Monday, May 5, 2014

Người Việt Nam lấy lại đảo bằng cách nào?

Có lần một chú Việt Nam và một chú Trung Quốc gặp nhau.

Chú Việt Nam nói: Tụi tao có đầy đủ bằng chứng pháp lý và lịch sử chứng minh chủ quyền đối với mấy hòn đảo. Tụi mày đừng có cậy lớn mà ăn cướp.

Chú Trung Quốc nói: Tụi tao cũng có đầy đủ bằng chứng pháp lý và lịch sử chứng minh chủ quyền đối với mấy hòn đảo. Tụi mày đừng có mà vu vạ.

Hai bên cãi nhau mãi. Sau cùng chú Việt Nam nói: Tụi mình cãi nhau mãi cũng chả đến đâu, thôi giờ mình thi xem đứa nào gan hơn thì đứa ấy được lấy đảo.

Chú Trung Quốc nói: Hay đấy, thi thế nào?

Chú Việt Nam nói: Thằng đầu gấu nhất thế giới là tổng thống Mỹ, đứa nào dám đá đít nó thì đứa ấy thắng.

Chú Trung Quốc đồng ý. Cả hai cùng đi đến chỗ tổng thống Mỹ. Chú Trung Quốc lao ngay vào đá một cú thật lực vào mông tổng thống Mỹ. Tổng thống Mỹ tức quá, rút điện thoại ra nhấn nhấn mấy cái, thế là một con máy bay không người lái xuất hiện, xả nguyên băng đạn vào người chú Trung Quốc.

Chú Việt Nam đứng nhìn cười khặc khặc: Giờ khỏi tranh đảo của tao nữa nghe cưng!

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Sunday, May 4, 2014

Kiểm soát truyền thông kiểu Mỹ

Một đoàn quan chức chính quyền Trung Quốc sang thăm Mỹ. Sau khi đi khắp nơi xem xét, đại diện Trung Quốc hỏi quan chức Mỹ: "Này, việc kiểm soát truyền thông xứ mày cũng có kết quả hệt như xứ tao. Nhưng ở xứ tao muốn làm vậy phải bỏ tù đám đối lập, còn xứ mày thì không thấy đám đối lập trong các nhà tù. Bọn mày dùng cách gì thế?".

Quan chức Mỹ cười và nói: "Thứ nhất mày nhầm, bọn tao cũng tống cổ chúng vào tù thôi. Thứ hai, bọn tao đưa chúng sang các nhà tù bí mật ở nước ngoài".

(Chuyện bịa, chỉ để giải trí)

Saturday, May 3, 2014

Thỏa thuận đóng quân của Hoa Kỳ tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các luật lệ kiểu thuộc địa mới ở Philippine

Trong chuyến thăm châu Á vừa qua của tổng thống Obama, Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận hợp tác quân sự nâng cao với Philippine để mở đường cho quân đội Hoa Kỳ quay lại Đông Nam Á. Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "US military basing deal sets legal framework for neocolonial rule in the Philippines" của Joseph Santolan phân tích về nội dung của bản thỏa thuận quân sự giữa Hoa Kỳ và Philippine. 

Thỏa thuận đóng quân của Hoa Kỳ được ký trong chuyến thăm Philippine mới đây của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, và mới được công bố lén lút trong mục “Các văn kiện lịch sử” trên trang web của chính phủ Philippine, đánh dấu một mốc chính trị phản động quan trọng ở Philippine và châu Á. 

Bản trình bày chính thức của Thỏa Thuận Hợp Tác Phòng Thủ Nâng Cao (EDCA) như tạm thời được thấy, về “sự hiện diện luân chuyển gia tăng” của quân đội Hoa Kỳ tại Philippine, là một sai lầm chính trị. Sau lưng giai cấp lao động Hoa Kỳ và Philippine, Washington và Manila đã ký kết một văn kiện tân thuộc địa tạo ra khuôn khổ pháp lý cho quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng không có giới hạn cụ thể lãnh thổ Philippine, cựu thuộc địa của Hoa Kỳ, mà không bị luật pháp Philippine kiểm soát. 

Điều đó cho thấy rõ ràng là chính sách “chuyển trục sang châu Á” của Hoa Kỳ, nhằm cô lập Trung Quốc, gắn liền với việc tái thuộc địa hóa các quốc gia bị áp bức ở Châu Á của các quyền lực đế quốc.

Theo EDCA, Washington được quyền sử dụng đầy ưu đãi đối với các căn cứ, được gọi là “khu vực được phép”, trên khắp lãnh thổ Philippine. Danh sách “các khu vực được phép”, mà văn kiện cho thấy không có sự ràng buộc đặc biệt nào, có thể được bổ sung theo yêu cầu của quân đội Hoa Kỳ. “Các khu vực được phép” được ưu tiên cho quân đội Hoa Kỳ và các nhà thầu sử dụng. 

Chính quyền Philippine của Tổng thống Benigno Aquino đã tuyên bố rằng căn cứ hải quân Subic cũng sẽ nằm trong số “các khu vực được phép”.

Thỏa thuận có giá trị về mặt kỹ thuật trong mười năm, nhưng “có thể tự động gia hạn” trừ khi bị một phía tham gia hủy bỏ. Để hủy bỏ thỏa thuận, Manila có nghĩa vụ gửi thông báo hủy bỏ tới Hoa Kỳ một năm trước khi kết thúc thỏa thuận.

EDCA duy trì chủ quyền hợp pháp của Philippine đối với lãnh thổ bằng cách chấp nhận một “đại diện được ủy quyền” của bộ quốc phòng Philippine, người có thể tiếp cận các căn cứ của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả người đó, trước hết phải xin phép Washington để vào khu vực căn cứ, thỏa thuận được quy định phù hợp với “các yêu cầu về an ninh” của Hoa Kỳ. Trên thực tế, Philippine không có quyền kiểm soát các khu vực Hoa Kỳ đóng quân.

Hơn nữa, quân đội Hoa Kỳ không bị kiềm chế trên khắp lãnh thổ Philippine. Phần bổ sung cho “các khu vực được phép” của EDCA cho thấy, quân đội Hoa Kỳ được phép sử dụng “đất đai và các cơ sở vật chất công cộng (bao gồm đường xá, bến cảng, và sân bay), ngay cả khi chúng thuộc quyền sở hữu và kiểm soát của chính quyền địa phương. Không có không gian hay cơ sở vật chất nào trong phạm vi của Philippine nằm ngoài điều khoản đó.

Thỏa thuận cho phép triển khai không giới hạn số lượng quân lính cũng như các nhân viên dân sự của Hoa Kỳ và các nhà thầu quân sự Hoa Kỳ tại Philippine. Tại đó, họ được phép triển khai “huấn luyện, trung chuyển, hỗ trợ và các hoạt động liên quan; cung cấp nhiên lệu cho máy bay, tiếp vận cho các tàu chiến; bảo trì tạm thời xe cộ, tàu chiến và máy bay, lưu trú tạm thời cho nhân viên; thông tin liên lạc; tàng trữ thiết bị, hệ thống cung cấp và vật liệu; triển khai quân đội và vật liệu; và các hoạt động khác mà các bên tham gia đồng ý”.

Mọi vật liệu chiến tranh của Hoa Kỳ tại Philippine dành cho “sự sử dụng đặc biệt của quân đội Hoa Kỳ” được cung cấp với “tiếp cận không giới hạn đối với các khu vực được phép”. 

Điều khoản này tạo ra khung pháp lý cho phép Washington sử dụng Philippine làm bàn đạp trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc, hay bất cứ mục tiêu nào của đế quốc Hoa Kỳ. Trong chiến tranh Việt Nam, Washington đã sử dụng các căn cứ quân sự ở Philippine để triển khai các trận ném bom nhằm vào Bắc Việt Nam và Campuchia.

Về cả hình thức lẫn nội dung, EDCA là một văn kiện tội ác chính trị. Nó được công bố trên trang web không nổi bật trong truyền thông mạng tại Hoa Kỳ và Philippine. Cả ở Washington và Manila, các quan chức nhận thức được sự phản đối mạnh mẽ của giai cấp lao động khi áp đặt các luật lệ tân thuộc địa của Hoa Kỳ lên quốc gia khác, sau Afghanistan và Iraq. 

Với sự đồng lõa của tầng lớp cai trị tha hóa ở Manila, những kẻ vứt bỏ mọi nỗ lực bảo vệ chủ quyền quốc gia, đế quốc Hoa Kỳ đang thẳng tiến.

Thỏa thuận là sự vi phạm trắng trợn hiến pháp Philippine, vốn cấm sự hiện diện của bất cứ căn cứ quân đội hay căn cứ quân sự nước ngoài nào tại quốc gia mà không có sự chấp thuận của một nghị quyết được 2/3 tổng số thành viên thượng viện tán thành. Những nhà lập pháp Philippine, những người không tham gia vào thỏa thuận, đã không viện dẫn pháp luật để chống lại.

EDCA cuối cùng đã lách qua hiến pháp Philippine, dựa vào luận điểm gian lận rất rõ ràng rằng đó không phải là “hiệp ước đóng quân”, mà chỉ là một thoả thuận về đóng quân tạm thời giữa quân đội Hoa Kỳ và Philippine. 

Thỏa thuận tránh cho quân đội Hoa Kỳ khỏi sự giám sát của luật pháp Philippine cũng như quốc tế - một biện pháp gợi nhớ đến chính sách mà Hoa Kỳ sử dụng tại các quốc gia bị chiếm đóng như Iraq, hay các điều khoản liên lãnh thổ tại các quốc gia thuộc địa vào thế kỷ 19 ở châu Á của chủ nghĩa đế quốc. Thay vào đó, quân đội Hoa Kỳ và các nhà thầu sẽ “hoạt động theo pháp luật và chính sách của Hoa Kỳ”. 

EDCA cũng quy định rằng quân đội Hoa Kỳ “được phép sử dụng quyền và sự ủy quyền cần thiết để kiểm soát hoạt động và phòng thủ bao gồm cả việc triển khai các biện pháp thích hợp để bảo vệ quân đội Hoa Kỳ và nhà thầu Hoa Kỳ trong phạm vi khu vực được phép. Hoa Kỳ sẽ được thực hiện các hoạt động cảnh sát tại khu vực căn cứ, Washington sẽ xử lý thích hợp những người Philippine được cho là mối nguy hiểm đối với quân đội Hoa Kỳ, nhà thầu hay “an ninh thông tin chính thống Hoa Kỳ”.

Đây là nguồn gốc lịch sử sự thù địch lớn nhất của công chúng với các căn cứ quân sự cũ của Hoa Kỳ tại quốc gia. Hơn năm mươi người Philippine bị lính Mỹ bắn tại các căn cứ quân sự chỉ trong nửa sau của những năm 1960. Tất cả các vụ án đều do tòa án quân sự Hoa Kỳ xét xử, lính Mỹ không bị kết án mà chỉ bị cảnh cáo.

Điều XI trong EDCA viết, “Tranh chấp và những vấn đề khác cần tham vấn không được viện dẫn tới bất cứ tòa án quốc tế nào, hay các tổ chức tương tự khác, hay một bên thứ ba để đưa giải pháp”.

Điều khoản này ngăn ngừa việc xem xét lại EDCA của cả tư pháp lẫn lập pháp Philippine. Trong trường hợp một lính Mỹ bắn hay hiếp dâm một người Philippine, hay cán xe qua một đứa trẻ - những sự kiện thường xảy ra quanh các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở châu Á – anh ta sẽ là đối tượng của luật pháp và tư pháp Hoa Kỳ. Mọi tranh chấp tư pháp liên lãnh thổ của Hoa Kỳ tại Philippine, hay bất cứ điều khoản nào của thỏa thuận, tư pháp Philippine sẽ không được xem xét. 

Hoa Kỳ không trả tiền thuê các căn cứ quân sự ở Philippine. Văn bản thậm chí còn đặc biệt ngạo mạn viết rằng nếu Washington từ bỏ một căn cứ, họ có thể đòi hỏi Manila “bù đắp cho những sự cải thiện” mà họ đã tạo ra.

Washington cũng được cung cấp “nước, điện và các tiện nghi công cộng khác” với giá tương tự mà chính quyền Philippine trả. Tất cả thuế và phí phát sinh từ các tiện nghi đó, những thứ mà người Philippine có nghĩa vụ thanh toán, sẽ được chính quyền Philippine thanh toán hộ quân đội Hoa Kỳ.

Thỏa thuận cũng nhượng lại cho Hoa Kỳ quyền sử dụng “miễn phí” tần số sóng radio trong nước. Trong quá khứ, Washington đã sử dụng tần số sóng radio ở Philippine cho mục đích thông tin viễn thông nội bộ, cũng như truyền tải các tuyên truyền của Hoa Kỳ.

Một trong số ít những hạn chế đối với quân đội Hoa Kỳ, thỏa thuận quy định rằng, theo hiến pháp Philippine, Washington không được “tàng trữ” bất cứ vũ khí hạt nhân nào tại Philippine.

Các văn kiện đã giải mật trong thời kỳ Hoa Kỳ đóng quân tại căn cứ hải quân Subic và căn cứ không quân Clark cho thấy trong quá khứ Washington đã tàng trữ bất hợp pháp vũ khí hạt nhân tại Philippine. Hơn thế nữa, Washington thường từ chối bình luận về các tàu chở vũ khí hạt nhân. Với các giới hạn mà EDCA đặt ra cho việc thanh sát của “người đại diện được ủy quyền” phía Philippine, điều khoản này là vô hại.

Washington chịu trách nhiệm về vụ thảm sát của phát xít ở Odessa

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Washington responsible for fascist massacre in Odessa" của Mike Head. Bài viết cung cấp nhiều thông tin mới về cuộc khủng hoảng ở Ukraina.

Chỉ có thể mô tả đó là một vụ thảm sát, 38 người hoạt động chống chính phủ bị giết hại vào thứ sáu, sau khi lực lượng do phát xít dẫn đầu đốt tòa nhà Công Đoàn Odessa, nơi bị những người đối lập với chính phủ được Hoa Kỳ và phương Tây hậu thuẫn của Ukraina chiếm giữ.

Theo nhân chứng kể lại, một số người nhảy ra khỏi tòa nhà bốc cháy và sống sót bị các gã tân phát xít Right Sector quây quanh và đánh đập. Cảnh quay video cho thấy những người sống sót đẫm máu và đầy thương tích bị tấn công. 

Sự tàn bạo nhấn mạnh tính chất bạo lực của cuộc đàn áp chống lại những người đối lập của chính phủ cánh hữu được các quyền lực phương Tây dựng lên ở Kiev cũng như sự ủng hộ của Hoa Kỳ và đồng minh, cuộc đàn áp tập trung chủ yếu vào khu vực nói tiếng Nga ở miền nam và đông Ukraina.

Khi vụ đụng độ Odessa nổ ra, Tổng thống Barack Obama, trong một cuộc họp báo chung của Nhà Trắng với Thủ tướng Đức Angela Merkel, đã xác nhận vụ tấn công quân sự của chính phủ không được bầu cử ở Kiev vào những người biểu tình đang chiếm giữ các tòa nhà công sở ở miền đông Ukraina.

Trái lại truyền thông phương Tây cố gắng che dấu những gì đang xảy ra ở Odessa – với hàng loạt các bản tin phát nói rằng “hậu quả chính xác của sự kiện vẫn chưa rõ ràng” – rõ ràng là các vụ giết chóc tại thành phố cảng phía nam do những gã mang phù hiệu của Right Sectos thực hiện, phe tân phát xít đang giữ nhiều vị trí trong chính phủ Kiev, cùng với đảng chung lý tưởng Svoboda. 

Tòa nhà Công Đoàn bị các phần tử thân Kiev đốt sau khi họ bao vây và đốt lều trại của những người hoạt động chống chính phủ, những lều trại này đã được dựng lên phía trước mặt tòa nhà trên quảng trường Kulikovo Field vài tuần trước. Tòa nhà bốc cháy sau khi một số người biểu tình chống chính phủ ẩn nấp trong đó. 

Khi tòa nhà chìm trong lửa, những bức ảnh được đăng lên Twitter cho thấy người dân đu mình qua cửa sổ và ngồi trên gờ tường cửa sổ của một số tầng lầu, có lẽ là chuẩn bị nhảy xuống. Một số bức ảnh khác cho thấy các phần tử thân chính phủ hò reo trước đám cháy. Một số bình luận trên Twitter rằng “lũ bọ hung Colorado bị nướng chín ở Odessa”, đó là khái niệm dùng để ám chỉ những người hoạt động thân Nga mang dải băng Thánh George.

Ba mươi nạn nhân được tìm thấy tại các tầng của tòa nhà, có lẽ là bị ngạt khói. Theo cảnh sát địa phương, có tám người chết bị chết vì nhảy qua cửa sổ để thoát khỏi ngọn lửa. Chính quyền Ukraina nói tổng cộng có 43 người chết vào ngày thứ sáu ở Odessa và 174 người bị thương, trong số đó có 25 người đang trong tình trạng nguy kịch. 

Bạo lực bắt đầu khi khoảng 1,500 người ủng hộ chính phủ Kiev, những người vừa mới đến thành phố, tập hợp tại quảng trường Sobornaya ở trung tâm Odessa. Được vũ trang bằng dây xích, gậy đánh bóng chày và mang khiên, họ diễu hành khắp thành phố, hô vang “Ukraina vinh quang”, “Kẻ thù phải chết”, và “Đâm Moskals” [ám chỉ Nga].

Odessa là một trong những thành phố ở đông nam Ukraina bị người biểu tình tràn qua từ sau cuộc đảo chính tháng hai. Vào cuối tháng ba, hàng ngàn người tập hợp trong thành phố phản đối chính quyền được dựng lên sau cuộc đảo chính và yêu cầu một cuộc trưng cầu dân ý về chế độ tự trị.

Vụ thảm sát Odessa có số người chết lớn nhất kể từ khi chính phủ Ukraina, dưới sự thúc giục của chính quyền Obama, tái diễn tấn công quân sự trên quy mô toàn diện vào các cuộc biểu tình và chiếm giữ chống chính phủ.

Vào thứ sáu vừa qua, Tổng thống lâm thời Oleksandr Turchynov nói rằng nhiều người ly khai đã bị giết trong cuộc tấn công của chính phủ vào Slavyansk. Quan chức Kiev nói quân đội đã chiếm các trạm kiểm soát bao quanh thành phố 130,000 dân của phe nổi loạn trong một chiến dịch được bắt đầu trước lúc bình minh, ông ta bổ sung thêm là thành phố đã “bị bao vây chặt”

Mặc dù sử dụng trực thăng có gắn súng máy nhưng cuộc tấn công đã tạm ngưng, do sự chống cự tại địa phương. Vào chiều hôm qua, quân đội Ukraina bị chặn lại ở các làng Bylbasovka và Adreyevka, tại đó cư dân địa phương xếp hàng để thuyết phục và thúc giục họ ngừng tấn công

Ở Andreyevka, khoảng 200 người tạo thành một hàng rào sống để chặn đoàn xe bọc thép và xe tải. Ở Bylbasovka, người dân hô to “Xấu hổ! Xấu hổ! Xấu hổ!” Ở gần thành phố Kramatorsk, người dân chặn các con đường với toa xe điện và xe bus nhằm ngăn không cho quân đội tiến vào.

Trong cuộc họp báo với Merkel, Obama đã đề cập trong báo cáo rằng hai máy bay trực thăng của Ukraina bị bắn hạ từ hỏa lực mặt đất. Ông ta trích dẫn các cáo buộc chưa được chứng thực của cơ quan tình báo Ukraina SBU là một máy bay trực thăng bị bắn bởi tên lửa tầm nhiệt, để làm bằng chứng cho sự can dự của quân đội Nga. Mặc dù vậy, vào buổi tối tờ New York Times khẳng định là không có bằng chứng cho thấy đó là tên lửa tầm nhiệt. 

Cùng với cáo buộc về vũ khí của Obama, cuộc tấn công của quân đội của Kiev được ông ta hậu thuẫn cho thấy Hoa Kỳ và các đối tác châu Âu đang tạo ra các điều kiện cho một cuộc nội chiến và dụ chính của quyền Tổng thống Nga Vladimir Putin can thiệp, để tạo ra cái cớ áp đặt trừng phạt kinh tế và cho sự đối đầu của NATO với Nga.

Washington thúc ép cuộc tấn công mới chỉ một ngày sau khi chính phủ Kiev ngưng các cuộc tấn công, cho rằng chúng là “vô dụng” để chấm dứt sự chiếm đóng các tòa nhà, đã lan ra tại ít nhất 17 thành phố và thị trấn.

Putin tìm kiếm một sự trì hoãn với sức ép do Hoa Kỳ tạo ra bằng cách ký cái được gọi là thỏa thuận hòa bình với Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và Ukraina hai tuần trước đây, thỏa thuận kêu gọi chấm dứt chiếm đóng các tòa nhà và ngưng các kế hoạch tấn công quân sự. Các thỏa thuận đã bị Kiev và những người chống lưng cho họ xé bỏ. Hôm qua, người phát ngôn của Putin nói rằng “chiến dịch trả thù” của Ukraina đã phá hoại thỏa thuận.

Nga kêu gọi một cuộc họp khẩn cấp của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vào thứ sáu để lên án các hành động của Ukraina. Đại sứ Nga, Vitaly Churkin, cảnh báo về “các hậu quả khôn lường” nếu chiến dịch quân sự tiếp tục, bị người đồng nhiệm Hoa Kỳ lên án, Samantha Power đã gọi cuộc tấn công là “thích hợp và hợp lý”

Power, người làm nên tên tuổi với các cuộc can thiệp thắng lợi của Hoa Kỳ vào Lybia và những nới khác với danh nghĩa “nhân quyền” và “bảo vệ thường dân”, tuyên bố rằng sự lo ngại của Nga về quy mô sự bất ổn là “tiêu cực và mơ hồ”. Ăn khớp với sự tuyên truyền của chính phủ Hoa Kỳ kể từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, bà ta nhanh chóng quy kết Nga là nguyên nhân của sự bất ổn.

Đó là Washington và đồng minh, đặc biệt là chính phủ Đức đã dàn xếp cuộc đảo chính của phe cực hữu vào tháng hai ở Kiev và sau đó lợi dụng phản ứng của Moscow, và người Ukraina nói tiếng Nga, để buộc tội Nga đe dọa Ukraina.

Đầu tư 5 tỷ USD vào quốc gia này để dựng lên chính phủ Kiev qua các chiến dịch bạo lực bán quân sự, giờ họ cáo buộc Nga, mà không có bằng bất cứ bằng chứng nghiêm túc nào, về những việc tương tự. 

Cuộc tấn công ban đầu vào tháng trước của Ukraina bắt đầu sau khi giám đốc CIA John Brennan bí mật đến thăm Kiev. Sự thúc giục tiếp theo là chuyến viếng thăm của phó tổng thống Hoa Kỳ Joseph Biden.

Đó là bằng chứng về sự can dự của chính quyền Hoa Kỳ. Ngoại trưởng Nga nói những người nước ngoài nói tiếng Anh đã được trông thấy trong cuộc tấn công của quân độ Ukraina và Slavyansk vào thứ sáu, cần nhắc lại lời cáo buộc trước đây là Greystone, một nhà thầu quân sự Hoa Kỳ, đang hợp tác với quân đội Ukraina.

Mặt khác, chiến dịch của Hoa Kỳ dường như hướng tới việc ngăn chặn kế hoạch trưng cầu dân ý đòi quyền tự trị của những người chống chính phủ Kiev vào ngày 11 tháng 5. Thêm vào đó, cuộc bầu cử tổng thống Ukraina, theo kế hoạch là vào ngày 25 tháng 5, đối với các quyền lực phương Tây là phương tiện để hợp pháp hóa chính phủ đảo chính ở Kiev. Ứng cử viên tổng thống đang được khuếch trương rộng rãi nhất, nhà tài phiệt tỷ phú Petro Poroshenko, kêu gọi Ukraina gia nhập NATO và đặt quốc gia dưới sự độc đoán của Liên Minh Châu Âu và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế.

Nhưng khi chính phủ Kiev thất bại trong việc đàn áp phe đối lập, Washington dường như muốn kích động sự đối đầu và sau đó cáo buộc Nga ngăn cản quá trình bầu cử tổng thống. Đáng chú ý là dưới danh nghĩa tập trận, quân đội Hoa Kỳ đang được triển khai tại các quốc gia vùng Baltic như Latvia, Lithuania và Estonia, cũng như Ba Lan, quân đội NATO cũng được đưa tới sát biên giới Nga.

Friday, May 2, 2014

Tám đề mục mà truyền thông Hoa Kỳ sẽ không phát hành

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Eight headlines the media won't print" của tác giả Paul Buccheit đăng trên tạp chí Coldtype số 85 tháng 5 năm 2014. Bài viết khái quát một số khía cạnh của nền kinh tế Hoa Kỳ hiện nay.

Dưới đây là tất cả những thông tin có thật, các câu chuyện thuộc thể loại “hard news” mà truyền thông có trách nhiệm đưa tin. Nhưng báo chí theo định hướng kinh doanh nhìn chung lảng tránh chúng.

1. Của cải của Hoa Kỳ tăng thêm 34 nghìn tỷ USD kể từ khủng hoảng kinh tế. 93% dân chúng không nhận được một xu nào trong đó 

Điều đó có nghĩa là trung bình 100,000 USD cho mỗi người dân Mỹ. Nhưng những người sở hữu phần lớn cổ phiếu đã lấy đi phần lớn số của cải tăng thêm. Đối với họ, thu hoạch trung bình lên tới hàng triệu USD – miễn thuế cho đến khi họ rút vốn.

2. Tám người Mỹ giàu có kiếm được nhiều tiền hơn 3,6 triệu người lao động với mức lương tối thiểu

Báo cáo mới đây cho biết không có bất cứ công nhân nào làm việc với mức lương tối thiểu có đủ tiền thuê một căn hộ một hay hai phòng ngủ với giá thị trường tự do. Có 3,6 triệu người lao động như vậy, tổng thu nhập của toàn bộ số công nhân đó năm 2013 ít hơn thu nhập từ cổ phiếu của tám người Mỹ, tất cả bọn họ lấy từ xã hội [một khoản] nhiều hơn số cổ phiếu của mình: bốn người nhà Walton, hai người nhà Koch, Bill Gates, và Warren Buffett.

3. Truyền thông phục vụ cho 5%

Không có gì ngạc nhiên khi đọc một xã luận trung thực: “Chúng tôi đánh giá cao khoảng 5-7% số độc giả, những người kiếm được nhiều tiền và tin rằng sự giàu có gia tăng của họ sẽ giúp những người khác”.

Trái lại, truyền thông kinh doanh dường như không thể phân biệt giữa 5% ở trên đỉnh với phần còn lại của xã hội. Tờ Wall Street Journal tuyên bố, “Tầng lớp trung lưu Mỹ có sức mua lớn hơn bao giờ hết”, và sau đó đi đến kết luận: “Khủng hoảng là gì?... Kinh tế đã hồi phục sau khủng hoảng, thất nghiệp giảm…”

Tờ Chicago Tribune có thể đi xa hơn một chút với các độc giả ít đặc quyền hơn, hỏi họ: “Số tiền lớn chảy vào các chiến dịch tranh cử thống có khủng khiếp không?”

4. Tin tức truyền hình làm đần độn khán giả Mỹ 

Một khảo sát năm 2009 của Truyền Thông Báo Chí Châu Âu so sánh giữa Hoa Kỳ và Đan Mạch, Phần Lan và Anh quốc về nắm bắt và tường thuật tin tức nội địa so với quốc tế, và “hard” news (chính trị, hành chính công, kinh tế, khoa học công nghệ) so với “soft” news (người nổi tiếng, sở thích, thể thao và giải trí).

Kết quả:

- Người Mỹ đặc biệt không được thông tin về quan hệ quốc tế.

- Khán giả Mỹ trả lời không tốt về các tin tức nội địa dạng hard news.

- Truyền hình Hoa Kỳ đưa ít tin quốc tế hơn truyền hình Phần Lan, Đan Mạch và Anh quốc.

- Mạng lưới tin tức của truyền hình Hoa Kỳ đưa ít tin dạng hard news hơn truyền hình Phần Lan và Đan Mạch

Đáng ngạc nhiên hơn nữa, bản báo cáo cho biết “các tạp chí Hoa Kỳ thiên về tin tức dạng hard news hơn so với các tạp chí cùng loại ở các quốc gia châu Âu”. Điều tệ là người Mỹ ít đọc tạp chí. 

5. Sự thật về những người đàn ông da trắng giàu có với hàng nghìn tỷ USD

Câu chuyện kỳ diệu về “người tự lập” là tưởng tượng. Trong đầu những năm 1970, đặc quyền dành cho những người da trắng tốt nghiệp đại học là công việc quản lý và tài chính, công nghệ là cách mới để kiếm tiền, thuế khóa giảm, và viễn cảnh về tiền thưởng và lợi nhuận nhảy múa trong đầu chúng ta. 

Trong khi chúng ta ở trường học, Bộ Quốc Phòng xây dựng mạng Internet cho Microsoft và Apple, Quỹ Khoa Học Quốc gia tài trợ cho nghiên cứu Khởi Đầu Thư Viện Số Hóa, thứ sẽ được áp dụng như mô hình của Google, và Viện Sức Khỏe Quốc gia làm thí nghiệm ban đầu cho các công ty như Merck và Pfizer. Các phòng thí nghiệm của chính phủ và trường đại học công đào tạo hàng ngàn chuyên gia hóa học, vật lý học, thiết kế chip, lập trình, kỹ sư, công nhân sản xuất dây chuyền, nhân viên phân tích thị trường, nhân viên kiểm nghiệm, nhân viên xử lý lỗi,…

Tất cả những gì chúng ta tự làm thật đáng tự hào, nói như Steve Jobs: “Chúng ta không phải xấu hổ khi ăn cắp những ý tưởng lớn”.

6. Ngân sách cho trường học và lương hưu giảm trong khi doanh nghiệp ngừng đóng thuế 

Ba nghiên cứu khác nhau đã cho thấy doanh nghiệp nộp thuế ít hơn so với yêu cầu của chính quyền tới một nửa, cho dù đó là nguồn ngân sách chủ yếu cho giáo dục mà một phần đáng kể của lương hưu. Mới đấy nhất, bản báo cáo “Sự biến mất của thuế doanh nghiệp” đã chỉ rằng phần trăm lợi nhuận được trích ra để nộp thuế đã giảm từ 7% vào năm 1980 xuống còn 3% như hiện nay.

7. Các công ty Hoa Kỳ nộp phần lớn thuế ở nước ngoài 

Citigroup có 43% doanh thu năm 2011-2013 ở Bắc Mỹ (phần lớn ở Hoa Kỳ) và thu được 32 tỷ USD lợi nhuận, nhưng được nợ thuế trong cả ba năm. Pfizer có 40% doanh thu năm 2011-2013 và gần một tổng nửa tài sản ở Hoa Kỳ, những tuyên bố thua lỗ 10 tỷ USD ở Hoa Kỳ và cùng với đó là kiếm được 50 tỷ USD lợi nhuận ở nước ngoài. 

Năm 2013 Exxon có khoảng 43% quản lý, 36% doanh số, 40% vốn đầu tư dài hạn và 70-90% các giếng dầu và khí đốt đang khai thác ở Hoa Kỳ, nhưng chỉ đóng 2% tổng thu nhập theo luật thuế thu nhập Hoa Kỳ, và phần lớn chúng là thuế “danh nghĩa”.

8. Thu nhập của phục vụ nhà hàng không hề tăng trong 30 năm

Một đánh giá của Michelle Chen cho thấy lương tối thiểu cho các nhân viên nhận tiền boa là khoảng 2 USD/h kể từ năm 1980. Bà cũng cho biết là 40% số công lao động đó là người da màu, khoảng 2/3 là phụ nữ.

Thursday, May 1, 2014

Một số hình ảnh kỷ niệm ngày lễ Lao Động trên thế giới

 1. Người biểu tình ở Bangladesh

2. Người biểu tình ở Campuchia

 3. Người biểu tình ở Đức

 4. Người biểu tình ở Indonesia

5. Người biểu tình ở Italia 

 6. Người biểu tình ở Philippine

7. Người biểu tình ở Singapore

8. Người biểu tình ở Thái Lan 

9. Người biểu tình ở Tây Ban Nha 

10. Người biểu tình ở Thổ Nhĩ Kỳ

Nguồn: Ảnh được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau trên mạng Internet.

Quân đội Đức đang làm gì ở Slavyansk?

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "What is the German army doing in Slavyansk?" của tác giả Peter Schwarz. Bài viết đã vạch trần sự dối trá của truyền thông phương Tây về cái gọi là quan sát viên quốc tế của OSCE. 

Tám thanh sát viên quân sự đã bị những người biểu tình thân Nga ở thành phố miền đông Ukraina Slavyansk bắt giữ từ ngày 25 tháng 4. Nhóm thanh sát viên bao gồm 3 sĩ quan quân đội Đức (Bundeswehr), một thông dịch viên Đức, và các thanh sát viên quân sự người Séc, Ba Lan, Đan Mạch, Thụy Điển. Người Thụy Điển đã được thả vì lý do sức khỏe.

Truyền thông Đức khẳng định những người bị bắt giữ là quan sát viên của Tổ Chức An Ninh và Hợp Tác Châu Âu (OSCE). Điều đó không đúng. Liên hệ duy nhất giữa OSCE và những người bị bắt giữ là sự xuất hiện của họ ở Ukraina được bào chữa bằng Văn Kiện Vienna mà 57 quốc gia thành viên OSCE ký kết năm 1992, kể từ đó văn kiện cũng đã được phục hồi sau một số gián đoạn.

Nhưng hoạt động của nhóm tại Ukraina không hề nhận được sự chấp thuận của OSCE, hay nằm dưới sự kiểm soát của OSCE. Trái lại, các thanh sát viên quân sự được chính phủ Kiev kêu gọi can thiệp vào Ukraina và chịu sự kiểm soát trực tiếp của bộ trưởng bộ quốc phòng ở mỗi nước. 

Điều này đã được phó giám đốc trung tâm ngăn chặn khủng hoảng của OSCE, Claus Neukirch xác nhận. Ông ta tuyên bố rằng nhóm tham gia vào một nhiệm vụ song phương, do quân đội lãnh đạo và theo lời mời của chính phủ Ukraina. Các thanh sát viên có thể được chấp thuận theo thỏa thuận riêng giữa các nước thành viên OSCE.

Đặc biệt là các quan sát viên quân sự bị bắt giữ không có liên quan gì đến nhiệm vụ quan sát của OSCE theo thỏa thuận của 21 nước thành viên, bao gồm cả Nga, vào ngày 21 tháng 3. Nhiệm vụ đó là cung cấp 500 quan sát viên dân sự, để theo dõi tình hình tại Ukraina trong sáu tháng tiếp theo và báo cáo trực tiếp cho OSCE. Mặc dù vậy mới chỉ có khoảng 100 người của nhóm quan sát có mặt tại Ukraina.

Hai sự dối trá đầy âm mưu ở phía sau những nhầm lẫn về nhiệm vụ của những người bị bắt giữ ở Slavyansk, thứ đã được truyền thông Đức tung ra có một cách có chủ ý. Thứ nhất, việc giam giữ các tù nhân được sử dụng để thúc đẩy sự hiếu chiến chống Nga. Bằng cách cáo buộc lực lượng thân Nga giam giữ các quan sát viên quốc tế, họ muốn cho thế giới thấy rằng Moscow đã vi phạm các hiệp ước và hiệp định quốc tế.

Thêm vào đó, viện dẫn Văn Kiện Vienna bị chính quyền Kiev và Berlin lợi dụng để chống lại cáo buộc nhóm này hoạt động do thám của những người biểu tình chống chính phủ ở Slavyansk.

Văn Kiện Vienna đề cập tới phương pháp xây dựng niềm tin. Chúng được thiết kế để các thành viên OSCE, đặc biệt là các quốc gia láng giềng, có cơ hội quan sát quân đội của quốc gia khác và giảm thiểu nguy cơ đối đầu quân sự. Văn kiện không cho phép quan sát quân đội đối phương trong xung đột quốc tế, và càng không cho phép nếu quốc gia yêu cầu nhiệm vụ có tham gia vào xung đột – như trường hợp của Ukraina. 

Trong một cuộc phỏng vấn của đài phát thanh Bavaria vào ngày 23 tháng 4, người đứng đầu nhóm bị bắt giữ, đại tá Axel Schneider, cho biết rằng nhóm của ông ta “muốn biết” tình trạng của “lực lượng quân sự quốc gia thông thường” ở Ukraina – tức là quân đội chính quy. Ông ta loại trừ mọi quan sát đối với những người nổi dậy chống chính quyền: “Chúng tôi tập trung vào lực lượng an ninh Ukraina”.

Mặc dù vậy, dựa trên thông tin đó thì cũng không thể giải thích được tại sao nhóm của ông ta lại đi tới Slavyansk, nơi đang nằm trong tay người nổi dậy và bị quân đội Ukraina bao vây. Điều đó giống như nhóm này được yêu cầu thu thập thông tin về những người nổi dậy đang bị chính phủ do phương Tây hậu thuẫn ở Kiev theo dõi. 

Ngay cả khi Schneider nói sự thật, tức là vai trò của nhóm là quan sát việc đàn áp của quân đội Ukraina, nhiều đơn vị đã từ chối bắn vào những người biểu tình thân Nga ở miền đông Ukraina. Trong trường hợp khác, điều đó phơi bày vai trò của quân đội Đức và châu Âu trong cuộc đàn áp của chính phủ Ukraina. Đại tá Schneider, người tham gia Trung Tâm Thẩm Tra của Quân Đội và là thuộc cấp của Bộ Quốc Phòng, đã trả lời trong cuộc phỏng vấn là ông ta hợp tác “rất chặt chẽ với Bộ Ngoại Giao”, do Franz-Walter Steinmeier đứng đầu, người đóng vai trò then chốt trong cuộc đảo chính ở Ukraina và hoàn toàn ủng hộ chính phủ Kiev.

Rất nhiều chi tiết trong sự kiện tại Slavyansk vẫn chưa sáng tỏ, nhưng có một điều có thể khẳng định: Quân đội Đức có nhiều hoạt động ở Ukraina hơn những gì họ công khai.