Showing posts with label Quân sự. Show all posts
Showing posts with label Quân sự. Show all posts

Tuesday, September 29, 2015

"Mỹ Tân": Sự ngu dốt ở Washington

Việt Tân, rận chủ Bờ Hồ, cuồng Mỹ luôn ca ngợi sức mạnh, giá trị và văn minh Mỹ hết lời, nhưng không khi nào họ dám trích dẫn "Mỹ Tân" chưa nói là phân tích hay mổ xẻ bất cứ điều gì. Trong thời đại Internet, chúng ta rất dễ dàng tìm thấy "Mỹ Tân", một cựu quan chức chính quyền Mỹ và giờ là nhà báo nổi tiếng Paul Craig Roberts phê phán nước Mỹ từ quan điểm dân túy cánh hữu trong bài báo "Brainless in Washington", tất nhiên là cũng đầy đủ các khía cạnh như sự ngu dốt của chính quyền Mỹ, sự bất bình đẳng thu nhập khủng khiếp, sự tuyệt vọng của dân chúng bị bần cùng, kinh tế sụp đổ, thậm chí giờ còn tồi tệ hơn cả Việt Nam .... Tất nhiên, sự khác biệt không phải ở chỗ người ta phê phán cái gì, mà là ở chỗ người ta phê phán từ quan điểm nào. Cho dù là phê phán nước Mỹ tư bản chủ nghĩa, phê phán kinh tế học tân tự do, nhưng vẫn sử dụng quan điểm của nhà tư bản cá biệt, của chính kinh tế học tân tự do thì sẽ không bao giờ có thể thoát khỏi cái hệ thống đó, kết cục chỉ có thể là thỏa hiệp hoặc buông xuôi tuyệt vọng.

Sự ngu dốt ở Washington

Hình minh họa: Obama và Tập Cận Bình
Chỉ số IQ của Washington đã đi theo lãi suất của Fed – nó âm. Washington là lỗ đen hút cạn tư duy lành mạnh của chính quyền.

Sự thất bại của Washington là rõ ràng ở mọi nơi. Chúng ta có thể thấy thất bại trong những cuộc chiến của Washington và trong cách Washington tiếp cận Trung Quốc và Nga. 

Chuyến viếng thăm của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, được xếp lịch vào cuối tuần sau chuyến viếng thăm Washington của giáo hoàng. Liệu có phải là Washington hạ cấp Trung Quốc bằng cách bắt chủ tịch nước của họ đóng vai trò thứ cấp sau giáo hoàng? Chủ tịch Trung Quốc ở đây để cho truyền thông đưa tin vào cuối tuần? Tại sao Obama không nói với ông ấy là cút xuống địa ngục đi?

Sự kém cỏi về không gian mạng của Washington cũng như sự bất lực trong việc đảm bảo an ninh mạng của họ được dùng để đổ lỗi cho Trung Quốc. Vào ngày trước khi Tập Cận Bình đến Washington, thư ký báo chí của Nhà Trắng khởi động chuyến thăm của chủ tịch Tập Cận Bình bằng cách thông báo rằng Obama có thể đe dọa Trung Quốc với các biện pháp trừng phạt tài chính. 

Và không để lỡ cơ hội nào để đe dọa hay làm hạ nhục chủ tịch của Trung Quốc, bộ trưởng bộ thương mại Hoa Kỳ đã gửi cho chủ tịch Trung Quốc một cảnh báo rằng chính quyền Obama rất không hài lòng với thực tiễn kinh doanh của Trung Quốc để hy vọng một cuộc gặp trôi chảy ở Washington. 

Trái lại, khi Obama viếng thăm Trung Quốc, chính quyền Trung Quốc đã đối xử với ông ta lịch sự và tôn trọng.

Trung Quốc là chủ nợ lớn thứ hai của Hoa Kỳ, sau Fed. Nếu như chính quyền Trung Quốc tức giận, Trung Quốc có thể gây ra cho Washington nhiều vấn đề nghiêm trọng về kinh tế, tài chính và quân sự. Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn theo đuổi hòa bình trong khi Washington thường xuyên đe dọa.

Cũng giống như Trung Quốc, Nga có một chính sách đối ngoại độc lập với Washington và sự độc lập trong chính sách đối ngoại của họ đã đưa Trung Quốc và Nga thoát khỏi Washington.

Washington coi các quốc gia có chính sách đối ngoại độc lập là mối đe dọa. Lybia, Iraq và Syria đều có chính sách đối ngoại độc lập. Washington đã tàn phá hai trong số ba quốc gia đó và đang tiếp tục với quốc gia còn lại. Iran, Nga và Trung Quốc cũng có chính sách đối ngoại độc lập. Hệ quả là Washington coi những quốc gia này là mối đe dọa và tô vẽ họ như là mối đe đối với người dân Mỹ.

Tổng thống Nga Vladimir Putin gặp Obama vào tuần tới tại cuộc họp của Liên Hiệp Quốc ở New York. Đó là cuộc họp có vẻ như sẽ chẳng đi tới đâu. Putin muốn cung cấp cho Obama sự giúp đỡ của Nga để đánh bại ISIS, nhưng Obama muốn sử dụng ISIS để lật đổ tổng thống Assad của Syria, thiết lập chính quyền tay sai và đá đít Nga khỏi cảng duy nhất trên biển Địa Trung Hải ở Tartus, Syria. Obama muốn ép Putin phải giao Crimea của Nga và đoạn tuyệt với những nước cộng hòa không chịu thần phục chính quyền bài Nga mà Washington đã thiết lập ở Kiev.

Bất chấp sự thù địch của Washington, Tập Cận Bình và Putin tiếp tục hợp tác với Washington, ngay cả khi có nguy cơ bị hạ nhục trước mặt người dân nước họ. Putin và Tập Cận Bình có thể chấp nhận bao nhiêu sự coi thường, lên án và những cái tên (như “Hitler mới”) trước khi mất mặt ở quê nhà? Họ làm sao có thể lãnh đạo khi dân chúng cảm thấy nỗi xấu hổ mà Washington gán cho lãnh đạo của họ. 

Tập Cận Bình và Putin rõ ràng là những người ôn hòa. Họ không phải đang làm mọi cách để cứu thế giới khỏi cuộc chiến cuối cùng đó sao?

Người ta có thể giả định rằng Putin và Tập Cận Bình biết về học tuyết Wolfowitz, cơ sở của chính sách đối ngoại và quân sự Hoa Kỳ, nhưng dĩ nhiên họ không thể tin rằng những thứ ngu xuẩn trơ trẽn như vậy lại có thể có thật. Nói ngắn gọn, học thuyết Wolfowitz tuyên bố rằng nguyên tắc khách quan của Washington là ngăn chặn các quốc gia phát triển đến mức có đủ sức mạnh để chống lại sự thống trị của Hoa Kỳ. Do đó, Washington tấn công Nga thông qua Ukraina và Washington tái quân sự hóa Nhật Bản để làm phương tiện chống lại Trung Quốc, bất chấp sự phản đối của 80 dân chúng Nhật Bản. 

“Dân chủ ư?” “Sự thống trị của Washington không cần đến thứ dân chủ thối tha,” nhà cầm quyền Nhật Bản và là tay sai của Washington tuyên bố, là kẻ đầy tớ tin cậy của Washington, ông ta chà đạp lên đại đa số người dân Nhật Bản.

Trong khi đó, cơ sở thật sự của quyền lực Hoa Kỳ - nền kinh tế của nó - tiếp tục vỡ nát. Hàng triệu công ăn việc làm của tầng lớp trung lưu đã biến mất. Cơ sở hạ tầng của Hoa Kỳ đang sụp đổ. Các cô gái Mỹ, chết ngập trong các khoản nợ tiền học, tiền nhà, tiền đi lại và chẳng có gì ngoài công việc bán thời gian lương thấp, đăng lên các trang Internet lời khẩn cầu xin được làm tình nhân cho những người đàn ông có đủ khả năng giúp họ trả nợ. Đây là hình ảnh của một nước thuộc thế giới thứ ba.

Vào năm 2004, tôi đã dự đoán trong một hội thảo được truyền hình quốc gia ở Washington, DC, rằng Hoa Kỳ sẽ trở thành nước thế giới thứ ba trong 20 năm. Noam Chomsky nói rằng chúng ta đã như vậy vào năm 2015. Đây là đoạn trích dẫn gần đây của Noam Chomsky:

“Hãy nhìn quanh đất nước. Đất nước này đang sụp đổ dần. Ngay cả khi anh trở về Hoa Kỳ từ Argentina thi cũng giống như thấy một nước thế giới thứ ba, khi anh trở về từ Châu Âu thì điều đó càng rõ hơn. Cơ sở hạ tầng đang sụp đổ. Không có gì hoạt động hết. Hệ thống giao thông không hoạt động. Hệ thống y tế hoàn toàn là nhục nhã – chi phí trên đầu người cao gấp đôi các quốc gia khác và kết quả thì không tốt. Từ thứ này đến thứ khác. Trường học đang suy thoái ….”

Một chỉ số khác của nước thế giới thứ ba là sự bất bình đẳng lớn trong phân phối thu nhập và của cải. Theo CIA, Hoa Kỳ hiện giờ là nước có phân phối thu nhập tồi tệ nhất thế giới. Phân phối thu nhập ở Hoa Kỳ tồi tệ hơn Afghanistan, Albania, Armenia, Australia, Áo, Azerbaijan, Bangladesh, Belarus, Bỉ, Benin, Bosnia/Herzegovina, Burkina Faso, Burundi, Campuchia, Cameroon, Canada, Cote d’Ivoire, Croatia, Cyprus, Cộng hòa Czech, Đan Mạch, Ai Cập, Estonia, Ethiopia, Phần Lan, Pháp, Đức, Ghana, Hy Lạp, Guinea, Guyana, Hungary, Iceland, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Ireland, Israel, Italy, Nhật Bản, Jordan, Kazakhstan, Kenya, Hàn Quốc, Kyrgyzstan, Lào, Latvia, Liberia, Lithuania, Luxembourg, Macedonia, Malawi, Mali, Malta, Mauritania, Mauritius, Moldova, Mongolia, Montenegro, Morocco, Nepal, Hà Lan, New Zealand, Nicaragua, Niger, Nigeria, Na uy, Pakistan, Philippines, Poland, Portugal, Romania, Nga, Senegal, Serbia, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Đài Loan, Tajikistan, Tanzania, Timor-Leste, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan, Uganda, Ukraine, Anh, Uzbekistan, Venezuela, Việt Nam và Yemen.

Sự tập trung của thu nhập và tài sản của Hoa Kỳ vào tay của những người rất giàu là sự tiến triển triển mới trong thời của tôi. Điều này có hai nguyên nhân. Thứ nhất là chuyển công ăn việc làm của Hoa Kỳ ra nước ngoài. Việc này đã chuyển các công việc năng suất cao, giá trị gia tăng cao của Hoa Kỳ sang các nước mà sự thừa thãi của nguồn cung lao động khiến cho tiền lương tụt xuống dưới mức đóng góp của người lao động vào giá trị đầu ra. Chí phí lao động thấp ở quốc tế đã chuyển hóa tiền lương và thu nhập cao của người Mỹ và do đó là thu nhập của hộ gia đình Mỹ thành lợi nhuận doanh nghiệp, phần thưởng cho người điều hành doanh nghiệp và thu nhập tư bản cho cổ đông, vô hiệu hóa con đường tiến bộ đã biến Hoa Kỳ thành “miền đất hứa”. 

Nguyên nhân còn lại gây ra sự bất bình đẳng kinh khủng đang ngự trị ở Hoa Kỳ là điều mà Michael Hudson trong cuốn sách Giết vật chủ gọi bằng cái tên tài chính hóa kinh tế, cho phép các ngân hàng chuyển hướng thu nhập khỏi nền kinh tế để thanh toán lãi suất cho các khoản nợ mà ngân hàng cung cấp.

Cả hai sự tiến triển này tối đa hóa thu nhập và tài sản của Một Phần Trăm với chi phí của dân chúng và kinh tế. 

Như Michael Hudson và tôi đã khám phá, kinh tế học tân tự do mù lòa trước hiện thực và biện minh cho sự phá hủy các triển vọng kinh tế của Thế Giới Phương Tây. Hãy nhìn xem liệu Nga và Trung Quốc có thể phát triển kinh tế học khác hay những siêu quyền lực mới nổi này sẽ trở thành nạn nhân của “kinh tế học rác rưởi” đã phá hủy phương Tây. Với nhiều nhà kinh tế học Trung Quốc và Nga được đào tạo theo truyền thống Mỹ, triển vọng của họ có thể không tốt hơn chúng ta.

Toàn bộ thế giới này có thể cùng rơi xuống hố.

Paul Craig Roberts is a former Assistant Secretary of the US Treasury and Associate Editor of the Wall Street Journal. Roberts’ How the Economy Was Lost is now available from CounterPunch in electronic format. His latest book is How America Was Lost.

Thursday, September 24, 2015

Hội chứng Việt Nam của báo chí: Suy nghĩ về việc Brian Williams quay trở lại làm việc

Một cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, hiện giờ là giáo sư xã hội học ở Mỹ, phản đối huyền thoại về sự tự do của phóng viên chiến trường Mỹ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Đó là nội dung của bài viết "Journalism’s Vietnam Syndrome: Thoughts Upon Brian Williams’s Return to Work". Qua đó chúng ta có thể thấy tự truyền thông Hoa Kỳ đã tạo ra huyền thoại về tự do báo chí ra sao, sự tự do ấy không chỉ đánh lừa công chúng về độ tin cậy của tin tức mà nó còn giúp cho các chủ hãng tin tức có lý do để đẩy phóng viên vào sự nguy hiểm của chiến tranh.

Hội chứng Việt Nam của báo chí: Suy nghĩ về việc Brian Williams quay trở lại làm việc

Một trong những người bạn tốt nhất của tôi ở Việt Nam là Ron Gawthrope. Vào năm 1969, cả hai chúng tôi được chỉ định vào khẩu đội chỉ huy của tập đoàn pháo binh số 41. Căn cứ của chúng tôi là trại Fidel, một tổ hợp nhỏ cách hàng rào phía nam của sân bay Phù Cát 800 m, gần Quy Nhơn và khoảng 300 dặm về phía đông bắc Sài Gòn.

Ron dường như chẳng có gì để làm. Anh ấy chạy loanh quanh trong doanh trại, tán gẫu suốt ngày, dễ chịu với cả sĩ quan và lính nghĩa vụ. Anh ấy hiếm khi rời khỏi doanh trại. Một lần tôi hỏi mỉa mai – Ron, anh làm gì ở đây? “Liên lạc báo chí” cho tập đoàn số 41, anh ấy trả lời. Anh giải thích rằng thường hay tường thuật về những thứ diễn ra ở khu vực chiến sự của tập đoàn số 41 tại Cao Nguyên Trung Phần; và anh nói thêm rằng công việc của anh là “ngăn chặn mọi phóng viên tin tức đi quá xa, cung cấp cho họ một câu chuyện và đẩy họ lên chuyến bay đầu tiên quay lại Sài Gòn.”

Đó là lời của Ron mà tôi nhớ tới khi được nghe những câu chuyện về tương phản giữa sự tự do đưa tin tức chiến sự mà các phóng viên ở Việt Nam được hưởng với những điều kiện khắt khe được áp đặt khi họ đưa tin chiến sự ở Trung Đông hiện nay. Một trong những điều tương phản được nhà văn Ward Just viết trong lời dẫn của cuốn sách vào năm 2000, Đưa tin Việt Nam: Báo chí Hoa Kỳ 1959-1973:

Việt Nam là cuộc chiến tranh cuối cùng mà nhà cầm quyền quân sự Hoa Kỳ sẵn sàng đưa các phóng viên tới chiến sự. Tất cả những gì anh cần phải làm là xuất hiện ở đường băng Tân Sơn Nhất, réo gọi một chiếc C-130 hay Caribou, sau đó trèo lên khoang. Khi anh tới sở chỉ huy, anh được tóm tắt, chỉ dẫn về nơi đọ súng và sau đó anh tự do làm công việc của mình. 

Giờ là tiếng cười thầm của Ron mà tôi đã được nghe. Một chiếc C-130 rời khỏi Tân Sơn Nhất gần Sài Gòn cần hơn nửa dặm đường băng để hạ cánh. Một số khu hạ cánh (LZ) lớn được tổ chức tốt như LZ Betty có khả năng đáp ứng điều đó vào cuối những năm 1960, nhưng phóng viên sẽ được thả xuống ở đâu đó, có thể là sân bay Phú Cát – nơi mà nhân viên Không Lực sẽ không thể biết về đọ súng nếu họ nghe thấy điều đó, ở hướng nào thì lại càng không. “Sở chỉ huy” quân đội gần nhất mà anh ta có thể tìm thấy đường đến, bên ngoài tường rào sân bay, là trại Fidel, nơi mà Ron sẽ cung cấp cho anh ta “một câu chuyện” và đưa anh ta quay trở lại sân bay.

Thực tế là kịch bản này được vẽ ra trong hồi ức của Ward Just – ông ấy đã đưa tin ở Việt Nam vào những năm đầu chiến tranh – hương vị của những ngày tháng cũ, phóng viên của trí tưởng tượng xa xưa, tính hợp lý của các chi tiết được kiểm tra bằng kinh nghiệm và những quy tắc quân sự mà tôi biết hồi đó. Phần lớn trách nhiệm của tôi với vai trò trợ lý tuyên úy trong tập đoàn số 41 và các đơn vị pháo binh khác là lái xe jeep cùng với cha tuyên úy tới các cứ điểm và LZ nằm dọc theo đường cao tốc số 1, 19 và 14, hoặc hộ tống ông ấy trên máy bay trực thăng tới các địa điểm xa hơn. Muốn đến cứ điểm Pony? Máy bay lên thẳng của chúng tôi đến LZ English và từ đó chúng tôi lái xe đến Pony – khá xa. Đó là điều chưa bao giờ diễn ra, hay tôi chưa bao giờ thấy một thường dân Hoa Kỳ nào hỏi hoặc đi theo cách này. Điều đó cũng không thể diễn ra bởi vì chúng tôi cần được cho phép để đưa bất kỳ người nào đi, ngay cả nhân viên quân sự. Chuyện đó không bao giờ xảy ra. 

Điều quan trọng đối với tôi là tôi chưa từng nghe thấy chuyện đó diễn ra. Liệu có phóng viên tin tức, bằng cách nào đó, đi một mình tới nơi như Pony, cái gã ở đó ngày hôm nay có thể nói về điều đó trong nhiều tuần sau – nhưng tôi chưa từng thấy bất cứ phóng viên nào ở những nơi đó.

Có nghĩa là sự thật của câu ngạn ngữ là có nhiều gã “Việt Nam” nhớ như thể là có ai đó đã từng ở đó. Một cuộc chiến tranh dài với chính sách và hoạt động quân sự của Hoa Kỳ đã thay đổi theo thời gian bởi địa điểm, các chi nhánh và đơn vị. Điều mà Ward Just nhớ có thể là thật ở Tân Sơn Nhất gần Sài Gon, vào lúc ông ấy có mặt ở đó, hơn là ở nơi khác sâu trong nội địa vào năm năm sau. Cũng như với các câu chuyện chiến tranh khác, huyền thoại về tường thuật không sợ hãi bắt nguồn từ hiện thực là rất khó đưa tin về Việt Nam, với công việc cũng như điều kiện sống khó khăn và đôi khi là nguy hiểm. Trong lịch sử đưa tin tức hàng tuần về chiến tranh, tờ Weekly War, nhà báo James Landers mô tả sức ép đối với phóng viên để tạo ra các câu chuyện “bi kịch chiến tranh” mà họ cho rằng độc giả mong muốn, cũng như những khó khăn và nguy hiểm mà phóng viên phải đối mặt để đáp ứng nhu cầu đó.

Nhưng Lander cũng ghi nhận rằng các phóng viên ít khi rời khỏi Sài Gòn và thậm chí là theo các chuyến đi được cấp phép đưa phóng viên tới các sở chỉ huy sư đoàn và tập đoàn – nơi mà họ sẽ được Ron đón tiếp.

Điều sẽ không thay đổi là sự miễn cưỡng của các sĩ quan chỉ huy khi phải đón tiếp một cá nhân vô ích ở cứ điểm, cũng như ít có phóng viên “được tự do làm công việc [của họ]”, như Mr. Just đã nói. Nhà sử học Milton Bates, trong cuốn sách The Wars We Took to Vietnam, mô tả “công việc chiến tranh” là “rất rõ ràng giống như công việc ở nhà máy hay xây dựng” với nguy cơ phụ thêm về những thanh niên kiệt sức và chỉ được huấn luyện tối thiểu để vận hành cỗ máy hạng nặng tinh vi trong nhưng điều kiện khắc nghiệt. Ở Việt Nam, công việc đó là nóng bức, nặng nhọc và bẩn thỉu với sự phân chia lao động chặt chẽ và không có chỗ cho sự sao lãng mà những khán giả - như các phóng viên – sẽ đem tới. Chính vì lý do này, cha tuyên úy và tôi thường xuyên được hộ tống đi khỏi các công sự pháo khi có lệnh khai hỏa; máy bay trực thăng của chúng tôi có lần phải lượn vòng vòng cho đến khi người bị thương được dọn sạch khỏi LZ bị bộ binh địch tấn công vào đêm trước đó. 

Kinh nghiệm về phóng viên ở Việt Nam đươc nhớ lại là quan trọng hơn những thành tích lịch sử mà nó tạo ra. Sự nhầm lẫn phổ biến về việc người Mỹ được đưa tin tốt hơn về chiến tranh ở Việt Nam so với những cuộc chiến tranh gần đây ở Trung Đông hầu hết dựa trên niềm tin rằng các phóng viên đã được tự do đi bất cứ đâu họ muốn và tường thuật những gì họ thấy – một quan điểm lý tưởng đáp ứng kỳ vọng của công chúng về cấp độ căn bản của việc đưa tin mà các hãng tin tức hiện nay không thể thực hiện được.

Trong khi đó, huyền thoại về các phóng viên Rambo hung hãn khắp vùng châu thổ sông Mekong trở thành chuẩn mực về khí phách nhà nghề mà các phóng viên hiện nay có – hoặc họ tưởng rằng họ có. Sức ép đáp ứng kỳ vọng có thể đưa họ vào nguy hiểm. Khi phóng viên Bob Woodruff bị thương ở Iraq vào năm 2006, anh ta chỉ trích chủ lao động, hãng ABC News, đã đặt anh vào tình thế nguy hiểm để thu được đánh giá cao hơn của độc giả, bản thân Woodruff là “gã ngốc”, tự gây nguy hiểm không cần thiết cho bản thân khi thò đầu ra khỏi cửa xe bọc thép mà anh ta đang đi. 

Vào tháng giêng năm 2015, phóng viên Brian Wiliams của hãng NBC khẳng định rằng anh đã ở trên chiếc trực thăng bị kẻ địch bắn ở Iraq vào năm 2003. Anh ta đã kể nhiều phiên bản của câu chuyện trong nhiều năm nhưng khi mà cựu chiến binh cùng tham gia nhiệm vụ với máy bay trực thăng đã nói rằng đội của anh ta chưa bao giờ gặp nguy hiểm – câu chuyện của Willams là không thật. Williams đã bị NBC sa thải, tạo nên một bóng tối bao phủ những di sản của anh ta và hoài nghi về tương lai của anh ta trong lĩnh vực báo chí. Giờ đây, khi NBC chuẩn bị đưa William quay trở lại thông quan chi nhánh liên kết nhỏ MSNBC, những người theo đuôi sẽ lặp lại những chi tiết trong câu chuyện ngụy tạo về chiến sự đã làm anh ta mất việc và NBC bị bất ngờ. 

Mặc dù vậy, bình luận về sự phục chức của William sẽ giống như chỉ dừng ở mức độ thất bại cá nhân. Những người có học hơn sẽ bắt đầu phân tích tâm lý, để kết luận rằng “nam tính bị tàn phá” của anh ta là nguyên nhân của việc không kiểm chứng sự thúc đẩy của nam tính đã xác thực thông qua một sự liên hệ nhầm lẫn với sự dũng cảm chiến trận. Nhưng hầu hết các bình luận sẽ không thừa nhận hình mẫu mà trường hợp của anh ta và Woodruff (cũng như những người khác) đã tạo ra, một hình mẫu cho thấy thứ văn hóa mà theo đó các phóng viên chiến trường phải đối mặt với những kỳ vọng phi thực tế của các ông chủ và công chúng tiêu thụ tin tức. Vẫn tiếp tục bị loại bỏ khỏi bình luận là di sản của việc đưa tin trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, theo đo những kỳ vọng phi thực tế vẫn tiếp tục tồn tại. Đó là huyền thoại về việc lợi ích của công chúng được binh đoàn những “gã phóng viên đúng đắn” tự do, mà trực thăng tha lôi từ nơi này qua nơi khác, những kẻ vẫn còn ám ảnh sự tôn kính nghề nghiệp của phóng viên chiến tranh hiện nay, phục vụ tốt hơn trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam

Sự thật là các cuộc chiến tranh hiện nay rất khác xưa, chiến trận –thậm chí là ngay cả với những cuộc chiến đang diễn ra – ít đặc trưng bằng nguy cơ thiệt hại tính mạng hay vật chất hơn trước kia; sự thật là ngay cả Việt Nam cũng khác với những năm tháng vinh quang tưởng tượng hiện nay mà một thế hệ phóng viên anh hùng được cho là đã tạo ra; sự thật là những tên cướp biển tự do mà Ward Just nhớ đến gần với Ernie Pyle, phóng viên chiến tranh huyền thoại của Thế Chiến Thứ II (không có trực thăng), hơn là các phóng viên đã gặp (hoặc không) anh bạn Ron của tôi ở Việt Nam.

Sự thật là nếu các hồi ức báo chí coi Ron là hình tượng trung tâm trong lịch sử báo chí của thời kỳ Việt Nam, Bob Woodruff có thể không bị nguy hiểm để thu thập vài “bi kịch chiến trường”, anh ta có thể giữ đầu an toàn trong khoang của APC và không bị thương cũng như Brian Williams vẫn có thể là phóng viên của hãng NBC. 

Jerry Lembcke is Associate Professor Emeritus of Sociology at College of the Holy Cross in Worcester, Mass. He is the author of The Spitting Image: Myth, Memory and the Legacy of Vietnam and Hanoi Jane: War, Sex, and Fantasies of Betrayal. His newest book is PTSD: Diagnosis or Identity in Post-empire America? He can be reached at jlembcke@holycross.edu.

Wednesday, May 20, 2015

Việt Nam: Chiến tranh vẫn chưa qua đi

Chiến tranh Việt Nam vẫn chưa kết thúc ở nước Mỹ, ít nhất là với chính quyền và truyền thông của họ, cuộc chiến dai dẳng của những người Mỹ tiến bộ chống lại âm mưu xét lại cuộc chiến về mặt lịch sử để biện minh cho sự sai trái của chính quyền vẫn tiếp tục. Đó là nội dung bài viết "Vietnam: The war that won’t go away" của tác giả Don North đăng trên tạp chí Coldtype số 98 tháng 5 năm 2015.

Việt Nam: Chiến tranh vẫn chưa qua đi

Chiến tranh diễn ra hai lần, lần thứ nhất trên chiến trường và lần thứ hai trong hồi tưởng. Theo cách đó, chiến tranh Việt Nam – mặc dù nó đã kết thúc trên chiến trường 40 năm trước đây – vẫn tiếp tục là cuộc chiến của hồi ức, lịch sử và sự thật. Phần đặt cược vẫn cao. Những tường thuật trung thực nhất về các sự kiện quan trọng của quá khứ có thể phác thảo định mệnh của chúng ta, giúp ích cho việc quyết định xem có nên có thêm chiến tranh hay hòa bình. Vài năm trước đây, tôi vui mừng khi được biết Lầu Năm Góc tài trợ cho một ủy ban kỷ niệm chiến tranh Việt Nam. Tôi cho rằng cuối cùng chúng ta cũng có thể ghi nhận một cách thẳng thắn. Nhưng tôi không cần phải đọc thêm gì ngoài các trích dẫn chủ chốt trên đầu website mới để biết điều đó không xảy ra.

Trích dẫn tổng thống Richard Nixon, đó là: “Không có sự kiện nào trong lịch sử bị hiểu nhầm nhiều hơn chiến tranh Việt Nam. Nó đã bị tường thuật sai lệch vào lúc đó và giờ thì bị hiểu nhầm.”

Tôi thuộc về nhóm nhỏ các nhà báo đưa tin về cuộc chiến. Chúng tôi tự gọi bản thân là “Những gã bồi bút già của Việt Nam” và chúng tôi đã thực hành kha khá công việc mà đoạn trích dẫn đề cập kể từ khi nó bất tử hóa điều hoang đường rằng cuộc chiến tranh sẽ không thất bại nếu không có những từ ngữ làm nản lòng của một số phóng viên. Tôi viết một lá thư cho chủ tịch ủy ban kỷ niệm, trung tướng nghỉ hưu Claude Kicklighter, phản đối sự vu khống đối với hàng ngàn nhà báo, những người đã cố gắng đưa tin trung thực về cuộc chiến, một lời vu khống của tổng thống Hoa Kỳ, người đầu tiên phải chịu trách nhiệm cho việc đánh lừa công chúng về chiến tranh.

Tôi đã quấy nhiễu ủy ban nhiều tháng nhưng họ chỉ miễn cưỡng rút lại đoạn trích dẫn. Tôi tranh thủ tình cảm của những người bạn ở Trung Tâm Lịch Sử của Quân Đội Hoa Kỳ, những người đề xuất với ủy ban là đoạn trích dẫn không thể chấp nhận được. Sau sáu tháng với những lý lẽ sắc bén, cuối cùng họ cũng rút lại đoạn trích dẫn. Nhưng nhiều điều hoang đường và lừa dối về chiến tranh Việt Nam vẫn còn ở trên website. 
————————
Bốn thập kỷ trước đây Hoa Kỳ gánh chịu thất bại trong một cuộc chiến không thể thắng, chống lại một quốc gia mà họ thực sự chẳng biết gì và ở đó họ không có các lợi ích sống còn. Sau những vô vọng ở Việt Nam thì việc lặp lại một cách kiêu ngạo những năm tháng điên rồ sau đó ở Afghanistan và Iraq là không thể tha thứ. Một bài học mà quân đội Hoa Kỳ đã học được ở Việt Nam là hình ảnh và bài viết có thể mang tới tác động tàn phá và dẫn đến yêu cầu trách nhiệm giải trình. Dường như các phóng viên chiến tranh sẽ không bao giờ còn được tiếp cận chiến tranh tự do như chúng tôi từng có ở Việt Nam.

Điều gì sai? Một trong những điều hoang đường phổ biến và dai dẳng là Hoa Kỳ đã bị các phóng viên không trung thành lừa dối. Ngay cả tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam, tướng William Westmoreland, cũng bám lấy câu chuyện cũ rích đó.

Có vẻ như cho dù các nhà sử học – thậm chí là sử học quân sự - phản đối điều hoang đường đó bao nhiêu lần đi nữa, họ ghi nhận rằng báo chí Hoa Kỳ đã thực hiện tương đối tốt việc đưa tin về một cuộc chiến tranh phức tạp và nguy hiểm, thì cũng chả hề hấn gì. Điều hoang đường về các nhà báo không trung thành, họ phải bị trừng phạt, là thứ cần thay đổi để chiến thắng của Hoa Kỳ quay trở lại.

Cuộc sống của tôi ở Việt Nam

Tôi đến Việt Nam vào tháng 5 năm 1965, là một phóng viên trẻ và háo hức từ Canada. Tôi cũng giống như hàng trăm người sẽ trở thành nhà báo khác, đi tới chiến trường để đưa tin về chiến tranh như những người hành nghề tự do, chuyển đến khi cuộc chiến tranh đàn áp nổi dậy biến thành một cuộc chiến tranh toàn diện ở Châu Á. Giống như nhiều người trong số chúng tôi, đầu tiên tôi cũng tin vào lý lẽ của Washington – bảo vệ nền dân chủ nhỏ bé khỏi sự chiếm đoạt của những người Cộng Sản và khởi đầu chuỗi domino đổ ở Châu Á.

Mặc dù vậy, sự thật không cần lâu để học. Vào lúc đó, Hoa Kỳ đã hưởng lợi từ một số nhà báo nổi bật, những người thực hiện công việc của họ nghiêm túc – và nhiều người ở mặt trận, đưa tin về khoảng cách giữa màn PR sặc sỡ và thực tế khắc nghiệt.

Ví dụ người bạn của tôi, David Halberstam của tờ New York Times, nói với tôi về trận chiến lịch sử ở châu thổ sông Mekong vào cuối năm 1962 khi thực tế trận chiến đã trở thành bằng chứng. Hàng trăm máy bay trực thăng Hoa Kỳ đã đến Việt Nam, hứa hẹn một sự vượt trội về công nghệ mới để đánh bại Việt Cộng. Vào ngày đầu tiên của trận chiến, một số Việt Cộng bị giết. Vào ngày thứ hai, một cuộc tấn công khổng lồ bằng máy bay trực thăng được tiến hành nhưng không có gì xảy ra. Vào ngày thứ ba, điều tương tự diễn ra, không kẻ thù, không chiến trận. Trên đường trở về Sài Gòn, Neil Sheehan, sau đó với UPI, càu nhàu về sự lãng phí thời gian. Homer Bigart, một phóng viên của tờ New York Times có kinh nghiệm từ Thế Chiến thứ II nói, “Có vấn đề gì vậy, ngài Sheehan?” Sheehan cằn nhằn về việc mất ba ngày bay trên các cánh đồng lúa và không có câu chuyện nào để viết. “Không có chuyện gì”, Bigart bình luận hơi có chút ngạc nhiên. “Nhưng có chuyện đấy. Chiến dịch không thành công. Đó là câu chuyện, thưa ngài Sheehan.”

Chiến lược của Hoa Kỳ ở Việt Nam không thành công, chưa từng thành công bất cứ khi nào. Nhưng cái giá của sự điên rồ rất cao. Người Việt Nam phải gánh chịu 2 triệu cái chết của thường dân, nhiều người chết trong các trận bom lớn nhất trong lịch sử. Theo nhiều cách, những lính trẻ Hoa Kỳ, những người bị ném vào Việt Nam, cũng là nạn nhân khi họ thấy bản thân chỉ được chuẩn bị một cách tồi tàn cho trận chiến đàn áp khắc nghiệt và tàn bạo, thường diễn ra trong các ngôi làng với phụ nữ và trẻ em. 58.000 binh lính Hoa Kỳ đã chết trong cuộc chiến và nhiều người bị tổn thương thể chất hoặc tâm lý.

Việt Nam không phải hoàn toàn là câu chuyện cũ. Bom mìn chưa nổ, ung thư do hóa chất gây ra và di chứng của chất độc màu da cam tiếp tục giết hại, làm bị thương và gây dị dạng. Nick Turse, người viết cuốn sách “Giết hết mọi thứ động đậy,” đã khẳng định: “Việc Hoa Kỳ sử dụng một cách nhẫn tâm sức mạnh gây ra tổn thất dân sự ở Việt Nam là yếu tố cốt lõi của cuộc chiến tranh. Tôi hỏi xem Henry Kissinger của ngày hôm nay, nhóm quản lý chiến tranh mới nhất của Washington, có sẵn sàng thừa nhận điều đó hơn Kissinger của ngày hôm qua không.”
————————
Tôi vừa trở về sau chuyến đi Việt Nam và Campuchia kéo dài 3 tuần và thấy rằng có nhiều người ở Việt Nam cũng như ở Hoa Kỳ vẫn chưa sẵn sàng nghe những tiếng nói trung thực về cuộc chiến tranh.

Trong một cuộc chiến đầy những điều bất ngờ, không có bất ngờ nào lớn hơn cuộc tấn công đại sứ quán Hoa Kỳ trong dịp Tết vào ngày 31 tháng 1 năm 1968. Các chuyên gia phân tích quân sự nói rằng cách duy nhất để tạo ra một bất ngờ quyết định trong chiến tranh là làm điều gì đó thật sự ngớ ngẩn, 15 đặc công Việt Cộng thực hiện cuộc tấn công vào đại sứ quán được huấn luyện tồi và thiếu chuẩn bị, nhưng tác động của nó đã tạo ra một bước ngoặt của chiến tranh và trở thành một đoạn đáng chú ý trong lịch sử quân sự.

Ngày nay tòa đại sứ Hoa Kỳ từng đứng vững trong cuộc tấn công đã bị phá bỏ và thay thế bằng một lãnh sự Hoa Kỳ hiện đại. Một phiến đá nhỏ trong vườn, xa cách công chúng, ghi tên của bảy lính thủy và một cảnh sát quân sự đã chết ở đây. Trên vỉa hè bên ngoài cửa lãnh sự là một đài tưởng niệm bằng gạch khắc tên những đặc công việt cộng và các điệp viên đã chết. 

Tôi không thể hình dung được khung cảnh mà PFC quân đội Hoa Kỳ Bill Sebast và đặc công Việt Cộng Nguyễn Văn Sáu, hai người lính đã chết ở hai phía tường của đại sứ quán, có thể quay trở lại để ngạc nhiên về sự tiến bộ kinh tế của Sài Gòn, với việc Việt Nam và Hoa Kỳ đã bỏ qua sự thù hằn cũ để trở thành các đối tác thương mại đáng giá.

Lần đầu tiên, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Việt Nam đối xử với những gã bồi bút già chúng tôi như những người đáng để biết, quan tâm tới kiến thức của chúng tôi về cuộc chiến đẫm máu mà chúng tôi từng đưa tin. Sự thật là Việt Nam hiện nay quan ngại hơn về người hàng xóm khổng lồ Trung Quốc ở phía bắc, thậm chí tìm kiếm ở Hoa Kỳ một sự đối trọng với khuynh hướng gia tăng sự ảnh hưởng của Trung Quốc. 

Phán xét nhà báo 

Thế còn đề xuất mới đây của Lầu Năm Góc về việc cánh nhà báo chúng ta “đưa tin sai về chiến tranh”? Tôi có hài lòng với việc đưa tin của mình về chiến tranh Việt Nam không? Không. Tôi cho rằng đầu tiên là sự ngu dốt về lịch sử và văn hóa Việt Nam và sau đó là sự giới hạn của tin tức truyền hình đôi khi che dấu sự thật. Một phút rưỡi là tối đa cho một tin tức buổi tối. Gần như không đủ thời gian để mô tả các sự kiện phức tạp của chiến tranh Việt Nam. 

Tôi cũng biết các biên tập viên của ABC News ở New York miễn cưỡng đưa tin tiêu cực về chiến tranh. Các tường thuật phê phán đã bị loại bỏ thẳng thừng hoặc biến mất một cách bí ẩn trước giờ lên sóng. Chỉ có một sự kiểm duyệt duy nhất mà tôi từng thấy ở hãng thông tấn của mình. Tại đại sứ quán Hoa Kỳ, khi đặc công Việt Cộng cuối cùng bị giết hay bị bắt, tôi nhanh chóng quay phim một “đoạn độc thoại”. Để kết thúc bản tin, tôi nói, “Kể từ Tết âm lịch, Việt Cộng và người Bắc Việt đã chứng tỏ rằng họ có thể đạt được những hoạt động quân sự mạnh mẽ và ấn tượng mà người Mỹ không bao giờ có thể tưởng tượng được. Họ cũng cho thấy có thể theo đuổi cuộc chiến tranh này một cách lâu dài.

“Điều thay đổi cuộc chiến đã diễn ra, việc chiếm giữ tòa đại sứ Hoa Kỳ trong bảy giờ đồng hồ là một thắng lợi tinh thần sẽ thu hút và khích lệ Việt Cộng. Don North của ABC News Sài Gòn.”

Phân tích tức thời của tôi không bao giờ được lên sóng ở ABC News. Tôi bị cáo buộc là “biên tập” và đoạn độc thoại bị một số nhà sản xuất loại bỏ khỏi chương trình tin tức buổi tối. Mặc dù vậy, nực cười là đoạn độc thoại cùng với những trích đoạn khác nằm trong “Thư viện Simon Grinberg của ABC” sau đó đã được nhà sản xuất Peter David tìm thấy và sử dụng cho bộ phim được giải của Viện Hàn Lâm “Những trái tim và tâm hồn”

Rõ ràng là sự thật về chiến tranh Việt Nam thường xuyên bị che giấu nhưng không phải theo kiểu trong trích dẫn của Nixon. Hầu hết tin tức của truyền thông Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh đều quá lạc quan – không phải là quá khắc nghiệt. Báo chí chính xác hơn đã thường xuyên phản đối điều mà Neil Sheehan sau đó gọi là “Lời nói dối tỏa sáng,” một khúc PR lạc quan cho cuộc chiến tranh sai lầm.

Không có gì được học 

Những bài học về Việt Nam - được thảo luận vô vọng suốt nửa thế kỷ - đã dạy Washington rất ít nên những kẻ diều hâu hiếu chiến ngày nay lặp lại những sai lầm tương tự như Việt Nam ở Afghanistan và Iraq – sự ngạo mạn tương tự, sự lệ thuộc tương tự vào công nghệ và tuyên truyền, sự ngu dốt tương tự về văn hóa nước ngoài phức tạp.

Đâu là bài học thật sự đã được học về báo chí trong chiến tranh Việt Nam? Bất chấp sự khó khăn, kiểm duyệt và sự hoang mang của chiến tranh, tôi tin rằng nhiều bản tin của chúng tôi về Việt Nam là chính xác và đã đứng vững với sự thử thách của thời gian. Mặc dù vậy, các bản tin chiến tranh của Hoa Kỳ ngày nay có cải thiện chính sách đối ngoại Hoa Kỳ chút nào không?

Mark Twain đã có lần viết về thứ mà tôi cho là nghịch lý chủ chốt của thời đại chúng ta. Ông nói, “Nếu bạn không đọc báo thì bạn thiếu thông tin. Nếu bạn đọc báo thì bạn bị thông tin sai.”

Phóng viên vĩ đại A. J. Liebling của tờ Baltimore Sun đã có lần nói, “Báo chí là cái giát giường yếu của chiếc giường dân chủ.” Bill Moyes, khi còn ở PBS, đã mượn ý tưởng của Liebling, khi ông viết: “Sau cuộc xâm lược Iraq, chiếc giát gường đã gẫy và một số người mới nằm trên giường ngã ra sàn … các nhà báo chính quyền, những kẻ luận chiến tân bảo thủ, các học giả bâu xâu, những kẻ khiêu chiến cánh hữu phất lá cờ đầu lâu xương chéo của “sư đoàn cân bằng và công bằng.” Những khẩu súng phòng không của chính quyền có những lỗ hổng bị che dấu chế tạo ra những lời dối trá … tất cả nô đùa trên tấm nệm trong màn dạo đầu của dịch bệnh. 

Hàng ngàn người thiệt mạng và hàng tỷ dollar sau đó, đa số những người đồng mưu truyền thông dính líu vào “hành động tàn bạo” vẫn tỏa sáng, vẫn được chào đón, vẫn được giữ lại mà lời xin lỗi không khác gì một người dự báo thời tiết sai lầm về nhiệt độ trong ngày tiếp theo. 

Dạng tương tự của “tư tưởng nhóm” và thù địch với người có ý kiến đối lập đã cho thấy sự tai hại ở Việt Nam nửa thế kỷ trước đây và ở Iraq một thập kỷ trước đây lại một lần nữa là lá số tử vi của Washington ngày nay. Tờ New York Times và Washington Post nằm trên bậc cửa nhà tôi mỗi ngày và tôi bị thôi thúc đọc xem hệ tư tưởng tân bảo thủ đã nắm quyền kiểm soát trang xã luận ra sao, một sự phát triển khiến mọi người Mỹ lo ngại. Sức mạnh quân sự không thể tránh khỏi được khuyến nghị trước hết, thay vì là giải pháp cuối cùng. Đề xuất về việc xem xét cuộc xung đột từ các quan điểm khác bị coi như là đầu đất và không phải người Mỹ. Trái lại, rất đơn giản để nói hung hăng và phất cờ, trong khi phung phí tiền thuế quốc gia vào các trang thiết bị quân sự và phiêu lưu quân sự, ngay cả khi hàng triệu gia đình Hoa Kỳ tuột xuống bờ vực nghèo đói. 

Ở West Point và tháng 5 vừa qua, tổng thống Obama thừa nhận, “Một trong những sai lầm đắt giá nhất của chúng ta là từ sự sẵn sàng lao vào các cuộc phiêu lưu quân sự mà không hề nghĩ tới hậu quả, chứ không phải từ sự kiềm chế. Cho dù chúng ta là cái búa tốt nhất thì điều đó không có nghĩa là mọi vấn đề đều là chiếc đinh.”

Don North is a veteran war correspondent who covered the Vietnam War and many other conflicts around the world. He is the author of a new book, “Inappropriate Conduct,” the story of a Canadian World War II correspondent whose career was crushed by the intrigue he uncovered.

Wednesday, April 29, 2015

Chiến tranh lạnh phiên bản 2.0: Từ Việt Nam đến Iran

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch Bản Tin Chống Đế Quốc số 138 "Cold War 2.0" của tác giả William Blum. Tiêu đề do người dịch đặt.

Chiến Tranh Lạnh Phiên Bản 2.0

Chiến tranh lạnh 2.0, phần I

Trong “Bản Tin Chống Đế Quốc” mới nhất của tôi (ColdType số 95), tôi đã mang đến cho các bạn cuộc phiêu lưu mới nhất của người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Jen Psaki trong việc cố gắng bảo vệ thứ không thể bảo vệ. Bà ta đã nói: “Trong vấn đề chính sách dài hạn, Hoa Kỳ không ủng hội việc thay đổi chính trị bằng các phương tiện vi hiến”, điều đó đã thúc đẩy tôi cung cấp tin tức cho độc giả: “Nếu bạn biết cách liên lạc với bà Psaki, hãy bảo bà ấy xem danh sách hơn 50 chính quyền mà Hoa Kỳ đã cố gắng lật đổ kể từ khi kết thúc Thế Chiến Thứ II của tôi”. 

Vào ngày 13 tháng 3, cuộc tấn công thường lệ của bà ta vào tất cả những gì của Nga bao gồm cả chuyện này, trong cuộc trao đổi với phóng viên Matthew Lee của hãng thông tấn AP:
Lee: Về chủ đề này, bà có thể cho biết thêm về yêu cầu đối với Việt Nam về vịnh Cam Ranh và không cho phép người Nga – không muốn họ cho phép – bà không muốn họ cung cấp nhiên liệu cho máy bay Nga ở đó?
Psaki: Vâng, cần phải rõ ràng – và tôi có thể đã không rõ ràng vào ngày hôm qua, hãy để tôi cố gắng làm lại điều đó – điều đó – mối lo ngại của chúng ta là các hoạt động mà họ có thể thực hiện trong khu vực, câu hỏi là: Tại sao họ ở khu vực này? Không phải là việc tiếp liệu cụ thể hay yêu cầu Việt Nam không cho phép họ tiếp liệu. [thêm gạch chân]
Lee: Vậy là không có yêu cầu ngừng tiếp liệu cho họ? Hay là có?
Psaki: Điều đó còn hơn là về mối lo ngại. Đó không chỉ là về Việt Nam – mà còn là mối lo ngại về những hành động mà họ sẽ có ở khu vực.
Lee: Vâng, thưa bà – tôi cho rằng có máy bay Hoa Kỳ bay lượn ở đó suốt.
Psaki: Chắc chắn vậy.
Lee: Vậy là bà không muốn máy bay Nga bay ở đó, nhưng máy bay Hoa Kỳ bay ở đó thì được? Tôi muốn nói là, tôi chỉ - điều này là theo ý của bà – phỏng đoán rằng mọi thứ người Nga làm vào bất cứ khi nào ở bất cứ đâu đều bất chính và có ý định khiêu khích. Nhưng bà không thể - bà dường như không thể hiểu hay chấp nhận rằng máy bay Hoa Kỳ bay lượn ở khắp nơi, bao gồm cả khu vực đó, là quấy nhiễu Trung Quốc, đối với họ cũng như đối với Nga. Nhưng giả định rằng các chuyến bay của Hoa Kỳ luôn luôn tốt và có lợi và không gây ra căng thẳng, và chuyến bay của những người khác gây ra căng thẳng. Vậy bà có thể giải thích cơ sở cho mối lo ngại của bà về việc các chuyến bay của Nga ở khu vực Đông Nam Á – gây ra sự căng thẳng?
Psaki: Tôi không thể đi sâu hơn vào chi tiết.

Chiến tranh lạnh 2.0, phần II

Vào tháng trước, chính quyền Obama công bố một loạt các hình ảnh vệ tinh được coi là cho thấy quân đội Nga đã tham gia phe nổi loạn trong các trận tấn công tổng lực để bao vây các binh lính trong khu vực quanh thành phố. Nga đã phủ nhận rằng họ tham gia xung đột, không thể xác thực ba bức ảnh vệ tinh đen trắng có nhiều nhiễu được đại sứ Hoa Kỳ ở Ukraina Geofrey Piat đăng trên Twitter

Theo Hoa Kỳ, các bức ảnh thu được từ công ty vệ tinh tư nhân Digital Global cho thấy hệ thống pháo binh và súng phóng rocket nhiều nòng vào ngày thứ năm ở khu vực gần Debaltseve. “Chúng tôi tin chắc đây là các hệ thống của quân đội Nga, không phải của quân ly khai”, Pyatt đăng tin. (Washington Post, ngày 5 tháng 2 năm 2015) Khi liệt kê những cách mà Hoa Kỳ chìm dần xuống cát lún, từ từ biến chất thành một nước Thế Giới thứ ba, chiến dịch của Washington vào năm 2014-2015 để thuyết phục thế giới rằng Nga đã liên tục xâm lược Ukraina chiếm vị trí gần đầu bảng. Hàng sa số các ví dụ như trên có thể được đưa ra. Nếu tôi vẫn còn là gã quốc gia sô-vanh hiếu chiến như tôi đã được nuôi dạy thì tôi cũng sẽ cảm thấy bối rối bởi sự hiển nhiên trơ trẽn của tất cả chúng.

Hình ảnh lịch sử ngắn về sự suy tàn và sụp đổ của Đế quốc Hoa Kỳ, hãy xem video “Sự Tan Rã của Đế Quốc” của Class War Films (8 phút 50)

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh 1.0, truyền thông Hoa Kỳ ưa thích chế giễu truyền thông Soviet về việc không đáp ứng được các tiêu chuẩn sáng láng của báo chí phương tây. Một trong những nhận xét phổ biến nhất là về hai tạp chí chủ chốt của Nga – Pravda (có nghĩa là “sự thật” theo tiếng Nga) và Izvestia (có nghĩa là “tin tức” theo tiếng Nga). Chúng ta được nghe đi nghe lại rằng “không có sự thật ở Pravda và không có tin tức ở Izvestia”. Về sự giễu cợt như tôi đã làm nhiều năm đối với cách mà truyền thông chính thống Hoa Kỳ đưa tin về những kẻ thù chính thức (ODE), các tin tức mới về Nga đã vượt qua cả dự đoán tồi tệ của tôi. Tôi kinh ngạc mỗi ngày vì sự bất chấp tính khách quan hay công bằng trong các tin tức về Nga. Dĩ nhiên ví dụ quan trọng nhất về sự thiên vị này là việc không lưu ý các độc giả của họ rằng Hoa Kỳ và NATO đã bao vây Nga – với vụ đảo chính của Washington ở Ukraina là ví dụ mới nhất – và Moscow, vì một số lý do kỳ quặc, cảm thấy bị đe dọa bởi điều đó. (Hãy nhìn bản đồ trực tuyến các căn cứ quân sự của NATO và Nga, với một mô tả như: “Tại sao anh lại đặt nước mình vào giữa các căn cứ quân sự của tôi?”) 

Chiến tranh lạnh 2.0, phần III

Sau vụ sát hại lãnh tụ đối lập và là cựu phó thủ tướng Nga Boris Nemtsov ở Moscow vào ngày 27 tháng 2, phương tây đã có một ngày thu hoạch. Từ ám chỉ bóng gió mạnh mẽ tới cáo buộc phẫn nộ về vụ sát hại, truyền thông và chính khách phương tây đã không từ một cơ hội nào để mô tả Vladimir Putin như là một cầu thủ bóng đá ngớ ngẩn. Nghị viện Châu Âu ra nghị quyết thúc giục một cuộc điều tra quốc tế về cái chết của Nemtsov và đề xuất tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Liên Hiệp Quốc có thể tham gia điều tra. Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ John McCain và Lindsey Graham đề xuất nghị quyết của thượng viện lên án vụ giết hại Nemtsov. Nghị quyết cũng kêu gọi tổng thống Obama và cộng đồng quốc tế theo đuổi một cuộc điều tra độc lập về vụ sát hại và các nỗ lực không khoan nhượng thúc đẩy tự do ngôn luận, nhân quyền, thượng tôn pháp luật ở Nga. Thêm vào đó, họ còn thúc giục Obama tiếp tục trừng phạt những người vi phạm nhân quyền ở Liên Bang Nga và gia tăng sự hỗ trợ của Hoa Kỳ đối với các nhà hoạt động nhân quyền ở Nga. Chuyện đã diễn ra như vậy … khắp phương tây.

Trong cùng lúc đó ở Ukraina, bên ngoài khu vực thân Nga ở đông nam, các sự kiện dưới đây được đưa tin:
Ngày 29 tháng 1: Cựu chủ tịch chính quyền địa phương của khu vực Kharkov, Alexey Kolesnik, treo cổ tự tử.
Ngày 24 tháng 2: Stanislav Melnik, một thành viên của đảng đối lập (Partia Regionov), tự sát bằng súng.
Ngày 25 tháng 2: Thị trưởng Melitopol, Sergey Valter, treo cổ tự tử vài giờ trước phiên tòa xét xử ông ta.
Ngày 26 tháng 2: Alexander Bordiuga, phó giám đốc cảnh sát Melitopol, được phát hiện đã chết trong nhà để xe của ông ta.
Ngày 26 tháng 2: Alexander Peklushenko, cựu nghị sĩ quốc hội Ukraina, cựu thị trưởng của Zaporizhi, được phát hiện bị bắn chết.
Ngày 28 tháng 2: Mikhail Chechetov, cựu nghị sĩ quốc hội, thành viên của đảng đối lập (Partia Regionov), “rơi từ cửa sổ căn hộ tầng 17 của ông ta ở Kiev”.
Ngày 14 tháng 3: Công tố viên 32 tuổi ở Odessa, Sergey Melnichuk, “rơi” từ tầng 9 và chết.
Đảng Các Khu Vực đã trực tiếp cáo buộc chính quyền Ukraina trong cái chết của các đảng viên và kêu gọi phương tây phản ứng trước các sự kiện đó. “Chúng tôi kêu gọi Liên Minh Châu Âu, PACE [Thường Trực Hội đồng Nghị Viện Châu Âu] và các tổ chức nhân quyền Châu Âu cũng như quốc tế ngay lập tức phản ứng với tình hình ở Ukraina, đưa ra một đánh giá pháp lý với các hoạt động tội ác của chính quyền Ukraina, họ đã giết hại các đối thủ chính trị.” Chúng ta không thể kết luận từ những điều ở trên rằng chính quyền Ukraina phải chịu trách nhiệm về mọi thứ hay bất cứ thứ gì trong những cái chết đó. Nhưng chúng ta cũng không thể kết luận rằng chính quyền Nga phải chịu trách nhiệm về cái chết của Boris Nemtsov, truyền thông và chính khách Hoa Kỳ cũng vậy. Một tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu tin tức khổng lồ của Nexus phát hiện không có bất cứ đề cập vào về cái chết của những người Ukraina ngoại trừ trường hợp cuối cùng ở trên là Sergei Melnichuk, nhưng rõ ràng đây không phải là người đó. Dường như là không có cái chết nào ở trên được quy cho chính quyền Ukraina đồng minh của phương tây. 

Yêu cầu điều tra quốc tế về những cái chết đó đâu? Ở Hoa Kỳ hay ở Châu Âu? Thượng nghị sĩ McCain đâu rồi?

Hành hạ bằng trừng phạt

Thảo luận về việc kiềm chế chương trình vũ khí hạt nhân của Iran đã diễn ra hơn một năm giữa Iran và P5+1 (năm cường quốc hạt nhân của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cùng với Đức), do Hoa Kỳ chủ trì. Suốt thời kỳ này, chướng ngại vật đáng chú ý trong việc đạt được một thỏa thuận là tuyên bố của Yukiya Amano, giám đốc của Ủy Ban Năng Lượng Hạt Nhân Quốc Tế (IAEA). IAEA là cơ quan giám sát hạt nhân của Liên Hiệp Quốc, và các cuộc thanh sát của họ được coi là biện pháp an toàn chủ chốt chống lại các quốc gia sử dụng công nghệ năng lượng hạt nhân dân sự để sản xuất vũ khí hạt nhân.

Amano đã thường xuyên cáo buộc Iran không đáp ứng đầy đủ và cần thiết các chất vấn về “các khuynh hướng quân sự có khả năng” của các hoạt động hạt nhân hiện tại và quá khứ, hay không tạo điều kiện cho các tiếp cận cần thiết đối với các cơ sở hạt nhân. 

Việc Iran thất bại trong việc đáp ứng toàn diện các yêu cầu của IAEA đã phá hủy các nỗ lực đạt được việc dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt của Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ, hiện nay đang ngăn cản các công ty nước ngoài hợp tác với Iran và không cho Iran tiếp cận hệ thống tài chính toàn cầu. Tường thuật của truyền thông về các cuộc đàm phán thường xuyên nhấn mạnh cáo buộc của Amano về việc Iran không đáp ứng các yêu cầu của IAEA. Do vậy rất đáng để điều tra xem Amano là ai. 

Vào năm 2009, nhà ngoại giao Nhật Bản Yukiya Amano trở thành người đứng đầu IAEA. Điều mà truyền thông phương tây không lưu ý độc giả của họ là điện tín của đại sứ quán Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2009 (do Wikileaks công bố vào năm 2010) đã nói rằng Amano “chấp nhận đau đớn để khẳng định sự ủng hộ của ông ta đối với các mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ đối với ủy ban. Amano lưu ý đại sứ [Hoa Kỳ] vào một số dịp rằng … ông ta hoàn toàn nhất trí trong các phiên điều của Hoa Kỳ về mọi quyết định chiến lược, từ chỉ định các nhân sự cấp cao cho tới đàm phán về chương trình vũ khí hạt nhân được gán cho Iran.”

Ngay cả khi Iran có nỗ lực phi thường thỏa mãn các yêu cầu của IAEA và Washington về mọi vấn đề, thì vẫn chưa rõ là phạm vi và các biện pháp trừng phạt sẽ bị dỡ bỏ nhanh ra sao, nhất là khi quốc hội do phe cộng hòa nắm. Các chuyên gia của Iran và tác giả Gareth Porter mới đây đã viết rằng “Hoa Kỳ và các đồng minh của họ đã nỗ lực che dấu sự thật rằng họ có ý định duy trì “thiết chế trừng phạt” trong nhiều năm sau khi việc triển khai hiệp định đã bắt đầu. Vào tháng 11 vừa qua, các quan chức chính quyền đã giải thích rằng biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ sẽ được dỡ bỏ sau khi IAEA xác nhận rằng “Tehran tuân thủ các quy định của một thỏa thuận về gia hạn thời gian nhằm 'thúc đẩy Iran tôn trọng hiệp định'.”

Để thấy mức độ khủng khiếp của sức ép và sự áp bức mà Hoa Kỳ áp đặt đối với một quốc gia khác thì chúng ta có thể xem xét trường hợp của Libya trong thập kỷ tiếp theo vụ phá hủy chiếc máy bay số 103 của hãng hàng không PanAm vào năm 1988 trên bầu trời Scotland. Để buộc Libya “phải nhận trách nhiệm” về tội ác, Washington áp đặt các biện pháp trừng phạt nặng nề đối với chính quyền Gaddafi, trong đó có cấm các chuyến bay quốc tế tới Libya và bồi thường hàng tỷ dollar cho gia đình các nạn nhân. Libya đã “phải nhận trách nhiệm về tội ác” mặc dùy họ vô tội. Điều này khó có thể tin được nhưng là sự thật. Hãy xem tường thuật của tôi về chuyện đó ở đây.

Ngay cả khi Libya nhận trách nhiệm thì vẫn mất nhiều năm để Hoa Kỳ dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt, và không rõ là vào lúc Gaddafi chết năm 2011 thì tất cả các biện pháp trừng phạt đã được dỡ bỏ hay chưa. Khi một quốc gia được chính thức coi là kẻ thù của đế chế thì các phương pháp tra tấn có thể tinh tế và bất tận. Cuba mới đây đàm phán để chấm dứt các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ đối với Havana. Họ sẽ cần phải rất cẩn trọng.
Giống như những anh chàng cùng loại khác – như David Horowits và Christopher Hitchens – anh ta học quá nhiều ở trường đại học và quá ít sau đó.” Sam Smith
Tôi chưa bao giờ quá ấn tượng bởi trường đại học của một cá nhân, hay thậm chí là họ có đi học đại học không. Gore Vidal không học đại học; H. L. Mencken cũng vậy; Edward Snowden, người đã cho thấy khả năng ăn nói lưu loát và tư duy có giáo dục, cũng không. Trong số nhiều người cao quý bỏ dở việc học đại học có Bernard Shaw, Ernest Hemingway và Johann Wolfgang von Goethe.

Rồi chúng ta có những gã tốt nghiệp trường đại học thuộc Ivy League như George W. Bush, Barack Obama và Tom Cotton. Tôi không cần phải giới thiệu về trường hợp tư duy thiếu giáo dục của Bush; chúng ta đều quá quen thuộc với sự hấp dẫn của nó. Nhưng Obama đã bắt kịp cậu chàng Georgie về sự ngu ngốc và ngớ ngẩn hết lần này đến lần khác. Câu yêu thích của tôi, thứ mà ông ta sử dụng ít nhất là năm lần, là câu trả lời của ông ta về việc tại sao chính quyền của ông ta không truy tố Bush, Cheney và những kẻ khác về tội tra tấn và các tội ác chiến tranh khác: “Tôi mong muốn nhìn về phía trước hơn là phía sau.” Bức ảnh một bị cáo trước khi quan tòa xét hỏi được thấy vô tội trên cơ sở những lý do như vậy. Điều đó đơn giản khiến cho luật pháp, hành pháp, tội ác, công lý và sự phật là phi lý. Bức ảnh Chelsea Manning và những người tiết lộ khác cũng sử dụng lập luận này. Bức ảnh trái ngược với điều đó của Barack Obama, người trở thành công tố viên hàng đầu đối với những người tiết lộ trong lịch sử Hoa Kỳ.

Có ai còn nghĩ Barack Obama là một dạng tiến bộ tiến trí tuệ hơn so với George W. Bush? Dường như có dạng người vẫn còn nghĩ như vậy: (1) Những người coi trọng vấn đề màu da; (2) Những người bị ấn tượng mạnh bởi khả năng đặt câu đúng ngữ pháp. Nào chúng ta hãy xem Mr. Cotton, thượng nghị sĩ từ Arkansas và tốt nghiệp trường cao đẳng và trường luật Harvard. Ông ta có thể giải trí cho chúng ta nhiều năm với những phẩm chất như bình luận của ông ta trong chương trình “Đối mặt quốc gia” (15 tháng 3): “Hơn nữa, chúng ta phải chống lại các nỗ lực của Iran trong việc tiến tới thống trị khu vực. Họ đã kiểm soát Tehran, tiếp đó, họ kiểm soát Damascus, Beirut và Bagdad. Hiện giờ là Sana'a.”

Trời đất, Iran kiểm soát Tehran! Ai biết được? Thứ tiếp theo mà chúng ta sẽ được nghe là Nga kiểm soát Moscow! Sarah Palin, hãy vượt qua. Cậu chàng Cotton đã sẵn sàng cho chương trình Truyền Hình Trực Tiếp Đêm Thứ Bảy.

Thursday, January 1, 2015

Tra tấn và chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "American Exceptionalism and American Torture" của tác giả William Blum. Bài viết nhắc nhở rằng vụ scandal tra tấn mới đây của CIA không phải là sự ngẫu nhiên, tra tấn là truyền thống của Hoa Kỳ.  

Tra tấn và chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ

Vào năm 1964 trong cuộc đảo chính do Hoa Kỳ thiết kế, quân đội Brazil đã lật một chính quyền độc lập (không có gì tả hơn họ) và cai trị với bàn tay sắt trong 21 năm tiếp theo. Vào năm 1979, chính quyền quân sự thông qua một đạo luật ân xá ngăn chặn việc xét xử các thành viên của họ về tội tra tấn và các tội ác khác. Đạo luật ân xá đó vẫn còn hiệu lực. 

Đó là cách họ xử lý vấn đề tại nơi được gọi là Thế Giới Thứ Ba. Mặc dù vậy, tại Thế Giới Thứ Nhất thì họ không cần đến sự tinh tế pháp lý kiểu ấy. Tại Hoa Kỳ, quân đội tra tấn và các bố già chính trị của họ tự động đảm bảo sự ân xá, đơn giản chỉ là người Mỹ, hay chỉ cần là thành viên của “Câu Lạc Bộ Những Gã Tốt”. 

Hiện nay, sau khi báo cáo của Ủy Ban Tình Báo Thượng Viện về việc tra tấn của CIA được công bố, chúng ta bị sốc hơn bởi những tiết lộ về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Mặc dù vậy, người Mỹ và thế giới có cần một người khác nhắc nhở rằng Hoa Kỳ dẫn đầu thế giới về tra tấn? Thông điệp không thể tường thuật quá thường xuyên bởi sự tẩy não đối với người Mỹ và các tín đồ Mỹ trên khắp thế giới đã sâu sắc đến mức họ nhận được những cú sốc lặp đi lặp lại để đánh bật chúng ra khỏi đầu. Không ai làm công việc tẩy não tốt như quan hệ công chúng và quảng cáo của các nhà đầu tư Yankee già cỗi. Luôn luôn có một thế hệ mới tiến vào thời đại với những ngôi sao (và vạch) [chú thích: quốc kỳ Mỹ] trong ánh mắt. 

Mặc dù vậy, công chúng cũng được gợi nhắc lại chuyện cũ một lần nữa – trái với những điều mà hầu hết truyền thông và ngài Obama sẽ làm cho chúng ta tin tưởng – tổng thống thực sự chưa bao giờ cấm tra tấn về bản chất, bất chấp phát ngôn mới đây rằng ông ta đã “dứt khoát cấm tra tấn” sau khi nhậm chức. 

Ngay sau lễ nhậm chức của Obama, cả ông ta và Leon Panetta, giám đốc mới của CIA, tuyên bố rõ ràng rằng “chuyển giao” sẽ không chấm dứt. Như tờ Los Angeles Times tường thuật vào lúc đó: “Theo các mệnh lệnh mới đây của Obama, CIA vẫn có quyền thực hiện những thứ được coi là chuyển giao, lạm dụng bí mật và đưa các tù nhân sang các quốc gia hợp tác với Hoa Kỳ.” 

Từ “hợp tác” dịch sang tiếng Anh là “tra tấn”. Chuyển giao đơn giản là thuê ngoài tra tấn. Không có lý do nào khác để đưa tù nhân tới Lít-va, Ba Lan, Rumania, Ai Cập, Jordan, Kenya, Somalia, Kosovo, hay hòn đảo Diego Garcia trên Ấn Độ Dương, hay các trung tâm tra tấn khác do Hoa Kỳ thuê. Kosovo và Diego Garcia – cả hai đều có căn cứ quân sự lớn và rất bí mật của Hoa Kỳ - nếu không phải là một số nơi khác, vẫn có thể mở cửa cho công việc tra tấn, như căn cứ Guantánamo ở Cuba. 

Hơn nữa, quyết định của tổng thống dựa trên luật số 13491, công bố vào ngày 22 tháng 1 năm 2009, đó là “Thẩm vấn đảm bảo đúng pháp luật”, có một lỗ hổng lớn. Đạo luật khẳng định lặp đi lặp lại rằng đối xử nhân đạo, trong đó có việc không tra tấn, chỉ áp dụng đối với những tù nhân bị giam giữ trong một cuộc “xung đột vũ trang”. Do vậy, tra tấn bởi người Mỹ bên ngoài môi trường “xung đột vũ trang” không bị cấm hoàn toàn. Thế còn tra tấn trong phạm vi môi trường “chống khủng bố”? 

Quyết định của tổng thống yêu cầu CIA chỉ được sử dụng các biện pháp thẩm vấn được phác thảo trong Sổ Tay Quân Đội Chiến Trường đã chỉnh sửa. Mặc dù vậy việc sử dụng Sổ Tay Quân Đội Chiến Trường làm hướng dẫn đối xử với tù binh và thẩm vấn vẫn cho phép biệt giam, tước đoạt giác quan hay nhận thức, làm quá tải giác quan, cấm ngủ, gây sợ hãi và thất vọng, thuốc làm thay đổi thần kinh, can thiệp môi trường như nhiệt độ và tiếng ồn, các tư thế căng thẳng, đó là những ví dụ hấp dẫn của Chủ nghĩa ngoại lệ Hoa Kỳ. 

Sau khi Panetta bị một nhóm Thượng Viện thẩm vấn, tờ New York Times viết rằng ông ta đã “để ngỏ khả năng cục có thể tìm cách để được phép sử dụng các biện pháp thẩm vấn nghiêm khắc hơn là danh sách sách giới hạn mà tổng thống Obama cho phép theo các quy định mới …. Ngài Panette cũng nói rằng cục sẽ tiếp tục thực hiện việc “chuyển giao” của chính quyền Bush …. Nhưng ông ta nói rằng cục sẽ từ chối giao các nghi phạm cho các quốc gia được biết là có tra tấn hay có những hành động ‘xâm phạm các giá trị nhân bản của chúng ta’.” 

Câu cuối cùng dĩ nhiên là lố bịch một cách trẻ con. Những quốc gia được chọn để chuyển giao tù nhân đã được lựa chọn chính xác và duy nhất chỉ bởi vì họ sẵn sàng và có khả năng tra tấn tù nhân. 

Bốn tháng sau khi Obama và Panetta nhậm chức, tờ New York Times có thể đưa tin rằng việc chuyển giao đã đạt một tầm cao mới. 

Các bản tin mới cho biết sự ám ảnh của Washington với tra tấn bắt nguồn từ ngày 11 tháng 9, để ngăn chặn một sự lặp lại. Tổng thống nói về “sự sợ hãi quá mức của kỷ nguyên hậu 11 tháng 9”. Có một số điều đúng trong ý tưởng đó, nhưng đó không phải là một ý tưởng tốt. Tra tấn ở Hoa Kỳ thực sự đã cổ xưa như đất nước này. Liệu có chính quyền nào can dự vào sự kinh khủng đó nhiều hơn Hoa Kỳ? Huấn luyện, cung cấp hướng dẫn, cung cấp trang thiết bị, dựng lên các trung tâm tra tấn quốc tế, bắt cóc người dân tới những nơi đó, biệt giam, cưỡng bức ăn, Guantánamo, Abu Ghraib, Bagram, Chile, Brazil, Argentina, Chicago … Chúa tha tội cho chúng ta! 

Vào năm 2011, Brazil thiết lập Ủy Ban Sự Thật Quốc Gia để chính thức điều tra các tội ác của chính quyền quân sự đã kết thúc vào năm 1985. Obama trên thực tế từ chối lời kêu gọi về một ủy ban sự thật điều tra việc tra tấn của CIA. Mặc dù vậy, vào ngày 17 tháng 6 năm nay khi phó tổng thống Joseph Biden có mặt ở Brazil, ông ta đã trao cho Ủy Ban Sự Thật 43 bức điện tín và báo cáo của Bộ Ngoại Giao liên quan đến chính quyền quân sự Bazil, trong đó có một tài liệu mang tên “Bắt giam phổ biến và Thẩm vấn tâm sinh lý học đối với các nghi phạm lật đổ.” 

Do đó, một lần nữa Hoa Kỳ sẽ không phải chịu trách nhiệm về việc vi phạm pháp luật Hoa Kỳ, luật pháp quốc tế và luật pháp cơ bản về phép tắc nhân bản. Obama có thể kỳ vọng sự tử tế tương tự của người kế nhiệm như ông ta đã kế tục George W. 

“Một trong những thế mạnh tạo ra ngoại lệ Hoa Kỳ là sự sẵn sàng công khai đối đầu với quá khứ của chúng ta, đối mặt với sự không hoàn hảo của chúng ta, thay đổi và làm tốt hơn.” – Barack Obama, viết trong tuyên bố được đưa ra vào thời điểm sau khi bản báo cáo của Thượng Viện được công bố. 

Nếu đống đạo đức giả đó chưa đủ lớn hay chưa đủ bốc mùi, hãy thêm bình luận của Biden trong chuyến viếng thăm Brazil: “Tôi hy vọng rằng trong khi tiến tới thấu hiểu quá khứ thì chúng ta có thể tìm ra cách để tập trung vào những hứa hẹn tốt đẹp của tương lai.” 

Nếu những kẻ tra tấn của chính quyền Bush và Obama không phải chịu trách nhiệm ở Hoa Kỳ thì họ sẽ phải bị truy nã quốc tế theo những nguyên tắc của quyền lực pháp lý phổ quát. 

Vào năm 1984, Liên Hiệp Quốc có một bước tiến lịch sử với việc soạn thảo “Hiệp Ước Chống Tra Tấn và Các Đối Xử hay Trả Thù Tàn Bạo, Phi Nhân Đạo, Thấp Hèn” (có hiệu lực vào năm 1987, Hoa Kỳ phê chuẩn năm 1994). Điều 2 khoản 2 của Hiệp Ước khẳng định: “Không có bất kỳ ngoại lệ nào, bất kể là tình trạng chiến tranh hay đe dọa chiến tranh, bất ổn chính trị nội bộ hay các tình trạng khẩn cấp công cộng khác, có thể biện minh cho việc tra tấn.” 

Rất rõ ràng, rất chắc chắn, và rất chuẩn mực về ngôn ngữ, đặt ra một tiêu chuẩn duy nhất cho thế giới, điều đó gây khó khăn cho những người cảm thấy tự hào về nhân tính. Chúng ta không thể giở lại trang trước. Nếu ngày nay dường như việc tra tấn ai đó có thể chấp nhận được, như người bị tình nghi là có thông tin về “đánh bom tự sát” bảo vệ cuộc sống của nhiều người, thì ngày mai sẽ có thể chấp nhận việc tra tấn anh ta để tìm ra cách nhận dạng những người đồng mưu với anh ta. Liệu chúng ta có cho phép phục hồi tình trạng nô lệ trong một thời gian ngắn để phục vụ cho một vài “khẩn cấp quốc gia” hay một vài “mục đích cao cả hơn” khác? 

Nếu bạn mở cửa sổ cho tra tấn, thậm chí chỉ là một khe nhỏ, khí lạnh của Thời Đại Tăm Tối sẽ tràn đầy căn phòng. 

Wednesday, December 31, 2014

Okinawa ngăn chặn sự xoay trục sang Châu Á của Obama

Mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết của "A small island trying to block Obama's 'Asian Pivoting'" của tác giả Christine Ahn để thấy những nỗ lực của người dân Nhật Bản trong việc xóa bỏ các căn cứ quân sự Hoa Kỳ tại Nhật Bản. Tiêu đề do người dịch đặt lại.

Một hòn đảo nhỏ cố gắng ngăn chặn sự “xoay trục sang Châu Á” của Obama

Vào ngày 10 tháng 12 – Ngày Nhân Quyền Quốc Tế - Takeshi Onaga bắt đầu nhiệm kỳ của thống đốc mới ở Okinawa.

Tháng trước, các công dân của Okinawa đã mang đến chiến thắng vang dội cho Onaga, người điều hành một diễn đàn phản đối việc xây dựng căn cứ Hải Quân mới của Hoa Kỳ ở phía bắc Okinawa. Sử dụng khẩu hiệu “Tất cả Okinawa”, Onaga hứa hẹn “ngăn chặn việc xây dựng bằng mọi biện pháp có thể” và xóa bỏ sân bay trực thăng Osprey của Hải Quân, thứ mà ông gọi là “cản trở lớn nhất đối với sự phát triển của Okinawa.” 

Chiến thắng của Onaga – trong đó ông nhận được sự ủng hộ của 2/3 số cử tri – tạo thành một cuộc trưng cầu ý kiến của người dân Okinawa chống lại liên minh chặt chẽ với Washington của thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe trong việc tiếp tục quân sự hóa hòn đảo này.

Dấu vết đậm nét của Hoa Kỳ ở Okinawa

Tôi đến Okinawa vào đầu tháng 12 để tham gia một hội nghị phụ nữ và xây dựng hòa bình, và để nghe người dân Okinawa nói lên ý nghĩ về kế hoạch của Washington chuyển Sân Bay Futenma của Hải Quân đầy tai tiếng từ trung tâm thành phố Ginowan tới Vịnh Henoko có hệ sinh thái nguyên thủy.

Khi tôi chuyển tiếp ở sân bay quốc tế Narita của Tokyo sang cửa lên máy bay tới Naha, ấn tượng rõ ràng là tôi đi đến căn cứ Hoa Kỳ. Viên chức Hoa Kỳ trong đồng phục dân sự và chiến đấu, cùng với gia đình của họ, chiếm đại đa số tại khu vực sân bay.

Trong khi chờ chuyến bay, tôi ngồi chung bàn với một lính thủy người Mỹ gốc Phi cao lớn có tên là Ramone. Khi tôi hỏi anh ta tại sao lại đăng lính, anh ta nói rằng anh cần một sự thay đổi. Mẹ anh ta phản đối việc đăng lính bởi vì ông nội anh ta trở về từ Chiến Tranh Thế Giới thứ II “không ổn tí nào”, và chú anh ta không bao giờ hoàn toàn hồi phục sau chiến dịch Bão Táp Sa Mạc.

Mặc dù vậy, so với những cơ hội ít ỏi ở Nam Carolina, đời sống quân nhân là tốt đối với anh ta, và anh ta có thể nhanh chóng có được danh vọng. Bố của hai cô con gái, Ramone nói anh ta cảm thấy nuôi dưỡng gia đình ở Okinawa an toàn hơn là trở về quê nhà. Sau khi chúng tôi đã trở nên gần gũi hơn, tôi hỏi Ramone xem anh ta nghĩ sao về vị thống đốc mới trúng cử. Anh ta cười tủm tỉm và nói, “Lý tưởng của ông ta khác.”

Ramone là một trong số 26.000 lính Mỹ đóng quân ở Okinawa. Cùng với gia đình, họ tạo thành khoảng 50.000 người Mỹ sống cùng với 1,3 triệu dân Okinawa. Tuy tôi vui mừng rằng Ramone và gia đình của anh ấy ít phải đối mặt với sự phân biệt và bạo lực hơn ở quê nhà, nhưng điều thực sự khiến tôi áy náy là bạo lực và khó khăn đối với con người và vùng đất này trong thời kỳ quân đội Mỹ chiếm đóng Okinawa.

Điều đó cũng gợi cho tôi nhớ đến cuộc đối thoại mới đây với nhà vật lý trị liệu của tôi ở Honolulu, con gái của bà ấy sống cùng với chồng là lính thủy ở Okinawa. Bà ấy cũng nói rằng họ thích sống ở Okinawa, ngay cả khi họ chỉ có liên hệ giới hạn với mọi người. Khi tôi đủ can đảm để kích động bà ấy về bạo lực mà quân đội Mỹ đã dùng để chống lại phụ nữ Okinawa, bà ấy trả lời rằng có những ngăn cấm đáng tiếc đối với lính Mỹ ở Okinawa do hành động của “một vài trái táo thối.” 

Nhưng khi tôi nói chuyện nhiều hơn với người dân Okinawa và viến thăm các địa điểm tiềm năng cho căn cứ mới của Hải Quân Hoa Kỳ ở vịnh Henoko, tôi càng hiểu hơn tại sao chiến thắng của Onaga là một dấu hiệu rất đáng chú ý trong cuộc đấu tranh đòi chủ quyền đã kéo dài nhiều thập kỷ của người dân Okinawa.

Cuộc đấu tranh lâu dài của Okinawa

Quân đội Hoa Kỳ mô tả Okinawa là “Hòn đá tảng của Thái Bình Dương” do sự gần gũi của nó đối với các thành phố chính của Châu Á, bao gồm Seoul, Tokyo, Đài Bắc, Hong Kong, Thượng Hải và Manila. Ngày nay, Henoko là chìa khóa trong chiến lược bao vây Trung Quốc và Bắc Triều Tiên của Washington. Theo học giả về Nhật Bản Gavin McCormack, “Đây là cái được gọi là Cơ Sở Thay Thế Futenma (FRF), một căn cứ lục-hải-không quân với cảng nước sâu, được thiết kế để phục vụ xuyên suốt thế kỷ 21 với vai trò là điểm tập trung sức mạnh lục quân, hải quân và không quân lớn nhất ở Đông Á.”

Vào năm 1945, khi Nhật thua Thế Chiến II, Okinawa rơi vào sự kiểm soát của Hoa Kỳ. Mặc dù Nhật Bản được đảm bảo độc lập theo Hiệp Ước Hòa Bình San Francisco năm 1951, nhưng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục kiểm soát Okinawa trong 27 năm. Vào năm 1972, Hoa Kỳ trao trả Okinawa cho Nhật Bản, nhưng một hiệp ước bí mật giữa Washington và Tokyo cho phép Hoa Kỳ tiếp tục duy trì các căn cứ quân sự.

Trong Thế Chiến II, Okinawa là chiến trường duy nhất trong phần nổi tiếng của Nhật Bản. Một phần tư dân Okinawa đã chết. Theo Suzuyo Takazato, người sáng lập tổ chức Phụ Nữ Okinawa Hành Động Chống Lại Bạo Lực Quân Sự, trong thời kỳ hậu chiến, lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ đã giam giữ người dân Okinawa chạy loạn trong các trại tập trung và chiếm các vùng đất màu mỡ để xây dựng các căn cứ quân sự. Okinawa chiếm ít hơn 1% lãnh thổ đất liền Nhật Bản, mặc dù vậy 74% căn cứ quân sự Hoa Kỳ đóng ở đây, họ chiếm 1/5 diện tích đất liền của Okinawa.

Vào năm 1995, sau vụ cưỡng hiếp tập thể dã man một bé gái 12 tuổi của ba viên chức Hoa Kỳ, người dân Okinawa tiến hành các cuộc biểu tình quy mô lớn đòi xóa bỏ các căn cứ quân sự Hoa Kỳ ở Okinawa. Tình thế gây sốc đã buộc Tokyo phải đám phán với Hoa Kỳ vào năm 1996, thiết lập một Ủy Ban Hành Động Đặc Biệt ở Okinawa, được gọi là SACO, để bắt đầu giảm sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ xuống 20% - trong đó có việc đóng cửa căn cứ Futenma ở thành phố Ginowan. Giống như chiếc bánh rán, căn cứ Futenma chiếm 30% diện tích trung tâm thành phố Ginowan, và được bao quanh bởi nhà trẻ, trường học, đại học và bệnh viện, hoạt động dưới tiếng ồn kinh khủng của chiến đấu cơ phản lực, máy bay trực thăng và tàu sân bay.

Mặc dù vậy Hoa Kỳ đã nhanh chóng thay đổi lời hứa của họ, thay vì đóng cửa căn cứ Futenma thì lại đề xuất chuyển nó tới Trại Schwab ở vịnh Henoko. Điều đó đã gây ra giận dữ trong công chúng. Trong 18 năm, người dân Okinawa đã biểu tình liên tục hàng ngày trước cửa Trại Schwab và đường biển để ngăn chặn việc xây dựng căn cứ mới.

An ninh của ai? Không phải của phụ nữ Okinawa 

“Okinawa đã phải chịu đựng gánh nặng từ sự có mặt của quân đội Hoa Kỳ trong suốt 69 năm qua, Suzuyo Takazato nói. Với vai trò một nhân viên xã hội, bà đã làm việc cùng với những nạn nhân của bạo lực tình dục trong suốt hơn hai thập kỷ.

Takazato trao cho tôi một tài liệu liệt kê các tội ác của quân đội Hoa Kỳ đối với phụ nữ Okinawa trong hơn hai thập kỷ hậu chiến. Do không có các tài liệu chính thống về các tội ác đó, Takazako và những người khác đã đào xới các bản báo cáo của cảnh sát và các bài báo được cắt ra của các tạp chí từ năm 1945 đến năm 2012. Họ tập hợp chúng thành một tài liệu 26 trang gây sốc cho thấy bạo lực của quân đội Hoa Kỳ đối với phụ nữ và bé gái không phải là trường hợp của vài trái táo thối, mà mang tính cấu trúc.

Trong chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam, Okinawa đóng vai trò là sân bay xuất phát của quân đội Hoa Kỳ. Đây cũng là nơi mà binh lính Hoa Kỳ, rất nhiều người trong số họ bị PTSD (hội chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương), trở về sau chiến trận và gây ra các tội ác đối với người dân Okinawa, đặc biệt là phụ nữ và bé gái. Theo Takazato, cưỡng hiếp và các tội ác bạo lực đứng hàng đầu trong và sau các cuộc chiến đó. “Họ trở về sau chiến trận trong các điều kiện khủng khiếp và trút bỏ vào phụ nữ,” bà giải thích. Để quản lý binh lính Hoa Kỳ, những người sẽ đột nhập vào các gia đình địa phương và cưỡng bức phụ nữ và bé gái, Takazako giải thích rằng “Giống như một chiếc đai, các nhà thổ quân sự đã được thiết lập bao quanh các căn cứ quân sự.” 

Maki Sunagawa, một sinh viên 24 tuổi tốt nghiệp đại học Christian ở Okinawa, giải thích lý do cô phản đối chiếm đóng quân sự ở Okinawa. Thứ nhất, hồi cô còn học cấp 2, anh trai của cô đang ở trong thư viện của đại học Quốc Tế Okinawa khi mà máy bay trực thăng của Hải quân Hoa Kỳ đâm vào tòa nhà. Mặc dù không có sinh viên nào bị thương, nhưng điều đó đã gợi cho cô câu hỏi tại sao một căn cứ quân sự Hoa Kỳ lại ở gần nơi họ sống. Thứ hai, lúc cô học trung học, một trong những bạn thân của cô tiết lộ với cô là bị năm binh lính mặc thường phục cưỡng hiếp tập thể. Sunagawa nói bạn của cô không bao giờ kể với bố mẹ hay cảnh sát, và trong 8 năm đã phải chịu đựng trầm cảm, không thể hoàn thành trung học.

Một đồ thị Sao và Vạch cho thấy vào năm 2011 có 333 báo cáo về việc lính thủy Hoa Kỳ tấn công tình dục đối với phụ nữ tại các căn cứ hải quân khắp thế giới. Okinawa với 67 vụ tấn công đứng thứ hai sau Trại Lejeune ở Jacksonville, Florida (Hoa Kỳ). Nhiều nỗ lực đã được đưa ra để ngăn chặn hành động của các binh lính Hoa Kỳ, nhưng các cuộc tấn công vẫn tiếp diễn. Ví dụ, vào năm 2012, trong một triển khai ngắn hạn tới Okinawa từ Forth Worth, Texas, hai nhân viên hải quân Hoa Kỳ đã tấn công và cưỡng hiếp một phụ nữ Okinawa. Không giống như hầu hết các vụ án tấn công tình dục khác vốn thất bại trong việc mang lại công lý cho phụ nữ nạn nhân, hai thủy thủ đó đã bị xét xử và buộc tội ở tòa án của Nhật Bản và đang chịu án 10 năm tù giam trong nhà tù Nhật Bản. “Chúng tôi sợ hãi trong suốt những ngày nghỉ lễ như Ngày Quốc Tế Lao Động và ngày 4 tháng 7,” Takazato nói, bởi vì sự gia tăng của bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em.

Đầu độc biển và đất đai 

Khi chúng tôi đi bằng thuyền ở vịnh Henoko và Oura – nơi có kế hoạch thu hồi 160 ha biển để xây dựng các đường băng lớn và các cầu bốc dỡ - tôi nói chuyện với một số nhà hoạt động, già và trẻ, tham gia ngăn chặn việc xây dựng.

Takeshi Miyagi, một nông dân 44 tuổi, nói ông bỏ cánh đồng của mình vào tháng 7 để tham gia phản kháng với việc theo dõi biển bằng ca-nô. Miyagi nói rằng ông và các nhà hoạt động khác đang bảo vệ hệ sinh thái giàu có của vịnh Henoko và Oura và sự sinh tồn của cá nược. Bộ Môi Trường Nhật Bản liệt kê cá nược – một loài động vật biển có vú có họ hàng với lợn biển – vào danh sách “bị đe dọa nghiêm trọng.” Chúng cũng được đưa vào danh sách các chủng loài bị đe dọa của Hoa Kỳ.

Theo McCormack, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng rằng trong 5.334 chủng loài tồn tại ở biển có 262 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng. Cũng báo cáo đó của Bộ Quốc Phòng đã khẳng định rằng có một ít cá thể cá nược sống trong vịnh, nhưng các nhà nghiên cứu mới đây đã phát hiện trong một chuỗi hai tháng hơn 100 cá thể cá nược đang kiếm ăn trong khu vực thu hồi. Điều này đã thúc đẩy các nhóm bảo tồn Hoa Kỳ và Nhật Bản đệ đơn kiện chống lại Bộ Quốc Phòng để ngăn chặn việc xây dựng. Người dân Okinawa cũng chỉ ra lịch sử làm đầu độc bằng hóa chất của các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Vào tháng trước, Bộ Quốc Phòng Nhật Bản bắt đầu khai quật sân bóng đá ở Okinawa, nơi chôn các thùng chứa thuốc diệt cỏ độc hại được phát hiện năm ngoái. Vào tháng 7, chính quyền Nhật Bản đào được 88 thùng chứa nguyên liệu để chế tạo chất độc màu da cam ở khu đất được thu hồi gần căn cứ không quân Kadena.

Sự phản đối mạnh mẽ của người dân Okinawa đối với việc xây dựng căn cứ mới ở vịnh Henoko không chỉ thách thức chính sách xoay trục quân sự sang Châu Á của chính quyền Obama mà còn thúc đẩy nhận thức về những tác động tiêu cực đối với con người và sinh thái của hàng trăm căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên khắp thế giới. Quan trọng nhất là chiến thắng dân chủ ở Okinawa đem lại hy vọng cho những đấu tranh tương tự ở Guam, Philippine và đảo Jeju của Hàn Quốc, với sự bền bỉ và phản kháng phi bạo lực, họ cũng sẽ ngăn chặn được cỗ máy chiến tranh quyền lực nhất thế giới.

Christine Ahn is the International Coordinator of Women De-Militarize the Zone.

Wednesday, December 10, 2014

Chiến tranh băng giá của Washington chống lại Nga

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Washington’s Frozen War Against Russia" của tác giả Diana Johnstone về cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Nga hiện nay. Tác giả đã chỉ ra mục tiêu của Hoa Kỳ là thay đổi chế độ ở Nga, lật đổ tổng thống Putin.

Chiến Tranh Băng Giá của Washington chống lại Nga

Hơn một năm qua, Hoa Kỳ đã triển khai kịch bản được thiết kế để (1) tái lập sự kiểm soát của Hoa Kỳ đối với Châu Âu bằng cách ngăn chặn Châu Âu giao thương với Nga, (2) làm phá sản Nga, (3) lật đổ Vladimir Putin và thay thế ông ta bằng một tay sai của Hoa Kỳ, giống như kẻ say sưa Boris Yeltsin trước đây.

Những ngày qua đã cho thấy rất rõ sự phản bội kinh tế trong cuộc chiến của Hoa Kỳ chống lại Nga.

Tất cả bắt đầu ở hội nghị quốc tế cấp cao quan trọng về tương lai của Ukraina được tổ chức ở Yalta vào tháng 12 năm 2013, tại đó chủ đề chính là cuộc cách mạng khí đá phiến mà Hoa Kỳ hy vọng có thể sử dụng để làm suy yếu Nga. Cựu bộ trưởng năng lượng Hoa Kỳ Bill Richardson ở đó để tạo đà, được Bill và Hillary Clinton hoan nghênh. Washington hy vọng sử dụng kỹ thuật fracking để tạo ra nguồn năng lượng thay thế cho khí đốt tự nhiên, loại Nga ra khỏi thị trường. Khối lượng đó sẽ khiến cho Châu Âu mù quáng.

Nhưng cú lừa đó không thể hoàn thành dựa trên “thị trường” bất khả xâm phạm, do fracking tốn kém hơn việc chiết xuất khí đốt của Nga nhiều. Một cuộc khủng hoảng quan trọng là cần thiết để bóp méo thị trường với sức ép chính trị. Với cuộc đảo chính ngày 22 tháng 2, do Victoria Nulanad dàn xếp, Hoa Kỳ đã thành công trong việc giành quyền kiểm soát Ukraina, đưa tay chân “Yats” (Arseniy Yatsenyuk) lên nắm quyền, người này ủng hộ việc gia nhập NATO. Mối đe dọa trực tiếp đối với căn cứ hải quân của Nga ở Crimea đã dẫn tới cuộc trưng cầu dân ý sáp nhập một cách hòa bình bán đảo lịch sử của Nga trở lại Nga. Nhưng dàn đồng ca của Hoa Kỳ lên án việc sáp nhập hòa bình bán đảo Crimea là “cuộc xâm lược quân sự của Nga”. Động thái phòng vệ đó được NATO loan báo là bằng chứng của việc Putin có ý đồ xâm lược các quốc gia láng giềng của Nga ở Đông Âu bất kể lý do. 

Cùng lúc đó, kinh tế xâm lược của Hoa Kỳ đã lặng lẽ lan tỏa.

Ukraina là một trong những nguồn dự trữ khí đá phiến lớn nhất ở Châu Âu. Giống như các quốc gia Châu Âu khác, người Ukraina đã chống lại các tác động tổn hại môi trường của việc fracking trên quê hương của họ, nhưng không giống các quốc gia khác, Ukraina không có luật cấm. Chevron đã tham gia.

Vào tháng 5 vừa qua, R. Hunter Biden, con trai của phó tổng thống Hoa Kỳ, trở thành thành viên trong ban giám đốc của Burisma Holdings, nhà cung cấp khí đốt tư nhân lớn nhất của Ukraina. Biden trẻ chịu trách nhiệm về bộ phận pháp lý của Holdings và đóng góp vào “sự mở rộng quốc tế” của công ty.

Ukraina có đất canh tác màu mỡ cũng lớn như dự trữ dầu đá phiến. Người khổng lồ nông nghiệp Cargill của Hoa Kỳ đã đặc biệt tích cực ở Ukraina, đầu tư vào kho chứa ngũ cốc, thức ăn gia súc, nhà cung cấp trứng và hãng kinh doanh nông nghiệp chủ chốt, Ukr Land Farming, cũng như cảng tại Novorossiysk ở Biển Đen. Hội Đồng Kinh Doanh Hoa Kỳ-Ukraina cũng rất tích cực với sự có mặt của Monsanto, John Deere, nhà chế tạo nông cụ CNH Industrial, DuPont Pioneer, Eli Lilly và Công Ty. Monsanto dự định xây dựng một “nhà máy hạt giống ngũ cốc không biến đổi gen” trị giá 140 triệu dollar ở Ukraina, nhắm tới thị trường e ngại hạt giống biến đổi gen (GMO) của Châu Âu. Trong bài phát biểu tại hội nghị của Hội Đồng Kinh Doanh Hoa Kỳ-Nga do Chevron tài trợ một năm trước đây, Victoria đề cập tới việc Hoa Kỳ đã chi 5 tỷ dollar trong hai mươi năm qua để giành được Ukraina.

Vào ngày 2 tháng 12, tổng thống Poroshenko bổ nhiệm ba người ngoại quốc làm bộ trưởng trong nội các: một người Mỹ, một người Lít-va và một người Grudia. Ông ta cấp quốc tịch Ukraina cho họ chỉ vài phút trước buổi lễ bổ nhiệm. 

Người sinh ra ở Mỹ, Natalie Jaresko, là bộ trưởng tài chính mới của Ukraina. Với một nền tảng gia đình Ukraina cũng như bằng cấp của trường Harvard và DePaul, Jaresko chuyển từ Bộ Ngoại Giao tới Kiev để lãnh đạo phòng kinh tế của đại sứ quán Hoa Kỳ mới mở khi Ukraina tách ra khỏi Liên Bang Soviet. Ba năm sau, bà ta rời đại sứ quán Hoa Kỳ để lãnh đạo quỹ Western NIS Enterprise được Hoa Kỳ tài trợ. Vào năm 2004, bà ta thiết lập quỹ đầu tư cổ phiếu riêng. Với vai trò là người ủng hộ cuộc Cách Mạng Cam năm 2004, bà ta tham gia Hội Đồng Cố Vấn Nhà Đầu Tư Nước Ngoài của tổng thống “Cam” Viktor Yushenko. 

Chủ ngân hàng đầu tư Aivaras Abromavicius là bộ trưởng Kinh Tế mới, đặt chính sách kinh tế vào ảnh hưởng của Hoa Kỳ hơn là kiểm soát.

Bộ trưởng Y Tế mới, Aleksandr Kvitashvili từ Grudia, được đào tạo ở Hoa Kỳ và không nói tiếng Ukraina. Ông ta từng là bộ trưởng y tế tại quê hương Grudia dưới thời tổng thống tay sai của Hoa Kỳ Mikheil Saakashvili.

Hoa Kỳ đã hoàn tất việc kìm chặt kinh tế Ukraina. Bước kế tiếp là bắt đầu fracking, dĩ nhiên sẽ biến Hunter Biden thành nhà tài phiệt mới nhất của Ukraina.

Không ai đề cập tới điều này nhưng hiệp định thương mại gây tranh cãi giữa E.U. và Ukraina, đã bị trì hoãn khiến cho cuộc biểu tình Maidan dẫn tới cuộc đảo chính ngày 22 tháng 2 do Hoa Kỳ chỉ đạo, xóa bỏ các rào cản thương mại, cho phép tự do xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp do công ty Hoa Kỳ sản xuất ở Ukraina sang các quốc gia E.U. Chính quyền Ukraina chìm đắm trong nợ nần nhưng điều đó không ngăn cản các công ty Hoa Kỳ kiếm lợi nhuận khổng lồ từ đất nước màu mỡ, lương thấp và phi luật lệ. Các nhà sản xuất ngũ cốc Châu Âu, như Pháp, có thể bị thiệt hại lớn khi gặp cạnh tranh giá rẻ.

Cuộc tấn công của chính quyền Kiev bị ám ảnh bởi Nga ở Đông Nam Ukraina đã giết chết lĩnh vực công nghiệp vốn có thị trường ở Nga của quốc gia. Nhưng đối với những nhà cai trị Kiev từ miền tây Ukraina thì điều đó không quan trọng. Cái chết của công nghiệp cũ kỹ có thể giữ cho lương thấp và lợi nhuận cao.

Ngay sau khi người Mỹ giành quyền kiểm soát kinh tế Ukraina, Putin thông báo hủy bỏ dự án đường ống dẫn khí đốt Tuyến Phương Nam. Hợp đồng được ký vào năm 2007 giữa Gazprom và công ty hóa dầu ENI của Ý, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp khí đốt của Nga cho vùng Ban-căng, Áo và Ý tránh đi qua Ukraina, một quốc gia trung gian không đáng tin cậy khi liên tục không thanh toán các khoản nợ và hút khí đốt chuyển cho Châu Âu để sử dụng. Công ty Đức Winterhall và công ty Pháp EDF cũng đầu tư vào Tuyến Phương Nam.

Trong những tháng gần đây, các đại diện của Hoa Kỳ gia tăng sức ép, buộc các quốc gia Châu Âu đã tham gia phải hủy bỏ dự án. Tuyến Phương Nam là phao cứu sinh đối với Serbia, vẫn đang khốn đốn bởi hậu quả từ những trận ném bom của NATO và tư hữu hóa các ngành công nghiệp để bán đổ bán tháo cho nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh nhu cầu về công ăn việc làm và an ninh năng lượng, Serbia cũng sẽ nhận được 500 triệu euro phí quá cảnh hàng năm. Belgrade phản đối cảnh báo rằng Serbia phải tuân thủ chính sách đối ngoại chống lại Nga của E.U. để đáp ứng các điều kiện làm ứng cử viên gia nhập E.U.

Điểm yếu là Bulgaria, nước này cũng nhận được những lợi ích tương tự khi chấp nhận cho đường ống đi qua lãnh thổ. Đại sứ Hoa Kỳ ở Sofia, Marcie Ries đã bắt đầu cảnh báo các doanh nhân Bulgari rằng họ có thể phải gánh chịu trừng phạt nếu hợp tác với các công ty Nga. Chủ tịch về hưu của Ủy Ban Châu Âu, José Manuel Barroso người Bồ Đào Nha, người được coi là “Maoist” khi “chủ nghĩa Mao” biện minh cho việc chống lại phong trào giải phóng được Soviet hậu thuẫn ở các thuộc địa Châu Phi của Bồ Đào Nha, đã đe dọa Bulgaria với việc khởi kiện bất tuân thủ Châu Âu trong hợp đồng Tuyến Phương Nam. Điều này dẫn chiếu tới quy định của E.U. chống lại việc cho phép cùng một công ty cung cấp và chuyển tiếp khí đốt. Nói ngắn gọn là E.U. đang cố gắng áp dụng quy định của bản thân theo kiểu hồi tố cho hợp đồng được ký kết với một quốc gia không thuộc E.U.

Cuối cùng, John McCain bay tới Sofia để hăm dọa thủ tướng Bulgaria, Plamen Oresharski, để hủy bỏ hợp đồng, khiến cho Tuyến Phương Nam nằm trên Biển Đen mà không có lối vào đất liền Ban-căng.

Tất cả những chuyện nực cười đó cho thấy hoàn cảnh cuộc chiến tuyên truyền hiện nay của Hoa Kỳ chống lại Nga, kiểu như Gazprom là một vũ khí nguy hiểm được Putin sử dụng để “ép buộc” và “bắt nạt” Châu Âu.

Bằng chứng duy nhất là Nga thường xuyên kêu gọi một cách vô ích Ukraina trả các khoản nợ khí đốt quá hạn.

Hủy bỏ Tuyến Phương Nam là một cú đánh đến muộn của NATO vào Serbia. Thủ tướng Serbia Aleksandar Vucic than vãn về tổn thất Tuyến Phương Nam: “Chúng ta đang trả giá cho xung đột giữa các cường quốc.”

Các đối tác người Ý trong hợp đồng cũng không vui vẻ với tổn thất lớn đó. Nhưng quan chức và truyền thông E.U. vẫn lên án Putin về mọi thứ như thường lệ.

Dĩ nhiên là khi bạn thường xuyên bị xúc phạm và cảm thấy không được chào đón thì bạn sẽ quay đi. Putin mang dự án đường ống dẫn dầu sang Thổ Nhĩ Kỳ và ngay lập tức bán cho thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Erdogan. Điều đó có vẻ như là một hợp đồng tốt cho Nga, cho Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng toàn bộ sự việc vẫn chỉ là điềm báo.

Dầu của Nga là công cụ ép buộc? Nếu Putin có thể sử dụng Gazprom để buộc Erdogan thay đổi chính sách về Syria, và từ bỏ quyết định lật đổ Bachar al Assad, nhằm đánh bại Nhà Nước Hồi Giáo thần kỳ, thì đó sẽ là kết quả tuyệt vời. Nhưng hiện giờ vẫn chưa có dấu hiệu của một sự tiến triển như vậy.

Sự thay đổi từ Ban-căng sang Thổ Nhĩ Kỳ đào sâu ngăn cách giữa Nga và Tây Âu, mà trong dài hạn sẽ gây tổn thương cho cả hai phía. Nhưng điều đó cũng đào sâu bất bình đẳng kinh tế giữa phương Nam và phương Bắc Châu Âu. Đức vẫn nhận được khí đốt của Nga từ Tuyến Phương Bắc, dự án hợp tác của Gerhard Schroeder với Putin. Song các quốc gia phía Nam Châu Âu, vốn đang chìm trong khủng hoảng của đồng euro, thì bị bỏ mặc trong lạnh giá. Điều này có thể thúc đẩy nổi loạn chính trị đang lớn dần tại những quốc gia đó.

Khi những tiếng nói dấy lên ở Ý phàn nàn rằng trừng phạt Nga khiến Châu Âu bị tổn thương nhưng Hoa Kỳ thì vô sự, người Châu Âu có tự an ủi bằng diễn ngôn của người được giải Nobel Hòa Bình ở Nhà Trắng, người ca ngợi Liên Minh Châu Âu làm điều đúng đắn, ngay cả khi điều đó “là gay go đối với kinh tế Châu Âu”.

Trong bài phát biểu với các CEO hàng đầu vào ngày 3 tháng 12, Obama nói rằng sự trừng phạt nhằm mục tiêu thay đổi “nhận thức” của Putin, nhưng không nghĩ rằng điều đó sẽ thành công. Ông ta chờ đợi “chính trị trong nội bộ Nga” sẽ “bắt kịp với những gì diễn ra trong kinh tế, đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục duy trì sức ép.” Hay nói cách khác là ăn cắp thị trường khí đốt của Nga, ép buộc Châu Âu áp đặt trừng phát, và khiến những gã gốc mù quáng của Washington ở Arab Saudi hạ giá dầu bằng cách làm tràn ứ thị trường, đều chỉ nhằm mục đích khiến nhân dân Nga đủ ghét Putin để lật đổ ông ta. Nói một cách ngắn gọn là thay đổi chế độ.

Vào ngày 4 tháng 12, Hạ Viện Hoa Kỳ chính thức công bố động cơ của Hoa Kỳ phía sau thông điệp bằng cách đưa ra một thứ có thể coi là tồi tệ nhất mà khối lập pháp từng đưa ra: Nghị quyết 758. Nghị quyết là một bản tóm tắt tất cả những dối trá chống lại Vladimir Putin và Nga trong hơn một năm qua. Chưa bao giờ có nhiều lời dối trá được nhồi nhét trong một văn bản chính thức như vậy. Mặc dù vậy, cuộc chiến tuyên truyền được chứng thực bằng số phiếu thông qua 411 so với 10 phản đối. Nếu như điều này không dẫn đến chiến tranh giữa hai cường quốc hạt nhân, và vẫn còn những nhà sử học trong tương lai, thì họ sẽ đánh gia nghị quyết này là bằng chứng sự thất bại hoàn toàn của trí tuệ, trung thực, và tinh thần trách nhiệm của hệ thống chính trị mà Washington đang cố gắng áp đặt cho toàn thế giới.

Ron Paul đã viết một phân tích xuất sắc về tài liệu đáng xấu hổ đó ở đây và ở đây nữa

Bất kể người ta có nghĩ gì về chính sách đối nội của Paul, về đối ngoại thì ông ta đứng riêng một mình – rất riêng biệt – tiếng nói của lý trí. (Đúng như vậy, có cả Dennis Kucinich nữa, nhưng họ loại bỏ ông ta bằng cách xóa bỏ theo kiểu gian lận quận của ông ta khỏi bản đồ.)

Sau một danh sách dài những lời nói dối “Xét rằng”, gây tổn thương và đe dọa, chúng ta trở thành phe gây sự thô bỉ trong chiến dịch nguy hiểm này. Hạ Viện kêu gọi các quốc gia Châu Âu “làm suy yếu khả năng sử dụng nguồn khí đốt như là công cụ tạo sức ép chính trị và kinh tế đối với các quốc gia khác của Liên Bang Nga” và “thúc giục tổng thống xúc tiến phê chuẩn của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ về việc xuất khẩu khí đốt hóa lỏng sang Ukraina và các quốc gia Châu Âu khác.” 

Quốc Hội đã sẵn sàng mạo hiểm và thậm chí là khuyến khích chiến tranh hạt nhân, nhưng họ đi từ “tuyến dưới”. Điều quan trọng là việc đánh cắp thị trường khí đốt của Nga bằng thứ mà cho đến nay vẫn là trò lừa gạt: khí đá phiến thu được từ fracking của Hoa Kỳ.

Tồi tệ hơn Chiến Tranh Lạnh

Phái tân bảo thủ đang điều khiển các chính khách thiếu trải đời của Hoa Kỳ sẽ đẩy chúng ta vào một cuộc Chiến Tranh Lạnh mới. Cuộc đối đầu dai dẳng với Liên Bang Soviet là “Lạnh” do Sự Phá Hủy Đảm Bảo Cho Đôi Bên (MAD). Cả Washington và Moscow đã hoàn toàn nhận thức được rằng chiến tranh “Nóng” có nghĩa là đụng độ vũ khí hạt nhân sẽ tiêu diệt tất cả mọi người.

Khi thời đó qua đi, Hoa Kỳ nghĩ rằng họ đã “thắng” trong Chiến Tranh Lạnh và dường như say sưa với sự tự thỏa mãn rằng họ có thể thắng một lần nữa. Sự nâng cấp vũ khí hạt nhân của họ và xây dựng “lá chắn hạt nhân” quanh biên giới Nga chỉ nhằm mục tiêu tạo cho Hoa Kỳ khả năng đánh phủ đầu – khả năng hạ gục bất cứ sự trả đũa nào của Nga đối với tấn công hạt nhân của Hoa Kỳ. Điều đó không thể có tác dụng, nhưng nó làm suy yếu sự ngăn chặn.

Nguy cơ của một cuộc chiến toàn diện giữa hai cường quốc hạt nhân thực sự lớn hơn dưới thời Chiến Tranh Lạnh. Hiện nay chúng ta đang ở trong một dạng Chiến Tranh Băng Giá, bởi vì tất cả những gì mà Nga làm hay nói đều không có bất cứ tác động nào. Phe tân bảo thủ đang tạo ra các chính sách của Hoa Kỳ ở phía hậu trường đã sáng tạo ra câu chuyện giả tưởng về “sự xâm lược” của Nga mà thổng thống của Hoa Kỳ, truyền thông và giờ là Quốc Hội phải chấp nhận và tán thành. Các nhà lãnh đạo Nga phản ứng với sự trung thực, sự chân thành và nhận thức chung, vẫn đang kiềm chế bất chấp những thóa mạ đối với họ. Điều đó không tạo ra bất cứ thứ gì tốt đẹp. Tình thế bị đóng băng. Khi lý trí thất bại, bạo lực sẽ tiếp bước. Sớm hay muộn.

Diana Johnstone is the author of Fools’ Crusade: Yugoslavia, NATO, and Western Delusions. Her new book, Queen of Chaos: the Foreign Policy of Hillary Clinton, will be published by CounterPunch in 2015. She can be reached at diana.johnstone@wanadoo.fr