Showing posts with label Tự do. Show all posts
Showing posts with label Tự do. Show all posts

Friday, January 16, 2015

Những người lượm ve chai ở thiên đường

Bạn nghĩ nước Mỹ là thiên đường, nơi những người lượm ve chai cũng có nhà riêng và xe hơi? Xin mời theo dõi bản dịch bài viết "Working Hard in America’s Twilight Economy" của tác giả Don Santina để hiểu hơn về cuộc sống của những người ở tận cùng của xã hội. Tiêu đề do người dịch đặt.

Làm việc vất vả trong nền kinh tế suy thoái của Hoa Kỳ

Trời mới sập tối sau 5h chiều ngày mùa đông và nhiệt độ hạ xuống nhanh chóng. Ở trung tâm thành phố của Oakland, tôi nhìn thấy những tòa nhà văn phòng đang nhả ra những cư dân hàng ngày của chúng, với áo choàng quấn chặt quanh người, họ hối hả chạy đến các chỗ đỗ xe, điểm dừng xe bus, trạm BART trên đường về nhà ở các khu dân cư trong thành phố hoặc ngoại ô Orinda và Danville.

Xa hơn về phía tây của thành phố, những người lượm ve chai đổ xô đến trung tâm tái chế ở Peralta, nơi sẽ trả họ tiền mặt cho những hàng hóa mà họ đã thu lượm được. Họ đẩy và kéo những xe đẩy hàng siêu thị rỉ sét chứa đầy chai lọ, vỏ hộp và các đồ phế thải tới tòa nhà, trước khi cánh cửa cuốn bằng thép sập xuống và chấm dứt việc thanh toán tiền mặt hàng ngày.
Một người lượm ve chai ở thiên đường
Nguồn: Internet

“Jeez, lúc đó tôi nghĩ là thứ bảy,” Harry nói với tôi vào sáng thứ sáu. “Tôi phải đẩy xe nhanh hơn vì họ đóng cửa sớm hơn vào thứ bảy.”

Harry là một người đàn ông gày gò ở độ tuổi 50 và có vấn đề về phổi. Bảo hiểm xã hội của ông không đủ để chi trả cho nhu cầu của ông, thế nên ông ấy có mặt hàng ngày trên đường phố để thu gom bất cứ thứ gì mà trung tâm tái chế mua. Ông ấy đeo một chiếc găng tay len và một chiếc găng tay da bởi vì đó là tất cả những gì mà họ có được từ thùng quần áo miễn phí ở cạnh nhà thờ. Vào lúc chiều muộn, ông ấy sẽ đi bộ vài dặm đường và sau đó đẩy xe mua hàng siêu thị của ông tới Peralta để bán: 1,59 dollar cho 0,45kg vỏ hộp, 10,5 xu cho 0,45 kg thủy tinh. 

“Rất nhiều người trong khu dân cư biết tôi và để đồ của họ lại cho tôi, nhưng vẫn rất khó khăn. Hiện giờ trời tối vào buổi sáng và buổi chiều,” ông cười. Một trong những “khách hàng” tốt nhất của ông là quán bar, họ để các vỏ chai bia rỗng ở lối đi phía sau nhà.

Gia đình Minh thường làm việc trên các ngọn đồi của Oakland nhưng họ đã biến mất. Trong đêm trước ngày gom rác, nhóm của người chồng trung tuổi và vợ nặng nề đi qua lại các đường phố dốc đứng, nhặt nhạnh trong các thùng rác trên vỉa hè, chủ yếu là các vỏ hộp nhôm. Vào lúc hoàng hôn, họ gánh những túi đầy vỏ hộp với một chiếc đòn gánh tre tới Broadway. Sau khi tìm được một khu vực thích hợp, họ dẫm bẹp những chiếc vỏ hộp và đi bộ với gánh nặng dễ mang hơn tới người mua hàng cách đó 5 dặm đường.

Dường như tầng lớp sang trọng trên đồi trở nên quá nóng nảy vì những kẻ trộm danh tính, tuần tra tư nhân và các cảnh sát lười biếng đã đuổi gia đình Minh và những người khác giống như họ ra khỏi khu vực đó.

Trong lịch sử nông nghiệp, những người thu gom phế thải được phép nhặt nhạnh những gì sót lại trên cánh đồng đã gặt hái. Trong nhiều trường hợp, những người thu gom là phụ nữ, tranh giành nhau để nuôi sống gia đình trong những xã hội mà cán cân quyền lực và sở hữu đất đai được bảo vệ bằng vũ lực bởi một nhóm nhỏ những người đặc quyền. Một trong những cuốn sách ngắn nhất mà trong đó những người Thiên Chúa Giáo liên hệ tới Kinh Cựu Ước là câu chuyện về Ruth, người nhặt rác. Ruth là một bà góa nghèo khổ, phải đi nhặt rác để kiếm sống, “bà nhặt nhạnh trên cánh đồng cho đến khi sạch nhẵn và nhận ra rằng bà đã nhặt nhạnh xong … và bà cầm chúng lên và đi tới thành phố.”

Trong Kinh Tân Ước, Jesus xứ Nazareth và các học trò cũng thực hành việc nhặt nhạnh trên đường đi. Thánh Tông Đồ Mark viết rằng Jesus “đi qua cánh đồng lúa mì vào ngày Sabbath; các môn đệ của ông bứt những bông lúa như họ vẫn thường làm.” Khi bị người Pharisee kết tội vi phạm luật lệ, Jesus trả lời, “các anh có đọc về điều mà David làm khi ông ấy đói, ông ấy và những người đi cùng với ông ấy?”

Li-Hua là một bà già nhỏ bé làm việc tại chỗ đỗ xe của quầy bán đồ ăn nhanh, các nhà hàng và tiệm tạp hóa quanh Hồ Merritt. Đôi găng tay quá khổ của bà gần như trùm đến khuỷu tay, bà ấy kéo theo sau một chiếc xe đẩy hàng loại gấp lại được mà người ta thường mang theo đến siêu thị. Bà ấy đeo một chiếc đèn thợ mỏ bên ngoài mũ trùm đầu, thứ giúp bà phát hiện ra các đồ nhôm trước khi ánh sáng mặt trời và những người nhặt rác khác tới. 

Robert là một cựu chiến binh Chiến Tranh Vùng Vịnh, ông thường đi quanh với chiếc xe đạp không chỉnh số cũ kỹ. Robert có khiếu về phong cách và thiết kế. Ông dựng gắn một thùng xe vào chiếc xe đạp để chở những thứ mà ông ấy nhặt nhạnh được tại khu dân cư quanh bệnh viện Kaiser và các trạm xăng trong bán kính 1 dặm. Robert kiếm được vài hộp sơn xịt nên ông ấy có thể sơn các vật dụng thành màu đen và vàng. Mọi thứ trông ổn.

“Tôi lo ngại về quan tòa, anh ạ,” Gregory nói với tôi. “Anh nói với ông ấy là tôi vẫn sạch.”

Tôi đọc ở đâu đó rằng Jamie Dimond, lãnh đạo của JP Morgan Chase, kiếm được 9.000 dollar mỗi giờ trong thời gian công ty của ông ta phạm hàng sa số các tội tài chính, trong đó có việc đánh cắp nhà cửa của người dân và phá hoại nền kinh tế. Mặc dù vậy, ngày nay, phát thanh viên trên các mạng lưới và truyền hình cáp tuyên bố rằng “kinh tế đang hồi phục,” và mạnh hơn bao giờ hết. Thị trường chứng khoán tiếp tục tăng trưởng; kinh doanh bùng nổ.

Vào một ngày tốt lành, Robert người nhặt rác kiếm được 8 dollar. 

Don Santina can be reached at lindey89@aol.com. His enovel, “A Prize for All Saints,” features a one-armed veteran suffering from PTSD.

Sunday, January 11, 2015

Tôi mệt mỏi với hội chứng sợ Hồi Giáo

Sau vụ thảm sát ở tòa soạn báo Charlie Hebdo, truyền thông chính thống đã nhanh chóng cuốn người theo dõi vào hai thái cực đối lập nhau dựa trên định kiến về tự do ngôn luận. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "4 Reasons Why ‘Je Suis Fatigue’ From Islamophobia" của tác giả Khalishah K. Stevens để thấy vấn đề ở một góc nhìn rộng hơn những định kiến.Tiêu đề do người dịch đặt.

Bốn lý do khiến “Je Suis Fatigue” [Tôi Mệt Mỏi] với hội chứng sợ Hồi Giáo

Sau vụ những vụ tấn công ở Paris, khó có thể là một người Hồi Giáo cũng như có thể đau buồn về những nạn nhân của vụ tấn công tờ Charlie Hebdo khi sự chú ý toàn cầu lại một lần nữa hướng vào việc bạn lên án ra sao, do những kẻ thủ ác làm việc đó với danh nghĩa tôn giáo của bạn.

Đây là một số lý do khiến người Hồi Giáo ôn hòa kiệt sức và mệt mỏi bởi những sự kiện vừa qua.

1. Người Hồi Giáo cần phải lên án/chịu trách nhiệm về các vụ giết người ngay!

Người Hồi Giáo phải lên án hành động của tất cả những kẻ cực đoan do những kẻ cực đoan gây tổn thương cho người Hồi Giáo nhiều hơn bất cứ nhóm nào khác. Bạn nghĩ ai bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi sự tồn tại của Al Qaeda, Boko Haram, hải tặc Somali và ISIS? Hầu hết người Hồi Giáo, sau đó là các sắc tộc thiểu số khắp vùng Trung Đông và Châu Á như người Thiên Chúa Giáo từ Mosul và người Yazidis, cuối cùng là những người dân vô tội ở phương Tây. Nếu bất cứ ai muốn ngăn chặn những kẻ cực đoan, người Hồi Giáo sẽ là NGƯỜI ĐẦU TIÊN hưởng lợi từ việc xóa sổ những nhóm đó. 

Việc chủ nghĩa cực đoan thường nhật xảy ra trong thế giới thứ ba của chúng ta chỉ có giá trị tin tức khi xuất hiện ở thế giới thứ nhất. Khi điều đó xảy ra, truyền thông nhanh chóng quay lại và yêu cầu người Hồi Giáo xin lỗi, như là một nhóm tập thể đồng nhất, để bảo vệ bản thân và giữ khoảng cách với những kẻ điên khùng đang làm tổn thương chúng ta.

Hãy quên đi chủ đề sâu sắc về việc chủ nghĩa cực đoan phát triển từ những quyết định chính sách đối ngoại nghèo nàn của những kẻ hiếu chiến ở Hoa Kỳ và Anh Quốc, hay những tàn dư của chủ nghĩa thuộc địa. Chúng ta là người Hồi Giáo bị quở trách và chịu trách nhiệm hoàn toàn về hành động của những kẻ cực đoan bởi vì họ tự nhận một cách không chính xác là Hồi Giáo.

Tội liên đới, tất cả 1,6 tỷ người chúng ta.

Trong trường hợp bạn quên mất điều đó, thì có tin tức mới nhất – ISIS đã giết tất cả mọi người, trong đó có cả những người Hồi Giáo vô tội. Những kẻ cực đoan nhằm vào tờ Charlie Hebdo bởi vì tờ báo đặc biệt ồn ào và rất khó chịu về Hồi Giáo, điều đó dẫn tôi tới điểm tiếp theo: 

2. Những tay súng cực đoan nhằm vào Charlie Hebdo bởi vì họ chống lại tự do ngôn luận.

Truyền thông tường thuật rằng động cơ của các tay súng khi tấn công tờ Charlie Hebdo là bởi vì họ chống lại tự do ngôn luận. Tấn công tự do ngôn luận là vấn đề quá rộng và mập mờ để kẻ cực đoan phản đối. Nhưng tường thuật đã đi theo cách đó, bởi vì đó không phải là sự đơn giản tuyệt đẹp sao? 

Người Hồi Giáo cũng hưởng lợi từ tự do ngôn luận. Có nhiều ví dụ về việc người Hồi Giáo có thể hưởng lợi từ tự do ngôn luận hay các quyền dân sự khi họ bị giam giữ ở sân bay hay bị đưa tới Vịnh Guantanamo hay bị từ chối tiếp cận luật sư.

Những người bị bắn ở Charlie Hebdo là vô tội và không đáng phải chết, họ cũng thúc đẩy hiện trạng đối mặt với hội chứng sợ Hồi Giáo, chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Không có nhưng mà, không lên án nạn nhân, họ không tôn trọng và có quyền như vậy, cũng như không đáng phải chết vì khiếm nhã. Rất nhiều người nỗ lực để hiểu sự việc theo cách này ngay sau vụ nổ súng, song đó là sự thật 

Những người ở Charlie Hebdo không nên được coi như những thánh tử vì đạo của tự do ngôn luận, bởi vì điều đó gây tổn thương cho quyền tự do ngôn luận cũng như các nhà báo và các tù nhân chính trị thực sự can đảm theo cách riêng đối với những chính quyền đã trừng phạt bạn nhiều lần về việc phát ngôn chống lại chính quyền. Charlie Hebdo viết và vẽ một cách thoải mái trong văn phòng của họ ở Paris, không tường thuật về những tội ác chiến tranh ở thế giới thứ ba. Ngay cả ở Pháp thì những châm biếm của họ cũng không động tới những vấn đề xã hội quan trọng như Jonathan Swift đề cập trong “Một đề xuất hiện đại nhất”, hay đưa ra các câu hỏi chính trị giống như nghệ sĩ châm biếm Stephen Colbert đưa ra trong “Tường Thuật của Colbert”. Trái lại, Charlie Hebdo vẽ các biểu tượng tôn giáo trong các tư thế khiêu dâm trắng trợn và vẽ biếm họa một chính khách da màu giống như một con khỉ. Làm sao có thể coi những điều đó bắt nguồn từ nguyên nhân cao quý về tự do ngôn luận? 

Charlie Hebdo có quyền tự do ngôn luận tuyệt vời, nhưng tôi sẽ không nói rằng họ đứng về phía quyền tự do ngôn luận. Nếu có bất cứ điều gì cần nói, thì nội dung của họ gần gũi hơn với ghét ngôn luận. Châu Âu đang trải qua một pha chuyển đổi sang chính trị cánh hữu khi gặp làn sóng nhập cư từ các quốc gia bị chiến tranh xé nát, và thay vì tạo ra đối thoại về cách xây dựng một nền tảng đa văn hóa hài hòa ở Paris hay vấn đề nhập cư có thể được giải quyết theo cách nào khác, các họa sĩ truyện tranh của Charlie Hebdo chú tâm vào việc tạo ra hội chứng sợ Hồi Giáo và các nội dung phân biệt chủng tộc. Ở nhiều nước thuộc thế giới thứ nhất thì Charlie Hebdo sẽ không được xuất bản bởi vì nội dung của nó rất hung hãn, trắng trợn, kinh tởm như chủ định của nó. 

3.Bạn là #JeSuisCharlie [Tôi Là Charlie] hay bạn là #JeNeSuisPasCharlie [Tôi Không Là Charlie]

Cuộc tranh luận về vụ nổ súng ở Charlie Hebdo đã chia thành hai thái cực, hoặc bạn là #JeSuisCharlie hoặc là #JeNeSuisPasCharlie. Bạn ủng hộ chúng tôi hoặc chống lại chúng tôi. Bạn ủng hộ ISIS và chống lại tự do ngôn luận hoặc bạn ủng hộ tự do ngôn luận và sợ Hồi Giáo/phân biệt chủng tộc/bài ngoại.

Vào lúc khủng hoảng, khi sự đoàn kết và hiểu biết quan trọng hơn khi nào hết, thì người ta lại bị buộc phải lựa chọn giữa việc đề cao các họa sĩ truyện tranh kinh tởm, những người không đáng phải chết và việc chống lại các họa sĩ truyện tranh kinh tởm và với nguy cơ bị coi là không đồng cảm với cái chết của họ.

4. Bạn có thể là #JeSuisAhmed [Tôi Là Ahmed]

#JeSuisAhmed bắt đầu trở thành mốt khi bản tin mới nhất cho biết một trong số các viên chức bị giết hại là người Hồi Giáo, sau khi một dòng tweet súc tích xuất hiện, một dòng tweet viết, “Tôi không phải là Charlie, tôi là cảnh sát Ahmed đã chết. Charlie nhạo báng niềm tin và văn hóa của tôi và tôi chết để bảo vệ quyền được làm điều đó của họ.” Đối với những người vẫn còn hoài nghi về việc người Hồi Giáo lên án bạo lực, họ nên nhớ rằng viên chức đầu tiên phản ứng và chết để bảo vệ Charlie là người Hồi Giáo. Đối với những người tiếp tục hoài nghi về việc người Hồi Giáo đứng đâu khi chủ nghĩa khủng bố xuất hiện, họ hãy nhớ việc Malala Yousefzai sống sót trước Taliban để thúc đẩy giáo dục cho các bé gái. Người Hồi Giáo lên án chủ nghĩa khủng bố bởi vì chúng chống lại việc giảng dạy Đạo Hồi và họ thường xuyên là nạn nhân của chúng, không chỉ ở phương Đông mà còn cả ở phương Tây. Các nhà thời Hồi Giáo vừa mới bị tấn công ở Pháp sau sự cố Charlie Hebdo và một luật sư nhân quyền quốc tế hàng đầu đã bị hỏi là có ủng hộ ISIS không, chỉ bởi vì ông ta là người Hồi Giáo.

Chủ nghĩa cực đoan tiếp tục được những người đang hoang mang trong những cộng đồng bên lề xã hội dựa vào do định kiến và sự thiếu khoan dung mà họ phải đối mặt để vượt qua cuộc sống hàng ngày ở Châu Âu và Hoa Kỳ, và những người hoang mang bị biến thành cực đoan khi sự tồn tại khốn khổ dưới máy bay không người lái, quân sự hóa và chiếm đóng, đẩy họ đến với các biện pháp vô vọng. Sự tiến bộ trong việc chống lại chủ nghĩa khủng bố chỉ diễn ra khi chúng ta nhận diện được nguyên nhân gốc rễ, và không tấn công con người thông qua những liên hệ tôn giáo mỏng manh.

Thế nên nếu bạn gặp một người Hồi Giáo trong những tuần tiếp theo và bạn muốn nói với họ về vụ nổ súng ở Charlie Hebdo, hãy bắt đầu với giả định là họ cũng cùng phía với bạn. Nếu không, hãy nghiêm túc để người Hồi Giáo được yên, chúng ta có một cuộc chiến khó khăn để bảo vệ danh tiếng của 1,6 tỷ người khỏi một nhúm kẻ mất trí.

Khalisah K. Stevens is an American-Malaysian living in the Middle East. A graduate with a degree in International Relations and a minor in History, she follows current events and gender issues and champions multiculturalism to create a space for third culture kids (TCKs) like her.

Thursday, January 8, 2015

Charlie Hebdo không phải là hình mẫu về tự do ngôn luận

Những tay súng Hồi Giáo đã sát hại mười hai người trong tòa soạn báo Charlie Hebdo vì đăng những truyện tranh châm biếm Đấng Tiên Tri. Liệu việc đó có đe dọa quyền tự do ngôn luận hay tự do báo chí? Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch "What to Say When You Have Nothing to Say?" của tác giả Diana Johnstone để biết thêm chi tiết. Tiêu đề do người dịch đặt.

Biết nói gì khi bạn chẳng có gì để nói?

Paris.

Bạn sẽ nói gì khi chẳng có gì để nói?

Đó là tình thế lưỡng nan đột nhiên xảy ra với các lãnh đạo chính trị và các biên tập viên ở Pháp sau khi ba tay súng đeo mặt nạ xông vào văn phòng của tờ tuần báo châm biếm Charlie Hebdo và thảm sát một tá người. 
Một trang bìa châm biếm Mohamed của tờ Charlie Hebdo
Nguồn: Internet
Các sát thủ trốn thoát. Nhưng không lâu. Những sát thủ đó được vũ trang tốt. Charlie Hebdo thường xuyên nhận được các đe dọa giết kể từ khi họ xuất bản truyện tranh chế nhạo Đấng Tiên Tri Mohamed nhiều năm trước đây. Nhưng cuộc tranh luận dường như đã bị quên lãng, số lượng phát hành hàng tuần đã suy giảm (giống như báo chí nói chung) và sự bảo vệ của cảnh sát đã được nới lỏng. Hai cảnh sát canh gác bị các tay súng bắn hạ đơn giản trước khi họ xông vào văn phòng, giữa cuộc họp của ban biên tập. Hiếm khi có nhiều họa sĩ truyện tranh và nhà văn có mặt vào lúc đó. Mười hai người bị hạ sát bằng vũ khí tự động, và mười một người khác bị thương, một số bị thương nặng.

Thêm vào đó có họa sĩ truyện tranh Charb (Stéphane Charbonnier, 47 tuổi), hiện đang là tổng biên tập của tạp chí, trong số các nạn nhân có hai họa sĩ truyện tranh nổi tiếng ở Pháp: Jean Cabut (76 tuổi), Georges Wolinski (80 tuổi). Một vài thế hệ đã trưởng thành cùng với Cabu và Wolinski, những người thiểu số hòa nhã theo quan điểm cánh tả của Pháp.

Khi những tay súng bỏ đi, một sát thủ quay lại để kết liễu viên cảnh sát bị thương nằm trên đường phố. Họ dừng lại và hét to: “Đấng Tiên Tri đã được báo thù!” Sau đó họ bỏ trốn về hướng khu vực ngoại ô phía đông nam.

Đám đông tụ tập tự phát ở quảng trường Cộng Hòa Paris, không xa con phố nhỏ nơi Charlie Hebdo đặt văn phòng. Dũng cảm, những khẩu hiệu sai lầm giương cao: “Chúng ta là Charlie!” Nhưng họ không phải. “Charlie đang sống!” Không, không phải. Họ vừa mới bị xóa sổ. 

Mọi người đều bị sốc. Điều đó xảy ra không hề có lời nói nào. Đó là những kẻ giết người máu lạnh, một tội ác không thể tha thứ. Điều đó cũng diễn ra không hề có lời nói nào, nhưng mọi người sẽ nói về nó. Mọi người sẽ nói nhiều thứ hơn, như “chúng ta sẽ không cho phép những kẻ Hồi Giáo cực đoan đe dọa chúng ta và tước đoạt quyền tự do ngôn luận”, và những điều tương tự. Tổng thống François Hollande khẳng định một cách tự nhiên rằng nước Pháp thống nhất chống lại các sát thủ. Các phản ứng ban đầu đối với vụ thảm sát là có thể dự đoán được. “Chúng ta sẽ không bị đe dọa! Chúng ta sẽ không từ bỏ tự do của mình!”

Có và không. Chắc chắn là ngay cả những kẻ cuồng tín tôn giáo nhất cũng không thể tưởng tượng rằng vụ thảm sát những nhà châm biến có thể cải đạo nước Pháp sang Hồi Giáo. Kết quả này dẫn đến điều ngược lại: một sự thúc đẩy đối với quan điểm chống Hồi Giáo đang gia tăng. Nếu đây là một sự khiêu khích, thì sự khiêu khích là gì? Nó sẽ khiêu khích cái gì? Nguy cơ rõ ràng là giống như sự kiện ngày 11 tháng 9, nó có thể dẫn tới sự gia tăng giám sát của cảnh sát, và do đó làm suy yếu sự tự do của người Pháp, không phải theo cách mà các sát thủ tìm kiếm (hạn chế tự do chỉ trích Hồi Giáo) mà theo cách các quyền tự do bị hạn chế trong thời kỳ hậu 11 tháng 9 ở Mỹ, bằng cách bắt chước Luật Yêu Nước.

Về mặt cá nhân, tôi không bao giờ thích những trang bìa khiêu khích của Charlie Hebdo, nơi các bức tranh xúc phạm Đấng Tiên Tri – hay là về Jesus – được đăng tải. Đó là vấn đề về khẩu vị. Tôi không cho rằng những bức vẽ tục tĩu, bẩn thỉu là những lý lẽ có hiệu quả, bất kể là chống lại tôn giáo, hay nhà cầm quyền nói chung. Đó không phải là thứ tôi quan tâm.

Những người bị sát hại đáng giá hơn Charlie Hebdo. Các tác phẩm của Cabu và Wolinski xuất hiện trong nhiều ấn bản và được biết đến bởi những công chúng chưa bao giờ mua Charlie Hebdo. Các nghệ sĩ và nhà văn trong buổi họp biên tập đều có tài năng và chất lượng, họ không liên quan gì đến các truyện tranh “báng bổ”. Tự do báo chí cũng là tự do trở thành tầm thường và ngớ ngẩn hết lần này đến lần khác.

Charlie Hebdo không phải là một hình mẫu về tự do ngôn luận trong thực tế. Họ đã kết thúc, giống như “cánh tả nhân quyền”, thứ bảo vệ các cuộc chiến do Hoa Kỳ chỉ huy chống lại “các nhà độc tài”.

Vào năm 2002, Philippe Val, tổng biên tập hồi đó, đã lên án Noam Chomsky về chủ nghĩa bài Hoa Kỳ và sự phê phán quá mức đối với Israel cũng như đối với truyền thông chính thống. Vào năm 2008, một họa sĩ truyện tranh nổi tiếng khác của Hebdo, Siné, viết trong một đoạn ghi chép ngắn trình bày một tác phẩm mới về việc con trai Jean của tổng thống Sarkozy sẽ cải sang đạo Juda để cưới nữ thừa kế của chuỗi cửa hàng thiết bị nhà bếp giàu có. Siné đã bị Philippe Val sa thải với lý do “bài Do Thái”. Sau đó Siné đã nhanh chóng sáng lập ra một tờ tạp chí cạnh tranh và lấy đi của tờ Charlie Hebdo nhiều độc giả, nổi loạn về tiêu chuẩn kép của tờ Charlie Hebbdo.

Nói ngắn gọn, Charlie Hebdo là một ví dụ cực đoan về thứ đang diễn ra trong ranh giới “đúng đắn chính trị” của cánh tả Pháp hiện thời. Nực cười là vụ sát hại của các sát thủ Hồi Giáo vừa qua đã đột nhiên thánh hóa biểu hiện tăng cường của sự nổi loạn tuổi dậy thì kéo dài, thứ đã đánh mất bề ngoài hấp dẫn, trên khẩu hiệu vĩnh cửu về Tự Do Báo Chí và Tự Do Biểu Đạt. Bất kể là những kẻ sát nhân có ý định gì, đó là điều họ đã làm được. Cùng với việc giết hại những người vô tội, họ chắc chắn khoét sâu cảm giác về sự hỗn loạn đẫm máu trong thế giới này, làm trầm trọng thêm sự bất đồng giữa những nhóm sắc tộc ở Pháp và Châu Âu, và không hoài nghi gì nữa, đạt tới một kết quả độc ác khác. Trong thời đại của sự hoài nghi, các thuyết âm mưu chắc chắn được làm giàu thêm.

Diana Johnstone is the author of Fools’ Crusade: Yugoslavia, NATO, and Western Delusions. Her new book, Queen of Chaos: the Misadventures of Hillary Clinton, will be published by CounterPunch in 2015. She can be reached at diana.johnstone@wanadoo.fr

Saturday, December 27, 2014

Các nhánh trong kinh tế học chính thống

Trước kia các nhà kinh tế học tân cổ điển chỉ có độc một chủ thuyết là thị trường có khả năng tự điều chỉnh. Đến cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 thì phái tân cổ điển hoàn toàn tan vỡ do thực tế đã chứng tỏ thị trường không có khả năng tự điều chỉnh. Keynes xây dựng lý thuyết kinh tế vĩ mô lập luận rằng kinh tế thị trường không thể tự điều chỉnh nên cần sự can thiệp của nhà nước, song Keynes vẫn thừa nhận nền tảng kinh tế vi mô của phái tân cổ điển và cho là không mâu thuẫn với lý thuyết của ông. Sau này, lý thuyết của Keynes cũng phá sản toàn tập do chính sách tài khóa kiểu vay nợ để chi tiêu công trong đó có rất nhiều cho quân sự dẫn đến một nền kinh tế nợ nần khủng khiếp, chiến tranh liên miên và khủng hoảng còn dữ dội hơn trước.

Kể từ Keynes thì kinh tế học tân cổ điển, hay còn gọi là kinh tế học chính thống chia làm hai nhánh. Nhánh thứ nhất tiếp tục bảo vệ quan điểm thị trường có khả năng tự điều chỉnh nên phải để cho thị trường tự do điều chỉnh, nhà nước chỉ can thiệp tối thiểu để sửa chữa những khuyết tật của thị trường. Học thuyết về thị trường tự điều chỉnh hồi thế kỷ 19 vốn được gọi là chủ nghĩa tự do. Phái này được gọi là phái bảo thủ, tên là bảo thủ nhưng ủng hộ quan điểm thị trường tự do. Nhánh thứ hai theo quan điểm của Keynes, cho rằng thị trường không có khả năng tự điều chỉnh nên cần sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước, phái này được gọi là phái tự do. Tên là tự do nhưng lại ủng hộ sự can thiệp của nhà nước, tức là thị trường không tự do. Chính sự tách rời kỳ quặc giữa tên gọi và nội dung của các phái trong kinh tế học chính thống dẫn đến nhiều sự lẫn lộn cho người đọc. Nhưng cho dù có tách rời đến đâu chăng nữa thì cả hai nhánh đó không bao giờ là tả, ngược lại chúng đều là bảo thủ, đều bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Kinh tế học tân tự do vốn ban đầu là do một nhóm các nhà kinh tế theo quan điểm bảo thủ trong đó có F. Hayerk và von Mises họp nhau ở Thụy Sĩ, thành lập một hội để chống lại phái Manchester của Keynes lúc đó đang là chính thống. Sau khi phái Keynes tan rã thì nhánh này trở thành dòng chính thống được gọi là chủ nghĩa tân tự do với đại biểu quan trọng là Friedman. Friedman và nhóm Chicago Boys đã tạo nên cơn ác mộng tự do hóa của các nước Mỹ Latin, điển hình là Chi Lê . Đến những năm 70 của thế kỷ trước, thì Samuelson, một nhà kinh tế học đã trình bày kết hợp kinh tế vi mô của tân cổ điển và kinh tế vĩ mô của Keynes. 

Paul Krugman là nhà một trong số những nhà kinh tế học nổi tiếng nhất hiện nay ở Mỹ, ông ta theo phái Keynes mới, tức thuộc về nhánh tự do trong kinh tế học chính thống. Song có nhiều người biết chút ít về kinh tế lại hay nói Paul Krugman thuộc cánh tả. Sự thật không phải vậy, mà những người kia có lẽ cũng không phải nhầm lẫn, họ cố tình gọi vậy vì họ ghét quan điểm của Paul Krugman. Điều đó giống như thời McCarthy ở Mỹ, người ta ghét ai thì gọi người đó là cộng sản. Việc gọi Paul Krugman là cánh tả thì ngược lại cho thấy những người ghét ông ta chắc chắn thuộc về phe bảo thủ.

Hiện thực kinh tế lại càng ngược với tên gọi hơn nữa. Ở Mỹ thì doanh nghiệp lớn ủng hộ phái tự do, tức là ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào thị trường. Còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tầng lớp tiểu tư sản, trí thức và tầng lớp trung lưu thì theo phái bảo thủ, tức là ủng hộ quan điểm thị trường tự do. 

Người ta sẽ hỏi Việt Nam có khác gì không. Câu trả lời là không. Doanh nghiệp lớn luôn ủng hộ sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ cho lợi nhuận của họ, nhất là khi đại đa số doanh nghiệp lớn ở Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước. Trên truyền thông thường xuất hiện các chuyên gia kinh tế đề cao quan điểm thị trường tự do, hạn chế sự can thiệp của nhà nước, khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và hạn chế các doanh nghiệp lớn của nhà nước, họ thuộc về phái bảo thủ. Có một điều chưa rõ lắm, nhưng có thể là ở Việt Nam người ta gọi cách khác, ví dụ như phái tự do thì được gọi là phái kỹ trị, còn phái bảo thủ thì được gọi là phái dân túy. Tuy nhiên đấy chỉ là cách gọi trong một nhóm chuyên môn hẹp, chưa được phổ biến rộng rãi trên truyền thông.


Thursday, December 11, 2014

Mười một lý do khiến tôi xấu hổ khi là một người Mỹ

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Eleven reason's I'm ashamed to be an American" của tác giả Dave Lindendorf. Bài viết thể hiện tâm trạng của một người Mỹ khi chứng kiến những thất bại của đất nước mình.

Mười một lý do khiến tôi xấu hổ khi là người Mỹ

Tôi sẽ nói điều này: Tôi xấu hổ khi là công dân Mỹ. Điều này không dễ dàng, bởi vì sống ở nước ngoài và chứng kiến những chỗ bẩn thỉu trong thời đại của tôi. Tôi biết rằng đất nước này có nhiều điều vĩ đại, nhiều con người vĩ đại dã sống ở đó, nhưng cuối cùng tôi đã đi đến kết luận rằng Hoa Kỳ hiện là một quốc gia ốm yếu và méo mó, tại đó cái xấu vượt xa cái tốt.

Tôi có thể nhớ cảm giác chán ghét lần đầu tiên đối với đất nước của tôi vài lần. Vào lúc 17 tuổi, lần đầu tiên khi tôi nhận ra sự tàn bạo mà Hoa Kỳ đã gây ra đối với những người dân Việt Nam nhân danh tôi – cưỡng hiếp và giết hại, phá hủy các ngôi làng của nông dân, ném bom na-pam xuống trẻ em ở miền Nam, và ném bom rải thảm miền Bắc Việt Nam (bao gồm cả đê điều, trường học và bệnh viện). Sau đó tôi kinh hoàng và nổi loạn khi nhận ra một cách muộn màng rằng Hoa Kỳ đã dồn những người bản địa, người Mỹ gốc Nhật, người Nhật định cư hợp pháp vào các trại tập trung trong thế chiến thứ hai, và chính quyền quốc gia đã đồng lõa với đám phát xít da trắng quỷ quyệt ở California trong việc tước đoạt trang trại, nhà cửa và công việc của những người bị giam giữ đó. 

Mặc dù những tội ác đó rất kinh khủng nhưng không thấm tháp gì so với những thứ mà tôi đang được thấy ở đất nước này.

Hãy để tôi liệt kê một số cách mà đất nước này khiến tôi phát ốm: 

1. Điều đó không chỉ là lần công bố mới nhất bản báo cáo được biên tập triệt để về chương trình cố ý tra tấn của chính quyền Bush/Cheney, khởi sự vào năm 2001 sau sự kiện 11 tháng 9 và kéo dài trong nhiều năm đối với không chỉ nghi phạm khủng bố mà còn cả đối với những người được biết hay có thể là hoàn toàn vô tội. Không có gì được làm hay có vẻ như sẽ được làm để trừng phạt những người cho phép và bảo vệ cho các tội ác chiến tranh cũng như tội ác chống nhân loại. Không chỉ có vậy mà còn nhiều người Mỹ đồng tình với điều đó. Ngay cả truyền thông, như trên NPR, tôi nghe thấy các phóng viên nói rằng một trong số “các câu hỏi” về chương trình tra tấn của chính quyền là nó “có hiệu quả” hay không trong việc thu thập thông tin về hoạt động khủng bố. Hoa Kỳ và các quốc gia còn lại của thế giới đã ký một hiệp định hình sự hóa việc tra tấn sau Thế Chiến thứ II (theo luật pháp quốc tế thì hình phạt có cả tử hình). Đó là sự che giấu hay thất bại trong việc trừng phạt tội ác tra tấn.

2. Cảnh sát ở Hoa Kỳ đã bị quân sự hóa trong cả phương diện vật chất lẫn huấn luyện và tự nhận thức, khiến họ giờ đây trở thành một dạng quân đội xâm lược hơn là “viên chức hòa bình” (một khái niệm lỗi thời mà bạn không còn nghe thấy nữa). Hết lần này đến lần khác chúng ta chứng kiến cảnh sát hung hăng sử dụng vũ lực, trong đó có cả vũ lực chết người, trong các tình huống kêu gọi sự bình tĩnh và hiểu biết. Điều khiến tôi phát ốm nhất là chứng kiến một xe cảnh sát ở Cleverland lao thẳng tới ban công trong một sân chơi, nơi có cậu bé 12 tuổi Tamir Rice đang ngồi một mình, chơi với một khẩu súng đồ chơi. Trong vòng chưa tới hai giây, một cảnh sát bước ra khỏi xe và bắn cậu bé tử thương vào bụng. Hoàn toàn không có lời kêu gọi nào trong vụ xử tử này. Không có ai quanh đó bị cậu bé đe dọa. Cảnh sát phải giữ khoảng cách an toàn, đánh giá tình hình, sau đó kêu gọi Rice rời khỏi ban công và buông súng, nếu cậu bé không làm theo, họ phải chờ tăng cường lực lượng, trong đó có một chuyên gia đàm phán. Trái lại, họ chỉ lao thẳng xe tới đó như trong tình huống giải cứu con tin và hạ gục cậu bé. Sau đó họ không làm gì để giúp cậu bé. Ugh! Không có làn sóng phẫn nộ phổ biến nào về vụ sát hại tàn bạo của cảnh sát. 

Cũng không có sự phẫn nộ phổ biến với những cảnh sát can dự vào vụ giết hại Micheal Brown ở Ferguson, MO hay vụ siết cổ chết Eric Garner một cách hoàn toàn vô lý ở Staten Island, New York, cả hai kẻ giết người mặc đồng phục đều được miễn tố bởi các hội thẩm đoàn công tố hoàn toàn bị thao túng và bị lừa dối. Trái lại, chúng ta nghe thấy những người da trắng được phỏng vấn trên chương trình truyền hình nói rằng cảnh sát đã làm đúng.

3. Nhưng đó mới chỉ là một phần thôi. Tôi thấy căm phẫn khi tổng thống của chúng ta là một người không có đủ can đảm để lên án những tội ác đó và tuyên bố rằng ông ta sẽ truy tố những ai ra lệnh cho quân đội và CIA sử dụng tra tấn đối với những người bị bắt trong cái được gọi là Chiến Tranh Chống Khủng Bố. Tổng thống Obama phải yêu cầu Bộ Tư Pháp tích cực truy tố những cảnh sát giết hại thường dân không vũ trang nếu các công tố viên địa phương không làm điều đó, và ông ta phải ra lệnh truy tố bất cứ ai ra lệnh, ủy quyền, tạo điều kiện hay bao che cho việc tra tấn của các nhân viên chính quyền. (Không có gì ngạc nhiên khi tổng thống Obama được chuẩn đoán trào ngược dịch vị dạ dày: ít nhất đường ống dinh dưỡng của con người cũng có lương tâm!)

4. Tôi cảm thấy căm phẫn về tình hình tù tội. Theo như tổ chức Sáng Kiến Chính Sách Nhà Tù, Hoa Kỳ vào lúc này có khoảng 2,4 triệu tù nhân ( chỉ có 2/3 trong số họ bị kết án, với phần lớn trong số còn lại là bị tạm giam chờ xét xử vì họ không thể nộp số tiền bảo lãnh do hệ thống tòa án tha hóa của chúng ta đặt ra). Không có gì ngạc nhiên: Từ cuối những năm 80 đến năm 2008, số lượng các đạo luật liên bang có hình phạt tù đã tăng từ 3000 lên 4450, và chúng tiếp tục gia tăng khi những kẻ bất tài trong Quốc Hội tiếp tục thông qua những đạo luật tạo ra “tội hình sự” nhiều hơn để trừng phạt. Đó là chưa kể tới chính quyền bang và địa phương, điều đó giải thích tại sao Hoa Kỳ chỉ chiếm 5% dân số thế giới nhưng có số tù nhân chiếm tới 25% số tù nhân trên toàn thế giới. Chính bản thân tôi cũng bị đe dọa bỏ tù cách đây chưa lâu bởi một gã cảnh sát côn đồ ở một thị trấn ngoại ô vì xin đi nhờ xe – một hành vi mà hiện nay là hợp pháp ở bang của tôi, và điều đó nếu không phù hợp thì cũng giống hầu hết các vi phạm hành chính như đỗ xe không vé, không đáng bị bắt giữ. Không vấn đề - nếu tôi không khuất phục, gã đầu gấu trong bộ đồng phục với vũ khí cầm tay sẽ còng tay tôi, và vu cáo về những thứ như: bắt giữ vì chống cự, quấy rối trật tự hay những chuyện vớ vẩn tương tự. Chúng ta sống trong một xã hội bị ám ảnh bởi sự trừng phạt, bị giám sát bởi những cảnh sát dường như thích thú với việc cai trị công chúng.

5. Tôi phát ốm khi chứng kiến hết cộng đồng này đến cộng đồng khác thông qua những luật lệ cấm cho người vô gia cư ăn. Tại một quốc gia trong giai đoạn hậu Đại Suy Thoái, chúng ta vẫn đang có tỷ lệ thất nghiệp thực tế và lao động không đầy đủ từ 18 đến 20% tùy thuộc vào cách tính. 

6.Tôi xấu hổ và tức giận khi Wall Street về bản chất là một hiện trường tội ác khổng lồ - nơi mà hàng ngàn tỷ dollar của cải trong suốt thập kỷ qua đã bị rút khỏi túi của những thường dân Mỹ và đặt vào tay của 1% hay 5% giàu nhất, biến đất nước của chúng ta thành xã hội bất công nhất trong số 34 quốc gia phát triển của thế giới. Không có chủ ngân hàng nào trong danh sách hàng đầu của quốc gia về cái được gọi là ngân-hàng-quá-lớn-để-sụp-đổ bị buộc tội, càng ít hơn nữa bị truy tố hay bỏ tù vì trò lừa đảo lớn nhất mà thế giới từng được thấy. Trong một số dịp hiếm hoi khi Bộ Tư Pháp đã theo đuổi những tội phạm ngân hàng đó, họ đạt được “các thỏa thuận” dưới dạng những khoản phạt vô nghĩa, và chưa từng yêu cầu những giám đốc lừa đảo đó rời bỏ vị trí quyền lực béo bở, hay phải thừa nhận là họ làm sai, theo các điều khoản của thỏa thuận. Trên thực tế, những gã lừa đảo trong bộ complete vải sọc nhỏ đó thay vì bị bỏ tù thì lại thường xuyên được mời làm khách ở Nhà Trắng và Quốc Hội, được kêu gọi đóng góp “sự thông thái” của họ cho chính sách của chính quyền, sau đó họ sẽ thưởng công cho các chủ nhà hào hiệp của họ với những bổng lộc và “quyên góp chiến dịch” không khác gì hối lộ. 

7. Tôi phẫn nộ và xấu hổ khi đất nước của tôi tiêu tốn hơn một nghìn tỷ dollar mỗi năm cho quân đội và quân nhân tại 800 căn cứ trên toàn thế giới. Điều này diễn ra trong khi 50 triệu người Mỹ được đưa tin là “mất an ninh lương thực” – hay nói cách khác là 50 triệu người, nhiều trong số đó là trẻ em, đang bị đói tại những thời điểm nhất định trong năm – và khi những chương trình hỗ trợ như Phiếu Lương Thực và Trợ Cấp Thất Nghiệp đang bị cắt giảm để tiết kiệm tiền. Tồi tệ hơn, không có scandal quốc gia nào về việc đó. Trên thực tế, nhiều người Mỹ, dĩ nhiên là đa số, nghĩ rằng tất cả các khoản chi tiêu cho quân đội là tốt, bởi vì nó dường như là “bảo vệ an toàn cho chúng ta” và có thể “tạo công ăn việc làm.” Sự thật cay đắng là ngày nay, Hoa Kỳ, đất nước của tôi là quốc gia khủng bố lớn nhất thế giới – dựa trên thành tích không có đối thủ về việc xâm chiếm bất hợp pháp các đất nước khác, thực hiện giết chóc bằng máy bay không người lái ngoài biên giới, bắt cóc, tra tấn và thủ tiêu người dân, tài trợ và viện trợ cho các cuộc lật đổ chính quyền nước ngoài, thường là các chính quyền được bầu cử dân chủ.

8. Tôi phát ốm trong tâm can bởi vì một nửa thế kỷ sau khi những người Tuần Hành Vì Tự Do và những người dân địa phương can đảm đã chiến thắng và chấm dứt đạo luật Jim Crow ở miền Nam đã cấm người da đen đi bầu cử suốt nhiều thế hệ, ít nhất một nửa đất nước và không chỉ ở miền nam mà là mọi nơi, giờ đây lại đang tìm cách ngăn cản người da đen, người nói tiếng Tây Ban Nha và những người có màu da khác đi bầu cử. Hệ thống tòa án tha hóa của chúng ta ủng hộ họ trong nhiều trường hợp, ngay cả Tòa Án Tối Cao, hiện giờ đang bị thống trị bởi phát xít, phát xít nguyên thủy và phát xít tôn giáo. 

9. Tôi bối rối khi phần lớn những người Mỹ đồng bào của tôi lo lắng về chuyện họ có thể có chiếc iPhone mới nhất, hay họ có quyền do chúa ban tặng để được sở hữu một vũ khí tự động không giấy phép, hơn là về việc chúng ta vẫn có quyền riêng tư hay không, quyền không bị chính phủ theo dõi, hay các doanh nghiệp có được phép mua quan chức chính quyền trực tiếp như mua một miếng thịt bò không, hiện nay theo như Liên Minh Công Dân cho biết.

10. Tôi phẫn nộ khi nam và nữ đồng bào của tôi không còn tin rằng điều quan trọng của một xã hội là cung cấp cho mọi người các dịch vụ cơ bản, tạo ra cho tất cả mọi người một cơ hội công bằng để thoát khỏi nghèo khổ. Không còn nhận thức rằng mọi người phải có thể đi học ở một trường công được tài trợ tử tế, hay tiếp cận miễn phí một trường cao đẳng tài trợ bằng tiền thuế hay với một mức học phí thấp – mức có thể đáp ứng với một công việc bán thời gian 10 giờ. Không còn bất cứ nhận thức nào về việc mọi người Mỹ phải được quyền chăm sóc y tế chất lượng. Ngay cả thứ hỗ trợ cho cái được gọi là Luật Chăm Sóc Sức Khỏe Có Khả Năng Thanh Toán (ACA) hầu hết là từ những cá nhân ích kỷ muốn có khả năng thanh toán bảo hiểm cho bản thân, cũng chưa tạo ra được sự chăm sóc y tế chất lượng cho tất cả mọi người. Cũng giống như vậy, nếu ACA tạo cho bạn khả năng thanh toán bảo hiểm, bản ủng hộ nó, nhưng nếu bạn có bảo hiểm do chủ lao động thanh toán thì bạn chống lại ACA. Đó là sự thật cơ bản trong mọi lĩnh vực. Người Mỹ ngày nay đã đánh mất nhận thức chung về chia sẻ trách nhiệm và đấu tranh. Mọi người thường nói (không chính xác, tôi nghĩ) về thế hệ những năm 60 trở thành thế hệ của “cái tôi”. Hiện nay, có lẽ là toàn bộ Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia của “cái tôi”.

11. Cuối cùng, tôi không thể quên vấn đề biến đổi khí hậu. Không có gì hoài nghi, Hoa Kỳ là tác nhân chính trong biến đổi khí hậu suốt thế kỷ qua, khi là một quốc gia công nghiệp hóa nhất thế giới. Ngay cả ngày nay, nếu như Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ về khí thải các-bon, sự thật không thể phủ nhận là tính bình quân trên đầu người, mỗi người Hoa Kỳ chúng ta thải khí các-bon vào khí quyển vượt xa bất cứ người Trung Quốc nào, gấp 5 lần hoặc hơn. Mặc dù vậy, đất nước của chúng ta là cản trở chủ yếu đối với bất cứ nỗ lực chân thật nào nhằm giảm bớt hay đảo ngược biến đổi khí hậu. Dưới chính quyền hiện tại và trước đây, Hoa Kỳ đã phá hoại thành công các nỗ lực đạt đến một hiệp định quốc tế giới hạn khí thải hiệu ứng nhà kính, thậm chí sử dụng cả năng lực do thám của Ủy Ban An Ninh Quốc Gia để theo dõi tình hình đàm phán của các quốc gia khác và để tống tiền các nhà lãnh đạo. Đơn giản là phát ốm về sự ích kỷ của người Mỹ khi họ không quan tâm một chút nào đến sự kinh khủng mà con cái chứ không phải cháu của chúng ta phải đối mặt (Ngân Hàng Thế Giới, không phải là một cái ổ cực đoan về môi trường, cảnh báo rằng thiếu niên hiện nay sẽ đối mặt với một thế giới nóng hơn từ 6 đến 8 độ F khi chúng 80 tuổi!). Đây là sự ích kỷ - hay – điên khùng trên quy mô lớn mà tôi không thể hiểu nổi. 

Tôi có thể tiếp tục nhưng tôi nghĩ rằng mười một lý do để xấu hổ về đất nước của một ai đó là quá đủ.

Đó là tôi.

Dave Lindorff is a founding member of ThisCantBeHappening!, an online newspaper collective, and is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press).


Friday, November 21, 2014

Tám lý do phản đối cuộc chiến mới của Obama

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Eight reasons to oppose Obama's (new) war" của hai tác giả Alan Maass and Eric Ruder, nêu ra các lý do phản đối cuộc chiến mới của tổng thống Barack Obama.

Tám lý do phản đối cuộc chiến mới của Obama

Barack Obama tuyên bố cuộc chiến chống lại Nhà Nước Hồi Giáo ở Iraq và Syria (ISIS) là cần thiết để chấm dứt nguy cơ khủng bố và áp bức. Nhưng ẩn khuất phía sau ngôn từ biện minh cho cuộc can thiệp quân sự mới nhất của Hoa Kỳ là động cơ đế quốc cũ kỹ - kiểm soát dầu mỏ, thống trị địa chính trị ở Trung Đông, đua tranh quốc tế - điều chúng ta đã biết từ những cuộc chiến trước đây của Hoa Kỳ.

Cũng giống như các cuộc xung đột đó, cuộc chiến chống ISIS làm cho thế giới bạo lực hơn, áp bức hơn và kém an toàn hơn. Đây, chúng tôi đưa ra một số lý do để chống cuộc chiến mới này – để bạn có thể nói ra và tự mình đánh giá.

Thứ nhất: Obama tuyên chiến với ISIS để thúc đẩy các lợi ích của đế quốc Hoa Kỳ, không phải để chống lại các chế độ bạo ngược và áp bức.

Cuộc chiến mới của chính quyền Hoa Kỳ ở Trung Đông, khởi sự vào mùa hè vừa qua, phản án sự leo thang bạo lực khủng khiếp của cỗ máy quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Trong tuyên bố quan trọng sau khi đảng Dân Chủ của ông ta gánh chịu thất bại tơi tả trong bầu cử giữa nhiệm kỳ, Barack Obama công bố “giai đoạn mới” trong chiến tranh, bắt đầu với việc triển khai thêm 1.500 “cố vấn” tới Iraq.

Obama cam kết “các cố vấn” sẽ không tham gia chiến trận, nhưng chúng ta đã từng nghe lời hứa đó trước đây, hãy nhớ về Chiến Tranh Việt Nam. Một trang web dẫn chứng tài liệu “sứ mệnh khủng khiếp” của cuộc chiến chống ISIS cho thấy sự triển khai mới sẽ gia tăng gần gấp đôi số nhân viên quân sự Hoa Kỳ chính thức ở Iraq.

Hoa Kỳ cũng thực hiện các vụ không kích mở rộng ở Iraq, tiếp tục cuộc chiến kéo dài một phần tư thế kỷ đã biến một quốc gia phát triển thành một quốc gia nghèo nhất trái đất, và ở Syria, một quốc gia chưa từng bị ném bom trước đó. Vào giữa tháng 12, chỉ sau một tháng không kích, chiến đấu cơ Hoa Kỳ đã xuất kích 2.750 lần – trung bình gần 100 lần mỗi ngày.

Kẻ thù trong cuộc chiến mới là Nhà Nước Hồi Giáo ở Iraq và Syria (ISIS), một lực lượng quân sự phản động và đạt tới trạng thái quyền lực hiện tại nhờ vào cuộc xâm lược và chiếm đóng tàn khốc ở Iraq của Hoa Kỳ. Hiện nay, ISIS đang đe dọa xóa sổ các đường biên giới ở Trung Đông, nơi mà Hoa Kỳ là quyền lực đế quốc thống trị trong nửa thế kỷ.

Đó là lý do khiến Obama ra lệnh ném bom vào mùa hè năm nay. Nguyên tắc của Hoa Kỳ là kiểm soát dầu mỏ ở Trung Đông – không phải bởi vì người Mỹ cần nhập khẩu, mà bởi vì sự kiểm soát này tạo ra đòn bẩy chống lại các đối thủ quốc tế như Trung Quốc và Nga, chưa kể là các đồng minh của Hoa Kỳ ở Châu Âu. Điều này được rút ra từ một báo cáo của Bộ Ngoại Giao vào năm 1945 tuyên bố các nguồn dầu mỏ ở khu vực là “nguồn vô cùng to lớn của sức mạnh chiến lược và một trong các phần thưởng vật chất vĩ đại nhất lịch sử thế giới”.

Hoa Kỳ cũng muốn phục hồi cỗ máy quân sự sau thảm họa của thập kỷ “cuộc chiến chống khủng bố” – và ISIS cung cấp cho họ “kẻ thù hoàn hảo” để giành được sự ủng hộ. Phần cược rất đáng giá cho tất cả chúng ta: Nếu chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ trỗi dậy mạnh hơn nhờ đánh bại ISIS, những kẻ hiếu chiến ở Washington sẽ có vị thế tốt hơn để đánh bại sự phản kháng tại bất cứ đâu trên thế giới, trong đó có cả Hoa Kỳ.

Thứ hai: Cuộc chiến của Hoa Kỳ sẽ không bảo vệ các nhóm thiểu số tôn giáo và sắc tộc đang bị ISIS khủng bố.

Cuộc không kích đầu tiên đi cùng với tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ “không nhắm mắt làm ngơ” trước sự tuyệt vọng của người Yazidis, một nhóm thiểu số tôn giáo đang bị các chiến binh ISIS bao vây. Obama đã trơ tráo nói về “người dân vô tội” đang đối mặt với “bạo lực ở quy mô khủng khiếp” sau khi đồng minh chủ chốt của chính quyền Hoa Kỳ ở Trung Đông, Israel, đã khủng bố người dân ở dải Gaza trong một tháng trước đó với “bạo lực ở quy mô khủng khiếp”.

Phải nói thêm là, hầu hết các đợt ném bom đầu tiên diễn ra cách nơi người Yazidis bị bao vây vài trăm dặm. Không lực được tập trung quanh thành phố Erbil, nơi ISIS đang đe dọa xâm chiếm thủ đô của người Kurd Iraq, đồng minh kiên định nhất của Hoa Kỳ trong suốt 25 năm chiến tranh. Erbil cũng là – đáng ngạc nhiên, đáng ngạc nhiên – một thành phố chủ chốt trong sản xuất dầu mỏ ở miền bắc Iraq. 

Sự nhạo báng của chính quyền Hoa Kỳ đã được bộc lộ khi các chiến binh ISIS tiến hành tấn công dữ dội vào Kobanê, một thành phố ở khu vực miền bắc Syria có đại đa số người Kurd thiểu số của quốc gia sinh sống. 

Ban đầu, khi thành phố sắp thất thủ, các quan chức Hoa Kỳ như Ngoại Trưởng John Kerry tuy vậy đã giảng giải cho các phóng viên là bảo vệ người Kurd ở Kobanê không nằm trong kế hoạch can thiệp “nhân đạo”. Cùng lúc đó, Thổ Nhĩ Kỳ - một đồng minh tin cậy của Hoa Kỳ đã đàn áp cộng đồng người Kurd thiểu số của họ một cách khủng khiếp – từ chối hỗ trợ phòng thủ Kobanê, nằm ngay biên giới phía nam của họ, trừ khi người Kurd đồng ý với những điều kiện cụ thể.

Bất chấp sự kỳ quặc đó, ISIS bị đẩy lùi trong cuộc xâm lược Kobanê – một phần là nhờ các vụ không kích chiến thuật của Hoa Kỳ, nhưng chủ yếu là nhờ vào sự phòng thủ can trường của thành phố với các chiến binh người Kurd thua kém về hỏa lực nhưng chiến đấu cho nhân dân và quyền lợi của họ.

Trong biến loạn, người Kurd phải chú ý tới tới việc chính quyền Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ “giúp” người Kurd trong cuộc chiến – bởi vì có một sự ràng buộc. Như nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa John Reed đã nói, “Bất cứ ai nhận lời hứa hẹn danh nghĩa của Chú Sam sẽ có nghĩa vụ phải trả lại bằng máu và mồ hôi”. 

Thứ ba: Chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ chịu trách nhiệm rất nhiều về sự trỗi dậy của ISIS. Mở rộng cuộc chiến của Hoa Kỳ dường như sẽ gia tăng sức mạnh của những kẻ phản động hơn là làm suy yếu chúng.

Hãy nghe Barack Obam nói về “bệnh ung thư chủ nghĩa cực đoan bạo lực”, bạn sẽ nghĩ chính quyền Hoa Kỳ không khoan nhượng trong việc đối đầu với những thế lực phản động như ISIS.

Trừ khi họ phục vụ cho các mục tiêu của chủ nghĩa đế quốc. Vào những năm 1980, chính quyền Hoa Kỳ đã tài trợ và cung cấp cho chủ nghĩa Hồi Giáo chính thống chống lại cuộc xâm lược Afghanistan của Liên Bang Soviet cũ. Những người đàn ông mà Ronald Reagan gọi là “các chiến binh của tự do” sau này đã cùng nhau trở thành al-Qaeda.

Trong cuộc chiếm đóng Iraq, các quan chức Hoa Kỳ đã kích động sự chia rẽ bè phái giữa Hồi Giáo dòng Sunni và dòng Shia – một chiến lược chia để trị, nhằm chống lại nguy cơ có một sự phản kháng thống nhất nhằm vào quân đội Hoa Kỳ. Khi sự chia rẽ này biến thành nội chiến đẫm máu, al-Qaeda ở Iraq – tổ chức tiền thân của ISIS – lần đầu tiên giành được địa bàn.

Cũng chỉ mới đây thôi, Hoa Kỳ đã làm ngơ khi đồng minh của họ trong số các chế độ độc tài của khu vực, nhất là Ả-rập Saudi, ủng hộ các tổ chức vũ trang Hồi Giáo giống như ISIS – để đối phó với sức mạnh gia tăng của các chính quyền Shia trong khu vực. Do vậy, xung đột chia rẽ độc hại mà Hoa Kỳ nuôi dưỡng trong cuộc chiếm đóng Iraq đã lan rộng khắp khu vực – do đế quốc Hoa Kỳ kích động.

ISIS hiện đang tuyên bố cai trị một khu vực lớn ở Iraq và Syria – hàng triệu người, trong đó có nhiều người Sunni, những người coi nghị trình phản động và khủng bố đối lập của ISIS là ghê tởm. Nhưng cho đến nay, ISIS vẫn nhận được sự ủng hộ thụ động của nhiều người Sunni do họ bảo vệ các cộng đồng Sunni trước sự đàn áp của chính quyền Shia ở Iraq. Mỗi khi Hoa Kỳ bắn thêm một quả tên lửa thì nó sẽ lại đẩy người Sunni sang gần ISIS hơn – lực lượng duy nhất thành công trong việc bảo vệ họ chống lại bạo lực và áp bức. 

Thứ tư: Nếu Hoa Kỳ có thể làm suy yếu hay phá hủy ISIS, điều đó sẽ củng cố mạng lưới độc tài và vương triều phản động đang cai trị ở Trung Đông.

Hình ảnh từ băng ghi hình ISIS chặt đầu các nhà báo phương Tây đã thực sự làm mọi người ở khắp nơi kinh hãi. Họ là biểu tượng dã man của sự bạo ngược. Nhưng cùng với Hoa Kỳ không kích ISIS còn có Ả-rập Saudi, một trong những chế độ độc tài, thường xử tử hàng tá người bằng cách chặt đầu tại quảng trường công cộng tai tiếng ở Riyadh, được gọi là “Quảng Trường Chặt Đầu”. Trong số các “tội ác” bị chặt đầu có ngoại tình, nổi loạn, phù thủy và ma thuật

Những nhà cầm quyền cũ quanh Trung Đông đã phản ứng cuộc nổi dậy mùa xuân Ả-rập năm 2011 bằng các biện pháp bạo lực nhất đối với người bất đồng chính kiến. Khi quốc đảo Bahrain – căn cứ của Sở Chỉ Huy Trung Tâm Hải Quân Hoa Kỳ - đối mặt với cuộc nổi dậy ủng hộ dân chủ, quân đội Ả-rập Saudi đã xâm lược để đẩy đập tan người nổi loạn. Vào năm 2013, khi người Iraq Sunni tổ chức phong trào biểu tình hòa bình quy mô lớn, chính quyền trung ương Shia đã sử dụng mọi vũ khí mà Hoa Kỳ cung cấp để đàn áp những người đối lập. 

Cùng lúc ở Syria, chế độc độc tài Bashar al-Assad* đã thu lợi lớn nhất từ cuộc chiến chống ISIS của Hoa Kỳ, thế nên không có phe nào kêu la ầm ĩ. Chính quyền Syria và ISIS đã tuân thủ một thỏa thuận ngừng bắn không chính thức trong hai năm qua, đồng thời cả hai bên huấn luyện các tay súng của họ tại các khu vực nổi dậy khác nhau chống lại chế độ độc tài. Hiện nay, chính quyền có thể tiếp tục cuộc chiến chết chóc của họ chống lại cách mạng, khi hiểu rẳng quân đội của họ sẽ chiếm vị trí thượng phong nếu không kích của Hoa Kỳ làm suy yếu ISIS.

Chúng ta muốn nhìn thấy ISIS bị lật đổ. Nhưng nếu điều đó được Hoa Kỳ và các đồng minh độc tài của họ thực hiện, lực lượng phản động ở Trung Đông sẽ được củng cố.

Thứ năm: Bạo lực của ISIS, dù có kinh hoàng đến đâu, cũng chỉ là chuyện nhỏ so với bạo lực của chính quyền Hoa Kỳ.

Trong suốt 25 năm, Hoa Kỳ đã tiến hành một chiến dịch quân sự chết chóc nhất chống lại người dân Iraq. Trong Chiến Tranh Vùng Vịnh năm 1991, họ đã bắn 320 tấn đầu đạn có chứa Uranium nghèo, gây tổn thương cho quốc gia này với bụi phóng xạ, khiến cho tỷ lệ bệnh ung thư và dị tật bẩm sinh tăng lên kinh hoàng. Vào năm 1996, Ngoại Trưởng Madaleine Albrigh của chính quyền Bill Clinton đã nói với chương trình 60 Phút rằng cái chết của nửa triệu trẻ em Iraq do Mỹ trừng phạt Iraq là “một cái giá xứng đáng” để cô lập chính quyền Saddam. Sau cuộc xâm lược năm 2003 của Bush Jr., tạp chí y khoa đáng kính Lancet ước lượng giai đoạn mới nhất trong cuộc chiến của Hoa Kỳ đã dẫn đến cái chết của 600.000 người Iraq khác vào năm 2006. 

Cuộc chiến tranh và xâm lược của Hoa Kỳ cũng tạo ra một trong những cuộc khủng hoảng tị nạn lớn nhất thế giới, với khoảng 4 triệu người Iraq – hơn 10% dân số - sống lưu vong ở nước ngoài hoặc phải tản cư trong nước. Trong khi quan chức Hoa Kỳ và truyền thông theo đuôi lên án sự dã man trong các cuộc bắt giữ con tin của ISIS, thì quân đội Hoa Kỳ tra tấn các tù nhân ở nhà tù Abu Ghraib tại Iraq và Căn Cứ Không Quân Bagram tại Afghanistan cũng không kém kinh khủng.

Như đã nói, Hoa Kỳ đã giết hại hơn một triệu người Iraq, xung đột bè phái bị khoét sâu sẽ tước đoạt nhiều mạng sống hơn trong những năm tới, và buộc hàng triệu người khác phải chịu đựng một cái chết từ từ bởi nghèo khổ, suy dinh dưỡng và ốm đau.

Tại sao chúng ta tin rằng kết quả của cuộc chiến mới sẽ ít tàn phá hơn đối với Iraq?

Thứ sáu: Hoa Kỳ không gây chiến vì lý do nhân đạo và chưa từng làm điều đó.

Hoa Kỳ không chi hàng nghìn tỷ dollar và đổ hàng bể máu vào Trung Đông để thúc đẩy dân chủ và nhân quyền, mà là để phục vụ các lợi ích kinh tế và chiến lược của họ, từ kiểm soát dầu mỏ Trung Đông tới thống trị quân sự đối với các đối thủ cạnh tranh.

Mặc dù vậy, để tiến hành cuộc chiến, các chính khách Hoa Kỳ ít nhất cũng phải tính đến sự ủng hộ thụ động của người dân Mỹ, khó bị thuyết phục bằng lời kêu gọi đảm bảo lợi nhuận của các công ty dầu mỏ đa quốc gia hay củng cố ảnh hưởng chiến lược của Hoa Kỳ. Đó là lý do những kẻ gây chiến của Hoa Kỳ che đậy mục tiêu thật sự của họ với sự biện minh nghe có vẻ cao quý về “can thiệp nhân đạo”.

Nếu Hoa Kỳ thật sự có động cơ nhân đạo, họ sẽ không coi Ả-rập Saudi, một trong những quốc gia vi phạm quyền của phụ nữ tồi tệ nhất khu vực, là đồng minh. “Mặc dù vậy, không có cơ hội nào để Hoa Kỳ ném bom Riyadh chấm dứt sự độc ác này”, nhà báo xã hội chủ nghĩa Eamonn McCann viết. “Chế độ độc tài Saudi đứng đầu danh sách các đồng minh khu vực mà Hoa Kỳ cần có để oanh tạc ISIS. Mới đây, chính quyền Obama phân phát các bức ảnh Ngoại Trường John Kerry trong một cuộc đàm thoại dễ chịu với lãnh đạo của những kẻ chặt đầu Saudi, vua Abdullah.”

Hoa Kỳ sẽ không ủng hộ chế độ phân biệt chủng tộc của Israel khi họ tiến hành thanh lọc người Palestine bản địa, nếu Hoa Kỳ thật sự phản đối “những kẻ gây ra chủ nghĩa cực đoan bạo lực”. Trái lại, Israel là đồng minh đáng giá nhất của chính quyền Hoa Kỳ - dưới thời đảng Dân Chủ cũng như đảng Cộng Hòa – bởi vì họ giúp Hoa Kỳ duy trì sự kiểm soát của đế quốc đối với Trung Đông.

Đế quốc Hoa Kỳ đã luôn tìm các sử dụng vỏ bọc nhân đạo cho các cuộc phiêu lưu quân sự của họ. Như trang SocialistWorker.org đã viết trong một xã luận, vào những ngày đầu của chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ ở cuối thế kỷ 20: 

“Chính khách và truyền thông bịa đặt ra các khiêu khích sống sượng để biện minh cho sự can thiệp vào Philippine, Cuba, Puerto Rico, nơi mà quân đội Hoa Kỳ tiến hành các trận tấn công tổng lực vào cư dân bản địa. Tất cả những điều đó được hoàn thành, theo tổng thống William McKinley, “không phải giống như kẻ xâm lược hay kẻ xâm chiếm, mà như những người bạn, bảo vệ người bản địa tại quê hương của họ, theo sự yêu cầu của họ và với quyền cá nhân và tôn giáo của họ”.

Hơn một thế kỷ sau, các lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ giả bộ làm bạn với người dân Trung Đông – nhưng những người dân đó phải trả giá cho cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ.

Thứ bảy: Cuộc chiến mới chống lại ISIS của Obama sẽ không làm cho người dân ở Hoa Kỳ hay bất cứ đâu an toàn hơn. Trái lại, nó sẽ làm thế giới nguy hiểm hơn.

Một trong những câu hỏi cấm kị nhất trong văn hóa chính trị Hoa Kỳ là tại sao Hoa Kỳ trở thành mục tiêu của vụ tấn công ngày 11 tháng 9. Sự thật là Hoa Kỳ đã thực hiện hàng ngàn cuộc tấn công tương đương với vụ 11 tháng 9 trên khắp thế giới, đó là lý do tại sao họ bị ghê sợ và khinh miệt ở khắp mọi ngóc ngách của thế giới. Đôi khi, sự tức giận đó trực tiếp chống lại mục tiêu Hoa Kỳ - thường là người dân không có gì liên quan tới cỗ máy chiến tranh Hoa Kỳ, nhưng là nạn nhân của cái mà quan chức chính quyền Hoa Kỳ công khai gọi là “nạp đạn tự động”.

Osama bin Laden đã sử dụng hình ảnh gầy gò và suy dinh dưỡng của trẻ em Iraq do các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ gây ra để tuyển mộ chiến binh cho al-Qaeda. Theo cách tương tự, các chính quyền khắp thế giới đã viện dẫn việc giam giữ không giới hạn các tù nhân Arab và Hồi Giáo ở nhà tù Hoa Kỳ trên Vịnh Guantanamo – chưa nói tới sự biện minh của các quan chức Hoa Kỳ về việc sử dụng tra tấn đối với họ - để hợp pháp hóa sự lạm dụng của họ. Vì lý do này, một tá những người được giải Nobel đã kêu gọi Obama “công khai hoàn toàn cho người dân Mỹ về sự mở rộng và sử dụng tra tấn” của Hoa Kỳ, một lời kêu gọi mà Obama phản đối.

“Cuộc chiến chống khủng bố” cũng đã được sử dụng để biện minh cho việc NSA và các cơ quan chính quyền khác xâm phạm quyền riêng tư và tự do dân sự khác.

Thứ tám: Một cuộc chiến khác sẽ lãng phí tiền bạc và tài nguyên cần thiết cho mọi nơi trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ.

Đầu năm nay, Quốc Hội thông qua việc cắt giảm 8,7 tỷ dollar trong chương trình phiếu thực phẩm cho người nghèo. Cùng lúc, cuộc chiến mới chống ISIS của Obama tiêu tốn từ 18 đến 22 tỷ dollar mỗi năm. Vào tháng trước, Obama hỏi xin Quốc Hội mới do Đảng Cộng Hòa chiếm đa số về 5,6 tỷ dollar tài trợ bổ sung – không phải để sửa chữa mạng lưới an sinh xã hội, mà là cho Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại Giao tham gia cuộc chiến chống ISIS.

Như nhà bình luận Trung Đông Juan Cole đã viết: 

“Cũng những người có rắc rối khi biện minh một mạng lưới an sinh cho người lao động nghèo và cảm thấy cần khẩn cấp cắt bỏ hàng tỷ dollar khỏi chương trình vốn giúp cho xã hội văn minh hơn rừng rậm săn mồi sống – cùng những người đó đã không khó khăn chấp thuận hàng tỷ dollar cho các chiến dịch ném bom mơ hồ khó có thể đo lường bằng hệ mét”.

Sự thống trị của Hoa Kỳ ở Trung Đông cũng là sự gia tốc khai thác và đốt cháy nhiên liệu hóa thạch – ngay cả khi các nhà khoa học về khí hậu đã thống nhất kêu gọi để nguyên nhiên liệu hóa thạch trong lòng đất để trái đất có cơ hội chiến đấu duy trì hệ sinh thái. 

Từ Iraq đến Syria cho tới Hoa Kỳ, người dân thường không thu được lợi ích gì từ cuộc phiêu lưu của để quốc để giữ cho tiền tiếp tục chảy vào két của những doanh nghiệp giàu có và quyền lực nhất thế giới.

Trên hết, hệ thống chủ nghĩa tư bản đã đẩy các quốc gia dân tộc và các doanh nghiệp vào một xung đột toàn diện để đánh bại các đối thủ cạnh tranh và thống trị hành tinh. Chỉ bằng cách nhổ rễ hệ thống này và thay thế nó bằng xã hội xã hội chủ nghĩa thì nhu cầu của người dân và môi trường mới được đáp ứng, nếu không hệ thống sẽ tiếp tục mù quáng lao theo lợi nhuận.

Alan Maas là biên tập viên của Socialist Worker. Eric Ruder là một nhà văn ở Chicago.

*Chú thích của người dịch: Khi Mỹ tấn công bất cứ quốc gia nào thì chính quyền quốc gia đó đều bị coi là độc tài, ngay cả khi họ có được bầu cử dân chủ và nhận được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng, rất nhiều tác giả tiến bộ cũng hay mắc cái lỗi là dễ dàng sử dụng lập luận của Mỹ trong bài viết. Trường hợp của chế độ Assad ở Syria cũng vậy, họ chưa từng bị coi là độc tài cho đến khi Mỹ muốn lật đổ họ. 

Monday, November 17, 2014

Lý giải hệ thống giai cấp của Mỹ

Bạn muốn biết người Mỹ nghĩ gì về đất nước mình? Bạn muốn hiểu sự giàu có đã sinh ra sự nghèo khổ ra sao? Hãy đọc Joe Bageant qua bản dịch "Understanding America's Class System"

Lý giải hệ thống giai cấp của Mỹ
Bóp còi nếu anh thích trứng cá muối

Giai cấp thượng lưu chính trị thì thế nào, hử? Năm triệu dollar cho lễ cưới của Chelsea Clinton, 15 ngàn dollar chỉ để thuê nhà vệ sinh có điều hòa nhiệt độ - những bé bi cỡ bự bằng thủy tinh và chrome với nước nóng và đủ mọi thứ. Những người đó không cần mang mặt nạ chống độc và mảnh giấy vệ sinh vuông nhợt nhạt nhỏ xíu.

Phải, thật choáng ngợp khi nhìn từ chỗ tồi tàn. Nhưng sự thật là khi chúng ta nhìn giai cấp thượng lưu chính trị, chúng ta thấy những con khỉ khiêu vũ, không phải là thợ đàn organ đang gõ nhịp điệu. Giai cấp chính trị Washington được moi lên từ dân thường giống như giai cấp cai trị được moi lên từ giai cấp chính trị. Ví dụ, họ không làm việc để sống bằng một công việc bình thường, mà kiếm tiền từ những thứ trừu tượng như đầu tư và luật pháp, cả hai thứ đó đều không làm ai bị sa ruột hay bị chứng ống cổ tay. Hay nói theo cách khác, giai cấp cai trị chả làm việc gì cả.

Trên phương diện tiền bạc, giai cấp chính trị Washington giàu hơn giai cấp lao động cũng cùng mức độ như giai cấp cai trị giàu hơn giai cấp chính trị. Điều đó tạo ra thứ gì đó để giai cấp chính trị phấn đấu. Cuối cùng, họ bắt chước các hành vi, khẩu vị và phong cách sống của giai cấp thượng lưu cai trị, và theo dõi các thành viên mới. Hơn nữa, quá trình lột xác bắt đầu với các trường đại học và liên hệ đúng đắn, đạt đến cực điểm khi chuyển tới Washington với đám sâu bướm trẻ trung tham vọng và đặc quyền đặc lợi nhất trong phần còn lại của thế hệ họ. 

Họ kiếm đủ tiền hoặc ít nhất phải giả vờ như vậy cho đến khi họ kiếm được. Năm mươi mốt trong số 100 thượng nghị sĩ Hoa Kỳ ít nhất là triệu phú – có vẻ như hơn cả mức đó, từ khi nhiều nhiều triệu dollar nhà ở và bất động sản được loại trừ khỏi các bảng kê khai chính thống. Ví dụ như trong nghị viện, giá trị tài sản ròng của Nancy Pelosi là 13 triệu hoặc 92 triệu dollar, phụ thuộc vào việc ai sẽ đếm. Việc họ không ngần ngại che dấu những con số lớn ấy là một điều huyền bí. 13 triệu, 92 triệu, sự khác biệt sẽ không thay đổi quan điểm của chúng ta về Nancy. Quan điểm của chúng ta là khoang đã đầy. Chật cứng luôn. Các thành viên tương đối nghèo của quốc hội, như Barney Frank, cũng gần triệu phú. Bảng kê khai của ông ta cho thấy giá trị tài sản ròng là 976 ngàn dollar. Suốt đời mình, tôi cũng không thể hiểu họ kiếm được bằng cách nào. 

Cùng với tập quán, giai cấp chính trị bắt chước các luật lệ và định kiến của giai cấp cai trị, nhất là điều cực kỳ cần thiết phải chấp nhận: Công chúng có trí tuệ tập thể của một con gà. Ok, điều đó rất khó phản biện vào lúc này, nhưng chúng ta phải duy trì tối thiểu là một chút bình đẳng bề ngoài chứ. Đằng nào cũng vậy, như một nhóm, thượng lưu chính trị nghĩ, nhìn và hành động giống nhau, và hành động vì lợi ích của bản thân. Điều đó làm cho họ thành một giai cấp. 

Mặc xác giai cấp vô sản, chỉ cần đếm tiền

Giai cấp chính trị đứng giữa tất cả chúng ta ở đây và nhóm thiểu số nhỏ bé của giai cấp cai trị tuyệt vời ở đó, bất kể đó là chỗ khốn kiếp nào. Không cần phải liếc mắt. Anh không thể thấy họ từ chỗ chúng ta. Cực kỳ thuận tiện để phủ nhận sự tồn tại của giai cấp cai trị.

Mặt khác, anh không cần phải nhìn một con chó đang liếm bi để biết điều gì được sắp đến – hay không đến. Sổ sách theo dõi thành tích của giai cấp chính trị là sổ công khai. Khi lớp triệu phú làm đệm cho thượng lưu, những kẻ trả tiền cho các chiến dịch tranh cử của họ, thì họ hoàn thành công việc. Họ chấp nhận việc cắt giảm thuế khóa đối với người giàu của chính quyền Bush. Họ xóa bỏ tín dụng thuế trên đầu trẻ em cho các gia đình có thu nhập thấp hơn 20,000 dollar. Họ “cải cách” sắc lệnh về quyền thuốc men ra khỏi bảo hiểm y tế. Họ cải cách chăm sóc sức khỏe thành hàng trăm tỷ lợi nhuận tăng thêm của ngành bảo hiểm.

Mặc dù vậy, giờ khắc đẹp đẽ nhất của giai cấp chính trị Mỹ xuất hiện vào tháng 9 năm 2008 khi cỗ máy tài chính tham lam của các công ty đầu tư Mỹ quật lại. Đảng Dân Chủ và Cộng Hòa, đa số ý kiến của doanh nghiệp và nhà chế tạo Mỹ kết hợp thành một nỗ lực lưỡng đảng vĩ đại trong lịch sử nước Mỹ. Chẳng làm gì hết, chúng ta đều đồng ý, ngoài việc mua lại 700 tỷ dollar các khoản “đầu tư xấu”. “Nếu không”, họ tiên đoán, thế giới sẽ tận số. Có nghĩa là cái hệ thống lừa đảo Ponzi cấp quốc gia mà họ luôn bán cho người dân Mỹ như là kinh tế Mỹ cuối cùng sẽ tiêu tùng.

Trong trường hợp có bất cứ sự hoài nghi nào của những kẻ cùng khổ, công chúng được nhắc nhở về việc họ sẽ tổn thất ra sao – có lẽ là mất sạch. Sâu trong hầm chưng cất, nhân viên túi đen của Goldman Sachs cấp điện cho “kinh tế” với đủ “các công cụ tài chính” dễ bùng nổ để lấy đi mọi căn nhà của người lao động, hay các khoản tiết kiệm hưu trí, mà ngành dược phẩm đã hút cạn đến vạch báo động. Điều gì đó phải hoàn thành trước khi ngành chăm sóc sức khỏe gom sạch, và tái cấp vốn cho cuộc hành trình gia đình.

Vâng thưa ngài, đó sẽ là “sụp đổ hệ thống”, nhờ Chúa, và nếu anh cần bằng chứng, hãy nhìn vào cái cách mà cả George Bush lẫn Barack Obama cùng chấp nhận rằng một số công ty Mỹ quá lớn để phá sản, do đó đây là lúc công chúng phải tát nước ra khỏi thuyền. Cùng lúc, các nhà kinh tế học vương giả đều nhất trí là vụ “cứu trợ” này cần có 10 nghìn tỷ dollar ở đâu đó dưới chân tháp – một ngọn tháp rất thấp. Mọi thứ rất nghiêm trọng và chúng ta phải làm điều đó. Đúng không? 

Trong một sự phản ứng bất thường của nhận thức thông thường, công chúng Mỹ nói “vớ vẩn”, với tỷ lệ 3 hay 4 trên 1, tùy từng khu vực. Điều đó không gây trở ngại cho thượng lưu chính trị và kinh tế nhiều. Đám vô sản thì biết quái gì cơ chứ?

Tiếp đó, giai cấp sở hữu kinh tế và chính trị thay ngựa giữa dòng, sau khi nhận ra rằng có nhiều món lợi bất ngờ cho những nhân vật chủ chốt trong việc cứu trợ các ngân hàng và công nghiệp lớn. Điều đó vi hiến, nhưng khốn kiếp, đó là điều mà Tòa Án Tối Cao ủng hộ. Giai cấp vô sản lầm bầm và chăm chú vào các chương trình truyền hình về những giảng giải không bao giờ thành sự thật.

Dĩ nhiên, đối lập đảng phái trở thành thứ mà trong những ngày đó – lằn ranh đẫm máu của những con linh cẩu gầm gừ - bầu chọn Obama có nghĩa là GOP cần phải lên án tổng thống mới để thể hiện. Hay ít nhất ỉa vào Phòng Bầu Dục, và sau đó phàn nàn về ông ta. Hầu hết các gã Cộng Hòa giữ chức vụ trong năm 2008 đều buộc phải lập luận công khai chống lại “gói cứu trợ sai lầm”, “gói kích thích”, và vụ bảo lãnh khổng lồ. Bên cạnh đó, một số kẻ khác giương lên khẩu hiệu sặc sỡ về “thị trượng tự do tự điều chỉnh”, ít nhất là đủ rộng để GOP nấp đằng sau trong hậu trường, nơi những thỏa thuận thật sự luôn là nhát cắt. Đó là nơi các công ty vũ khí đề xuất hệ thống, sử dụng các nghị viên và tướng lĩnh làm đại diện bán hàng. Đó là nơi phải hiểu rằng, như John Kenneth Galbraith chỉ ra lúc gần cuối đời, khi đã đủ an toàn để nói sự thật, “cổ đông chỉ là vật phụ thuộc, ai đó cầm túi cho doanh nghiệp, cổ phần chỉ là chip sòng bạc của các quỹ đầu tư mạo hiểm và Phố Wall,” và đối với những gã khờ khạo tin rằng chúng đánh lừa được Giao Dịch Tần Suất Cao – hay là Lừa Đảo Tốc Độ Cao. (Cảm ơn độc giả Brent B. đã cho tôi biết điều này).

À, nhưng tôi đã lạc đề. Có gì mới không? Điều cốt yếu là sương khói đã tan, tiền bạc nằm trong két của giai cấp thống trị, và một trò chơi xoay chai tìm ra con tốt thí để giải trí cho đám đông những năm tới. Ngọn lửa công cộng trên quảng trường trung tâm quốc gia của truyền thông luôn thu hút đám đông. 

Boaaaaaa! Obama sẽ không cho chúng ta chơi

May mắn là, đối với cả hai đảng, không có cái gì được gọi là trí nhớ chính trị Hoa Kỳ. Linsay Lohan hẹn hò với bạn cai nghiện, vận động viên trượt tuyến Riley Giles, phải, điều đó có thể ghi nhớ. Đảng Cộng Hòa chấm dứt chuyện tương tự, như sự phản bội nhỏ bé dưới thời Bush và Clinton Sền Sệt – tốt thôi, điều đó có thể giống như là lịch sử Ai Cập cổ đại. Sự thật là cả hai đảng buộc các ngân hàng áp lãi suất cao đối với các khoản vay mua nhà cho những người không đủ điều kiện, bởi vì lạm phát giá nhà do sự phình ra của bong bóng sẽ mang lại hàng tỷ dollar cho các nhà đầu tư lơn, những kẻ biết khi nào phải thoát thân. Họ sẽ còn ở lại khi mọi thứ ổn và khi bong bóng vỡ, họ sẽ kêu gào về “quá lớn để sập”. Chính quyền vốn không trải đời để bán chịu kinh tế, sẽ nhét cho họ hàng đống tiền. Đó là thứ mà các chủ ngân hàng gọi là tình huống đôi bên cùng có lợi: đằng nào thì chủ ngân hàng cũng kết thúc với đống tiền. 

Cùng lúc, tầng lớp thượng lưu Cộng Hòa vẫn cần một miếng thịt bò với gã da đen mới trong chuồng, kẻ sẽ đá vào mông họ và vẫn được ưa chuộng vào lúc này. Kẻ tốt nhất họ có thể đồng hành với vụ cứu trợ mà họ đã được phép bỏ vào quá ít. “Obama sẽ không cho chúng ta chơi với ông ta. Boaaaa!” Dĩ nhiên là một màn tung hỏa mù, do ông ta làm đúng những gì họ sẽ làm, những gã Cộng Hòa chuyển cho chủ ngân hàng mọi tờ bạc mà người dân có và ngay cả khi khốn kiếp là họ không có, nhưng có thể thanh toán trong, ồ, 100 năm tới hay tới tận ngày tận thế, hỏa mù tan đi, bất cứ ai xuất hiện đầu tiên. 

Điều cuối cùng, không ai ở Washington tranh chấp quyền áp đặt chính sách của giai cấp thống trị. Trên hết, giai cấp chính trị đồng ý rằng với giả thuyết chủ chốt của giai cấp thống trị: Công chúng chả đếch biết gì, chưa bao giờ và không bao giờ. Thế nên tốt nhất là đừng có chọc tức công chúng, không phải vì công chúng có quyền lực gì (quyền lực là tiền ở Hoa Kỳ và giới thượng lưu đã nắm cả), mà bởi vì các quan chức dân cử sẽ phải trả lời những câu hỏi đần độn của những người như kiểu Đảng Trà. Hay những kẻ sùng bái Ron Paul. Gawd!

Howard, có thể làm ơn về nhà không

Nước Mỹ luôn có một giai cấp cai trị, và nó luôn làm những điều vớ vẩn với thế giới mà nó không nên. Nhưng ít nhất giai cấp cai trị trong quá khứ thú vị và đa dạng, bởi vì nhiều dạng người Mỹ khác nhau đã trở nên giàu có.

Anh có những gã Texas liều lĩnh trong “đấu giá dầu”. Anh có những quý tộc bông và thuốc lá miền nam tham lam nốc đẫy uýt ki ngô, mơn trớn danh mục đầu tư và cô hầu da đen của họ. Anh có các nhà công nghiệp và các nhà môi giới bất động sản ở California, Florida, các nhà tư bản tài chính ở Boston Brahmins và New York. Có buôn rượu lậu ở chỗ nhà đầu tư chứng khoán Joseph P. Kenedy, chưa nói tới Prescott Bush mang tài sản tài chính của phát xít chạy qua chạy lại hồi Thế Chiến II. Họ là sản phẩm của các nền giáo dục khác nhau, trong một số trường hợp, không có giáo dục. Họ tới từ nhiều khu vực, từ khi nước Mỹ vẫn còn có các khu vực văn hóa khác nhau, trước khi bị thống trị và phân tầng hoàn toàn cho hiệu quả tối đa của chủ nghĩa tư bản.

Bất kể họ từng là gì, họ hiếm khi đần độn. Tôi biết Howard Hughes, một người có thể đạo diễn một bộ phim, và chế tạo một chiếc máy bay lớn nhất từng được chế tạo, 200 tấn, hoàn toàn bằng gỗ vân sam, chưa nói tới áo lót dây nhỏ cho cô nàng ngực bự Jane Russel. Ngừng lại và ngẫm nghĩ về Bill Gates và những món tráng miệng không màu sắc ngày nay. Hầu hết làm anh nhớ những gã lãnh chúa trộm cướp.

Nghĩ rằng Tony Hayward làm điều vớ vẩn? 

Hiện giờ, anh luôn nghe thấy điều đó: 1% trên cùng của người Mỹ sở hữu nhiều của cải hơn 45% người Mỹ còn lại ở phía dưới cùng cộng lại.

Tôi hiếm khi gặp một người Mỹ nghĩ rằng điều đó tốt, và hiếm khi gặp ai đó hiểu tại sao giai cấp thống trị giàu như vậy. Đơn giản là bằng cách thường xuyên nuôi dưỡng một chính quyền lớn hơn và phức tạp hơn, tạo ra các phức hợp luật pháp và kỹ thuật để tháo tiền quốc gia và toàn cầu chảy vào túi họ, và che chở cho những con lừa đương nhiệm của họ. Kết quả là 3.000 trang đạo luật chăm sóc sức khỏe (định nghĩa từng phần bánh cho từng thượng lưu doanh nghiệp), hay 2.000 trang NAFTA với 9.000 mã thuế sản phẩm. 

Khi công chúng bị chôn vùi trong đống hỗn loạn của văn bản luật pháp, giao dịch máy tính, mô hình hóa, vân vân, rất dễ dàng để lập luận rằng thế giới đã trở nên phức tạp đến mức các kỹ năng và tư duy để vận hành hệ thống là rất hiếm hoi và những ai có chúng thì thực sự thiên tài. Những kẻ đang ngụp lặn trong thế giới lơ lửng trên cao, chúng ta phải trả cho họ cả đống tiền mà không bao giờ hoài nghi quyết định của họ. Đó là lý do chúng ta có những gã vô dụng bị lãng quên như Timothy Geithner (kẻ không bao giờ có một công việc phi chính phủ trong đời gã), điều khiển Ngân Khố và hàng ngàn gã vô dụng khác của Đế quốc, đủ loại dân ủy lập pháp tí hon, cho tới Alan Greenspans của thế giới đó – một lão già đánh khinh kiêu căng vụng về không bao giờ đủ trải đời nhưng hiểu quy tắc: Trông bí ẩn và phá tan bất cứ thứ gì chính quyền có quyền. 

Trên thực tế, sự lựa chọn tự nhiên của chủ nghĩa tư bản dành cho kẻ xoàng xĩnh là cái cách British Petrolem xử Tony Howard, một kẻ không mấy may mắn bị quăng ra khỏi thuyền với độc cái quần lót vào dòng thác truyền thông của nhận thức công chúng. Theo như tin tức, con kỳ giông sẽ nhận được 18 triệu dollar, cộng với tiền lương hưu hàng năm 1 triệu dollar, khả năng tước bỏ chúng tạo ra một bản tin đẹp đẽ che đậy cho sự cẩu thả, trộm cắp và hăm dọa của BP. Thế là công chúng gào thét và ném trứng vào gã bù nhìn, kẻ kiếm được 1,6 triệu dollar/năm và giờ ngồi trên du thuyền “cố gắng lấy lại cuộc đời của gã”. Có ai thực sự tin rằng Tony Hayward làm chuyện vớ vẩn? Ồ, có thể là một số tin tức chuyển nhượng của BP, sự “thu hút” của họ đối với doanh nghiệp khác hay thứ gì đó tương tự Enron, bán thanh lý đến từng mẩu sắt vụn cho doanh nghiệp lớn khác với giá thỏa thuận, trong khi mọi người đang theo dõi tiểu thuyết saga về tên tội phạm cổ trắng xoàng xĩnh, Ken Lay. Tôi nghĩ chúng ta đã học được. Doanh nghiệp không thể chuồn đi; họ chỉ luôn chích thuốc, hút sạch tiền từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Đám đông trước cửa 

Anh không bao giờ nghe thấy họ nói vậy, nhưng đám tân bảo thủ hiểu rằng họ có một vận đang đi xuống. Họ cũng biết rằng nếu họ muốn chia sẻ đồ ăn cắp của quốc gia, họ phải giành được trái tim và khối óc. Họ phải trông lễ độ và nghe có lý khi nhe răng và túm lấy cái ví của chúng ta. Hay nói cách khác, họ phải hiểu biết sắc sảo về chính trị và kinh doanh Hoa Kỳ - mặc dù cả hai chỉ là một.

Mặc dù vậy, hầu hết những gã tự do có giáo dục Mỹ, tin một cách đơn giản là trở thành tiến bộ sẽ mặc định làm cho họ thành những kẻ cứu rỗi đất nước – sự đúng đắn về đạo đức và trí tuệ trong mọi thứ. Bằng chứng là họ đọc nhiều hơn và suy nghĩ cở mở hơn hầu hết những gã bảo thủ, ngoại trừ khi đề cập đến vấn đề con gái họ hẹn hò với một gã thô lỗ tên là Ernst sống ở toa xe phía sau trung tâm thương mại. Họ là những người trong số giai cấp có học ở một quốc gia nổi tiếng với các trường học tồi tệ và đần độn, công chúng no nê và không hoài nghi. Giáo dục và tiếp cận giáo dục giờ là kẻ phân chia giai cấp căn bản của chúng ta. Cao học hiện giờ dành cho giới đặc quyền. Đặc quyền đó, hầu như là không liên quan đến chuyên môn hay sự nghiệp, là một tương lai phụ thuộc vào chính quyền. Tự do hay bảo thủ, cũng chả vấn đề gì mấy. Trên thực tế, phiếu bầu của giai cấp đặc quyền dễ tiên đoán hơn giai cấp lao động, người Hispanic hay da màu. 

Thế nên khi những gã tự do có giáo dục nhìn vào bản sao của tờ The Nation hay chương trình của Jon Stewart, họ thấy một cái nhìn ớn lạnh: Đám đông lực lưỡng vung vẩy túi trà và đòi cắt giảm thuế để trợ giúp cho các trường học và những cây cầu mới, Sarah Pralin trỗi dậy từ đám tro tàn trong chiến dịch của McCain để trở thành mục sư tối cao của bộ lạc thiếu bột cà ri, với một gã Mormon tên là Glenn Beck hô hào hàng triệu tín đồ chính thống chiếm đóng quốc gia. Họ cảm thấy điều gì đó thật sự tệ với nước Mỹ.

Ngay tức thì họ kết luận rằng người Mỹ sai lầm do sự lạc hậu, thiếu hiểu biết và giận dữ nhầm chỗ, và điều đó có thể giúp họ không tập hợp sau những tiêu chuẩn tiến bộ đang được phất lên. (Tôi không có tội trong suốt những năm qua, và tôi đang khôi phục nước Mỹ tự do, theo cách của tôi chứ không phải theo phe bảo thủ, nhưng hướng tới chế độ đĩ điếm, chính phủ của những con điếm. Ngôn ngữ thực. Tra google.). Không phải ngọn cờ tiến bộ đó được phất lên; những gã tự do Hoa Kỳ ném tiêu chuẩn 40 năm trước của họ đi để lao vào các công việc kỹ thuật dễ chịu, giảng dạy và hành chính trong chính quyền, trường đại học và tổ chức phi lợi nhuận. “À vâng”, họ rền rĩ, mọi người đã để chúng tôi sụp. “Họ hoàn toàn đáng ghê tởm!”, những gã tự do đồng ý. Họ vẫn đồng ý. Hãy đọc những bình luận trên tờ Hufftington Post hay Daily Kos.

Hay nhìn vào sự ngạo mạn đặc trưng của người miền trung nước Mỹ “bám chặt lấy Chúa và súng” của Barack Obama. Điều mà chúng ta làm. Mặc dù vậy, ngầm trong thông điệp của ông ta là cả Chúa và súng đều là cho thấy một giai cấp thất bại ngu dốt. Khi những đối thủ châm chích bình luận của ông ta, thì ông ta đã bao biện chúng bằng cách chỉ ra là ông ta đã nói “điều mà mọi người đều biết là sự thật”. Có nghĩa là mọi người trong giai cấp của ông ta, giai cấp tự do có giáo dục. Khó có thể tin rằng những người tiền nhiệm của họ là những người đàn ông và đàn bà tiên phong trong phiên tòa xử Scopes, ngày làm 8 tiếng, công đoàn, chống chủ nghĩa Mc Carthy, Cesar Chavez, quyền công dân cho người da màu.

Chó to ăn trước 

Tầng lớp cai trị nắm quyền lực thông qua bảo trợ cho cả hai đảng, những đảng cung cấp người ủng hộ. Họ bám sát hay theo dõi các lãnh đạo đảng của họ tương tự như mồi cá ép bám chặt lấy những con cá mập lớn, và cá thuyền hộ tống cá mập, hạnh phúc với phần thức ăn thừa. Cả hai đảng cung cấp các nhà hoạt động và các môn đệ với sinh kế, thông qua các chương trình hay lập pháp chỉ để làm cho người giàu giàu hơn.

Một ví dụ điển hình là nhà tâm lý học, tiến sĩ và nhân viên xã hội, những người khởi đầu quá trình về thuốc chống giảm đau hay ổn định tâm trạng của nửa quốc gia, một khái niệm làm những người hiểu rõ khái niệm nhà nước doanh nghiệp cực kỳ hốt hoảng. Họ làm việc nhờ vào tài trợ của chính phủ, hoặc nghiên cứu để xác định hành vi bệnh hoạn cần đến các dược phẩm tác động tâm lý mạnh mẽ.

Một sự ưa thích mới là ODD, sự rối loạn ương ngạnh phản kháng, trong đó trẻ con hành động giống như – đáng ngạc nhiên, đáng ngạc nhiên – những kẻ ngớ ngẩn trẻ mà trẻ con đôi khi có thể như vậy. Nổi loạn vị thành niên trở thành rối loạn tâm lý. Các dấu hiệu chuẩn đoán thông thường gồm có “thường xuyên cãi lại người lớn”, hành vi chưa từng thấy của trẻ vị thành niên cần đến thuốc chống tâm thần như Risperidone. Tác dụng phụ của Risperidone gồm thứ nhẹ như tiếng vo ve trong đầu, cương cứng khủng khiếp kéo dài hàng giờ, có khuynh hướng tiết sữa và tự tử. Phù!

Hãng dược phẩm lớn kiếm được thêm hàng tỷ dollar dưới danh nghĩa làm dịu đau khổ con người. Thực ra hàng triệu người đau khổ đã bị lãng quên, nhưng nếu là trường hợp này, sau đó là xã hội Hoa Kỳ đang chịu đựng. Không bao giờ sự đau khổ tâm lý mà xã hội chúng ta đang chịu đựng được công khai hỏi tới. Bởi vì câu trả lời là đại dịch hàng hóa công nghiệp tư bản chủ nghĩa, và khoa bệnh học tâm lý của nước Mỹ. Điều đó là tư vấn của Ngài Marx, người đã tiên đoán nhiều về điều đó, hay Arthur Barsky, người đã cập nhật định nghĩa về nó. 

Đối với người Mỹ, tự phán xét không phải rất hiếm, nguồn của môn bệnh học không tồn tại. Thiếu vắng trong tính cách quốc gia của chúng ta là tình yêu với hàng hóa công cộng, và trách nhiệm công dân tập thể đối với người khác. Nhưng nếu chúng ta thừa nhận trách nhiệm tập thể với các thành viên của xã hội, thì chúng ta phải giải quyết vấn đề giai cấp trong quốc gia này. Tốt hơn là kê đơn thuốc cho toàn bộ quốc gia. Để làm điều đó, anh cần một chính quyền lớn. 

Trong quá trình ấy, người đã giàu trở nên giàu hơn và các dân ủy còn lại của giai cấp trung lưu trở nên phụ thuộc hơn vào người giàu. Như biên tập viên và nhà văn bảo thủ Angelo M. Codevilla, chỉ ra trong một bài báo vào tháng 7 năm 2010: “Bằng đánh thuế và cắt xén hơn một phần ba những gì người Mỹ sản xuất ra, thông qua luật lệ cắm sâu vào đời sống Mỹ, giai cấp cai trị của chúng ta biến bản thân thành kẻ áp đặt giàu có và nghèo khổ”. Một phần ba là quá đủ để bỏ vào đĩa cân theo ý chí của họ. 

Hãy làm cho họ sững sờ với điệu foot work

Trong khi đó, đây là phần còn lại của chúng ta. Một đám đông lớn than vãn, những kẻ yêu gia đình, giống như chuyên gia và nông dân, tự do, yêu nước, những người kính chúa và những người theo tôn giáo bất đắc dĩ – những người vẫn tin rằng lao động vất vả là con đường đến thành công bất chấp bằng chứng, những người biết sự khác biệt bởi vì họ bán những chiếc xe đã qua sử dụng hay làm việc cho Bưu Điện Hoa Kỳ - những công dân hoài nghi hợp lý rằng thuế khóa của chính quyền chỉ để nuôi dưỡng những con quái vật, hay những người tin rằng, một lần nữa hợp lý, không có chính khách nào thật sự đại diện cho lợi ích của họ, và chính quyền giờ là công việc thiết kế xã hội cho mục đích kinh tế. Những người Thiên Chúa Giáo chính thống, đồng tính, kinh doanh nhỏ, Mỹ Latin, nông dân hữu cơ, ủng hộ tù nhân chung thân, ủng hộ phá thai, công nhân công đoàn trong các tổ chức chống công đoàn ở miền Bắc và miền Nam, giáo viên trường học, những người thuyết giáo – tất cả chúng ta đều cảm thấy bị chính quyền đe dọa.

Cùng lúc, để ngăn chặn cách mạng, giữ hợp đồng với lính đánh thuê và công nghiệp quốc phòng, chúng ta đã bị tẩy não thật lực để tin rằng Hoa Kỳ dẫn đầu thế giới về mọi thứ và phần còn lại của nhân loại sống ít thịnh vượng, ít tự do, thèm thuồng “phong cách sống” của chúng ta. Nói ngắn gọn, họ là những kẻ nhẹ cân hơn. 

Tiếp tục suy nghĩ, chúng ta có điểm chung là không ai trong chúng ta thích ý tưởng về giai cấp thống trị. Chúng ta không thích ngay từ đầu. Mặc dù vậy chúng ta từ lâu không có hành động hiệu quả, bởi vì việc xác định rằng chúng ta làm gì để thay đổi tất cả là bất khả thi. Trái lại, chúng ta phản ứng theo sự kiện. Đó là điều mà giai cấp thống trị muốn, bởi vì nếu chúng ta phản ứng, kết quả sẽ được kiểm soát bằng cách kiểm soát tác nhân kích thích. Hãy làm cho họ sững sờ với điệu foot work. Thế nên tác nhân kích thích đến với chúng ta nhanh hơn là chúng ta tưởng. Họ đại diện cho số mệnh, hay kết quả của “các sự kiện nhanh chóng thay đổi thế giới”, hay một vụ sụp đổ ngân hàng mà không ai có thể tiên đoán được – những điều mà chúng ta phải phản ứng ngay lập tức. Hầu hết chúng ta đầu hàng. Một lần nữa, đó chính là thứ mà giai cấp cai trị muốn chúng ta làm – trở thành một đám đông dễ bảo đồng nhất. 

Bởi vì sự phá hủy cách mạng của hệ thống kinh tế hiện thời sẽ phá vỡ kinh tế quốc gia thậm chí còn nhanh hơn quá trình ăn cắp hiện nay, chúng ta dường như muốn thấy một cuộc cách mạng toàn diện, lật đổ giai cấp cai trị. Hãy nhìn vào “Cách Mạng Đảng Trà” thảm hại, họ sẽ liên minh với GOP (đằng nào cũng đã điều khiển ở hậu trường của họ) vào năm 2012 nếu họ muốn trở thành một phần nhỏ. Sự ồn ào truyền thông về Đảng Trà không tạo ra cách mạng, họ không lật đổ giai cấp thống trị, những kẻ không quan tâm tới cơn thịnh nộ của đám đông, chừng nào điều đó còn chưa ảnh hưởng tới tiền bạc.

Bên cạnh đó, giai cấp thống trị nắm giữ tất cả tiền bạc, chưa đề cập đến truyền thông đưa tin cho công chúng về chuyện đang diễn ra ở đất nước. Họ kiểm soát chăm sóc ý tế, ngân hàng, quỹ hưu trí của chúng ta. Họ kiểm soát giáo dục hay thiếu giáo dục của chúng ta, và họ kiểm soát giá cả, số lượng và chất lượng thực phẩm chúng ta ăn. Họ kiểm soát chất lượng không khí mà chúng ta thở và sắp tới, thông qua tín dụng xả thải, thậm chí là giá chúng ta phải trả cho không khí đó. Quan trọng nhất, họ nắm giữ tập trung lật pháp và quyền lực chính phủ, chưa đề cập tới cơ chế mà cả hai đảng tự phong thêm quyền lực cho bản thân.

Đối mặt với tất cả những thứ đó là một công chúng rất đa dạng, không liên quan gì đến những thứ có thể được tuyên bố sau vài vại bia, không phải là về vũ trang hay sử dụng vũ khí để lật đổ giai cấp thống trị. Khi cuộc sống của anh và gia đình anh hoàn toàn bị kiểm soát bởi các cá nhân và vũ lực mà anh không thể thấy, anh sẽ không mạo hiểm. Đó không phải là nhu nhược. Đó là nhận thức thông thường.

Do đó, anh được cho phép với trò chơi có tên là hoạt động lập pháp. Đây là một quy trình quyền lực vô hình, được che đấu bởi các quy trình khác có tên là chiến lược quan hệ công chúng, nuôi dưỡng mình trong một quá trình khác có tên là truyền thông, để tạo ra “các quyết định mới” giống như anh phải nghe hay thấy. Có nhiều thứ mà anh không cần phải nghe. Ví dụ, NPR, tờ New York Times và hàng ngàn tờ báo khác từ chối sử dụng từ tra tấn để mô tả nhấn nước, trái lại liên hệ tới “các phương pháp thẩm vấn hung bạo”, thẩm vấn không bị ràng buộc, thẩm vấn tự do hay những lối nói trại tương tự. Sự tô vẽ bọc đường của NPR cho tra tấn của Hoa Kỳ là “từ tra tấn hàm chứa các ám chỉ chính trị và xã hội”

Nghĩ sao?

Sự thật là con đường khó đi

Sau nhiều thập kỷ tiêu dùng quân sự cực độ và xa lánh có chủ ý, và ý thức quốc gia xoay tròn trong những điều vớ vẩn chủ nghĩa tư bản thuần túy và hình bón của nó, cần phải nói cho người Mỹ biết là họ vẫn còn nhìn thấy đái thẳng, rất ít người thừa nhận bất cứ loại sự thật nào. Mặc dù vậy một bộ phận người Mỹ thấu hiểu sự thật của những chuyện đang xảy ra với đất nước – điều này phải được mua và thanh toán bởi giai cấp thượng lưu trong một quốc gia được coi là không giai cấp. Họ bắt đầu nhận ra rằng, khi họ thực sự điều hành đất nước, họ cũng vô quyền lực như các cá nhân – ngay cả các thành viên của giai cấp chính trị - và phục vụ ý chí phổ biến của người chủ thực sự. Đó là con đường dài mà chúng ta phải chấp nhận như là trạng thái tự nhiên, một số điều mà chúng ta không thể thay đổi, và cũng không biết phải đặt câu hỏi ra sao bởi vì giống như khí quyển, chúng đã có sẵn.

Sự thật cao hơn là điều gì đó mà chúng ta nhận ra khi chúng ta đối đầu với chúng. Chúng ta có thể không có từ ngữ chính xác nhưng chúng ta cảm thấy chúng trong máu thịt mình. Trực giác là ngọn lửa đầu tiên ở nơi xa xăm. Không thể nói rằng chúng ta luôn lựa chọn không nhìn về phía sự thật, hay hoàn toàn không tìm kiếm nó. Hiếm khi là một cái nhìn dễ chịu, trong cái nhìn đầu tiên là sự thật. Ngay cả thứ tốt nhất trong chúng tới gõ vào những cái chuông báo động.

Tôi nghĩ về độc giả trẻ, Brent B, người đã bỏ thời gian để gửi thư điện tử cho tôi hiện nay và sau đó. Hôm nay anh ấy viết, tóm tắt điều duy nhất mà tôi chắc chắn: 
Khó có thể biết sự thật trong thế giới này, nó giống như điều gì đó trong cái chết của bạn, nhưng đôi khi bạn vẫn cần phải biết nó