Showing posts with label Nhà nước. Show all posts
Showing posts with label Nhà nước. Show all posts

Thursday, January 28, 2016

Hối lộ chính trị ở Nhật Bản - Nhật Bản "Mới"

Các chương đã được dịch của cuốn sách:







6. Nhật Bản “Mới” 



Hối Lộ Chính Trị ở Nhật Bản - Chương 6: Nhật Bản "Mới"  


Vào ngày 28/4/1952, Nhật Bản trở thành quốc gia có chủ quyền dưới sự thống trị của các lực lượng chính trị và kinh doanh bảo thủ. Một đặc điểm nổi bật của sự kết hợp giữa chính trị và kinh doanh này là thường xuyên xảy ra các vụ án hối lộ chính trị. Ví dụ, trong giai đoạn 1955 – 1993, các tờ báo lớn đưa tin trung bình hơn một vụ bê bối chính trị mỗi năm. [1]

Vào năm 1952, các doanh nhân quan trọng có truyền thống hỗ trợ đảng cầm quyền, đã không ngần ngại điều chỉnh nguồn tài trợ chính trị; họ muốn giảm chi phí đóng góp chính trị và ngăn chặn các vụ bê bối hối lộ nhạy cảm, vốn thu hút sự chú ý của công chúng vào các hành động phi pháp và bất lương. Do vậy, các doanh nhân chủ chốt thúc giục các chính khách bảo thủ đang đối đầu nhau ổn định chính giới bằng cách thành lập một đảng thống nhất. Bị hấp dẫn bởi viễn cảnh sẽ thu hút được các khoản quyên góp chính trị lớn và lo ngại phong trào thống nhất cả các chính khách xã hội chủ nghĩa, các đảng Tự Do và Dân Chủ Nhật Bản đã thống nhất thành đảng Dân Chủ Tự Do vào tháng 11/1955. Đây là sự khởi đầu cho “hệ thống 1955” tồn tại lâu dài. Vào đầu năm đó, một Hội Đồng Tái Thiết Kinh Tế, do giới kinh doanh thiết lập, đã hứa hẹn sẽ cung cấp các quỹ bầu cử cho các chính khách bảo thủ. [2] Giữa những vận động chính trị dẫn đến đảng bảo thủ mới, điều mà giới kinh doanh lo ngại đã xảy ra khi nội các thứ 5 của Yoshida (21/5/1953 – 10/12/1954) phải gánh chịu một vụ bê bối chính trị lớn khiến công chúng nhớ đến vụ bê bối của công ty Showa Electric và sự sụp đổ của nội các Ashida. 

Vụ bê bối đóng tàu, thu hút được sự chú ý của công chúng vào mùa xuân năm 1954, bắt nguồn từ một vụ kiện giữa ba doanh nhân tại Tòa án Quận Tokyo vào tháng 8/1953. Công tố viên điều tra vụ án đã phát hiện ra hai tín phiếu thương mại rất lớn (mỗi cái lên đến 10 triệu yen và mang tên công ty Tàu Thủy Yamashita) mà người hưởng là Inomata Osamu. Hơn nữa, họ còn khám phá ra rằng Inomata đã nhận được khoản vay 185 triệu yen từ công ty Tàu Thủy Yamashita. Sổ kế toán của công ty không ghi chép gì về cả tín phiếu cũng như khoản vay. Họ cũng sớm phát hiện ra rằng Inomata đã vay 33,5 triệu yen từ công ty Vận Tải Biển Nhật Bản và 90 triệu yen từ công ty Vận Tải Nhật Bản. Công tố viên xác định được ít nhất 100 triệu yen đã được một hãng đóng tàu giảm trừ cho công ty Tàu Thủy Yamashita và khoản tiền đó được dùng để hối lộ các chính khách cũng như viên chức. [3]

Sau khi sự bùng nổ kinh tế nhờ chiến tranh Triều Tiên xẹp đi, các công ty vận tải và đóng tàu đã thúc ép chính phủ phải hỗ trợ tài chính, viện cớ chi phí lãi suất ngân hàng và các khoản thuế quá cao. Các đại diện của những công ty này phân phát tiền cho các viên chức và chính khách chủ chốt để nhận được các khoản vay ưu đãi. Tiền dùng cho hối lộ đến từ các khoản lại quả bí mật của các công ty đóng tàu cho công ty vận tải. Thông thường, công ty đóng tàu sẽ lại quả khoảng 3 – 5% giá tàu cho công ty đặt hàng. Việc bôi trơn các viên chức chính phủ có thẩm quyền sẽ được bù đắp bằng việc thông qua Luật Trợ Cấp Lãi Suất và Bảo Hiểm Chống Lại Những Tổn Thất Của Ngành Đóng Tàu Biển vào tháng 1/1953. Điều khoản quan trọng của luật này là cho phép vay tiền ngân hàng với lãi suất 7,5% (lãi suất ngân hàng thông thường là 11%), chính phủ cam kết sẽ thanh toán 3,5% chênh lệch cho ngân hàng. Các công ty vận tải muốn sự hỗ trợ của chính phủ được mở rộng, do vậy đạo luật được sửa đổi vào tháng 8/1953. Theo luật mới, chính phủ cam kết sẽ trả tới 30% khoản nợ của các công ty vận tải. Ước tính là đã có khoảng 50 triệu yen được phân phát cho các chính khách và viên chức trong quá trình vận động sửa đổi luật. [4]

Trong cuộc điều tra Inomata Osamu, công tố viên của Tòa Án Quận Tokyo đã vô tình tóm được người môi giới liên quan đến khoản lại quả và mạng lưới hối lộ. Sử dụng bằng chứng thu thập được từ hồ sơ của Inomata, các công tố viên bắt giữ Yokota Aizaburò, chủ tịch của công ty Tàu Thủy Yamashita và hai viên chức khác. Thêm nhiều bằng chứng bị thu giữ, trong đó có ghi chép của Yokota, liệt kê hơn 30 chính khách và viên chức nổi tiếng. Yokota không chỉ ghi lại ngày tháng và tên tuổi mà còn ghi lại chi tiết về mục đích của mỗi cuộc gặp. Dĩ nhiên, sổ ghi chép là một danh sách những “khoản quyên góp” (tức là hối lộ) cho việc thông qua luật tháng 1/1953. Trong số những người được nêu tên có phó thủ tướng Ogata Taketora; tổng thư ký đảng Tự Do Satò Eisaku; Ikeda Hayato, chủ tịch của Hội Đồng Nghiên Cứu Chính Sách Đối Nội của Đảng (đảng Tự Do); và bộ trưởng Bộ Vận Tải Ishii Mitsujirò. Các công tố viên ước tính số lượng bôi trơn được bơm vào cỗ máy chính trị khoảng 100 triệu yen; tất cả các công ty vận tải lớn đều đóng góp. Trong số đó, đảng Tự Do nhận được phần lớn nhất (30,5 triệu yen) để sử dụng trong tổng tuyển cử tháng 4/1953. Satò nhận 20 triệu yen khác cho quỹ của đảng Tự Do và bản thân ông ta nhận được 2 triệu yen nữa. [5]

Trong cuộc điều tra này, công tố viên thẩm vấn hơn 150 người; trước khi vụ án kết thúc, nó đã trở thành vụ bê bối hối lộ chính trị lớn nhất cho đến nay. Yokota của công ty Tàu Thủy Yamashita và ba nhân viên khác đã bị cáo buộc đưa và nhận hối lộ. Chủ tịch và nhân viên của các công ty vận tải biển và đóng tàu khác cũng bị kết án. Trong số những người bị kết án nhận hối lộ có Tsuboi Genkò, trưởng Văn Phòng Bộ Vận Tải; Kuniyasu Seiichi, trưởng Ban Điều Phối Hàng Hải của bộ; và 15 nhân viên khác của bộ. Hạ nghị sĩ và phó tổng thư ký của đảng Tự Do Arita Jirò bị kết ản cả nhận và đưa hối lộ. Các hạ nghị sĩ của đảng Tự Do là Sekiya Katsutoshi và Okada Gorò cũng bị kết án. [6]

Trong cuộc điều tra, các công tố viên đã ghi nhận là cả Satò Eisaku và Ikeda Hayato đều nhận 2 triệu yen “quyên góp”. Khoản tiền đó không phải là hối lộ, Satò nói, ông ta lên án việc kế toán liên quan tới các khoản quyên góp chính trị cho đảng Tự Do không hợp lý. Hơn nữa, ông ta chỉ ra rằng ông ta không nhận được các lợi ích tài chính cá nhân nào. Các công tố viên bác bỏ sự bào chữa này và lập luận rằng tiền được đưa để tác động tới sự sửa đổi luật tháng 1/1953. Do đó, Satò đã vi phạm khoản 4 điều 197 của Luật Hình Sự. Trong vụ án của Ikeda, công tố viên đã chấp nhận lập luận rằng tiền là “quà tặng” tiễn chân trước chuyến đi tới Hoa Kỳ. Vào ngày 21/4/1954, tổng chưởng lý Satò Tòsuke yêu cầu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Inukai Takeru (còn được gọi là Inukai Ken) xin phép Hạ Viện bắt giữ Satò. Dưới sức ép của thủ tướng Yoshida và phó thủ tướng Ogata, Inukai từ chối xin phép Hạ Viện, viện dẫn thẩm quyền của ông ta theo Điều 14 của Luật Công Tố (Luật số 61, 16/4/1947). Inukai từ chức vào ngay ngày hôm sau, sau khi thực hiện thẩm quyền chưa từng có tiền lệ. [7]

Tại sao Inukai lại tự sát chính trị để cứu Satò? Inukai nói với báo chí rằng vai trò của Satò đối với các dự luật ở Quốc Hội là rất quan trọng, do tình thế đặc biệt này nên việc bắt giữ có thể được trì hoãn tới khi kỳ họp kết thúc. Trên thực tế, Inukai nợ Yoshida một khoản nợ chính trị lớn và vì lý do đó đã sẵn sàng hy sinh. Vài năm trước, Yoshida đã hứa hẹn với Inukai, người không thuộc đảng Tự Do, một vị trí trong nội các; việc giữ lời hứa là rất khó bởi vì những thành viên quan trọng của đảng Tự Do đều không thích Inukai. Trong khi vấn đề này được xử lý, Inukai đi ra nước ngoài với sự tài trợ của những người ủng hộ tài chính của Yoshida. Cuối cùng, Inukai nhận vị trí ở bộ Tư Pháp vào tháng 10/1952 và do vậy mắc nợ Yoshida. [8]

Hành động của Inukai không chỉ khiến công chúng phẫn nộ mà còn làm mất tinh thần của các công tố viên Tokyo. Tinh thần đã được cải thiện khi bộ trưởng Bộ Tư Pháp Katò Ryògorò (22/4 – 19/6) lưu ý tổng chưởng lý Satò rằng sau sự giải tán Hạ Viện vào ngày 19/6 thì Satò Eisaku không còn quyền miễn tố nữa. Vào lúc đó, công tố viên cho rằng cáo buộc hối lộ đối với Satò sẽ không thể chứng minh được bởi vì sự trì hoãn đã buộc họ phải thả hơn 17 người, những người này sau đó sẽ bàn bạc với nhau về những gì họ đã nói với công tố viên. Tuy vậy, công tố viên cho rằng có bằng chứng cho thấy Satò vi phạm Luật Điều Chỉnh Quỹ Chính Trị, do đó họ truy tố ông ta. Việc bắt giữ Satò đã châm ngòi cho việc từ chức của bộ trưởng Katò; ông ta bị thay thế bởi cựu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara Naoshi. Khi Ohara cố gắng trấn an các công tố viên giận dữ, thủ tướng Yoshida đã thông báo rằng không có gì sai khi chính phủ can thiệp vào vụ bê bối đóng tàu: việc bộ trưởng Bộ Tư Pháp sử dụng thẩm quyền là khá chính xác. Hơn nữa, thủ tướng nói rằng việc kế toán không hoàn hảo của Satò là một điều bình thường; bắt giữ ông ta vì một cuốn sổ kế toán ghi chép thiếu rõ ràng về tiền nong là một hành động phá hoại chính trị đảng phái. [9]

Trong vụ bê bối hối lộ này, 71 doanh nhân và chính khách đã bị bắt giữ (34 người bị truy tố) và 34 viên chức Bộ Vận Tải bị bắt giữ (17 người bị truy tố). Đa số các con cá lớn đã lọt lưới pháp luật. Chỉ có các chính khách Arita, Sekiya và Okada của đảng Tự Do cùng với các viên chức của Bộ Vận Tải là Tsuboi, Kuniyasu và ba đồng nghiệp khác nhận án tù. Tất cả 8 người đều được hoãn thi hành án (bản án của tòa phúc thẩm cho hai phiên tòa được tuyên vào ngày 28/1/1960 và 1/5/1962). Đối với Satò Eisaku, bị xét xử ở Tòa Án Quận Tokyo vào ngày 18/12/1954, số phận cũng tương tự: ông ta được cứu thoát bằng đại ân xá ngày 19/12/1956, khi Nhật Bản gia nhập Liên Hiệp Quốc. [10] Do vậy, bộ máy chính trị bảo thủ đã thoát khỏi vụ bê bối đóng tàu mà không có thiệt hại lớn: Satò và Ikeda Hayato trở thành thủ tướng vào đầu những năm 1960.

Mặc dù việc phơi bày vụ hối lộ chính trị không khiến nội các thứ 5 của Yoshida sụp đổ, nhưng nó cũng đóng góp vào sự sụp đổ của nội các trong tháng 12/1954. Các lãnh đạo doanh nghiệp lớn, vốn ủng hộ mạnh mẽ việc thành lập nội các mới, vào mùa hè năm 1954 đã sẵn sàng bỏ rơi Yoshida. Vào mùa xuân, báo chí đăng các bản tin trang nhất về sự cấu kết bẩn thỉu giữa doanh nhân và chính khách. Trong xã luận ngày 18/4, tờ Asashi Newspaper khẳng định rằng sự từ chức của Yoshida là cách duy nhất để khôi phục niềm tin của công chúng đối với chính quyền. [11] Một khảo sát được thực hiện vào ngày 28/2 ở khu vực nội đô Tokyo hỏi, “Bạn có cho rằng nội các Yoshida phải chịu trách nhiệm về những vụ hối lộ chính trị gần đây?” Gần 70% người tham gia đã trả lời “có”. Một khảo sát khác vào ngày 18 – 19/3 ở Tokyo, Osaka và Yokoham hỏi, “Bạn có nghĩ nội các Yoshida phải chịu trách nhiệm về những vụ bê bối gần đây liên quan đến viên chức chính quyền?” Tỷ lệ trả lời “Có” cũng tương tự. [12] Sự giận dữ của công chúng, như các khảo sát ý kiến đã cho thấy, đã tiếp tục được duy trì trong nửa năm tiếp theo, kêu gọi Yoshida từ chức. [13] Bất chấp việc Yoshida mất uy tín, chính phủ không cho thấy là sẽ từ chức. Một người quan sát đương thời viết, “[Yoshida] và những người dưới quyền trong Quốc Hội cảm thấy rằng đằng sau những sự ồn ào do báo chí khuấy lên, thành phần cốt lõi ủng hộ họ mới chỉ bị quấy rối nhẹ bởi những yếu tố phi lý như sự không hợp lý về tiền bạc, khi mà sự ủng hộ đó không dựa trên những nền tảng kém ổn định như lý tưởng về sự đoàn kết của chính khách.” [14] Tác giả này nhắc tới hệ thống chính trị jiban truyền thống mà sự trung thành cá nhân (được củng cố bằng tiền) đã bảo vệ các chính khách trước sự chỉ trích của công chúng. Việc gần như hoàn toàn miễn dịch với sự chỉ trích của công chúng không bảo vệ Yoshida khỏi bộ máy doanh nghiệp lớn đang giận dữ. Vào mùa thu năm 1954, các lãnh đạo doanh nghiệp lớn đã quyết định Yoshida phải từ chức để cải thiện tình hình chính trị và kinh tế. Đối mặt với một sự cắt giảm quyên góp chính trị của doanh nghiệp lớn và sự nổi loạn trong nội các, chính phủ Yoshida sụp đổ vào ngày 10/12/1954.

Một kết quả của năm khủng hoảng 1954 là quyết định của Liên Hiệp Các Tổ Chức Kinh Tế (Keizai Dantai Rengòkai hay Keidanren) về việc tránh các bê bối xấu xí bằng cách tìm ra một nguồn tiền đáng tin cậy cho phe bảo thủ. Vào ngày 11/1/1955, phó chủ tịch Uemura Kogorò của Keidanren đề xuất với ban điều hành về một tổ chức mới được tạo ra để gây quỹ chính trị. Một hiệp hội được gọi là Hội Đồng Tái Thiết Kinh Tế được sinh ra. Mục tiêu của nó là ngăn chặn những người xã hội chủ nghĩa kiểm soát chính quyền và hỗ trợ sự thống nhất của các chính khách bảo thủ. Hiệp hội mới, được đăng lý là tổ chức chính trị, sẽ không phải đóng thuế. Các khoản quyên góp chính trị của giới kinh doanh sẽ được miễn thuế đến một mức nhất định. [15] “Mục đích của phương pháp tài trợ chính trị mới…là rất rõ ràng. Tình hình kinh doanh gợi nhớ đến năm 1931 khi bị những kẻ cuồng tín cánh hữu tấn công….Nhưng vào năm 1955, giới kinh doanh phải đối mặt với những địch thủ cánh tả trong các công đoàn và đảng xã hội chủ nghĩa, họ thông minh hơn, có tổ chức tốt hơn và do vậy ghê ghớm hơn trong dài hạn.” [16]

Trong một bài phỏng vấn nhiều năm sau đó, Hanamura Nihachirò, trưởng bộ phận tổng hợp của Keidanren, khẳng định rằng sau vụ bê bối đóng tàu ông ta được phó chủ tịch Uemura Kogorò cho biết rằng nguồn “tiền sạch” phải được tạo ra để hỗ trợ các chính khách bảo thủ. Điều mà Uemura nghĩ là “các khoản quyên góp của những doanh nhân không đòi hỏi lợi ích đặc biệt cho sự hào phóng mình. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa không thể tham gia vì họ luôn muốn có lợi ích tức thời cho các đầu tư chính trị của họ…Các doanh nghiệp lớn phải được thuyết phục đóng góp mà không cần sự đáp lại.” [17] Trong nhiều năm sau, các doanh nghiệp lớn sẽ nhìn thấy sự thông thái của việc đóng các khoản bảo hiểm chính trị và ký tên trong danh sách của Hanamura. Hiệp hội mới điều tiết dòng tiền với mục tiêu cung cấp cho các đảng chính trị và không cung cấp cho các phe phái cũng như cá nhân. [18]

Cựu thủ tướng Yoshida viết trong hồi ký rằng vụ hối lộ đóng tàu và “các cáo buộc vô cớ” xuất hiện vào lúc đó vẫn là những hồi ức khó quên nhất trong sự nghiệp chính trị của ông. “Tôi không bao giờ có thể tìm hiểu toàn bộ vụ việc,” ông ta viết, “nhưng, từ những gì tôi đã biết được liên quan đến sự đồng lõa của Satò, tôi hiểu rằng tòa án có thể đặt ra câu hỏi có hay không việc vi phạm Luật Điều Chỉnh Quỹ và Chi Tiêu Chính Trị, nhưng không bao giờ Viện Công Tố giải thích trước tại sao ngài Satò phải bị bắt giữ.” Đạo luật hỗ trợ công nghiệp đóng tàu, ông ta tiếp tục, “có tầm quan trọng quốc gia và không nên – không bao giờ nên - có bất cứ câu hỏi nào về sự ảnh hưởng của tiền bạc đối với sự thông qua hay phủ quyết nó; sự đóng góp cho quỹ của đảng Tự Do được những người có trách nhiệm trong giới tài chính và các thành viên của ngành công nghiệp đóng tàu sắp xếp, không có nghĩa là chỉ những người hưởng ứng sự kêu gọi của đảng.” Tiếp đó, Yoshida cáo buộc rằng các công tố viên, thay vì thu thập “các bằng chứng khách quan”, đã dùng các phương pháp “trung cổ” bằng cách ép cung các nghi phạm. “Câu hỏi về việc bắt giữ ngài Satò xuất hiện,” ông ta viết tiếp, “…khi tiến trình ở Hạ Viện đã đạt đến điểm quyết định….[K]hông có lý do nào đủ mạnh để cho phép một sự gián đoạn nghiêm trọng công việc của chính phủ như việc bắt giữ ông ấy gây ra.” Quyết định ngăn cản việc bắt giữ Satò cho đến sau khi kết thúc kỳ họp Quốc Hội, Yoshida viết, “được coi là một nỗ lực gây sức ép bất hợp pháp của chính phủ đối với cuộc điều tra…và dấy lên làn sóng chỉ trích từ mọi phía, mặc dù vậy, khi kỳ họp Quốc Hội kết thúc…[công tố viên] đã kiềm chế - vì những lý do khó hiểu của họ - không có bất cứ hành động nào.” Yoshida kết luận rằng hành động của công tố viên không làm ông ta thấy buồn bằng “cách mà một số…chính khách, biết rõ tình hình thực tế liên quan đến vụ việc, đã sử dụng vụ việc để làm vũ khí chính trị…và làm vậy để nhận được sự hoan nghênh của công chúng.” [19]

Các phàn nàn về những đối thủ bẩn thỉu, sử dụng vụ bê bối hối lộ này để làm vũ khí chống lại Yoshida có vẻ là sai, theo kinh nghiệm của một chính khách dày dạn; Yoshida sẽ làm điều tương tự với những người xã hội chủ nghĩa. Về phía công tố, các động cơ chính trị của những người liên quan đến vụ án này vẫn chưa rõ, nhưng trong phạm vi Bộ Tư Pháp, công tố viên không chỉ có quyền pháp lý theo đuổi các cuộc điều tra mà họ thấy là phù hợp mà còn tự hào về truyền thống độc lập. [20] Tuy vậy, hành động của một số công tố viên trong các cuộc điều tra thời tiền 1945 (cụ thể là vụ Teijin) đã làm xấu hình ảnh của các điều tra viên với việc ép cung. Yoshida nhận được sự đồng cảm của độc giả bằng cách nhắc nhở họ về những chiến thuật cưỡng ép trong quá khứ. Dường như quan sát của Yoshida về việc công tố viên hủy bỏ vụ án hối lộ của Satò “vì những lý do khó hiểu của họ” cũng nhận được sự đồng cảm của độc giả. Đây là một chuyển biến kỳ lạ của sự việc, khi mà khoảng thời gian giữa sự can thiệp của bộ trưởng Bộ Tư Pháp Inukai và kết thúc kỳ họp Quốc Hội chỉ là vài tuần. Giải thích của tổng chưởng lý Satò, được đưa ra vào ngày 16/6, về việc tất cả những nghi phạm hối lộ bị thẩm vấn đã được thả, là không rõ ràng. [21] Một số nghi phạm phải ký vào bản cung khai, những tài liệu đó phải được sử dụng. Mặt khác, các công tố viên cũng không có đủ bằng chứng để truy tố tội hối lộ. Những người quan sát vụ bê bối này cũng ngạc nhiên về việc tổng chưởng lý Satò không từ chức khi đối mặt với sự can thiệp của bộ trưởng Bộ Tư Pháp Inukai: việc từ chức có thể giữ được danh dự cho đội ngũ công tố viên. Cuối cùng, sự suy đoán xem động cơ nào đã khiến công tố viên hăng hái điều tra các vụ hối lộ thời hậu chiến đến như vậy cũng cần phải được tính đến. Một phần của câu trả lời là xung đột giữa cảnh sát và công tố viên về việc ai sẽ kiểm soát điều tra là vấn đề lâu dài có từ trước cả thời Showa, nhưng vào những năm 1930, công tố viên đã chiến thắng trong cuộc đua này, đặc biệt là trong các vụ án chính trị. Luật Tố Tụng Hình Sự năm 1948 đã chuyển sự kiểm soát lại cho cảnh sát. Công tố viên chống lại sự thay đổi này bằng cách cố gắng giành lại quyền lực và uy thế đã mất. Cuối cùng, sự nhượng bộ của cảnh sát đã đặt công tố viên vào vị trí chỉ huy trong việc điều tra các vụ án hối lộ nghiêm trọng. [22] Nếu xung đột này được tính đến, sự quyết đoán bền bỉ trong việc theo đuổi các chính khách và doanh nhân tham nhũng của công tố viên trở nên dễ hiểu hơn.

Việc bộ trưởng Bộ Tư Pháp Inukai sử dụng Điều 14 để can thiệp vào điều tra đã dẫn đến một cuộc tranh luận pháp lý gay gắt giữa các học giả. Vài năm sau, ba viên chức tư pháp được phỏng vấn và nêu ý kiến của họ. Cựu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara Naoshi nhắc đến những lập luận gay gắt về việc sử dụng điều này nhưng cho biết rằng đó không phải là lần đầu tiên một bộ trưởng Bộ Tư Pháp thực hiện quyền chỉ đạo liên quan đến cuộc điều tra đặc biệt. Ohara cho biết, quyền này được dựa trên cấu trúc luật pháp hỗ trợ Bộ Tư Pháp. Do vậy, hành động của Inukai không sai về mặt pháp lý. [23] Cựu tổng chưởng lý Satò Tòsuke khẳng định “Dĩ nhiên, anh có thể nói là nếu tôi từ chức vào lúc đó thì có thể tốt hơn, song nếu tôi làm vậy thì tinh thần của công tố viên sẽ suy sụp. Điều đó sẽ tạo ra hỗn loạn. Bên cạnh đó, điều này sẽ tạo ra một tiền lệ rất xấu.” [24] Khi được hỏi Điều 14 có nên bị xóa bỏ không, Satò trả lời rằng nó nên được giữ lại để kiểm soát các công tố viên quá hung hăng nhưng không nên được sử dụng thường xuyên. Hanai Tadashi, chưởng lý của Tòa Phúc Thẩm Tokyo, nói rằng sau khi Điều 14 được sử dụng thì cáo trạng của nghi phạm thay đổi. Ông ta cho rằng, nếu không sử dụng điều luật đó thì vụ án sẽ được mở rộng hơn nhiều và sẽ làm nội các Yoshida sụp đổ. [25]

Sự hợp nhất của các lực lượng bảo thủ vào tháng 11/1955 (đảng Dân Chủ Tự Do) đã đánh dấu sự khởi đầu của sự thống trị một đảng kéo dài gần bốn thập kỷ. Mặc dù các thành viên của đảng mới đồng ý thống nhất xây dựng một chính phủ bảo thủ và kinh tế ổn định song cuộc hôn nhân chính trị kiểu súng săn của họ đã không ngăn chặn được cả cuộc chiến chính trị tàn phá đôi bên lẫn sự mở rộng của chính trị tiền bạc. Chính đảng mới ngay từ đầu đã là một tập hợp phe phái, nhưng chủ nghĩa phe phái không được thể chế hóa cho đến cuộc bầu cử chủ tịch vào năm 1956, tổng bí thư Kishi Noboshuke đã mất bảy phiếu vào tay Ishibashi Tanzan. Vào đỉnh điểm của cuộc bầu cử, bên cạnh chức thủ tướng là sự bảo trợ và khả năng thu hút một số tiền lớn mà người thắng sẽ giành được. Hơn nữa, phe phái chính trị trong sự kiểm soát của chính phủ đã phát triển và trở thành chính trị thống trị. [26] Hơn nữa, việc bầu cử đảng này đã “tạo ra tiền lệ cho việc chi một số tiền lớn vào cuộc tranh cử chức chủ tịch”. Ước tính là “phái Kishi đã chi 300 triệu yen cho cuộc tranh cử, phái Ishibashi chi 150 triệu yen và phái Ishii Mitsujirò chi 80 triệu yen. Tổng số tiền này, khổng lồ vào thời đó, được các ứng cử viên chi cho các thủ lĩnh phe phái”. Không có gì ngạc nhiên khi “bầu cử chủ tịch được coi là “chính trị tiền bạc””. Khi bầu chủ tịch đảng vào năm 1964 (Ikeda Hayato thắng) thậm chí một số chính khách bảo thủ “còn cảm thấy rằng sự tranh cử đã theo kịch bản hối lộ và chiêu đãi đắt tiền”. [27]

Công nghiệp hóa thần tốc vào những năm 1950 đã làm suy yếu jiban cũ; để thích nghi với tình hình mới, một số chính khách đã tổ chức kòenkai (nhóm ủng hộ chính trị thường trực) nhằm củng cố jiban. Bên cạnh sự củng cố jiban này, các chính khách cũng mở rộng ảnh hưởng của họ bằng cách bán rao các dự án chi tiêu ngân sách. Trong số đó có các dự án kỹ thuật dân sự, được chính sách kinh tế của nội các Ikeda khuyến khích vào đầu những năm 1960. [28] Chính sách thiếu kỷ luật này có hai mục tiêu: một dòng tiền chảy vào ngân sách tranh cử của chính khách và sự ủng hộ của cử tri.

Mặc dù thời kỳ này không tạo ra bê bối chính trị lớn như vụ Showa Electric hay vụ đóng tàu song tham nhũng diễn ra dưới thời thủ tướng Satò cũng đủ để chính quyền này nhận danh hiệu “màn đen”. Vụ hối lộ nghiêm trọng nhất liên quan đến công ty tinh chế đường Kyòwa. Vào năm 1966, công chúng phát hiện các nhân viên Kyòwa đã quyên góp nhiều khoản lớn cho chính khách đảng Dân Chủ Tự Do (sau đó Aizawa Shigeaki, một người xã hội chủ nghĩa, cũng bị phát hiện nhận tiền) để được vay tiền của ngân hàng Hợp Tác Nông Lâm Nghiệp Trung Ương. Trong số những người nhận “quyên góp” có Shigemasa Seishi, cựu bộ trưởng Bộ Nông Lâm Nghiệp, từng là chủ tịch của Kyòwa trước khi được bổ nhiệm. Trong cuộc điều tra, các công tố viên phát hiện ra khoảng 120 triệu yen đã được sử dụng để bôi trơn bộ máy chính trị và đảng viên xã hội chủ nghĩa Aizawa, một thành viên của Ủy Ban Kiểm Tra Thượng Viện, đã nhận 1 triệu yen. Sau khi thẩm vấn hàng tá hạ nghị sĩ, các công tố viên đã chỉ truy tố Aizawa. Sau khi bị kết án, ông ta nhận hình phạt 2 năm tù vì tội nhận hối lộ và các tội khác. Bị báo chí dồn ép, đảng xã hội chủ nghĩa lên án vụ bê bối và yêu cầu bầu cử quốc gia; các đối thủ của phe Satò cũng hy vọng sử dụng vụ án này để lật đổ chủ tịch đảng. Bất chấp sự tấn công từ bên ngoài và bên trong, đảng Dân Chủ Tự Do vẫn kiểm soát được chính phủ sau cuộc bầu cử tháng 1/1967 và Satò vẫn làm chủ tịch đảng. [29]

Mặc dù đảng Dân Chủ Tự Do bị đảng xã hội chủ nghĩa tấn công, họ lên án chính phủ là tham nhũng và kiếm lợi nhờ nội chiến, cũng như một số đảng viên tranh cử bằng cương lĩnh chống tham nhũng, song phe bảo thủ vẫn an toàn trong bão tố chính trị. [30] Đảng Dân Chủ Tự Do đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng này bởi vì “quần chúng quốc gia hài lòng với thành tích kinh tế của chính quyền bảo thủ.” Nông dân hạnh phúc với “giá cả sản phẩm chính yếu của họ, gạo, chủ yếu là nhờ vào trợ cấp hào phóng của chính phủ.” Nhiều công nhân thành thị cũng hài lòng với việc lương tăng đều đặn, vào năm 1970 “tính trung bình gấp 2,3 lần năm 1955”. Do vậy, đảng bảo thủ thắng lợi bởi vì cử tri không sẵn sàng lật đổ các chính khách “đứng đằng sau sự thần kỳ kinh tế”. [31]

Tanaka Kakuei trở thành chủ tịch của đảng Dân Chủ Tự Do vào năm 1972 và thành lập nội các vào ngày 7/7. Tanaka là chủ sở hữu một công ty xây dựng, ông ta đã sử dụng các công việc quản lý kỹ thuật dân sự và công trình công cộng để tạo ra cơ sở cho sức mạnh chính trị ở quận Niigata. Trong những năm 1960, thời kỳ kinh tế tăng trưởng thần tốc đã được kích thích bởi chính sách của nội các Ikeda (Tanaka là bộ trưởng Bộ Tài Chính hai lần trong ba sự thay đổi nội các), Tanaka “thích nghi sự bùng nổ với kỹ năng vượt trội…và leo lên đỉnh cao chính trị bằng cách phân phát tiền kiếm được từ đầu cơ đất đai, các công ty bình phongvà công việc xây dựng….Ông ta cũng mở rộng mạng lưới tới mọi phần của cấu trúc phân phối lợi ích, kiêu hãnh rằng phe cánh của ông ta là “bệnh viện chung” có khả năng chăm sóc mọi nhu cầu.” [32] Cũng giống như thủ tướng Hara Kei nửa thế kỷ trước đó, Tanaka hiểu rõ vai trò của tiền bạc trong hệ thống chính trị. “Mọi người đều cần tiền – cho chiến dịch tái tranh cử, cho phe cánh, để chiêu đãi và chăm sóc các viên chức có các quyết định sống còn – mọi người đều cần nhiều tiền hơn so với các quy định của luật pháp về quỹ chính trị. Tanaka có rất nhiều tiền và ông ta sử dụng chúng – không phải cho bản thân...hay chỉ riêng cho những người ở Niigata, mà để hoàn thành mọi việc.” [33]

Một bài kiểm tra đối với chính trị tiền bạc của Tanaka xuất hiện vào ngày 7/7/1974, cuộc bầu cử Thượng Viện. Nhiều người quan sát đều dự đoán đảng bảo thủ sẽ thất bại, do sự ủng hộ suy giảm rõ rệt đối với đảng Dân Chủ Tự Do và suy thoái kinh tế do khủng hoảng dầu mỏ thế giới. [34] Tanaka phản ứng lại dự đoán này bằng cách thúc ép các doanh nghiệp lớn cung cấp thêm tiền và các hỗ trợ tranh cử khác. Theo Hanamura Nihachirò, cựu phó chủ tịch của Keidanren, có 34 năm làm người trung gian để chuyển tiền cho các chính khách, Tanaka đã sử dụng bóng ma sự nổi loạn của những người xã hội chủ nghĩa cực đoan để moi thêm tiền từ doanh nhân. [35] Kết quả là gần như tất cả các ứng cử viên quốc gia của đảng bảo thủ đều nhận được sự hậu thuẫn của doanh nghiệp. Cách thức này không phải là mới, như quy mô và bản chất không che giấu của nó. [36] Trận chiến tranh cử này bị nhiều người coi là tốn kém và bẩn thỉu nhất trong chính trị thời hậu chiến. [37] Từ năm 1955, đảng Dân Chủ Tự Do đã vượt qua hàng sa số bê bối hối lộ và cáo buộc tham nhũng bầu cử với những lời hứa cải cách mập mờ, song lần này thì khác. Trong một bài báo (“Một nghiên cứu về Tanaka Kakuei – Cơ sở quyền lực tài chính và mạng lưới cá nhân của ông ta”) vào tháng 11/1974 trên tờ Bungei shunjû, Tachibana Takashi, theo cách rất chi tiết, đã mô tả cách tiền chảy vào và ra khỏi tổ chức của Tanaka. Tạp chí và báo hàng tuần đã theo sát với đủ thông tin để đáp ứng sự quan tâm của công chúng. Sự quan tâm của công chúng cũng được hướng tới việc Tanaka sử dụng hào phóng tiền bạc để giành chức chủ tịch đảng và phân phát tiền trong cuộc bầu cử năm 1974. Tài chính cá nhân của thủ tướng cũng được tường thuật. Điều khiến Tanaka khác biệt với các chính khách khác trong “trò chơi tiền bạc” là quy mô khổng lồ của số tiền mà ông ta đã thu gom và chi tiêu. Trong việc chi tiêu, Tanaka không chỉ hỗ trợ phe cánh của bản thân và các đảng viên Dân Chủ Tự Do khác mà còn cung cấp tiền cho viên chức và có lẽ là cả các chính khách đối lập. Hầu hết các nhà quan sát chính trị cho rằng Tanaka bằng cách nào đó sẽ duy trì sự cân bằng chính trị của ông ta, nhưng thành tích nghèo nàn trong cuộc bầu cử năm 1974 và sự gia tăng nhanh của lạm phát đã làm lung lay ghế thủ tướng của ông ta. Các phe phái khác cũng muốn đẩy ông ta ra khỏi ghế thủ tướng: không có bạn học nào trong các trường đại học hàng đầu, không có quan hệ hôn nhân với giới thượng lưu kinh doanh, không có mối quan hệ gần gũi với các gia đình thế lực cũ. [38] Cuối cùng, Tanaka, tuyên bố là sức khỏe yếu, đã từ chức thủ tướng; người thay thế ông ta là Miki Takeo, một trong những chính khách bảo thủ hiếm hoi có hình ảnh chính trị “trong sạch”. Miki, từ chức phó thủ tướng khi phản đối chiến dịch tranh cử năm 1974, được các lãnh đạo đảng coi là sự lựa chọn biểu tượng hoàn hảo. [39] Thủ tướng Miki khẳng định, “Tôi sẽ thực hiện cải cách cơ bản về cách thức thu thập và sử dụng quỹ chính trị.” [40] Ngay cả những nhà chỉ trích quyết liệt nhất, biết rõ về danh tiếng trong sạch của Miki, cũng tin rằng cải cách chính trị thực sự đang được thực hiện. [41]

Thủ tướng Miki và các nhà cải cách khác cố gắng áp đặt một cuộc cải cách cực đoan để ngăn chặn chính trị tiền bạc. Cuối cùng, khi sự quan tâm của công chúng hướng sang chủ đề khác, các chính khách chống cải cách đã thông qua một đạo luật cải cách bị pha loãng, được ban hành vào ngày 1/1/1976. Trên thực tế, việc cải cách Luật Điều Chỉnh Quỹ Chính Trị “thực sự tạo đã hợp pháp hóa và hợp lý hóa các hoạt động vốn phải nhận sự chỉ trích nặng nề trong những năm qua. Các kênh tài chính…được tạo ra để thu thập và quyên góp hàng tỷ yen…hiện giờ được hợp pháp hóa và mỗi chính đảng đều được phép lập ra một tổ chức để thực hiện việc gây quỹ của họ. Khoản quyên góp của doanh nghiệp hoàn toàn được hợp lý hóa và do vậy được hợp pháp hóa, ngay cả khi tỷ lệ thực tế đã được quy định.” [42] Theo luật sửa đổi, một tổ chức có thể tài trợ cho nhiều nhóm hoặc chính đảng tối đa là 7,5 – 100 triệu yen hàng năm (tùy thuộc vào quy mô tổ chức) và chỉ một nửa số đó được phép quyên góp cho các cá nhân hoặc phe phái; một cá nhân không được quyên góp hơn 20 triệu yen cho nhóm gây quỹ hay chính đảng, chỉ một nửa số đó có thể được quyên góp cho cá nhân hay phe phái. Người nhận phải báo cáo. [43] Mục đích chính của việc sửa đổi luật này và sự sửa đổi Luật Bầu Cử Chức Vụ Công là chuyển từ sự tập trung vào chính khách cá nhân, người sử dụng các mối quan hệ cá nhân để vận động cử tri, sang tập trung vào các cương lĩnh của đảng. Hơn nữa, những người cải cách muốn hướng dòng tiền thông thường đang chảy vào các phe phái sang các chính đảng và khuyến khích các khoản quyên góp cá nhân nhỏ hơn của công chúng. [44] Những cải cách này “không mang lại sự thay đổi cơ bản như mục tiêu của chúng. Các chính khách Nhật Bản chống lại những cải cách bằng tìm ra các lỗ hổng trong luật cho phép họ không phải thay đổi cách làm truyền thống.” [45] Ví dụ, các ứng cử viên đã lợi dụng việc luật không yêu cầu báo cáo tên của người quyên góp ít hơn 1 triệu yen mỗi năm. Hơn nữa, do luật không giới hạn số lượng tổ chức mà một chính khách có thể thành lập nên các chính khách có thể gom quỹ từ nhiều tổ chức. Cuối cùng, các phe phái và cá nhân có thể dựa vào những người gây quỹ đặc biệt (thường là một chính đảng trung gian) do thu nhập từ những nguồn này không được coi là quyên góp chính trị. [46]

Một nghiên cứu sâu về chương trình cải cách của Miki đã kết luận rằng nó hầu như không ảnh hưởng đến chính trị tiền bạc. Chương trình cải cách đảng phái của Miki dựa trên ba trụ cột: giải phóng đảng phái khỏi sự phụ thuộc vào doanh nghiệp lớn, xóa bỏ sự thống trị của chủ nghĩa bè phái và tạo ra thành viên quần chúng để ủng hộ đảng phái. Các nhà cải cách lập luận rằng nếu thành viên quần chúng được phép bầu chủ tịch thì việc mua phiếu bầu sẽ vô dụng. Số lượng thành viên đông đảo sẽ bù đắp cho sự tổn thất quỹ từ doanh nghiệp lớn và các nhóm lợi ích đặc biệt. [47] Họ hy vọng rằng việc bầu cử chủ tịch được chuyển từ các hạ nghị sĩ của đảng cho “thành viên quần chúng, những người không thể bị hối lộ, việc các phe phái tổ chức và ưu tiên cho mục tiêu tranh cử lãnh đạo trong nội bộ đảng phái sẽ suy giảm và chính đảng sẽ hướng tới chính sách hơn.” [48] Cuộc cải cách tháng 1/1977, ít nhất là ở giai đoạn đầu, đã có tác dụng, với một sự nhảy vọt trong trong số lượng thành viên, lên đến 1,5 triệu trong vòng một năm rưỡi. Trong cuộc bầu cử chủ tịch vào cuối mùa thu năm 1978, hành vi của cử tri quần chúng không cho thấy sự thay đổi so với các cử tri bị giới hạn của hệ thống cũ. Như thường lệ, các nghị sĩ của đảng chia là hai phái. Chỉ có một số ít thành viên quần chúng thống nhất với đảng; trái lại, đa số thống nhất với một nghị sĩ cụ thể. [49] Như một học giả đã viết, “Lòng trung thành của thành viên [nhóm ủng hộ địa phương] đối với MP là cá nhân, địa phương và tuyệt đối.” Do tình hình này, các nghị sĩ có thể “tôi luyện thành viên quần chúng được mở rộng này trong cuộc bỏ phiếu ban đầu….Đấu tranh phe phái truyền thống không bị yếu đi; trái lại, nó gia tăng và mở rộng phạm vi tới các thành viên quần chúng ở cấp cơ sở.” [50] Do vậy, kỳ bầu cử chủ tịch đầu tiên (Òhira Masayoshi thắng) không cho thấy nhiều sự thay đổi trong cách bầu cử chủ tịch 
cả trong nội dung chính trị, hành vi của cử tri, hiệu lực của phe phái, tính chất của ứng cử viên, kịch bản hối lộ lẫn kết quả. Trái lại, nó nhấn mạnh thế mạnh của động cơ và logic của chủ nghĩa bè phái….Chính trị phe phái được chứng minh là thích nghi một cách đáng ngạc nhiên với các quy định mới…và cho thấy năng lực lớn lao của nó trong việc hấp thụ số lượng cử tri phổ thông lớn. Các quan hệ nội bộ của đảng cũng như những mối quan hệ với…các lợi ích lớn đặc biệt vẫn nguyên vẹn là tính chất cơ bản. [51]
Sự từ chức của Tanaka Kakuei cùng với các biện pháp cải cách chính trị mà Quốc Hội thông qua đã không trấn an được những cử tri giận dữ vì sự xuất hiện của vụ bê bối hối lộ Lockheed vào đầu tháng 2/1976 sau một cuộc điều tra của Quốc Hội Hoa Kỳ, khi A. Carl Kotchian, phó chủ tịch của Tập Đoàn Máy Bay Lockheed, thú nhận rằng công ty đã chi hơn 22 triệu dollar hối lộ để bán các máy bay phản lực cho Nhật Bản. Các công tố viên Tokyo phản ứng với tin tức này bằng cách bắt đầu điều tra hình sự vào giữa tháng, tìm kiếm tội trốn thuế. Trong vài tháng tiếp theo, vụ án hình sự đã lan sang nhiều doanh nhân lớn, chính khách và văn phòng thủ tướng. Vào ngày 16/8, cựu thủ tướng Tanaka bị truy tố vì nhận hối lộ và vi phạm Luật Ngoại Hối; 15 người khác bị truy tố vì nhận hối lộ và các hành vi phạm tội khác. [52]

Lời khai của Kotchian về vụ việc này được đăng trên tờ Asahi Evening News từ ngày 23 đến 27/8/1976. Theo Kotchian, vào tháng 8/1972, ông ta đề xuất với Hiyama Hiro, nhân viên của công ty Marubeni, một công ty thương mại và đại lý bán hàng của Lockheed, rằng chất lượng vượt trội của máy bay chở khách Lockheed cần phải được thủ tướng Tanaka chú ý. Ngày hôm sau, Òkubo Toshiharu, giám đốc điều hành của công ty, nói rằng khoản đóng góp theo tập quán của giao dịch này là 500 triệu yen. Cùng ngày, Kotchian đến trụ sở của Kodama Yoshio, điệp viên của Lockheed từ năm 1958. Kodama, dĩ nhiên là một người hoạt động có tiếng của thế giới kinh doanh-chính trị ngầm, giới thiệu Kotchian với Osano Keiji, một doanh nhân quyền lực và là người tâm phúc lâu năm của Tanaka. Nếu Lockheed nghiêm túc về việc bán máy bay thì họ cần phải xây dựng một cầu nối với thủ tướng thông qua Osano. Một lần nữa, Kotchian hứa sẽ chi 500 triệu yen. Do đó, chỉ trong một ngày Lockheed đã chi tới 1 tỷ yen. Tiền đã được chi và Lockheed đã giành được hợp đồng bán máy bay. [53]

Công tố viên, những người nhiệt tình theo đuổi việc truy tố, đã nhận được phần thưởng là sự thú tội của hầu hết các bị cáo. Tại phiên tòa (có bốn phiên tòa khác nhau, dựa trên dòng tiền do công tố viên xác định), các bị cáo đã phủ nhận lời thú tội, khẳng định rằng công tố viên đã ngụy tạo chúng. Tanaka là ngoại lệ: ông ta không chỉ khẳng định không biết gì về thỏa thuận bí mật để bán máy bay mà còn khẳng định rằng không nhận tiền. Quan tòa quyết định rằng Tanaka đã được hối lộ và với vai trò là thủ tướng thì ông ta ở vị thế ảnh hướng tới việc mua máy bay. Vào ngày 12/10/1983, Tanaka bị tuyên án bốn năm tù và bị phạt 500 triệu yen; Òkubo nhận án 2 năm tù, hoãn thi hành án 4 năm; Enomoto Toshio (thư ký của Tanaka) nhận 1 năm tù, hoãn thi hành án 3 năm; Hiyama Hiro (người của Lockheed liên hệ với công ty Marubeni) nhận 2 năm tù. Tất cả những bản án này đều bị kháng cáo vào ngày 29/5/1985. Chỉ có bản án của Itò được điều chỉnh thành 2 năm tù, hoãn thi hành án 4 năm. [54] Đối với Tanaka, việc kháng án tại Tòa Án Tối Cao là không có ý nghĩa khi ông ta chết vào ngày 16/12/1993.

Trong số những người liên quan đến các phiên tòa còn lại có Hashimoto Tomisaburò, cựu bộ trưởng Bộ Vận Tải và Satò Takayuki, cựu thứ trưởng của Bộ Vận Tải. Cả hai người đều bị kết án nhận hối lộ. Hashimoto bị cáo buộc nhận 50 triệu yen thông qua Marubeni; nhóm bào chữa của ông ta lập luận rằng ông ta không nhận được tiền và không liên quan đến quyết định mua máy bay. Sự bào chữa của Satò cũng tương tự: không nhận hối lộ và không liên quan đến quyết định mua máy bay. Vào ngày 8/6/1982, Hashimoto nhận án 2 năm rưỡi tù, hoãn thi hành án 3 năm và bị phạt 50 triệu yen; Satò nhận án hai năm tù, hoãn thi hành án 3 năm và bị phạt 20 triệu yen. Phiên tòa đã kết thúc với Satò vào tháng 7/1986 (ông ta không kháng án lên Tòa Án Tối Cao) và kết thúc với Hashimoto vào tháng 1/1990 (ông ta chết). Wakasa Tokuji, cựu chủ tịch của hãng hàng không All Nippon cũng bị kết án hối lộ Hashimoto và Satò và nhận 3 năm tù, hoãn thi hành án 5 năm. Kodama và Osano cũng bị truy tố nhưng không vì tội hối lộ (cụ thể là vi phạm luật thuế). Kodama chết trong khi Tòa Án Quận Tokyo xét xử và Osano chết sau khi tòa phúc thẩm giảm bản án của ông ta xuống 10 tháng tù, hoãn thi hành án 3 năm. [55]

Cựu thủ tướng Tanaka kết luận về bản án tại phiên tòa đầu tiên “rằng ông ta đã bị các đối thủ chính trị và hệ thống báo chí có khuynh hướng cánh tả của Tokyo biến thành con tốt thí vì những hoạt động…[là] thông thường trong đời sống chính trị Nhật Bản.” Hơn nữa, ông ta cho rằng “các đối thủ chính trị đã thay đổi quy định đối với ông ta trong vụ án đặc biệt này.” [56] Sự cay đắng và tức giận của Tanaka là có thể hiểu được; quan điểm của ông ta cho rằng các đối thủ chính trị đứng sau vụ truy tố cũng giống như phó chủ tịch Ogawa Heikichi của Seiyûkai, bộ trưởng duy nhất bị vào tù vì bản án hối lộ thời tiền 1945.

Cũng như những vụ bê bối hối lộ chính trị trước đây, đánh giá tác động của vụ Lockheed đối với công chúng là rất khó; thái độ phổ biến cho rằng đó chỉ là chương xấu xí mới nhất trong câu chuyện bất tận và hệ thống chính trị tất yếu sẽ tạo ra những kết quả đó. Tuy vậy, nếu như kết quả bầu cử được sử dụng để làm thước đo thì vụ bê bối đã làm suy yếu sức mạnh của đảng Dân Chủ Tự Do tại Hạ Viện trong các cuộc bầu cử năm 1976 và 1979. Khuynh hướng suy giảm này đã bị đảo ngược vào năm 1980, nhưng sau bản án của Tanaka vào năm 1983, đảng đã thất bại ở Hạ Viện. Đối mặt với sự bế tắc của đảng, Tanaka, đã sớm rút khỏi đảng Dân Chủ Tự Do, đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của cử tri Niigata; trong cuộc bầu cử ngày 18/12/1983, hai tháng sau bản án của phiên tòa thứ nhất, ông ta đã thắng lớn trong cuộc bầu cử. Hơn nữa, sáu người dưới quyền của ông ta đã tham gia nội các thứ hai của Nakasone Yasuhiro. [57]

Mặc dù một thập kỷ đã trôi qua trước khi công chúng chứng kiên một vụ hối lộ lớn khác, trận chiến pháp lý của Tanaka và sự chia rẽ bè phái nghiêm trọng (Tanaka bị đánh bại và đánh mất sự kiểm soát) đã khiến công chúng dõi theo vụ bê bối. Hơn nữa, hai vụ án hối lộ chính trị khác cũng xảy ra, thu hút sự chú ý của công chúng về chủ đề này. Đầu tiên, vào tháng 5/1979, tại Tòa Án Quận Tokyo, cựu phó chủ tịch Kaifu Hichirò của công ty Thương Mại Nisshò-Iwai bị xét xử vì vi phạm Luật Ngoại Hối và khai man. Trong phiên tòa, tên của Matsuno Raizò, cựu giám đốc của Cục Phòng Vệ, xuất hiện liên quan tới khoản chi 500 triệu yen. Công ty Douglass McDonnell bị cáo buộc đã chi số tiền đó thông qua công ty thương mại cho Matsuno để được bán các chiến đấu cơ phản lực cho Nhật Bản. Matsuno thừa nhận đã nhận tiền khoảng giữa năm 1967 và 1971 nhưng khẳng định rằng đó là khoản quyên góp chính trị. Ông ta không bị kết án. [58] Thứ hai, vào tháng 10/1979, báo chí đưa tin công ty đại chúng về viễn thông quốc tế (Kokusai Denshin Denwa Kaisha) đã chiêu đãi rất xa hoa, tặng quà và tiền cho nhiều chính khách và viên chức. Mặc dù hai viên chức bị kết án nhận hối lộ nhưng không chính khách nào bị kết án. [59]

Vào năm 1989, một vụ động đất chính trị khác nổ ra: vụ bê bối Recruit. Cũng giống như vụ Teijin trước đó nửa thế kỷ, vụ bê bối mới liên quan đến việc chuyển nhượng cổ phiếu và hối lộ chính trị, cũng giống như sự kiện trước đó, nó liên quan đến doanh nhân, chính khách và viên chức. Khi vụ bê bối được khám phá, công chúng không chỉ thấy số tiền khổng lồ được dùng để gây ảnh hưởng tới các chính khách mà cả sự tham nhũng của các viên chức cao cấp trong các cơ quan của chính quyền trung ương. Bị bối rối vì vụ bê bối đã làm tổn thương danh tiếng của cựu thủ tướng Nakasone và các đảng viên Dân Chủ Tự Do cấp cao khác, thủ tướng Takeshita Noboru đã từ chức vào tháng 6/1989.

Trung tâm của vụ bê bối là Ezoe Hiromasa, chủ tịch của công ty Recruit rất thành công, một doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin. Khởi đầu vào năm 1960 như một công ty nhỏ xử lý các quảng cáo trên tạp chí trường đại học, công ty của Ezoe tham gia vào tổ chức quốc gia cung cấp các thông tin tuyển dụng nhân sự cho sinh viên đại học và hướng dẫn về đại học và cao đẳng cho học sinh trung học. Recruit Cosmos, một chi nhánh bất động sản, được thành lập vào năm 1964. Vào năm 1987, đế chế kinh doanh của Recruit bao gồm 27 chi nhánh với hơn 6.000 nhân viên. [60] Con đường phát triển công ty thuận lợi của Ezoe được đảm bảo bằng “quà tặng” cho các chính khách và viên chức. Một khoản chi được đề xuất cho việc bán cổ phiếu (người mua được vay tiền) của chi nhánh bất động sản trước khi mở bán trên thị trường: lợi nhuận khổng lồ sẽ được tạo ra khi cổ phiếu được niêm yết chính thức. Phương thức kinh doanh của Recruit đã thu hút được sự chú ý của công chúng vào tháng 6/1988 khi tờ Asahi Newspaper đăng một bài báo về việc phó thị trưởng của một thành phố đã nhận được cổ phiếu chưa niêm yết của Recruit. Vào tháng 7, vụ bê bối nhỏ đã lan rộng, khi cựu thủ tướng Nakasone và Takeshita được xác định là người nhận cổ phiếu của Recruit. Bộ trưởng Bộ Tài Chính cũng vướng lưới bê bối vào tháng 10 và bị buộc phải từ chức vào tháng 12. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Hasegaw Takashi và Harada Ken, tổng giám đốc của Cục Kế Hoạch Kinh Tế, cũng nhanh chóng theo chân Miyazawa. Vụ bê bối đã chạm đến phần lớn bộ máy chính quyền. [61] “[ấ]n tượng mà truyền thông cho thấy vào giữa năm 1989 là tất cả mọi người, có thể là bất kỳ ai, đều có liên quan và…không có lý do gì để tin rằng chỉ mình Recruit bơm tiền.” [62]

Vào ngày 12/6/1989, khi báo cáo của Bộ Tư Pháp về vụ bê bối Recruit được nộp cho Hạ Viện, dường như tất cả những lãnh đạo hàng đầu của đảng Dân Chủ Tự Do và thậm chí là cả các đảng đối lập đều bốc mùi “quà tặng” của Ezoe. Tuy vậy, không có chính khách lớn nào bị kết án. Trong số 11 chính khách và viên chức phải ra tòa thì chỉ có 4 người bị kết án nhận hối lộ: Shinto Hisashi, cựu chủ tịch của công ty Điện Tín và Điện Thoại Nhật Bản (NTT); Shikiba Ei, một lãnh đạo khác của NTT; và Katò Takashi, thứ trưởng Bộ Lao Động. [63]

Đảng Dân Chủ Tự Do phản ứng lại vụ Recruit bằng việc hứa hẹn cải cách căn bản hệ thống quỹ chính trị và lựa chọn thủ tướng không bị tai tiếng vì bê bối hối lộ. Người được chọn để đại diện cho hình ảnh trong sạch mới của đảng là ngoại trưởng Uno Sòsuke, người được công ty Recruit coi là không quan trọng nên đã không hối lộ bằng cổ phiếu. [64] Phát biểu trong phiên họp toàn thể của Quốc Hội, Uno khẳng định, “Vụ bê bối Recruit đã châm ngòi cho sự thiếu tin tưởng phổ biến vào chính trị và khiến cho nền dân chủ của chúng ta rơi vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Nội các Uno tin rằng vật lộn với cải cách chính trị là nhiệm vụ quan trọng nhất của chính phủ để khôi phục niềm tin của công chúng vào chính trị.” [65] Mặc dù các nhà bình luận chính trị không đồng tình với quan điểm cho rằng thủ tướng chỉ là con rối của Nakasone hay Takeshida song họ đồng ý rằng nội các của ông ta sẽ chỉ có tuổi thọ ngắn. Không ai dự đoán được rằng nó sẽ sụp đổ trong hai tháng. Ngay sau khi Uno nhậm chức, vợ của ông ta bắt đầu phàn nàn về tính cách keo kiệt của ông ta. Việc đả kích tính cách của thủ tướng đã bị các tờ báo lớn bỏ qua cho đến khi một bài báo xuất hiện trên tờ Washington Post. Sau đó, vụ bê bối tình dục đã trở thành chủ đề nóng không chỉ đối với những tờ báo lá cải Nhật Bản mà cả đối với truyền thông chính thống. [66]

Khi Uno bị truyền thông làm nhục, công chúng được khảo sát vào cho cuộc bầu cử Thượng Viện ngày 23/7/1989 và lần đầu tiên đã không đem lại cho đảng Dân Chủ Tự Do đa số truyền thống (đảng nhận được 109/252 ghế). [67] Vụ bê bối Recruit chỉ là một nhân tố trong sự thất bại này và có lẽ chỉ là phần rất nhỏ. Mặc dù các đảng đối lập cũng như truyền thông tập trung vào bê bối tình dục, song một luật thuế giá trị gia tăng (VAT) không được ưa thích được thông qua vào ngày 24/12/1988 (có hiệu lực vào ngày 1/4/1989) được cử tri quan tâm hơn. [68] “Điều làm gia tăng sự bất mãn của công chúng là luật thuế có hình ảnh giống như là việc các nghị sĩ của LDP áp đặt gánh nặng mới cho người dân đồng thời lại nhận một cách bất hợp pháp, hay ít nhất là cẩu thả, các khoản tiền hối lộ lớn….Tác động tiêu cực của vụ bê bối Recruit đối với hình ảnh đảng cầm quyền đã vượt qua vấn đề đạo đức [chính trị] và trở thành vấn đề thiếu năng lực.” Không giống như phản ứng của đáng trong các vụ bê bối trước đó, vụ Recruit “đã đẩy đảng vào sự bối rối và khó khăn khiến đảng phải đưa ra một người kế nghiệm và vị thế tương đối thấp của người kế nhiệm trong đảng đã không tạo ra sự hài lòng….Sau khi vụ Recruit kết thúc, khoảng cách về độ tin cậy giữa LDP và phe đối lập đã giảm xuống đáng kể.” [69]

Vào ngày 9/8/1989, Kaifu Toshiki trở thành thủ tướng. Vào tháng 10, khi đảng phủ quyết việc gia hạn nhiệm kỳ chủ tịch của Kaifu, thủ tướng nói, “Hơn nữa, tôi cho rằng mọi chính khách phải cố gắng để thúc đẩy cải cách chính trị mạnh mẽ bằng cách tạo dựng đạo đức chính trị cao quý và giành được chức vụ công bằng các hoạt động tranh cử công khai và không đắt đỏ.” [70] Trong cuộc bầu cử Hạ Viện tiếp theo vào ngày 18/2/1990, đảng Dân Chủ Tự Do giành được 275/512 ghế (11 nghị sĩ bảo thủ độc lập sau đó đã về phe họ). [71] Tại sao niềm tin của cử tri lại được đặt vào một đảng đầy bê bối? Trước hết, những người cận vệ già đã cố gắng hết sức để cải thiện hình ảnh của đảng: Kaifu, người đứng đầu một phái nhỏ có tinh thần cải cách, đã được chọn làm chủ tịch đảng; những người tương đối trẻ có sức hút về chính trị được chọn vào các vị trí chủ chốt của đảng; hai phụ nữ nhận được ghế trong nội các. Thứ hai, đảng thông báo kế hoạch sửa đổi luật VAT không được ưa thích. Thứ ba, đảng Xã Hội Chủ Nghĩa sau khi thắng cử năm 1989, dường như bị chìm trong đấu tranh phe phái và bám vào các chính sách đã lỗi thời. Cuối cùng, cũng như các vụ bê bối hối lộ chính trị trước đây, tác động của vụ Recruit nhanh chóng tan biến trong vài tháng giữa các cuộc bầu cử năm 1989 và 1990; chỉ có hai trong số 16 ứng cử viên dính líu vào vụ tham nhũng được tái cử, các ứng cử viên thắng cử khẳng định rằng bầu cử đã khôi phục danh tiếng của họ. [72] Bất chấp sự hồi phục thần kỳ của đảng Dân Chủ Tự Do sau vụ bê bối Recruit, một số nhà bình luận chính trị đã dự báo trước là sẽ có nhiều bê bối tham nhũng hơn do đảng đã sa sút và mất khả năng tự làm sạch. [73]

Vào ngày 24/1/1991, tại đại hội đảng Dân Chủ Tự Do, một nghị quyết cải cách chính trị được đưa ra. Vào tháng 8, nội các đã sẵn sàng đệ trình ba dự luật cải cách chính trị trong kỳ họp Quốc Hội rất khác thường. Các dự luật đề xuất áp dụng hệ thống bầu cử quận ghế đơn cùng với đại diện theo tỷ lệ. Trong kỳ họp, chính phủ và phe đối lập không thể thống nhất về một dự luật cải cách. Tuy vậy, thủ tướng Miyazawa Kiichi, người kế nhiệm Kaifu vào tháng 11/1990, đã tiếp tục thúc ép cải cách chính trị. Vào mùa xuân 1992, Ban Chỉ Đạo Cải Cách Chính Trị của đảng đệ trình cho Miyazawa một gói đề xuất: các nghị sĩ Quốc Hội sẽ phải công khai tài sản cá nhân, sự thiếu cân bằng trong việc đại diện ở Quốc Hội sẽ được điều chỉnh và những nỗ lực làm cho các quỹ chính trị minh bạch hơn. Tác động của chương trình cải cách này đối với cử tri vẫn chưa rõ nhưng đảng đã thắng lớn trong cuộc bầu cử Thượng Viện vào ngày 26/7/1992: một nửa trong số 252 ghế được bầu lại; đảng giành được 70 ghế. [74]

Ngay sau thắng lợi bầu cử tháng 7, đảng Dân Chủ Tự Do đã va phải một bê bối hối lộ khác, vụ này liên quan đến công ty Tokyo Sagawa Express (một hãng chuyển phát bưu kiện). Theo cách thức gợi nhớ đến chiến thuật của công ty Recruit, Sagawa Express đã phân phát “quyên góp” chính trị cho khoảng 130 nghị sĩ Quốc Hội. Trong số những người bị công tố viên Tokyo điều tra có Kanemaru Shin, phó chủ tịch đảng Dân Chủ Tự Do, người được coi là người môi giới quyền lực chính của đảng. Đối mặt với bằng chứng về việc không khai báo 500.000 yen nhận được từ Sagawa Express (vi phạm Luật Điều Chỉnh Quỹ Chính Trị), Kanemaru nhận tội vào ngày 27/8 và từ chức ở đảng cũng như vị trí thủ lãnh của phe Takeshita (dựa trên phe cũ của Tanaka Kakuei). Sự nhận tội nhanh chóng, cùng với việc đóng một khoản phạt nhỏ, đã không xoa dịu được giận dữ của công chúng, thể hiện bằng nhiều cuộc biểu tình. Cuối cùng, Kanemaru từ chức ở Quốc Hội vào ngày 14/10. [75] Tổng bí thư đảng Watanuki Tamisuke khẳng định rằng vụ Kanemaru là “cực kỳ đáng tiếc và đảng của chúng tôi xem xét vụ việc này với tất cả sự nghiêm túc và thận trọng, cũng như bày tỏ sự hối tiếc đối với người dân….Vụ án đã khiến công chúng không hài lòng và mất niềm tin vào chính trị. Đảng của chúng tôi ghi nhận điều này trong tâm can và quyết tâm đoàn kết khôi phục sự tin tưởng của công chúng đối với chính trị.” [76] Thủ tướng Miyazawa, trong một bài phát biểu về chính sách tại Quốc Hội vào ngày 30/10, đã nói, “Điều đáng tiếc nhất là niềm tin của công chúng đối với chính khách đã bị lung lay dữ dội….Tôi thực sự cảm thấy rằng sự thiếu tin tưởng vào của công chúng đối với chính trị chưa bao giờ lớn như hiện nay….Chương trình cải cách của chúng ta sẽ khiến cho các quỹ chính trị minh bạch, các hoạt động chính trị bớt tốn kém và thực hiện tranh cử dựa trên đề xuất chính sách.” [77]

Kanemaru sai lầm nếu như ông ta hy vọng rằng nhận tội và từ chức sẽ chấm dứt biểu tình của công chúng. Công tố viên, dĩ nhiên được sự giận dữ của công chúng khuyến khích, đã bắt giữ Kanemaru vào ngày 6/3/1993, với cáo buộc trốn thuế, một tội dễ chứng minh hơn hối lộ chính trị. Cuộc khám xét nhà và văn phòng của Kanemaru vào ngày 8/3, với sự chứng kiến của máy quay phim của truyền hình, đã phát hiện ra 10 triệu dollar dưới dạng vàng, tiền mặt và trái phiếu. Khi công chúng vẫn có ý nghĩ rằng chính trị là công việc bẩn thỉu thì sự việc gây sốc này đã chứng minh điều đó bởi vì việc cất giấu của cải của Kanemaru có lẽ là cho bản thân hơn là chính trị. [78] Theo một học giả, dường như đây là lần đầu tiên nơi ở cá nhân và văn phòng của một chính khách lớn bị cảnh sát và công tố viên khám xét. Kanemaru bị kết án vào ngày 13/3; phiên tòa xét xử ông ta bắt đầu vào ngày 22/7/1993. [79] 

Sau khi Kanemaru từ chức, một cuộc đấu tranh giành quyền lực nổ ra ở phe Takeshita, phe này bị chia làm hai nhóm. Vào ngày 18/12, một nhóm thành lập Diễn Đàn Cải Cách 21. Nhóm này, do Hata Tsutomu lãnh đạo, sau đó thành lập Shinseitò (đảng Phục Hưng). Phe Hata kêu gọi những sự thay đổi lớn trong phương thức bầu cử và cải cách hệ thống quyên góp chính trị. Vào đầu năm 1992, một nhóm cải cách chính trị khác, do một cựu quận trưởng tên là Hosokawa Morihiro lãnh đạo, đã thành lập Nihon Shintò (đảng Nhật Bản Mới). Vào tháng 6/1993, Takemura Masyoshi, một lãnh đạo của ủy ban cải cách chính trị của đảng Dân Chủ Tự Do, đã thành lập Sakigake Shintò (đảng Người Tiền Trạm Mới).80

Khi thủ tướng Miyazawa trình bày kế hoạch cải cách chính tri vào mùa xuân năm 1993, ông ta bị phản đối cả từ phía các chính khách đối lập, vốn không thích hệ thống quận một thành viên mà họ cho rằng chỉ có lợi cho đảng Dân Chủ Tự Do, lẫn từ phía một số đảng viên đảng Dân Chủ Tự Do, những người cho rằng cơn bão chính trị này, cũng như các cơn bão trước đây, sẽ sớm đi qua. Họ đã sai lầm. Sau khi chương trình cải cách tạm thời bị gác lại, phe đối lập cùng với một số đảng viên Dân Chủ Tự Do đã thắng trong một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm dựa trên lý do Miyazawa không thực hiện lời hứa với công chúng về việc thực hiện cải cách chính trị. Thủ tướng giải tán Hạ Viện. [81] Vào ngày 18/7, người dân trả lời khảo sát, đã không đem đến cho đảng Dân Chủ Tự Do đa số tại Hạ Viện lần đầu tiên (đảng giành được 223 ghế, thiếu 33 ghế để chiếm đa số). [82] Vào cuối tháng, 7 đảng thống nhất thành lập một chính phủ liên hiệp, với Hosokawa (đảng Nhật Bản Mới) làm thủ tướng. [83]

Chương trình cải cách chính trị của thủ tướng mới, cũng giống như của Miyazawa, nhận được sự phản đối của các chính khách e ngại về sự thay đổi trong hệ thống chính trị. Quốc Hội đã thông qua một gói cải cách chính trị nhượng bộ (bốn dự luật lập pháp) vào ngày 29/1/1994. Hệ thống bầu cử mới tạo ra 300 khu vực bầu cử một thành viên và hai trăm ghế dựa trên đại diện theo tỷ lệ, kiểm soát chặt chẽ hơn việc gây quỹ và chính phủ trợ cấp cho các chính đảng. Hệ thống bầu cử mới sẽ có hiệu lực sau khi một ủy ban độc lập xác định lại ranh giới của ba trăm đơn vị bầu cử mới. [84] Một nhà báo viết, “Các quy định mới nên kiềm chế hoàn toàn các khối quyền lực ở Quốc hội, được tạo thành từ các thành viên dựa vào các nhóm lợi ích đặc biệt – như ngành xây dựng hay vân động động cho nông nghiệp – bằng cách nhận quyên góp chính trị của họ.” [85] Tờ Economist bình luận, “Hệ thống mới đã giảm sự cám dỗ của việc hối lộ cử tri. Đồng thời, ranh giới các khu vực bầu cử được vẽ lại. Điều này có nghĩa là làm suy yếu sức mạnh của các đảng khu vực, vốn phát triển chỉ nhờ vào gây quỹ và phân phát tiền tranh cử bất hợp pháp. Phong bì trắng chứa tiền sẽ không còn là vấn đề; xuất hiện trên truyền hình sẽ thuyết phục cử tri hơn.” [86] Các nhà báo thiếu lạc quan về tác động cải cách của Hosokawa viết, “Theo một khảo sát truyền hình, chỉ có 14% người trả lời cho rằng họ thấy các biện pháp chống tham nhũng đã đủ mạnh.” [87] Tờ Mainichi Newspaper bình luận, “Đạo luật không đáp ứng lời kêu gọi của công chúng về việc chấm dứt ngay lập tức mối quan hệ chặt chẽ giữa kinh doanh và chính trị…nguồn gốc của chính trị tiền bạc tha hóa.” [88]

Ngay sau khi thông qua đạo luật cải cách chính trị, chính phủ của Hosokawa bắt đầu tan rã vì cải cách thuế. Các đối thủ chính trị nhanh chóng sử dụng bài cũ là cáo buộc tham nhũng liên quan đến nợ nần và quyên góp chính trị của công ty Tokyo Sagawa Express để chống lại thủ tướng; công ty này vẫn in dấu trong trí nhớ của công chúng vì phiên tòa xét xử Kanemaru Shin. [89] Hata Tsutomu, một người cải cách khác và lại cựu thành viên của đảng Dân Chủ Tự Do, đã thành lập nội các liên hiệp mới vào ngày 25/4. Không may cho Hata, cuộc tranh luận tiếp tục gay gắt về cải cách thuế đã phá vỡ liên minh; điều này khiến thủ tướng phải đứng đầu một chính phủ thiểu số (chỉ có 182 ghế ở Hạ Viện; cần có 256 ghế để thông qua một dự luật); nội các chỉ tồn tại 59 ngày. [90] 

Nội các liên hiệp tiếp theo đã khiến các nhà bình luận chính trị bị sốc: Murayama Tomiichi, lãnh đạo của đảng Dân Chủ Xã Hội, lên làm thủ tướng trong một chính phủ được đảng Dân Chủ Tự Do hậu thuẫn. Kể từ nội các Katayama Tetsu (5/1947 – 3/1948) đã không có một thành viên xã hội chủ nghĩa nào giữ chức thủ tướng. “Mối quan hệ kỳ quặc giữa đảng Dân Chủ Tự Do và đảng Dân Chủ Xã Hội”, một nhà báo viết, “đã khiến đất nước sững sờ và ngay lập tức dấy lên nỗi sợ hãi rằng tất cả những gì tiến bộ trong việc phi điều tiết kinh tế và làm sạch hệ thống chính trị đầy tham nhũng sẽ bị ngừng lại hoặc đảo ngược.” [91] Tờ New York Times bình luận, “Chỉ có một hệ thống chính trị đang hấp hối mới tạo ra một chính quyền như chính quyền mà nghị viện Nhật Bản đã chọn ngày hôm qua.” [92] Tờ U. S. News and World Report dự đoán là liên minh, được dẫn dắt “bởi các các chính khách LDP kỳ cựu biết cách bôi trơn cỗ máy chính quyền,” có thể sẽ làm bối rối những nhà bình luận chính trị lạc quan. [93] Đảng Dân Chủ Tự Do thống trị liên minh mới, chiến 13/21 ghế trong nội các, trong đó có cả ghế phó thủ tướng (Kòno Yòhei, chủ tịch của đảng Dân Chủ Tự Do). Hơn nữa, họ áp đảo đảng Xã Hội Dân Chủ với tỷ lệ gần 3:1 ở Hạ Viện. [94]

Sự chia rẽ của đảng Dân Chủ Tự Do và sự thay đổi nhanh chóng của chức thủ tướng (Murayama là thủ tướng thứ bảy trong bảy năm) đã gợi cảm hứng cho nhiều bài báo và cuốn sách về cải cách chính trị. Blueprint for a New Japan (Nihon kaizò keikaku) được xuất bản năm 1993 (bản tiếng Anh vào năm 1994). Ozawa Ichirò, tác giả và là cựu tổng bí thư của đảng Dân Chủ Tự Do, ban đầu là một trong những người được Tanaka Kakuei bảo trợ và sau đó là môn đệ trưởng của Kanemaru Shin. Cũng giống như hầu hết các lãnh đạo cao cấp khác của phái Kanemaru, Ozawa cũng dính líu vào hàng loạt các vụ bê bối hối lộ. Sự đánh giá quan điểm của Ozawa về cải cách là hỗn hợp, nhiều nhà phân tích lập luận rằng ông ta chỉ bảo vệ bản thân trước sự chỉ trích của công chúng và các cáo trạng có thể của công tố viên; những người khác cho rằng mục đích của ông ta là một cuộc cải cách thực sự. [95] Robert C. Angel, một người nghiên cứu chuyên sâu về chính trị Nhật Bản, coi quan điểm mới của Ozawa về cải cách chính trị là “sự biến ảo trái ngược với kinh nghiệm của Saul xứ Tarsus trên đường tới Damascus.” [96]

Cuốn sách của Ozawa nhận định sự thiếu khả năng lãnh đạo trong lĩnh vực chính trị là vấn đề chủ chốt: nguyên nhân chủ chốt là sự phân tán quyền lực trong đảng Dân Chủ Tự Do và các cơ quan kiểm soát nhà nước khác. [97] “Hội Đồng Nghiên Cứu Chính Sách của LDP – định hướng chính sách của đảng – trên thực tế là một hội đồng của các lợi ích đặc biệt và đa dạng….Chính phủ, trong khi đó, bản thân lại bị chia rẽ bởi nhiều thể chế và lợi ích. Các bộ và cơ quan là những thực thể rời rạc. Không có thể chế vượt trội nào để phối hợp và kiểm soát toàn thể. Nội các đóng vai trò này về mặt kỹ thuật nhưng không bao giờ thực sự được kỳ vọng sẽ làm việc đó.” Về thủ tướng, Ozawa cho rằng ông ta “chỉ là chủ lễ của nghi lễ cận kề.” [98] Để thay đổi sự thất bại này, Ozawa bảo vệ cho một cuộc cải cách hệ thống, từ thủ tướng trở xuống. “Tất cả những gì không thực sự đòi hỏi sự can thiệp của chính quyền trung ương nên chuyển giao cho chính quyền địa phương. Thêm vào đó, chúng ta phải giới hạn quyền lực bằng cách đảm bảo chính phủ được luân chuyển định kỳ….[C]hung ta phải có một chính quyền chịu trách nhiệm trong một khoảng thời gian cố định, với quyền lực và chính sách xác định.” [99] 

Trong số nhiều cải cách thì Ozawa nhấn mạnh nhu cầu về hệ thống tài trợ chính trị tốt hơn. Cách tốt nhất để tranh các bê bối tham nhũng và khôi phục niềm tin của công chúng là làm cho dòng tiền minh bạch. Các nhóm và doanh nghiệp không bao giờ nên chi tiền cho cá nhân mà chỉ nên chi cho các chính đảng. Hoàn toàn công khai với các hình phạt nặng đối với những người vi phạm là mấu chốt của sự cải cách này. [100]

Ozawa lên án nhiều vấn đề chính trị quốc gia bắt nguồn từ sự lão hóa của “hệ thống 1955”, trong hệ thống đó chính trị trở thành các đàm phán bí mật giữa các phe phái chính trị để phân chia ngân sách với nhau, với các chính đảng khác, với viên chức và doanh nghiệp. Ít có cuộc tranh luận nghiêm túc về chính sách khi khi họ phân chia miếng bánh kinh tế. Những người có quan điểm lịch sử dài hạn biết rõ vấn đề Ozawa phác thảo bắt nguồn từ sự tan ra của “hệ thống 1955” và sự biến dạng chính trị do hiệp định phòng thủ Hoa Kỳ - Nhật Bản và các vấn đề khác thời hậu chiến. Trên thực tế, cấu trúc chính trị của nhà nước hiện đại bị đè nặng bởi thứ được gọi theo cách của Maruyama Masao là ““tội tổ tông”: chủ nghĩa đa nguyên về quyền lực chính trị.” [101] Vào đầu và giữa thời Minh Trị, sự lãnh đạo mạnh mẽ của những người cha lập quốc ẩn náu sau một trung tâm chính trị yếu, nhưng vào những năm 1930 và đầu những năm 1940, rạn nứt trong hệ thống chính quyền Minh Trị đã trở nên rõ ràng. Chiến tranh, bại trận, bị chiếm đóng và cải cách chính trị không phá hủy được bản chất phe cánh của cấu trúc chính trị quốc gia. Chỉ có sự đại tu toàn bộ hệ thống chính trị mới có thể mang lại sự cải cách thực sự. Một học giả Nhật Bản khẳng định rằng chỉ có sự kết hợp cải cách quyền lực sau sự chiếm đóng của đồng minh với cách mạng Pháp mới tạo ra sự khác biệt trong chính trị. [102]

Cuộc đối thoại về cải cách chính trị giữa các chính khách và trên truyền thông được đồng hành bằng nhiều cuốn sách được xuất bản trong cùng năm xuất bản sách của Ozawa. Đối với nhiều người, cải cách chính trị có nghĩa là kiểm soát chặt chẽ hơn chính trị tiền bạc và hệ thống quận bầu cử. Nhưng như giáo sư Yamaguchi Jirò của đại học Hokkaido đã chỉ ra, chúng chỉ là những sự thay đổi bên ngoài; sự cải cách chính trị thật sự, thứ hồi sinh chính trị dân chủ, đòi hỏi phải tổ chức lại các chính đảng và thái độ mới của công dân. “Tam giác sắt” kết nối chính khách, viên chức và nhóm lợi ích, hình thành để kiếm lợi với chi phí của người đóng thuế, cần phải bị bẻ gãy nếu như có một cuộc cải cách chính trị thật sự. Nói tóm lại, giới chính trị đang cần có một một sự sắp xếp toàn diện, không chỉ khiến hệ thống hành chính cởi mở hơn mà còn giảm số lượng tham nhũng. Yamaguchi cho rằng thế hệ chính khách mới có thể vượt qua những ràng buộc phe cánh cũ, tạo thành những nhóm chính trị mới và tạo ra cải cách thực sự. [103] 

Ngon gió thay đổi chính trị đang thổi, nhưng hầu hết các đề xuất cải các đều yêu cầu một sự thay đổi quyết định trong thái độ của chính khách, viên chức và công dân. Do phe phái trong chính trị đã bắt đầu từ Quốc Hội thứ 1 vào năm 1890 và do phe phái tràn lan trong xã hội (cụ thể là nhóm của tôi chống lại nhóm của anh), một sự thay đổi nhanh chóng trong phương diện chính trị này là khó diễn ra. Các nhà phân tích chính trị khẳng định rằng vấn đề chính trị cơ bản là bản chất phi dân chủ của giới hành chính. Họ viết rằng “kể từ năm 1941, Nhật Bản đã có một hệ thống hợp tác công nghiệp do giới hành chính lãnh đạo.” [104] Vào cuối năm 1993, Ozawa Ichirò kêu gọi loại bỏ một số viên chức hành chính cấp cao và thăng cấp cho các chính khách, đóng vai trò người giám sát ở mỗi bộ, cũng như đưa các chính khách vào đội ngũ trưởng văn phòng ở các bộ chủ chốt. Điều mà Ozawa hướng tới là một phiên bản của hệ thống do tổng thống bổ nhiệm theo kiểu Hoa Kỳ. Viên chức đã cực lực phản đối kế hoạch này, coi nó là một nỗ lực chính trị hóa dịch vụ dân sự. [105] Do vậy, các nhà cải cách chính trị phải chuẩn bị cho cuộc phản công dữ dội từ phía viên chức hành chính muốn duy trì hiện trạng. Về phía công dân, những người đã có lịch sử lâu dài trong việc chấp nhận sự phạm pháp của viên chức hành chính và chính khách chừng nào mà kinh tế còn tăng trưởng, các nhà cải cách không nên kỳ vọng một sự thay đổi nhanh chóng trong thái độ của họ. Tóm lại, nỗ lực cải cách chính trị toàn diện có vẻ sẽ không diễn ra trong tương lai gần. Những sự thay đổi nhỏ nhặt hơn có thể diễn ra.

Chú thích:

1. Akira Kubota, “A Genuine Reform? The June–August 1993 Upheaval in Japanese Politics,” 112.
2. Yanaga, Big Business, 83–85; 120–122; Masumi, Postwar Politics, 248–249, 276–277; Kòdansha, Illustrated Encyclopedia 1:888.
3. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 243–244.
4. Ibid., 244–245; Peter J. Herzog, Japan’s Pseudo-Democracy, 153; Masumi, Postwar Politics, 298. Shipbuilding was a key industry targeted for government aid. Wartime losses left Japan with an acute shortage of merchant ships, which were needed to resume trade in the world economy. Tessa Morris-Suzuki, The Technological Transformation of Japan: From the Seventeenth to the Twenty-first Century, 187–188.
5. Herzog, Pseudo-Democracy, 298; Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 246–247.
6. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 247; Kishimoto Yoshihiro tsuisòroku kankòkai, Kishimoto Yoshihiro tsuisòroku, 216. Murobushi, Sengo gigoku, 136.
7. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 251–252; Herzog, Pseudo-Democracy, 154.
8. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 252; Wildes, Typhoon in Tokyo, 141–142.
9. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 264; Aritake, Seiji, 289–290; Masumi, Postwar Politics, 298–299; Murobushi, Sengo gigoku, 166–167, 173.
10. Kishimoto, Kishimoto Yoshihiro tsuisòroku, 216; Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 264; Murobushi, Sengo gigoku, 135–136, 170.
11. Yanaga, Big Business, 128–130; Lloyd A. Free, The Dynamics of Influence in Today’s Japan, 1.
12. Allan B. Cole and Naomichi Nakanishi, eds., Japanese Opinion Polls with Socio-Political Significance, 1947–1957 1:164, 167.
13. Yanaga, Big Business, 129.
14. Free, Dynamics of Influence, 11.
15. Frank C. Langdon, “Part IV: Japan,” 177–178.
16. Ibid., 178.
17. Chapman, Inventing Japan, 158.
18. Ibid.; Karel van Wolferen, The Enigma of Japanese Power: People and Politics in a Stateless Nation, 133.
19. Yoshida Shigeru, The Yoshida Memoirs: The Story of Japan in Crisis, 98– 99.
20. B. J. George, Jr., “Discretionary Authority of Public Prosecutors in Japan,” 61–62; Arthur T. von Mehren, “Commentary: Part II,” 427–428.
21. Aritake, Seiji, 287–288.
22. Ushiomi Toshitaka, “The Prosecution at the Crossroads,” 84–85.
178 Notes to Pages 116–122
23. Nomura, Hòsò fûunroku, 1:84.
24. Ibid., 2:223.
25. Ibid., 355, 369–370.
26. Masumi Junnosuke, “The 1955 System in Japan and Its Subsequent Development,” 300.
27. Nobuo Tomita, Akira Nakamura, and Ronald J. Hrebenar, “The Liberal Democratic Party: The Ruling Party of Japan,” 258–259.
28. Masumi, “The 1955 System in Japan,” 292, 295.
29. Hans H. Baerwald, “Tento-Mura: At the Making of a Cabinet,” 70–73; Herzog, Pseudo-Democracy, 158.
30. Marshall E. Dimock, The Japanese Technocracy: Management and Government in Japan, 85; Curtis, Election Campaigning, 28.
31. Haruhiro Fukui, “Postwar Politics, 1945–1973,” 6:192, 195, 198, 210.
32. Masumi, “The 1995 System in Japan,” 302–303.
33. Chalmers Johnson, “Tanaka Kakuei, Structural Corruption, and the Advent of Machine Politics in Japan,” 11.
34. Michael K. Blaker, ed., Japan at the Polls: The House of Councillors Election of 1974, i.
35. Chapman, Inventing Japan, 159.
36. Herbert Passin, “The House of Councillors: Promise and Achievement,”
34.
37. Ibid.; Blaker, Japan at the Polls, ii.
38. Johnson, “Machine Politics,” 12; James L. Huffman, “The Idioms of Contemporary Japan XI,” 509–511, 513; Takako Kishima, Political Life in Japan: Democracy in a Reversible World, 102, 104, 137.
39. Ronald J. Hrebenar, “The Money Base of Japanese Politics,” 66–67; Johnson, “Machine Politics,” 12; Huffman, “Idioms,” 509–511.
40. Quoted in Hrebenar, “Money Base,” 67.
41. Ibid.
42. Ibid., 68–69.
43. Kishimoto Kòichi, Politics in Modern Japan: Development and Organization, 137.
44. Curtis, Japanese Way, 164.
45. Ibid.
46. Ibid., 181. Kishimoto, Politics in Modern Japan, 137; Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 2:1212.
47. Taketsugu Tsurutani, “The LDP in Transition? Mass Membership Participation in Party Leadership Selection,” 848.
48. Ibid.
49. Ibid., 851–852.
50. Ibid., 852–853.
51. Ibid., 856.
52. Herzog, Pseudo-Democracy, 161, 163–164; Johnson, “Machine Politics,” 15.
53. David Boulton, The Lockheed Papers, 45, 241–250.
54. Herzog, Pseudo-Democracy, 163–167; Johnson, “Machine Politics,” 15.
55. Herzog, Pseudo-Democracy, 168–170.
Notes to Pages 123–129 179
56. Johnson, “Machine Politics,” 15.
57. Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 1:888; Johnson, “Machine Politics,” 19.
58. Hrebenar, “Money Base,” 64; Johnson, “Machine Politics,” 16.
59. Hertzog, Pseudo-Democracy, 157.
60. Ibid., 175.
61. Ibid., 178; Yayama, “The Recruit Scandal,” 101; William J. Holstein,
The Japanese Power Game: What It Means for America, 110; Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 2:1248.
62. James W. White, “The Dynamics of Political Opposition,” 446.
63. Herzog, Pseudo-Democracy, 186, 188.
64. Holstein, Power Game, 125; Liberal Star, June 15, 1989, 1, 3.
65. Quoted in Liberal Star, June 15, 1989, 1.
66. Holstein, Power Game, 125–127; Kubota, “Genuine Reform?” 96.
67. Holstein, Power Game, 131–132; Chalmers Johnson, “The People Who Invented the Mechanical Nightingale,” 83.
68. Kenji Hayao, The Japanese Prime Minister and Public Policy, 93.
69. Scott C. Flanagan, “The Changing Japanese Voter and the 1989 and 1990 Elections,” 445–446.
70. Quoted in Liberal Star, November 15, 1989, 2.
71. Ibid., March 15, 1990, 1.
72. Flanagan, “Changing Japanese Voter,” 458–461.
73. Igarashi Akio, book review of Jimintò: Chòki shihai no kòzò, 21–23.
74. Liberal Star, February 15, 1991, 4; July 15, 1991, 2; August–September, 1991, 1; October 15, 1991, 2–3; November 15, 1991, 1; December 15, 1991, 3; April 15, 1992, 1; August–September, 1992, 1.
75. Herzog, Pseudo-Democracy, 189, 268; “Lurching toward Realignment,”
6; Mizuguchi Hiroshi, “Political Reform: Much Ado about Nothing?” 253.
76. Quoted in Liberal Star, October 15, 1992, 2.
77. Ibid., November 15, 1992, 2.
78. Paul Blustein, “No Wonder U.S. Firms Couldn’t Win: Rigged Contracts in Japan Shut Out Others,” 19; Mizuguchi, “Political Reform,” 253.
79. Kubota, “Genuine Reform?” 97.
80. “Lurching toward Realignment,” 7; Kubota, 93.
81. Ibid., 93, 98.
82. New York Times, July 19, 1993, A1, A9.
83. Ibid., July 30, 1994, Al, A5.
84. Japan Times, January 30, 1994, 1, 3.
85. Paul Blustein, “In Japan, Will One Reform Beget Another? A Political Cleanup May Lead Economic Change,” 16.
86. Economist, April 16, 1994, 16.
87. Wall Street Journal, January 31, 1994, A9.
88. Quoted in ibid.
89. New York Times, April 11, 1994, A3,; Newsweek, April 18, 1994, 31; Kubota, “Genuine Reform?” 123 n. 37.
90. New York Times, April 26, 1994, A1; Newsweek, July 4, 1994, 49.
91. New York Times, June 30, 1994, A1.
180 Notes to Pages 129–138
92. Ibid., A12.
93. U.S. News and World Report, July 11, 1994, 15.
94. New York Times, July 1, 1994, A3.
95. Chalmers Johnson, Japan: Who Governs? The Rise of the Developmental State, 219.
96. Robert C. Angel, “Implications of Japan’s July 1993 General Election: ‘The People Have Mumbled,’ ” unpublished paper, 5.
97. Ozawa, Blueprint, 23–24.
98. Ibid., 24–25.
99. Ibid., 29.
100. Ibid., 68–70.
101. Maruyama Masao, Thought and Behaviour in Modern Japanese Politics, 127.
102. Johnson, Who Governs? 231.
103. Yamaguchi Jirò, “The Book Forum of Political Reform,” 4–5.
104. Quoted in Johnson, Who Governs? 226.
105. Ibid., 228.

Sunday, January 24, 2016

Hối lộ chính trị ở Nhật Bản - Thời Kỳ Bị Chiếm Đóng

Các chương đã được dịch của cuốn sách:






5. Thời Kỳ Bị Chiếm Đóng 




Hối Lộ Chính Trị ở Nhật Bản - Chương 5: Thời Kỳ Bị Chiếm Đóng


Mục tiêu chủ yếu của Tư Lệnh Tối Cao Lực Lượng Đồng Minh (SCAP, cụ thể là tướng Douglas MacArthur; nhưng ở đây sẽ được dùng để chỉ các nhà chức trách quân đồng minh nói chung) là giải trừ quân bị và dân chủ hóa Nhật Bản. Mặc dù mục tiêu thứ nhất được hoàn thành dễ dàng trong vài tháng, việc thực hiện mục tiêu thứ hai khó khăn và kéo dài hơn nhiều. Cơ quan chiếm đóng thuộc sở chỉ huy của tướng Arthur chịu trách nhiệm định hướng các cải cách chính trị là Đơn Vị Chính Quyền (GS). Đơn vị này nằm dưới quyền thiếu tướng Courtney Whitney (từ tháng 12/1945), với chỉ huy phó là đại tá Charles Kades (từ tháng 9/1946). Các nhà cải cách của GS dự định dân chủ hóa các đảng chính trị và sửa đổi luật bầu cử, song có lẽ là họ không lường trước được sự phổ biến của vấn đề hối lộ chính trị. Một ngoại lệ trong số các nhà cải cách là Harry E. Wiles, có cuốn sách về Nhật Bản thời tiền 1945 trình bày sự quan tâm đặc biệt đến hối lộ và các dạnh tham nhũng chính trị khác. Quyết định khuyến khích tự trị dân chủ, SCAP bắt đầu bài trừ các tổ chức và những người không được mong muốn khỏi đời sống xã hội vào tháng 1/1946. Một hệ quả của hành động táo bạo này là toàn bộ các chính khách của các chính đảng thời tiền chiến đều bị xóa sổ; sự xóa sổ này đã tạo ra một “khoảng trống quyền lực, mở đường cho thế hệ các lãnh đạo chính trị mới. Nổi bật trong số các lãnh đạo mới là những người xuất thân từ các vị trí cao trong bộ máy hành chính quốc gia. Do sự chiếm đóng của Hoa Kỳ là không trực tiếp, thông qua bộ máy chính quyền có sẵn của Nhật Bản nên bộ máy hành chính hầu như không bị đụng chạm đến trong cuộc thanh tẩy.” [1]

SCAP cũng khuyến khích sự tự trị dân chủ bằng cách thúc ép chính quyền tự do hóa các quy định bầu cử quốc gia. Mặc dù việc trao quyền bầu cử cho phụ nữ bị phản đối song có lẽ Nhật Bản cũng sẵn sàng thay đổi luật bầu cử Hạ Viện. Nội các Shidehara Kijûrò (9/10/1945 – 22/5/1946) đã nhanh chóng đưa ra luật cải cách Luật Bầu Cử. Những điểm chính trong sự thay đổi này là quyền bỏ phiếu cho tất cả mọi người trên 20 tuổi và tuổi tối thiểu của ứng cử viên là 25, một hệ thống bỏ phiếu số nhiều giới hạn và các quận bầu cử đông dân, sự xóa bỏ nhiều hạn chế tranh cử. Luật Bầu Cử Hạ Viện (Luật Số 42) được Quốc Hội thông qua vào ngày 15/12 và được ban hành vào ngày 17/12. Luật này phân chia quốc gia thành 54 quận. Ngoại trừ các quận đông dân nhất, mỗi quận tương ứng với một huyện. Từ 4 đến 14 đại ghế ở Hạ Viện được phân bổ cho các quận, phụ thuộc vào dân số của mỗi quận. Tổng cộng là có 466 ghế Hạ Viện. Luật cũng nhằm mục đích ngăn chặn hoạt động tham nhũng bầu cử bằng cách giảm các giới hạn tranh cử và hỗ trợ cho các ứng cử viên. Ví dụ, theo luật này, bất cứ ai cũng có thể hỗ trợ bầu cử, không chỉ quản lý bầu cử và một ủy ban được lựa chọn; các giới hạn về số lượng mít-tinh công khai và diễn giả cũng được bãi bỏ, số lượng các poster quảng cáo cũng vậy. Hơn nữa, luật mới cố gắng trung hòa chi phí bầu cử gia tăng bằng cách mở rộng việc bầu cử với sự hỗ trợ của chính quyền. Mọi ứng cử viên đều được phép sử dụng các cơ sở công cộng; viên chức quận được lệnh cung cấp thông tin cho cử tri về quan điểm chính trị của từng ứng cử viên; các thời gian lên sóng phát thanh tự do được cung cấp cho lãnh đạo đảng phái; hình phạt cũ đối với việc chi tiêu quá mức tối đa của chi phí tranh cử cũng được bãi bỏ. Nhằm xóa bỏ các kịch bản cũ về hối lộ, Điều 12 quy định rằng những người bán hoặc mua phiếu bầu sẽ phải chịu án tới 3 năm tù và bị phạt tới 20.000 yen. [2]

Cuộc bầu cử phổ thông mở rộng đầu tiên được tổ chức vào ngày 10/4/1946. Ba tháng trước đó, GS đã ra lệnh “làm mọi thứ có thể để đảm bảo sự thể hiện ý chí tự do và không bị giới hạn của người dân trong cuộc bầu cử này. Để đạt được mục tiêu này, anh phải công bố hoàn toàn các chế tài của luật và làm mọi cách để đảm bảo chúng được thi hành nghiêm túc.” [3] Năm chính đảng lớn đã đưa ra các ứng cử viên là: Tự Do, Tiến Bộ, Xã Hội Chủ Nghĩa, Hợp Tác và Cộng Sản. Đảng Tự Do giành được 140 ghế, đảng Tiến Bộ được 94 ghế, đảng Hợp Tác được 5 ghế. Một tờ báo tóm tắt cuộc bầu cử như sau: 
[C]ó thể thấy rằng những người liên minh với cánh bảo thủ đã giành được đa số tuyệt đối. Trái lại, sức mạnh của những lực lượng được coi là tiến bộ…không đạt được 100 ghế. Đó là bằng chứng cho thấy, bất chấp lời kêu gọi về một mặt trận dân chủ dã được công luận ủng hộ, các lực lượng bảo thủ vẫn duy trì được một cơ sở vững chắc…và người ta có thể thấy cụ thể rằng jiban được lực lượng Seiyukai và Minseito cũ nuôi dưỡng trong nhiều năm ở khu vực nông thôn đã không bị lay chuyển. [4] 
Viết vào hai năm sau, Kenneth Colton, một nhà phân tích nghiên cứu về thời kỳ chiếm đóng, cho biết rằng đảng Tiến Bộ đã giành được địa bàn ảnh hưởng chính trị địa phương của Minseitò cũ, nhận được sự ủng hộ của nhóm các thị trưởng và trưởng làng. [5] Bất chấp điều này và các dấu hiệu khác cho thấy chính trị đảng phái ít hay nhiều tuân theo kịch bản thời tiền 1945, ở lĩnh vực quan trọng là tài chính cho đảng một nhân tố mới đã xuất hiện. Trước chiến tranh, các đảng phái phụ thuộc vào sự quyên góp của doanh nghiệp lớn và các quỹ bí mật của chính phủ, nhưng sự bại trận đã phá hủy nhũng nguồn truyền thống này và buộc các đảng phái phải tìm tiền ở nơi khác. Các công ty xây dựng là nguồn quan trọng mới; một nguồn khác là các khoản vay công nghiệp do chính phủ kiểm soát. [6] Vài tuần sau cuộc bầu cử, nội các của Shidehara Kijûrò được thay thế bằng nội các của Yoshida Shigeru (22/5/1946 – 23/5/1947), chủ tịch của đảng Tự Do. Thử nghiệm với hệ thống bầu cử quận lớn có vẻ chỉ làm hài lòng một số người ít có quyền lực. Do vậy, vào ngày 31/3/1947, Luật Bầu Cử Hạ Viện Sửa Đổi (Luật số 43) đã tái lập các quận nhiều đông dân cỡ trung và bỏ phiếu đơn gần giống với luật 1925. Hệ thống này tạo ra 117 quận nhiều thành viên. Mỗi cử tri bỏ một phiếu và phụ thuộc vào quy mô của quận, số lượng ứng cử viên thắng cử sẽ là 3, 4 hoặc 5. [7] Đáng chú ý là các hạn chế trong tranh cử lại tăng lên. Ví dụ, các tài liệu tranh cử và poster đã bị hạn chế. Khuynh hướng này tiếp tục trong những năm tiếp theo, với thường xuyên áp dụng lại những kiểm soát thời tiền 1945 đối với các hoạt động tranh cử. [8]

Động cơ của nội các bảo thủ Yoshida trong việc thúc đẩy luật mới bất chấp sự phản đối của phe đối lập là ngăn cản sự phát triển của các đảng nhỏ, đặc biệt là các đảng cánh tả. Hơn nữa, các khu vực bầu cử nhỏ sẽ giúp cho các ông trùm chính trị bảo thủ dễ dàng dùng hối lộ và các biện pháp bất hợp pháp khác để gom phiếu bầu. Mặc dù, GS không hài lòng với diễn biến này song họ có thái độ buông xuôi. Bất chấp hệ thống bầu cử mới, cuộc bầu cử vào ngày 25/4/1947, mang lại thắng lợi đáng ngạc nhiên cho đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Nhật Bản dưới sự lãnh đạo của Katayama Tetsu, họ đã thành lập nội các liên minh vào ngày 24/5. [9]

Một báo cáo của GS về các vi phạm bầu cử trong cuộc bầu cử năm 1947 đã thống kê được 2.997 vi phạm. Vào ngày 10/6, 1.028 người đã bị phạt, 71 người bị bỏ tù, 1 người được miễn giảm án và 1 người được trắng án. Số còn lại đang đợi xét xử. Đáng chú ý là các khu vực có số lượng người vi phạm nhiều lại không phải là các thành phố lớn mà là những nơi như Mito (208), Sendai (239), Fukushima (307) và Yamagata (337). Hối lộ chính trị (cụ thể là mua hay bán phiếu bầu) là bị cáo buộc trong 2.610 trường hợp. [10] Một tài liệu khác của SCAP cũng cho biết là mặc dù cả 5 cấp chính quyền được bầu trong tổng tuyển cử năm 1947 nhưng chỉ có 2.997 vi phạm. Đây được coi là một kết quả khả quan, bởi vì cuộc bầu cử năm 1946 chỉ có một cấp chính quyền được bầu (cụ thể là Hạ Viện), nhưng có 2.632 cáo trạng. Hơn nữa, báo cáo cũng chỉ ra rằng các quy định bầu cử trong cuộc bầu cử năm 1947 chặt chẽ hơn so với năm 1946. Tài liệu này kết luận rằng đạo đức chính trị nói đã được cải thiện rõ rệt. [11]

Bình luận về số cử tri vi phạm, Russel Brines của hãng thông tấn AP đã viết, “Theo tập quán chính trị của Nhật Bản, điều này là không hợp lý.” [12] Ngoài tập quán, một sự so sánh với vi phạm Luật Bầu Cử thời tiền chiến cũng ủng hộ cho quan điểm của Brines, tổng số vi phạm là không hợp lý: 10.401 vào năm 1928; 18.010 vào năm 1930; 9.869 vào năm 1932 (xem chương 4). Hơn nữa, kết luận của ông cũng hợp lý khi số lượng cử tri thời tiền chiến chỉ khoảng 12.400.000 – 13.100.000 và vào năm 1947 số lượng cử tri là gần 41.000.000. [13] Về phương diện kinh tế trong tranh cử quốc gia, Brines cho biết 75.000 yen là giới hạn chi tiêu tranh cử cho mỗi ứng cử viên. “Không ứng cử viên nào bị báo cáo chính thức là vượt qua giới hạn, vì những lý do rõ ràng. Nhưng các nhóm chính trị đã thoải mái thì thầm với nhau rằng một ứng cử viên triển vọng mà có ít hơn 500.000 yen trong túi thì không có cơ hội thắng cử.” [14]

Từ đầu thời kỳ chiếm đóng, tin đồn về một khoản hỗ trợ lớn của các nguồn quân sự bí mật đã được lan truyền. Các cuộc điều tra thường xuyên của SCAP nhằm khám phá ra của cải được cất giấu bí mật chỉ tìm thấy các kho hàng thông thường của những người buôn bán trên chợ đen. Vào năm 1947, trước khi Katayama Tetsu thành lập nội các, vấn đề cất giấu của cải thu hút được sự chú ý của công chúng khi cựu thứ trưởng Sekò Kòichi (Bộ Nội Vụ, nội các Yoshida), cáo buộc rằng các tài sản quân đội trị giá 100 tỷ yen đã bị các doanh nghiệp lớn bí mật cất dấu. Sự cáo buộc của Sekò đã dẫn đến việc thành lập Ủy Ban Tài Sản Bí Mật (nằm trong Ủy Ban Ổn Định Kinh Tế) để điều tra các cáo buộc, với Sekò làm phó chủ tịch (24/2 – 11/4). Mặc dù người dân không rõ việc Sekò đã khám phá các giao dịch bất hợp pháp tài sản của chính phủ ra sao song ông ta đã thu hút được sự chú ý của công chúng khi ông ta cáo buộc rằng một số bộ trưởng mới của Katayama có liên quan đế hệ thống bất hợp pháp để kiếm lợi từ các tài sản bị cất giấu bí mật. Điều này đủ để châm ngòi cho một sự phản ứng của Hạ Viện, vào ngày 25/7 đã thành lập Ủy Ban Đặc Biệt Điều Tra Về Tài Sản Bị Cất Giấu. Ủy ban này, lần đầu tiên được Hạ Viện thành lập, do đảng viên xã hội chủ nghĩa Katò Kanju đứng đầu. Báo cáo của ủy ban được Hạ Viện công bố vào ngày 20/12/1947. Báo cáo xác nhận rằng nội các Suzuki Kantarò (7/4 -17/8/1945) đã ra lệnh giao tài sản quân đội cho một số cá nhân và công ty nặc danh, không có các khoản thanh toán cho các tài sản đó được chuyển vào ngân khố công. [15] 

Các báo cáo cho biết số tiền lớn thu được từ việc bán các tài sản bị cất giấu đã được sử dụng để hối lộ các chính khách và viên chức, các quỹ bất hợp pháp này cũng được dùng để tài trợ cho các chiến dịch tranh cử vào năm 1946 và 1947 để tạo ra các hành động mau lẹ. GS coi sự mở rộng của tham nhũng là sự đe dọa đối với chương trình cải cách chính trị của SCAP. Do vậy, thiếu tướng Whitney yêu cầu tổng chưởng lý Fukui Seita điều tra về các tài sản bị cất giấu. Hơn nữa, GS cũng thúc ép Bộ Tài Chính gia tăng ngân sách cho Bộ Tư Pháp để có thêm các công tố viên và sự thúc giục này đã dẫn đến việc tuyển dụng các công tố viên mới; nhiều người được giao điều tra về vụ bê bối tài sản bị cất giấu. [16] Vào đầu tháng 2/1948, đại tá Kades phát biểu trong một hội nghị công tố viên quốc gia: 
Liên Hiệp Quốc đang theo dõi xem có phải chỉ bề ngoài của xã hội Nhật Bản thay đổi còn nội dung bên trong thì vẫn như cũ. Thế giới đang theo dõi xem có thật sự là với Hiến Pháp mới, cũng như với Hiến Pháp Minh Trị hay dưới sự cai trị của shogun Tokugawa, phép lịch sự không được mở rộng cho “người thường” và sự trừng phạt không được áp dụng cho “quý tộc”. Do dân chủ bắt nguồn từ sự bình đẳng trước pháp luật nên luật pháp trong dân chủ trở thành đòn bẩy vĩ đại của xã hội. Các công tố viên, có khách hàng duy nhất là nhân dân, có thể phục vụ cho nền dân chủ của Nhật Bản bằng cách truy tố nghiêm khắc và không e ngại tất cả những người coi thường phép tắc xã hội và đạo đức chung, cho dù họ có là các chính khách đặc quyền đặc lợi hay các ông trùm công nghiệp, bằng cách bán các tài sản thừa kế của người dân Nhật để lấy những khoản lợi nhuận bẩn thỉu trên chợ đen. [17]
Sau khi Katò trở thành bộ trưởng Bộ Lao Động trong nội các của Ashida Hitoshi (10/3 – 15/10/1948), ủy ban về tài sản bị cất giấu, đã được đổi tên thành Ủy Ban Điều Tra Các Giao Dịch Tài Sản Bất Hợp Pháp, do Mutò Unjirò, một đảng viên xã hội chủ nghĩa khác đứng đầu. Được vũ trang bằng quyền thẩm tra các nhân chứng theo tuyên thệ, ủy ban của Mutò đã điều tra các cựu ứng cử viên của Quốc Hội và thành viên Quốc Hội về nguồn gốc quỹ tranh cử. Một số nhân chứng đã nhanh chóng mắc tội khai man. Trong báo cáo nội bộ đầu tiên, Mutò đã chỉ ra lời khai mâu thuẫn và đề xuất một luật mới để ngăn chặn các quỹ bí mật bất hợp pháp. Trong thời gian tồn tại của ủy ban Mutò, hàng tá chính khách đã bị công tố viên thẩm vấn và một số đã bị bắt giữ vì hối lộ. Con cá lớn nhất bị mắc lưới là đảng viên xã hội chủ nghĩa Nishio Suehiro, phó thủ tướng của nội các Ashida. Trong khi điều trần về các khoản quyên góp chính trị của nhiều nhà thầu xây dựng, ông ta đã thừa nhận rằng vào tháng 4/1947 ông ta nhận được khoản quyên góp 500.000 yen nhưng không đưa vào báo cáo chi tiêu chính thức của đảng. Nishio cho rằng đây là khoản quyên góp cho cá nhân ông ta và không phải là hối lộ để tác động tới hành động chính trị của ông ta. Các chính khách đối lập trả lời bằng cách lợi dụng cơ hội này để đề xuất một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm. Họ cho rằng, Nishio đã vi phạm Quyết Định Nội Các số 328, bắt buộc báo cáo mọi khoản tài trợ cho tranh cử. Nishio từ chức vào ngày 6/7 và bị bắt giữ vào ngày hôm sau. Sau khi bị truy tố vì tội khai man và vi phạm quyết định 328, ông ta được xét xử tại Tòa Án Quận Tokyo. [18] 

Quan trọng hơn so với vụ Nishio là việc ủy ban của Mutò đã phát hiện ra vụ tham nhũng liên quan đến Luật Kiểm Soát Mỏ Than Quốc Gia. Mặc dù nội các Katayama là một chính phủ liên hiệp song thủ tướng đã hứa sẽ mở rộng quyền sở hữu nhà nước về kinh doanh, nhất là các lĩnh vực chủ chốt như than, phân bón và ngân hàng. Không may cho Katayama và những người ủng hộ, nhiều người xã hội chủ nghĩa ôn hòa và bảo thủ đều liên kết chống lại kế hoạch này. Theo quan điểm của SCAP, nhu cầu cấp thiết nhất là sự tăng vọt của sản xuất than, vốn cần thiết cho khôi phục kinh tế. Tướng MacAthur đồng ý: Nhật Bản có thể tái tổ chức công nghiệp khai mỏ nếu như sự tái tổ chức đó không mâu thuẫn với chính sách của SCAP và sản xuất tăng lên. [19]

Các thành viên của Hiệp Hội Khai Thác Than Kyushu đã chống lại dự thảo luật quốc hữu hóa với một quỹ vận động chính sách được tạo ra bằng cách thu 10 yen trên mỗi tấn than do các thành viên hiệp hội sản xuất ra. Điều này tạo ra một ngân sách nhiều triệu yen, được sử dụng để hối lộ các thành viên Hạ Viện. Việc kinh doanh nhà hàng sang trọng ở khu vực gần tòa nhà Quốc Hội nở rộ trong khi tin đồn về các khoản hối lộ lớn được lan truyền. [20] Các phương tiện khác cũng được sử dụng cùng với sự chiêu đãi xa hoa và tiền mặt để ngăn chặn dự luật: một đội ám sát 5 người được cử đến từ Kyushu để giết Mizutani Chòzaburò, bộ trưởng Bộ Thương Mại và Công Nghiệp, và Itò Ushirò, chủ tịch ủy ban thẩm định dự luật. Nhận được tin đồn về vụ mưu sát, Ủy Ban Cảnh Sát Đô Thành đã cử một đội vệ sĩ bảo vệ các chính khách. Sau đó, các sát thủ đã đến Tokyo, vào tòa nhà Quốc Hội và cố gắng tiếp cận Mizutani và Itò. May mắn cho các chính khách là các sát thủ đã không thể đến đủ gần để sử dụng dao găm. Cuối cùng, những kẻ mưu sát hết tiền và quay trở lại Kyushu. [21] 

Việc thẩm định dự luật đã biến Quốc Hội trở thành một tổ ong bò vẽ. Những người phản đối dự luật không chỉ sử dụng các phương pháp cản trở tiêu chuẩn mà còn sử dụng cả nắm đấm, các trận ẩu đả liên tiếp xảy ra. Những người quan sát có ký ức đủ lâu lại nhớ đến các kỳ họp Quốc Hội ồn ào vào những năm 1920. Cuối cùng, nội các Katayama thông qua được một phiên bản bị pha loãng của dự luật, được ban hành vào tháng 4/1948. Một người quan sát có hiểu biết đương thời cho biết rằng đạo luật không có hiệu lực thực tế. [22]

Tin đồn về khoản tiền lớn liên quan đến luật về mỏ than đã thu hút sự chú ý của công tố viên Tòa Án Tokyo nhưng họ quá bận rộn và thiếu người để hành động. Một lý do dẫn đến tình hình này là công tố viên đang xử lý một vụ án tham nhũng khác liên quan đến nội các Ashida (xem ở dưới). Vào lúc này, các viên chức SCAP, đọc được trên báo chí rằng các chủ mỏ đã chiếm dụng quỹ xây nhà cho thợ mỏ của chính quyền, đã tham gia vào vụ việc, thúc ép chưởng lý Satò Hiroshi điều tra. Kết quả của sức ép này là tiền, nhân lực và trang thiết bị được cung cấp cho công tố viên Nakamura Nobutoshi cùng với 13 nhân viên. Vào ngày 19/10/1948, họ bắt đầu điều tra vụ án mỏ than. [23]

Một bước đệm cho vụ án này là sự tiết lộ của Okabe Tokuzò (đảng Dân Chủ), đã lỡ lời vào ngày 24/9/1948, khi ông ta điều trần trước ủy ban của Mutò. Sử dụng Tsugokawa Shinzò làm người trung gian, ông ta nói, để đưa 50.000 yen cho Kawasaki Shûji, phó chủ tịch của Ban Thanh Tra Hoạt Động Đảng. Công tố viên coi đây là sự khởi đầu cho dấu vết của tiền. Khi Kawasaki bị ủy ban thẩm vấn, ông ta khẳng định rằng tiền đã được trả lại. Tuy vậy, sau khi so sánh lời khai của nhiều người, ủy ban kết luận rằng Okabe đã phân phát 450.000 yen cho một số thành viên của đảng Dân Chủ. Hơn nữa, Takeuchi Reizò, có vẻ là đảm nhiệm việc vận động để ngăn chặn dự luật (ông ta được các chủ mỏ gửi đi từ Kyushu cho mục đích này), đã đưa 500.000 yen cho Uehara Etsujirò, người đứng đầu Ủy Ban Kế Hoạch Đặc Biệt Về Than của đảng Tự Do. Uehara phủ nhận việc nhận tiền. Ủy ban cho biết, chủ mỏ Azabu Tagakichi đã đưa 1.300.000 yen cho Yoshida Shigeru, người này chuyển 700.000 yen cho đảng Tự Do; một số người tin rằng một phần của khoản tiền đó đã đến tay Shidehara Kijûrò (cựu thủ tướng) và Tanaka Man’itsu (cựu bộ trưởng không bộ trong nội các Yoshida thứ nhất). Cuối cùng, ủy ban khẳng định rằng 2.000.000 yen đã được chuyển cho thành viên Nagao Tatsuo của đảng Dân Chủ, người này lại chuyển chúng cho thư ký trưởng của đảng là Takeda Giichi (Dân Chủ) và Tanaka Man’itsu. Ủy ban coi những quỹ này là tiền hối lộ được dùng để ngăn chặn dự luật về mỏ than. [24] 

Các công tố viên Tokyo không thể khởi tố vụ án này cho đến khi họ khám phá ra các bằng chứng vật chất là các tờ séc bị hủy lên đến vài triệu yen ở các ngân hàng của Kyushu. Sự khám phá này cùng với việc thẩm vấn đã dẫn đến sự truy tố đối với Kiso Shigeyoshi and Haraguchi Hideo vì tội đưa hối lộ. Những người này là nhân vật chủ chốt trong nhóm Kyushu cố gắng ngăn chặn dự luật. Tanaka Man’itsu, Takeda Giichi, Tanaka Kakuei và Fukatsu Tamaichirò là những người bị truy tố vì nhận hối lộ. Trước phiên xét xử của Tòa Án Quận Tokyo, các công tố viên đã hài lòng với cáo trạng; như công tố viên Asami Toshio cho biết, hiếm khi tìm được những bằng chứng chắc chắn như ba tờ séc với mỗi tờ là 1 triệu yen. Vụ truy tố bắt đầu đổ vỡ ngay từ phiên xét xử đầu tiên và tiếp tục vỡ tan vào phiên thứ hai. Tanaka Man’itsu được trắng án; Tanaka Kakuei nhận 6 tháng tù; Fukatsu và Kiso bị kết án nhưng được hoãn thi hành án. Takeda Giichi (cựu bộ trưởng Bộ Phúc Lợi) được xét xử ở một phiên tòa khác và được trắng án. Tại phiên tòa phúc thẩm, bản án của Tanaka Kakuei bị bác bỏ. Do đó, cả hai cựu bộ trưởng đều thoát khỏi sự trừng phạt và chỉ có một chính khách nhận án tù – và điều đó là không xứng đáng. [25]

Một cáo buộc hối lộ rất khó chứng minh, như vụ án này đã cho thấy. Như chúng ta đã biết, công tố viên không chỉ phải chứng minh rằng viên chức nhận tiền và ở vị thế có thể đáp ứng lợi ích của người đưa hối lộ mà còn phải chứng minh rằng viên chức nhận tiền biết đó là khoản hối lộ. Việc xem xét các thẩm phán và luật sư đánh giá các trường hợp của Fukatsu và hai Tanakas sẽ cho thấy một số cái nhìn trực tiếp vào quá trình xác định việc hối lộ. Các thẩm phán xem xét trường hợp của Fukatsu và nói: ông ta nhận tiền trực tiếp từ Kiso và làm một số việc trong đáp lại trong phạm vi quyền hạn của ông ta; họ có thấy không có biện minh nào khác cho việc Fukatsu giữ tiền. Đối với Tanaka Man’itsu, chánh tòa ở phiên xét xử thứ nhất không chấp nhận lập luận của công tố rằng tiền được dùng để đổi lấy việc phủ quyết dự luật. Trái lại, ông ta chấp nhận lập luận rằng cả người đưa (Kiso) lẫn người nhận (Tanaka) đều coi tiền là khoản quyên góp chính trị để thành lập đảng mới. Việc Tanaka rời khỏi đảng Dân Chủ và tham gia nhóm mới đã ảnh hưởng tới quyết định của thẩm phán. Khi được phỏng vấn sau phiên tòa, luật sư của Tanaka, Abiru Ken’ichi, nói rằng mọi người đều đồng ý là Tanaka nhận tiền, nhưng ông ta đã trả lại chúng ngay trước khi bỏ phiếu cho dự luật; việc này cũng đã tác động đến thẩm phán. Hơn nữa, trong lời khai với công tố viên và những người khác, Kiso và Tanaka thường xuyên khẳng định rằng tiền là khoản quyên góp chính trị và không liên quan đến dự luật. [26] Abiru kết luận, “Nói tóm lại, đây là luật kỳ lạ: nếu nghi phạm không coi tiền là hối lộ thì tội hối lộ không được thành lập. Do đó, khi nghi phạm khai báo [cụ thể là với công tố viên và thẩm phán đánh giá sơ bộ], chỉ có những kẻ ngốc mới bị tóm.” [27]

Tanaka Kakuei nói với công tố viên rằng ông ta yêu cầu đảng viên dưới quyền, Nagao Tatsuo, liên hệ để mở rộng việc kinh doanh xây dựng. Nagao giới thiệu ông ta với Kiso, người này giao cho ông ta việc xây dựng khu nhà ở của thợ mỏ. Một triệu yen, Tanaka khẳng định, là tiền ứng trước của dự án xây dựng. Đương nhiên, ông ta khẳng định rằng tiền này không liên quan đến dự luật. Mặc dù Tanaka không thể cung cấp các hợp đồng bằng văn bản cũng như các ghi chép trong sổ kế toán, thẩm phán tòa phúc thẩm vẫn phán quyết rằng hợp đồng tồn tại bởi vì mỗi người là chủ tịch của một công ty. Hai sự việc khác cũng giúp Tanaka, theo luật sư Masaki Tòru: mặc dù Tanaka đã thực hiện một số việc xây dựng ở mỏ của Kiso song Kiso không bao giờ dùng tên gọi “nghị sĩ Quốc Hội” (daigishi) để chỉ Tanaka; trong trường hợp các nghị sĩ khác thì ông ta luôn dùng tên gọi đó. Điều này thuyết phục thẩm phán rằng Kiso chỉ coi Tanaka là một nhà thầu. [28]

Một tuần trước khi nhậm chức, nội các Ashida Hitoshi đã hứa sẽ nâng cao chuẩn mực đạo đức và thông qua luật chống tham nhũng chính trị. [29] Nực cười thay, tin đồn về hối lộ chính trị đã săn đuổi nội các này ngay từ đầu và trong vòng vài tháng nó đã bị sụp đổ bởi bê bối hối lộ lớn nhất thời kỳ bị chiếm đóng. Ngay sau vụ bắt giữ Nishio (xem ở phía trên), vụ bê bối của công ty Showa Electric (Showa Denkò) đã bắt đầu làm tan rã nền tảng chính trị của nội các. [30] Bên cạnh việc lên án Ashida theo các kịch bản truyền thống của phe đối lập đang cố gắng phá hủy nội các, vụ việc này có thêm sự quanh co khi một số sĩ quan của SCAP muốn bảo vệ trong khi những người khác lại lên án Ashida. [31] Bên cạnh đó, những lời khai như được trình bày ở dưới đều bình thường: “Do bị ảnh hưởng của vụ bê bối Showa Denko, ông ta [Ashida] đã buộc phải từ chức.” [32] Điều này là đúng. Trên thực tế, Ashida bị truy tố vì nhận tiền từ các công ty xây dựng; vụ việc này không có liên hệ trực tiếp với vụ bê bối Showa Denkò. Tuy vậy, các công tố viên sắp xếp để gộp cựu thủ tướng vào phiên tòa xét xử vụ Showa Denkò (có ba nhóm bị cáo). [33]

Do đó, chúng ta cần xem qua những điều được xét xử trong vụ án Ashida. Ashida, cũng giống như mọi chủ tịch đảng, vui mừng tiếp nhận các khoản quyên góp chính trị. Thông qua một người môi giới (một chính khách, Kitaura Keitarò), Oka Naoki, chủ tịch của công ty chế tạo ván sàn cho quân đồng minh, đã quyên góp cho Ashida 1 triệu yen. Umebayashi Tokio, chủ tịch của một công ty xây dựng, đưa 1 triệu yen nữa thông qua Ayabe Kentarò. [34] Ashida khẳng định trong phiên tòa rằng 10 ngày trước khi bị bắt giữ một công tố viên đã nói với ông ta rằng cuộc điều tra sẽ bị hủy nếu như Ashida rút khỏi chính trị. Ashida từ chối đề nghị đó, yêu cầu mở một cuộc điều tra. Theo cựu công tố viên Mitsuhiro Hiroshi, người đảm nhiệm vụ án Showa Denkò ở phiên phúc thẩm, vụ truy tố Ashida là cực kỳ yếu, không đủ bằng chứng để truy tố vị thủ tướng. [35] Cựu bộ trưởng Nishio Suehiro, thảo luận về vụ án này trong một cuốn sách xuất bản năm 1968, đã nhận được một lá thư của Nagawa Yasuo, luật sư trưởng của Ashida. Nagawa cho biết là ngay cả khi công chúng coi Ashida và vụ Showa Denkò là tương đương, cũng không có liên hệ nào giữa khoản tiền của các chủ tịch công ty và vụ án khác. Tại sao Ashida bị truy tố? Nếu như nội các đã sụp đổ sau khi các bộ trưởng bị cáo buộc nhận tiền của Showa Denkò, ông ta đã phủ nhận cáo buộc của một số người là Tổng chỉ huy của SCAP (GHQ) đã nhằm vào Ashida để phá hủy nội các. Trên thực tế, Nagawa tin rằng Ashida bị truy tố bởi vì công tố viên lo ngại GHQ sẽ cho rằng họ không cố gắng nếu như họ không truy tố cựu thủ tướng. [36] Nagawa viết, “Vào lúc đó, các công tố viên trẻ tràn đầy năng lượng và quá nghiêm túc. Họ cũng lo lắng tới việc gia tăng danh tiếng của bản thân.” [37] Theo như lời động viên của đại tá Kades dành cho các công tố viên vào tháng 2/1948, kết luận của Nagawa cũng có ý nghĩa. 

Bão tố chính trị bắt đầu bủa vây Ashida hai tháng trước khi thành lập nội các, khi Takahashi Eikichi (đảng Tự Do), một thành viên của Ủy Ban Điều Tra Giao Dịch Tài Sản Bất Hợp Pháp, cáo buộc chủ tịch công ty Showa Electric, Hinohara Setsuzò, đã cấu kết với Ashida và hai người khác để thâu tóm nhiều zaibatsu đã bị SCAP giải tán. Takahashi nói, Hinohara trở thành chủ tịch của Showa là nhờ những hành động bất hợp pháp đó. Mặc dù công chúng chỉ được biết vụ việc này sau phát biểu của Takahashi, song cảnh sát, sau hàng loạt các lá thư nặc danh, đã điều tra Hinohara. Vào ngày 25/5, Ủy Ban Cảnh Sát Đô Thành đã xông vào trụ sở của công ty Showa Electric ở Tokyo, thu giữ tài liệu. Trong số các tài liệu có cuốn sổ ghi chép chứa danh sách các cá nhân nhận “quà tặng”. Hơn nữa, cảnh sát cũng khám phá ra rằng để che dấu “quà tặng” công ty đã làm sổ kép. Do vậy, cảnh sát chắc chắn rằng một số khoản tiền đã được dùng để hối lộ chính trị. [38]

Trong thời gian này, ngân hàng Tài Chính Tái Thiết đã cho một số lĩnh vực vay với sự bảo lãnh của chính phủ để thúc đẩy khôi phục kinh tế. Công ty Showa Electric, một công ty hóa chất phân bón khổng lồ, đã vay vài tỷ yen và đang cố gắng vay thêm. Giá trị của khoản tiền và hàng hóa mà Hinohara phân phát cho các viên chức và chính khách vào khoảng 30 – 100 triệu yen. Bên cạnh việc chiêu đãi những người này tại các nhà hàng đắt tiền, ông ta cũng đưa nhiều cục một trăm ngàn yen được gói bằng giấy báo. [39]

Mặc dù một số phần của vụ bê bối hối lộ này vẫn là điều bí ẩn, nhưng ít nhất mối quan hệ giữa Ashida và Hinohara là rõ ràng. Vào tháng 3/1947, đảng Dân Chủ (dựa trên tàn dư của đảng Tiến Bộ) được thành lập; vào tháng 5, Ashida trở thành chủ tịch đảng. Người ủng hộ chủ chốt của Ashida trong những nỗ lực đưa ông ta lên làm chủ tịch đảng là Sugawara Michinari, anh vợ của Hinohara Setsuzò. Trong một cuộc họp bí mật với Sugawara, Ashida giải thích rằng ông ta không có đủ tiền để trở thành chủ tịch đảng và yêu cầu Sugawara xử lý vấn đề này. Sugawara đồng ý “xử lý mọi vấn đề về tiền bạc, nhưng với một điều kiện, tôi sẽ chỉ đưa tiền cho Chizaki [Usaburò]….[A]nh không được nhận một đồng quyên góp nào của công ty xây dựng.” [40] Số tiền mà Hinohara quyên góp cho chiến dịch giúp Ashida trở thành chủ tịch và sau đó thành lập nội các không được biết rõ, nhưng có tin đồn là 200 triệu yen đã được sang tay vào lúc ông ta được bổ nhiệm là thủ tướng. [41] 

Việc bắt giữ trong vụ án công ty Showa Electric bắt đầu vào năm 1948 và tiếp tục cho đến giữa tháng 12. Trong nhóm đầu tiên bị bắt giữ có thư ký riêng của Hinohara là Sunahara Tokiya; Satò Shûzò, một trợ lý khác của Hinohara; Tsuda Nobuhide, viên chức phụ trách ammonium sulphate tại Cục Hóa Chất của bộ Thương Mại và Công Nghiệp; và Nimiyama Tsutomu, trưởng Ban 1, Cục Hóa Chất, phụ trách phân bón. Cho rằng họ ở thế mạnh, cảnh sát và công tố viên đã lục soát nhà của Hinohara vào ngày 23/6; ông ta và một số nhân viên bị bắt giữ. Tiếp đó, vào ngày 10/9, Shigemasa Seishi, cựu thứ trưởng bộ Nông Lâm Nghiệp và Matsuoka Shòhei, cựu chủ tịch của Phòng Điều Hành, đảng Tự Do, bị bắt giữ. Ba ngày sau, trưởng Cục Ngân Sách Fukuda Takeo (Bộ Tài Chính) bị bắt giữ. Trong các tuần tiếp theo, Òno Banboku (cố vấn đảng Tự Do), Ninomiya Yoshimoto (phó chủ tịch ngân hàng Công Nghiệp), hạ nghị Ozawa Senshichirò (đảng Tự Do), cựu bộ trưởng Bộ Tài Chính và giám đốc của Ủy Ban Kế Hoạch Kinh Tế Kurusu Takeo, và phó thủ tướng Nishio Suehiro đều bị bắt giữ cùng với Mitsuki Tokihiko (thư ký của Kurusu). Thậm chí sau khi nội các Ashida từ chức, việc bắt giữ vẫn tiếp tục: Shimokabe Mitsushi (thư ký và là con rể của Ashida) vào ngày 3/11 và vài ngày sau Suehiro Kòjirò (cựu phó chủ tịch ngân hàng Công Nghiệp). Trong một hành động bất ngờ, công tố viên Tokyo yêu cầu bắt giữ cựu thủ tướng Ashida khi Quốc Hội đang họp. Yêu cầu đã được thông qua với số phiếu 140/120 (đảng Xã Hội Chủ Nghĩa không bỏ phiếu). Ashida bị thẩm vấn vào ngay 7/12 và bị truy tố vào ngày 16/12 vì tội nhận hối lộ và trốn thuế. Bốn mươi bốn trong số 64 người bị bắt giữ đã bị truy tố. [42]

Các công tố viên tin rằng họ có bằng chứng thuyết phục về hối lộ bởi vì Hinohara khẳng định rằng tiền và hàng hóa đã được đưa cho nhiều viên chức và chính khách để đổi lấy thỏa thuận tốt hơn cho công ty của ông ta (tức là khoảng vay lớn hơn). Hơn nữa, ông ta nói rằng do quyên góp chính trị chỉ mang lại các kết quả gián tiếp nên ông ta không bao giờ quyên góp; trái lại, ông ta luôn luôn đưa tiền vì một mục đích cụ thể. Dĩ nhiên các bị cáo khẳng định rằng tiền mà họ đã nhận không đổi lấy một lợi ích cụ thể. Ví dụ, cựu phó thủ tướng Nishio, thừa nhận đã nhận 1 triệu yen, khẳng định rằng đó là tiền quyên góp, ông ta nhận không phải với tư cách chính khách mà với tư cách cá nhân. Trong vụ án này, Hinohara đã nói với công tố viên rằng tiền được dùng để bịt miệng các chỉ trích của đảng Xã Hội Chủ Nghĩa về khoản tín dụng khổng lồ của chính quyền. Ashida, người bị cáo buộc nhận hối lộ 2 triệu yen, khẳng định rằng ông ta không phạm tội nhận hối lộ bởi vì ông ta không kiểm soát quỹ cho vay và do vậy không ở vị thế có thể đáp ứng yêu cầu vay tiền của Hinohara. Òno nói với tòa rằng 200.000 yen không phải là tiền hối lộ mà là “quà tặng” của một người bạn. Matsuoka khẳng định 200.000 yen của ông ta là một “khoản vay”. Phiên tòa xét xử một số người kéo dài cho đến năm 1962 (bao gồm cả phúc thẩm). Chỉ có ba bị cáo bị kết án: Hinohara, Kusuru và Shigemasa. Chủ tịch công ty bị tuyên án 1 năm tù, cựu bộ trưởng bộ tài chính nhận bản án 8 tháng tù và cựu thứ trưởng bộ Nông Nghiệp nhận bản án 1 năm tù. Hai cựu viên chức chính quyền cũng bị phạt. Không người nào phải ngồi tù: tất cả đều được hoãn thi hành án. [43] Justin Williams, trưởng Ban Nghị Viện và Chính Trị của GS (từ tháng 7/1949), bình luận về sự bào chữa của các chính khách như sau: “Mỗi người đều dựa trên tiêu chuẩn và sự bào chữa thành công trước đây trong các vụ bê bối chính trị, tiền được coi là quyên góp cho chính đảng và không được coi là hối lộ để gây ảnh hưởng tới viên chức chính quyền hay bưng bít các tin đồn về tham nhũng trong chính giới.” [44]

Nishio Suehiro, một bị cáo trong vụ án Showa Denkò, cho rằng một trong những khía cạnh quan trọng nhất của vụ án là thâm hụt tiền. Hồ sơ của tòa án chỉ ghi nhận 6 triệu yen nhưng Hinohara đã chi 85 triệu yen. Điều gì đã xảy ra với phần lớn khoản tiền? [45] Mặc dù không có cái tên ngoại quốc nào xuất hiện trong hồ sơ của tòa án song Masumi Junnosuke cho rằng có vẻ như “những người nhận khoản hối lộ cực lớn cũng như sự chiêu đãi xa hoa của Hinohara là thành viên của GS…và nhóm các tùy viên ngoại quốc.” Một số địch thủ của đại tá Kades ở SCAP đã tiết lộ thông tin này cho cảnh sát và nhà báo Nhật Bản và “nó đã được đăng tải trên tờ New York Times…và sau đó được báo giấy ở Nhật Bản đăng lại, điều đó đã khiến chính giới ở Nhật Bản phẫn nộ.” [46] Nishio đồng ý với kết luận: trận chiến kiểm soát chính sách của SCAP đã kéo theo cuộc điều tra Showa Denkò. Đại tá Kades, liên quan trực tiếp đến vụ bê bối, không thể làm gì để bảo vệ nội các Ashida. Trong trận chiến chính trị này, thiếu tướng Charles Willoughby, chỉ huy của G-2, đã chiến thắng. [47]

Nishio cũng kể rõ về cách ông ta nhận 1 triệu yen. Vào khoảng ngày 20/11/1947, Watanabe Toshinosuke, một người bạn cũ trong phong trào lao động thời tiền chiến tranh và là trưởng Cục Lao Động trong nội các Katayama, đã tới thăm văn phòng của Nishio. Watanabe nói rằng hai người bạn, Satò Noboru và Fukuya Shûichi, muốn giới thiệu Nishio với một doanh nhân. Nishio không chỉ biết Fukuya mà người này còn có nghĩa vụ làm người trung gian giúp ông ta nhận quyên góp chính trị 1.000.000 yen từ doanh nhân Okayama. Do vậy, ông ta đồng ý gặp mặt. Vào ngày 23/11, tại nhà của Satò, ông ta được giới với Hinohara và Fujii Takashi. Fuji nói rằng họ muốn bịt miệng các chỉ trích của Inamura Junzò trong Quốc Hội về các khoản vay nhà nước của Showa Denkò. Fuji cho rằng các bình luận gay gắt của Inamura được thúc đẩy bởi sự thật là một công ty ở quận của ông ta không nhận được bất kỳ khoản tiền nào. Do những chỉ trích này, tin đồn được lan truyền và chúng làm ảnh hưởng tới việc kinh doanh của công ty. Nishio trả lời rằng mặc dù ông ta hiểu vấn đề nhưng ông ta không thể bịt miệng Inamura. Do vậy, ông ta không thể chấp nhận yêu cầu của họ. Sau cuộc gặp kéo dài khoảng 10 phút này, Nishio nói với Fukuya rằng ông ta không thể giúp gì được. Hai ngày sau, Fuji xuất hiện ở nhà của Nishio, nói rằng ông ta có một khoản quyên góp chính trị. Nishio khẳng định rằng ông ta nghĩ rằng đó là cách cảm ơn việc ông ta đã tham gia cuộc gặp trước đó của Fuji và do đó đã nhận tiền; nhưng ông ta không nói lại rằng ông ta không thể giúp đỡ họ. Sau đó, ông ta nhận ra rằng nên nói rõ với Fuji là tiền không được coi như khoản đổi lấy lợi ích. [48]

Lời kể của Nishio có vẻ là đúng. Các chính khách quan trọng, đặc biệt là các bộ trưởng, là mục tiêu của những người muốn có lợi ích chính trị. Ví dụ, ngay khi quyết định bổ nhiệm Uchida Nobuya làm bộ trưởng Bộ Đường Sắt được công bố, các doanh nhân đã tới nhà riêng của ông ta để tìm kiếm sự ảnh hưởng cho bản thân hoặc khách hàng. Như vụ của Uchida đã cho thấy, nói không và từ chối tiền vẫn chưa đủ. Tobishima tiết lộ cho những người khác biết các chuyến viếng thăm Uchida và về mức độ thân cận với bộ trưởng. Thực tế là trợ lý thân tín của Uchida nhận tiền từ Tobishima, gây ra vụ bê bối năm 1936 (xem chương 4). 

Nishio đã bình luận thẳng thắn về cảm giác của một nghi phạm trong vụ hối lộ chính trị: [C]ó nhiều cách để đo lường tổn thất chính trị và xã hội của tôi và nhiều vị cáo khác.” Nhớ lại thời kỳ tiền chiến, trong cuộc đấu tranh của lao động với chính phủ áp bức, ông ta đã ngồi tù 45 ngày, ông ta cho biết điều đó không khiến ông ta phiền lòng vì tất cả mọi người biết rằng người lao động tham gia đấu tranh đều bị đàn áp. “Hiện giờ, tôi gần 60 tuổi và có địa vị xã hội. Thế mà tôi phải ngồi tù ở Kosuge vì tình nghi hối lộ!” [49]

Phiên tòa xét xử những người liên quan đến vụ Showa Denkò và vụ bê bối dự luật mỏ than đã cho thấy sự khó khăn lớn mà các công tố viên phải đối mặt khi truy tố tội hối lộ. Luật Hình Sự sửa đổi năm 1947, trong đó các điều luật về hối lộ vẫn giữ nguyên số như trong luật thời tiền chiến (tức là Điều 197 và 198), viết (Điều 197) như sau: “Trong trường hợp viên chức hoặc trọng tài đã nhận, yêu cầu hoặc hứa hẹn nhận hối lộ liên quan đến chức trách của bản thân, anh ta sẽ bị chế tài tối đã là 3 năm tù.” [50] Câu chủ chốt trong việc kết tội hối lộ là “có liên quan đến chức trách của bản thân”. Công tố viên không chỉ phải chứng minh tiền đã được đưa mà còn phải chứng minh viên chức nhận tiền ở vị thế có thể đáp ứng được lợi ích bất hợp pháp. Hơn nữa, quan tòa cũng cần phải được thuyết phục rằng viên chức hiểu khoản tiền đó là hối lộ. Bên cạnh các rào cản pháp lý, công tố viên cũng thường xuyên phải đối mặt với những bị cáo khẳng định rằng khoản tiền mà họ nhận được chỉ là vay nợ, quyên góp chính trị hay quà tặng. Độc giả sẽ nhớ tới các chính khách thời tiền chiến, họ luôn sử dụng những lý do này để biện minh cho các khoản hối lộ bị công chúng phát hiện. 

Một người quan sát đáng chú ý trong vụ Showa Denkò là Tsuji Kan’ichi, một hạ nghị sĩ của quận Aichi từ năm 1946. Tsuji cho rằng bản án và phiên tòa xử kết án các bị cáo là bất công bởi vì vụ án tham nhũng làm tổn hại danh tiếng. Ông ta nhắc tới ví dụ về cự thứ trưởng Shigemasa Seishi. Một nhân chứng tại phiên tòa thứ nhất khai về cuộc đối thoại với bị cáo mà trong đó Shigemasa đã nói, 
Phải, tôi thật sự nói dối về ngài Òno vào lúc đó và khiến ông ấy gặp nhiều rắc rối. Trên thực tế, sự thẩm vấn của công tố viên gay gắt tới mức nếu tôi không thừa nhận rằng mình đã đưa 200.000 yen cho ngài Òno trong việc của Shoden, công tố viên nói rằng họ sẽ truy tố tôi về tội lừa đảo và biển thủ. Tôi đã ốm và lo lắng về sức khỏe của mình. Tôi nghĩ rằng khi chúng tôi ra tòa…tôi sẽ có thể nói sự thật. Tôi cũng cho rằng không ai sẽ tin là ngài Òno sẽ nhận số tiền nhỏ như 200.000 yen. Do vậy, tôi đã nói dối. [51] 
Hãy nghĩ về việc vụ án đã khiến Tsuji “rùng mình ớn lạnh”. Ông ta kết luận, “Anh không biết ai sẽ trở thành nạn nhân bất hạnh.” [52] 

Không thể đo lường chính xác tác động chính trị và xã hội của vụ bê bối này. Điều rõ ràng là chính khách xã hội chủ nghĩa đã mất sự ủng hộ của công chúng sau khi nội các Ashida sụp đổ. Trong cuộc bầu cử ngày 23/1/1949, cử tri trừng phạt cựu liên minh nội các và tặng thưởng cho đảng Dân Chủ Tự Do (Yoshida Shigeru) với đa số tuyệt đối đầu tiên kể từ năm 1890. [83] Công tố viên có thể nhận được nhiều sự yêu quý của công chúng hơn vì dã truy tố nhiều người có địa vị cao, nhưng việc chỉ kết án thành công ba bị cáo trong một loạt các phiên tòa dường như đã làm tổn thương hình ảnh của họ. Đối với ba người bị kết án, Hinohara rút khỏi bề mặt của giới kinh doanh, nhưng ông ta vẫn là chủ tịch của hai công ty. Cựu bộ trưởng Bộ Tài Chính Kurusu trở thành chủ tịch Hiệp Hội Chính Sách Kinh Tế. Shigemasa, cựu thứ trưởng, tiếp tục sự nghiệp nghị sĩ và vào năm 1962 làm bộ trưởng Bộ Nông Lâm Nghiệp trong nội các thứ hai của Ikeda Hayato. Sự nghiệp hậu bê bối của các chính khách quan trọng được trắng án cũng tương tự: dường như không bị ảnh hưởng bởi cáo buộc hối lộ chính trị. Ashida được tái cử vào ngày 23/1/1949 khi đang ở trong tù, được bầu và tiếp tục hoạt động chính trị trong nhiều năm; Nishio tái cử vài lần và vào năm 1960 thành lập đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Dân Chủ. Òno tiếp tục sự nghiệp nghị sĩ và vào năm 1953 ông ta làm bộ trưởng Bộ Ngoại Giao trong nội các thứ năm của Yoshida. Sau khi trở thành bộ trưởng Bộ Tài Chính trong nội các thứ ba của Satò Eisaku và trong nội các thứ hai của Tanaka Kakuei, Fukuda trở thành thủ tướng vào tháng 12/1976. [54]

Phạm vi phổ biến của tham nhũng chính trị mà cuộc điều tra kéo dài của Ủy Ban Điều Tra Giao Dịch Tài Sản Bất Hợp Pháp cũng như vụ bê bối công ty Showa Electric phơi bày đã khiến Quốc Hội thông qua Luật Quản Lý Quỹ Chính Trị (Luật số 94, 29/7/1948). Mục tiêu của luật này là giám sát quỹ liên quan đến chính trị do các chính đảng và tổ chức xã hội thu hút. Các tổ chức này được yêu cầu phải cung cấp báo cáo định kỳ, được đăng tải công khai. Các chế tài của luật này có hình phạt tù lên đến 5 năm và phạt tiền tới 100.000 yen. Trong một số trường hợp, kết quả bầu cử có thể bị hủy bỏ. [55] Hơn nữa, vào ngày 15/4/1950, Quốc Hội thông quan Luật Bầu Cử Chức Vụ Công (Luật số 100). Mục tiêu của luật này là kết hợp tất cả các quy định bầu cử địa phương và quốc gia vào một luật. [56] Một chuyên gia về bầu cử của Nhật Bản khẳng định rằng luật này tương đồng với nhiều hạn chế tranh cử của thời tiền chiến và luật sửa đổi năm 1952 đã quay lại luật 1934 trên góc độ các giới hạn đối với hoạt động tranh cử. Một cử tri hạn viện phải tranh cử trong khuôn khổ pháp lý chật hẹp. Mọi hoạt động tranh cử của ông ta, từ số lượng bài phát biểu cho tới kích thước biểu ngữ mà ông ta treo ngoài cửa văn phòng tranh cử, đều được luật quy định.” [57]

Tác dụng của luật chống tham nhũng có thể được đánh giá bằng cách xem xét cuộc bầu cử Hạ Viện vào ngày 1/10/1952, được tổ chức 5 tháng sau khi thời kỳ chiếm đóng chấm dứt. Trong tháng 9, các đài phát thanh, báo chí và nhà xuất bản đã thúc giục cử tri thực hiện một cuộc bầu cử công bằng: sự phản ứng của công chúng dường như cho thấy đã lĩnh hội được thông điệp này. Tuy vậy, một số ứng cử viên đã vi phạm luật bằng các chi 20 triệu yen để hối lộ cử tri bằng tiền mặt hoặc chiêu đãi (số lượng tiền trung bình được phép sử dụng cho chiến dịch của mỗi ứng cử viên là 380.000 yen). Hơn nữa, một số ứng cử viên đã vi phạm luật bằng cách tranh cử quá sớm. Sau cuộc bầu cử, 5 chính đảng lớn báo cáo khoản quyên góp 272.052.000 yen. Một nhà bình luận chính trị nói rằng con số đó chỉ là bề nổi của tảng băng trôi và tổng số tiền thực tế lên đến 10 tỷ yen. Nhà chức trách bắt giữ hơn 10.000 cộng tác viên vận động tranh cử vì vi phạm nhiều điều khoản của Luật Bầu Cử. Nhiều ứng cử viên thoát khỏi sự bắt giữ bằng cách ẩn nấp sau các quản lý và các nhân viên vận động tranh cử khác. Rõ ràng là phong trào bầu cử công bằng đi cùng với luật chống tham nhũng đã thất bại trong việc ngăn chặn truyền thống sử dụng các quỹ bất hợp pháp và hối lộ để thắng cử. [58] 

SCAP thúc đẩy dân chủ không chỉ bằng cách cải cách cấu trúc luật pháp quốc gia mà còn bằng cách cố gắng thay đổi thái độ và các giá trị chính trị cơ bản. Mặc dù tác động thực sự của những cải cách của SCAP vẫn chưa rõ song dường như họ đã không làm gì nhiều trong những năm chiếm đóng để thay đổi bầu không khí chính trị nuôi dưỡng hối lộ. Cựu sĩ quan GS Harry Wildes (5/1946 – 5/1947) viết vào năm 1954, “Mặc điều này [tham nhũng] cũng là một truyền thống của Nhật Bản song thời kỳ sau khi đầu hàng, được coi là một sự thức tỉnh tinh thần, đã phá mọi kỷ lục về hối lộ và phạm pháp.” [59] 

Herbert Passin, một cựu sĩ quan GS khác, vào năm 1968 cho rằng chương trình cải cách thời chiếm đóng đã đóng góp vào sự gia tăng của mức độ tham nhũng trong chính quyền và làm giảm sự tin cậy của công chúng đối với chính khách. Ông ta viết, “Không may mắn là sự bùng nổ của các chức vụ dân cử, do sự chiếm đóng khuyến khích, đã trở thành tai hại. Nó dẫn đến sự chính trị hóa thái quá, một dạng quá tải của các mạng lưới truyền thông chính trị. Hiện nay, vài trăm ngàn chức vụ dân cử phải được lấp đầy ở Nhật Bản….Nếu chúng ta bổ sung thêm các ủy ban trường học địa phương xấu số thì chúng ta nhận ra rằng các cải cách của người Mỹ mang đến một sự lạm phát bầu cử khổng lồ.” Những cuộc tranh cử không chỉ khiến cử tri bận rộn mà chúng còn tốn tiền. Pasin cho biết, “Do vậy, một số lượng lớn người dân [tham gia] bầu cử, tổ chức các nhóm hỗ trợ và gây quỹ. Cơ hội, ngay cả khi phải miễn cưỡng tham nhũng trở nên rất mạnh….[C]ác giới hạn pháp lý cố định chi tiêu tranh cử chặt chẽ tới mức hầu như mọi ứng cử viên thắng cử đều có thể bị cáo buộc vi phạm luật bầu cử.” Những giới hạn này phi lý tới mức chúng khiến cho công chúng có cảm giác rằng “nếu không phải là tất cả các chính khách đều tham nhũng thì ít nhất chính trị cũng là một việc bẩn thỉu. Thái độ này không dẫn tới nền dân chủ đại nghị ổn định.” Cuối cùng, Passin cho rằng chủ nghĩa bè phái cực đoan đã sống sót qua thời kỳ cải cách. Ông ta cảm thấy rằng “các cải cách chính trị của chúng ta chỉ củng cố chúng và dĩ nhiên là làm cho chúng trở nên tồi tệ hơn. Bằng sự gia tăng lạm phát các vị trí chính trị dân cử và gia tăng mức độ chính trị hóa đất nước nói chung, chúng ta đã khiến vấn đề tài chính trở nên phức tạp và hệ thống bè phái đã trở thành vấn đề sống còn đối với chính khách.” [60]

Chú thích:

1. Gerald L. Curtis, The Japanese Way of Politics, 7.
2. Joseph A. Massey, “The Occupation of Japan and the Sheriff of Nottingham: The Legacy of Election Reform,” 90; Curtis, Election Campaigning, 214; Kiyose Ichiro, “The New Election Law,” 18, 21; Masumi Junnosuke, Postwar Politics in Japan, 1945–1955, 92–93; Hayashida, “Election Law,” 40; Supreme Commander for the Allied Powers [hereafter SCAP], Government Section, Political Reorientation of Japan, September 1945 to September 1948, 2:832–833.
3. SCAP, Political Reorientation, 715.
4. Quoted in Masumi, Postwar Politics, 96–97.
5. Kenneth E. Colton, “Pre-war Political Influences in Post-war Conservative Parties,” 948.
6. Ibid., 955–956.
7. Robert E. Ward, “Reflections on the Allied Occupation and Planned Political Change in Japan,” 513; Curtis, Japanese Way, 10.
8. Hayashida, “Election Law,” 8, 40; Curtis, Election Campaigning, 214.
9. Masumi, Postwar Politics, 138–140; T. A. Bisson, Prospects for Democracy in Japan, 57; Massey, “Occupation of Japan,” 101.
10. SCAP, The Japanese Elections, April 1947, 99–100.
11. SCAP, Political Reorientation, 1:325, 336.
12. Russel Brines, MacArthur’s Japan, 208.
13. Bradley Richardson, “Elections,” 2:189.
14. Brines, MacArthur’s Japan, 208.
15. Theodore Cohen, Remaking Japan: The American Occupation as New Deal, 338–339; William Costello, Democracy vs. Feudalism in Post-war Japan, 158; Bisson, Prospects, 113–114. For this report, see SCAP, Political Reorientation, 2:728–733.
16. SCAP, Political Reorientation, 308–311.
17. Quoted in ibid., 311.
18. T. Cohen, Remaking Japan, 343; SCAP, Political Reorientation, 1:312–313; Costello, Democracy vs. Feudalism, 171, 174; Masumi, Postwar Politics, 158.
19. T. Cohen, Remaking Japan, 315–316, 322.
20. Ibid., 324–325.
21. Itò Ushirò, “Yoyatò no gyakuten.”
22. T. Cohen, Remaking Japan, 325.
23. Murobushi Tetsurò, Sengo gigoku, 87.
24. Ibid., 85–87.
25. Ibid., 90–91, 93–94, 100–101, 104.
176 Notes to Pages 100–107
26. Ibid., 99–100, 103.
27. Quoted in ibid., 103.
28. Ibid., 100–103.
29. SCAP, Political Reorientation, 1:352.
30. A few weeks after renouncing claim to divine status the emperor visited the Showa Electric Company factory in Kawasaki. This was the first of many trips designed to humanize the god-king. A picture of this visit is facing page 216 of Andrew Gordon, ed., Postwar Japan as History.
31. Masumi, Postwar Politics, 158–159.
32. Kòdansha, Japan: An Illustrated Encyclopedia 1:65.
33. Murobushi Tetsurò, Sengo gigoku no kao, 123, 126.
34. Nishio Suehiro, Nishio Suehiro no seiji oboegaki, 265.
35. Murobushi, Sengo gigoku no kao, 124–125.
36. Nishio, Seiji oboegaki, 266–267.
37. Quoted in ibid., 267.
38. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 229–230.
39. Masumi, Postwar Politics, 159; Aritake Shûji, Seiji to kane to jiken to, 263.
40. Quoted in Masumi, Postwar Politics, 137.
41. Ibid., 158.
42. Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 230–234, 236–238.
43. Aritake, Seiji, 262–263, 267, 270; Harry E. Wildes, Typhoon in Tokyo: The Occupation and Its Aftermath, 127, 164; Justin Williams, Sr., Japan’s Political Revolution under MacArthur: A Participant’s Account, 251, Morikawa Tetsurò,
Nihon gigoku shi, 236, 240; Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 1:1414.
44. Williams, Political Revolution, 251.
45. Nishio, Seiji oboegaki, 264.
46. Masumi, Postwar Politics, 159–160.
47. Nishio, Seiji oboegaki, 298, 302–304.
48. Ibid., 271–277. Although Hinohara told procurators that the million yen was a bribe, Fujii Takashi insisted it was a political contribution. Katò Hideo states that Hinohara lied. Katò Hideo, Fûsetsu no hito Nishio Suehiro, 103.
49. Quoted in Nishio, Seiji oboegaki, 265, 271.
50. Japanese Government, Attorney-General’s Office, trans., The Constitution of Japan and Criminal Laws, 34.
51. Quoted in Tsuji Kan’ichi, Seijika to iu mono, 147.
52. Quoted in ibid.
53. Steven R. Reed, “The People Spoke: The Influence of Elections on Japanese Politics, 1949–1955,” 319.
54. Sanseidò, Konsaisu jinmei jiten, 30, 415, 538, 842, 929; Hunter, Modern Japanese History, 310–317, 320; Theodore McNelly, Contemporary Government of Japan, 131; Edwin M. Reingold, Chrysanthemums and Thorns: The Untold Story of Modern Japan, 247; Morikawa Tetsurò, Nihon gigoku shi, 239.
55. SCAP, Political Reorientation, 2:1198–1206.
56. Hayashida, “Election Law,” 24; Lawrence W. Beer, Freedom of Expression in Japan: A Study in Comparative Law, Politics, and Society, 372–374.
57. Curtis, Election Campaigning, 214. Notes to Pages 107–116 177
58. Ikematsu Fumio, “Political Parties Today and Tomorrow,” 390–391, 402.
59. Wildes, Typhoon in Tokyo, 127.
60. Herbert Passin, The Legacy of the Occupation—Japan, 27–28, 39.