực thăng tham gia chiến dịch được sơn lên mình khẩu hiệu "Death is our business and business is good". Rõ ràng là giáo sư Herman muốn nhại lại cái khẩu hiệu chết chóc kia để phơi bày bộ mặt đẫm máu của đế quốc Hoa Kỳ.