Showing posts with label Nga. Show all posts
Showing posts with label Nga. Show all posts

Sunday, June 7, 2015

Lý do kinh tế của sự xung đột giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc

Những ngày này, báo chí dân túy Việt Nam đang ca tụng việc Hoa Kỳ can thiệp vào những tranh chấp trên biển Đông, bằng việc dùng tàu chiến để khiêu khích Trung Quốc ở ngoài phạm vi 12 hải lý (một trò đùa lố lăng), sau khi cố gắng bao vây Trung Quốc bằng một chuỗi căn cứ quân sự trên lãnh thổ các nước chư hầu trong khu vực. Nhưng những người Việt Nam còn tỉnh táo thì sẽ hiểu rằng Hoa Kỳ không can thiệp vào biển Đông vì quyền lợi của Việt Nam hay lợi ích của tự do lưu thông trên biển Đông, lý do thực sự là Hoa Kỳ đang muốn kiềm chế Trung Quốc, không để Trung Quốc trở thành kẻ lật đổ sự thống trị toàn cầu của họ. Người Việt Nam có lương tri hiểu rằng sự nhầm lẫn trong việc nhận định mục đích thực sự của Hoa Kỳ, hay nói cách khác là ảo tưởng ở sự can thiệp của Hoa Kỳ, sẽ khiến đất nước của chúng ta phải trả một cái giá rất đắt. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "An Economic Reason for the US vs. China Conflict" của giáo sư đại học ở Boston Bart Gruzalshi để hiểu thêm chi tiết về mục đích của Hoa Kỳ trong việc khiêu khích Trung Quốc trên biển Đông. Tác giả nói về việc Hoa Kỳ lo sợ đồng dollar của họ đánh mất vị thế thống trị thương mại thế giới, nhưng chúng ta phải hiểu rằng các ngân hàng Hoa Kỳ đang cung cấp đồng dollar cho thanh toán quốc tế, vì vậy việc đồng dollar bị loại bỏ đe dọa trực tiếp đến lợi nhuận của các ngân hàng Hoa Kỳ, giai cấp tư sản Hoa Kỳ sẽ không bao giờ tha thứ cho bất cứ ai dám làm điều đo.

Lý do kinh tế khiến Hoa Kỳ xung đột với Trung Quốc

Có nhiều lý do khiến Hoa Kỳ dồn ép Trung Quốc trên Biển Nam Trung Hoa. Hai bài báo đăng trên Counterpunch trong những tuần qua đã tìm hiểu các lý do ấy. Nhưng không có bài báo nào đề cập tới lý do kinh tế quan trọng, cho dù chỉ là một phần, đã thúc đẩy Hoa Kỳ lao vào cuộc chiến và đóng vai trò quan trọng sự tranh chấp gia tăng với Trung Quốc: giá trị của đồng dollar.

Sự thống trị của đồng dollar trong thương mại thế giới là rất quan trọng đối với giá trị của nó và đối với kinh tế Hoa Kỳ. Sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ chế độ bản vị vàng, họ đã ký một thỏa thuận chắc chắn với Saudi Arabia và tất cả các nước OPEC ở Trung Đông để buộc các nước này phải mua bán dầu bằng đồng dollar. Do thỏa thuận này mà đồng dollar còn thường được gọi là “dollar dầu lửa”. Giá trị của dollar/dollar dầu lửa dựa trên năng lực thanh toán thương mại quốc tế của nó, không chỉ là đối với dầu lửa mà còn là vũ khí, thực phẩm cũng như mọi thứ khác. 

Hai cuộc chiến dollar

Như tôi đã thảo luận trong một bài báo trên Counterpunch vào năm 2013, lý do khiến Bush II xâm lược Iraq là bởi vì Iraq đã đe dọa Hoa Kỳ bằng việc mua bán dầu với đồng Euro. Nếu Saddam Hussein được phép tiếp tục, điều này sẽ là sự thách thức chủ yếu đối với sự thống trị của đồng dollar trong vai trò đồng tiền dự trữ của thế giới. Đồng euro dầu lửa có thể thay thế đồng dollar dầu lửa. Điều này có thể làm suy yếu giá trị của đồng dollar và phá hủy nền kinh tế Hoa Kỳ. Đây chính là lý do bị lảng tránh của việc lật đổ Saddam Hussein. Giá trị của đồng dollar đóng vai trò như là sức khỏe của nền kinh tế Hoa Kỳ. Cuộc chiến tranh Iraq thức hai đã loại bỏ nguy cơ này và dầu của Iraq lại được mua bán bằng đồng dollar.

Ron Paul đã công bố lý do này nhưng không được chú ý nhiều: “Saddam Hussein định mua bán dầu lửa bằng đồng euro. Sự ngạo mạn của ông ta là mối đe dọa đối với đồng dollar; quân đội nghèo nàn của ông ta không bao giờ là sự nguy hiểm … Không có sự thừa nhận công khai nào về việc lật đổ Saddam Hussein bởi vì đòn đánh của ông ta vào sự thống nhất của đồng dollar trong vai trò đồng tiền dự trữ bằng cách mua bán dầu lửa với đồng euro. Nhiều người tin rằng đây mới là lý do thực sự khiến Hoa Kỳ xâm lược Iraq. Tôi không cho rằng đó là lý do duy nhất nhưng nó đóng một trò đáng kể trong động cơ xâm lược Iraq của Hoa Kỳ.”

Ron Paul cũng công bố lý do của cuộc nổi loạn do Hoa Kỳ dẫn đầu để lật đổ Gaddafi ở Lybia. Một lần nữa, bảo vệ đồng dollar là lý do chủ chốt. Gaddafi đã lên kế hoạch mua bán dầu lửa bằng đồng dinar, đồng tiền vàng của châu Phi. Theo Ron Paul, Hoa Kỳ sẽ tấn công bất cứ quốc gia nào dám đe dọa đồng dollar bằng cách sử dụng các đồng tiền khác để thực hiện thanh toán quốc tế.

Tổn thất sự hài lòng với đồng dollar

Đồng dollar đã trở thành đồng tiền thống trị trong thanh toán quốc tế kể từ khi Nixon chấm dứt việc đổi đồng dollar lấy vàng. Bất chấp những sự thách thức của Iraq và Lybia, sự sắp xếp đó đã tiếp tục thêm một thập kỷ nữa trong thế kỷ 21.

Hai sự kiện đã diễn ra trong và sau sự sụp đổ niềm tin ở đồng dollar vào năm 2008. Sự kiện thứ nhất không được bất cứ gã tài chính Hoa Kỳ tinh ranh nào thừa nhận: sự phá hoại mà Hoa Kỳ gây ra cho các quốc gia đang phát triển khi Hoa Kỳ bị khủng hoảng. Do thiếu nguồn quỹ ở quốc nội, các khoản cho vay của Hoa Kỳ đã không thể đáp ứng nhu cầu về tiền của các quốc gia đang phát triển để họ có thể tiếp tục các dự án. Những quốc gia này không thể quên được sự tổn thất đột ngột và đau đớn của nguồn cung tiền. Sự kiện đó có thể lặp lại một lần nữa và trở nên tồi tệ hơn. Các quốc gia này hiểu rằng việc dựa vào đồng dollar là dựa vào điều kiện bên ngoài mà họ hoàn toàn không thể kiểm soát nhưng lại có thể hủy hoại nền kinh tế của họ. Điều thứ hai là gói nới lỏng định lượng của Bernanke đã pha loãng đồng dollar thành một cái bóng của chính nó (giống như việc tạo ra đồng dollar từ đồng dollar bản vị vàng vào năm 1971). Đây là cán cân dự trữ với các ngân hàng dự trữ liên bang. Vào ngày 17 tháng 9 năm 2008, các ngân hàng của FED có 47 tỷ dollar. Vào ngày 27 tháng 5 năm 2015, con số đó là 2.510,791 tỷ “Bernanke dollar,” mặc dù vậy là một sự pha loãng vi lượng đồng căn so với đồng dollar thời tiền Bernanke.

Các quốc gia nước ngoài đã nhận thấy điều này. Tiếng nói chủ yếu là Nga và Trung Quốc. Vào năm 2010, tờ Nhật Báo Trung Hoa đưa tin “Trung Quốc và Nga … [dự định] loại bỏ đồng dollar và sử dụng đồng nội tệ cho thương mại song phương.” Trung Quốc và Nga, cùng với ba quốc gia khác, cựu thành viên của BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi). Hãng Reuters đưa tin vào cuối tháng 7 năm ngoái về việc BRICS thành lập một “ngân hàng phát triển trị giá 100 tỷ dollar và một quỹ dự trữ tiền tệ là bước tiến cụ thể đầu tiên của họ trong việc tiến tới vẽ lại hệ thống tài chính quốc tế do phương Tây thống trị.”

Kế hoạch về ngân hàng BRICS

Amy Goodman và Juan Gonzalez đã phỏng vấn nhà kinh tế học được giải Nobel Joseph Stiglitz của Hoa Kỳ về ngân hàng BRICS. Stiglitz nói rằng BRICS rất quan trọng: 

“Đầu tiên, nhu cầu toàn cầu đòi hỏi nhiều đầu tư hơn cho các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là yêu cầu về khối lượng hàng nghìn tỷ dollar, vài nghìn tỷ dollar trong một năm. Các thể chế hiện nay không có đủ nguồn lực … [ngân hàng mới] bổ sung thêm vào dòng tiền tài trợ cho cơ sở hạ tầng, thích nghi với sự biến đổi khi hậu – tất cả những nhu cầu đó hiện rõ ở các quốc gia nghèo nhất.”

“Thứ hai, điều đó phản ánh một sự thay đổi căn bản trong kinh tế thế giới và quyền lực chính trị, ý tưởng đứng sau điều này là các nước BRICS hiện nay giàu hơn các quốc gia phát triển khi mà Ngân Hàng Thế Giới và IMF được thành lập. Chúng ta đang ở một thế giới khác … Các thể chế cũ không còn phù hợp.”

Một kỳ vọng mà người dân của các quốc gia khác đặt ra là, vào thế kỷ 21, những người lãnh đạo hàng đầu của IMF sẽ được “lựa chọn dựa trên phẩm chất, chứ không phải bởi vì họ là người Mỹ. Mặc dù vậy, Hoa Kỳ đã nuốt lời hứa về thỏa thuận đó.”

Gonzalez đã hỏi Stiglitz về cách thức Trung Quốc, đang nắm giữ khoản dự trữ tiền tệ khổng lồ, và Brazil, đã sở hữu ngân hàng phát triển riêng từ nhiều năm, sẽ hợp tác trong vai trò là các thành viên trụ cột của ngân hàng BRICS mới này.

“Trung Quốc dự trữ hơn 3 nghìn tỷ dollar,” Stiglitz trả lời. “Họ cần phải sử dụng khoản dự trữ đó tốt hơn là chỉ đặt chúng vào các trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ. Anh biết đấy, đồng nghiệp của tôi ở Trung Quốc nói rằng việc đó giống như đặt một miếng thịt vào tủ lạnh và sau đó rút phích cắm điện, bởi vì giá trị thực của tiền ở trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ đang giảm xuống. Thế nên họ nói, “Chúng ta cần sử dụng tốt hơn những quỹ này,” cũng như sử dụng nguồn tiền đó tốt hơn thay vì để xây dựng những căn nhà tồi tệ ở giữa sa mạc Nevada. Anh biết đấy, có những nhu cầu xã hội thực mà nguồn tiền đó chưa bao giờ được dùng để đáp ứng.”

Sau đó Stiglitz nói về Brazil. “Brazil đã có BNDES … một ngân hàng phát triển khổng lồ, lớn hơn Ngân Hàng Thế Giới. Người ta không biết điều này, nhưng Brazil đã cho thấy một quốc gia đơn lẻ có thể tạo ra một ngân hàng phát triển hiệu quả ra sao. Sự học hỏi được tiếp tục. Cách thức mà anh tạo ra một ngân hàng phát triển hiệu quả, thực sự thúc đẩy sự phát triển thực tế … trở thành một phần quan trọng của sự đóng góp là điều mà Brazil sẽ làm.”

Thương mại giữa Trung Quốc và Nga mà không có đồng dollar 

Vào tháng 10 năm 2014, trong một cuộc phỏng vấn bất ngờ với CNBC, thủ tướng Nga Dmitry Medevev nói rằng thế giới cần phải chấm dứt sự phụ thuộc vào đồng dollar của Hoa Kỳ, khẳng định rằng kinh tế thế giới sẽ có lợi từ hệ thống tiền tệ đa dạng hơn. “Chúng tôi không phản đối đồng dollar, nhưng chúng tôi tin rằng hệ thống tiền tệ ngày nay cần phải cân bằng hơn,” ông nói, kêu gọi một sự dự trữ nhiều hơn các đồng tiền chủ chốt. Cụ thể hơn, ông nói rằng đồng euro, nhân dân tệ, bảng Anh và dollar sẽ được nhóm lại. Ông đề cập tới việc BRICS là nhóm sẽ thực hiện sự thay đổi này. “Thứ không chỉ là một hệ thống tài chính này” hoàn toàn khả thi, ông nói.

Medevev nhấn mạnh rằng khi các quốc gia “thực sự phụ thuộc” vào đồng dollar, họ chịu sự ảnh hưởng của kinh tế Hoa Kỳ. “Kinh tế Hoa Kỳ đang được cải thiện nhưng chúng ta không có bằng chứng là nó sẽ không sụp đổ một lần nữa, do đó mọi người sẽ phải gánh chịu,” ông nói. “Chúng tôi tin rằng chúng tôi phải từ bỏ sự phụ thuộc này [vào bất cứ một đồng tiền nào] trong hệ thống tài chính thế giới.”

Medvedev chỉ ra rằng kết hợp các đồng tiền khác đã cho phép Nga giao thương trực tiếp với Trung Quốc. “Đây là một sự khẳng định rõ ràng cho thấy nếu ai đó rời khỏi chỗ của họ thì người khác sẽ thế chỗ [in nghiêng của tôi],” ông nói thêm. Thỏa thuận tháng 10 theo sau một hợp đồng cung cấp khí đốt khổng lồ với Gazprom, trị giá 400 tỷ dollar, để cung cấp khí đốt cho Trung Quốc trong hơn 30 năm.

Ngân hàng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng do Trung Quốc sáng lập vào năm 2014 

Cùng với việc là thành viên sáng lập của BRINCS, Trung Quốc đang thiết lập một ngân hàng phát triển, Ngân Hàng Đầu Tư Phát Triển Cơ Sở Hạ Tầng Châu Á (AIID). Hoa Kỳ kiểm soát cả Ngân Hàng Thế Giới và Ngân Hàng Phát Triển Châu Á. Cả hai tổ chức này phải đối mặt với sự cạnh tranh dữ dội khi ngân hàng phát triển của Trung Quốc tiến bước. Cùng với ngân hàng của BRICS, ngân hàng phát triển mới sẽ cung cấp sự thay thế quốc tế cho đồng dollar trong thương mại.

Theo tờ New York Times, “Hoa Kỳ, dĩ nhiên là tiếng nói chỉ trích … chủ yếu … đã không gây áp lực cho đề xuất của Trung Quốc. Trái lại, trong các cuộc đối thoại lặng lẽ với các đối tác tiềm năng của Trung Quốc, quan chức Hoa Kỳ đã vận động chống lại ngân hàng phát triển với sự cương quyết không ngờ và tham gia vào các chiến dịch mãnh liệt để thuyết phục các đồng minh quan trọng tẩy chay dự án, theo các quan chức cấp cao Hoa Kỳ và đại diện của các chính quyền liên quan khác [in nghiêng của tôi].” Tờ New York Times cũng đưa tin về sự phản đối các lập luận phê phán của Hoa Kỳ: “Các lập luận của Washington chống lại những nhu cầu rõ ràng về cơ sở hạ tầng ở Châu Á – những nhu cầu mà các thể chế hiện tại không thể đáp ứng, một số chuyên gia về phát triển nói. Ngân Hàng Phát Triển Châu Á ước tính vào năm 2009 là khu vực cần khoảng 8 nghìn tỷ dollar để đầu tư vào cơ sở hạ tầng vật chất cho tới năm 2020 – một số lượng vượt quá khả năng đáp ứng của họ hay Ngân Hàng Thế Giới, các chuyên gia của hai ngân hàng nói.”

Những tiến triển mới đây

Vào tháng 4 năm nay, thời hạn đã được đặt ra để các quốc gia tham gia vào ngân hàng phát triển Châu Á mới của Trung Quốc. Người Trung Quốc đã ngạc nhiên vì sự xin gia nhập vào phút chót của những quốc gia không mấy thân thiện với Bắc Kinh. Trong số những sự ngạc nhiên đó: Đài Loan và 14 trong số nhóm 20 nước. Nhật Bản là đồng minh Châu Á chủ chốt duy nhất vẫn sát cánh cùng chính quyền Obama. Ngay cả Australia và Hàn Quốc cũng quyết định tham gia. Ở Châu Âu, Anh Quốc là một trong số các quốc gia tham gia, quá đủ để chọc tức Hoa Kỳ.

Cùng lúc đó, Putin thông báo việc triển khai ngân hàng phát triển mới của BRICS trị giá 100 tỷ dollar. Họ cũng có 100 tỷ dollar khác làm dự trữ ngoại tệ để bảo vệ các đồng tiền của BRICS trước những biến động của kinh tế và thị trường thế giới. Việc triển khai diễn ra vào tháng 7 ở Ufa,Nga. “Chúng tôi dự định đạt được thỏa thuận ở Ufa về việc triển khai các hoạt động thực tế của ngân hàng BRICS và một quỹ dự trữ ngoại tệ,” Putin nói. Ngân hàng này sẽ là đối thủ cạnh tranh đối với IMF và Ngân Hàng Thế Giới và sẽ tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển. Họ cũng thách thức vai trò phương tiện thanh toán quốc tế của đồng dollar.

Động cơ hợp lý nhưng bị đánh giá thấp của việc khiêu khích Trung Quốc

Trong bài báo xuất sắc trên CounterPunch, Jack Smith viết rằng việc Hoa Kỳ khiêu khích Trung Quốc “xảy ra bởi một lý do chủ yếu. Hoa Kỳ ngạo mạn thống trị thế giới một mình, không được ủy quyền, không có sự cạnh tranh hay giám sát, kể từ khi Liên Bang Soviet sụp đổ gần 25 năm trước đây. Không có điều gì quan trọng hơn việc đó đối với giai cấp thống trị của Hoa Kỳ. Mọi mối nguy hiểm tiềm tàng đối với sự thống trị của Washington phải bị vô hiệu hóa. Cái bóng mờ ở Đông Á gây ra sự lo ngại bất an của Washington – Trung Quốc.”

Smith hoàn toàn chính xác như ông đã trình bày. Sự thống trị chính thống của Hoa Kỳ bắt đầu từ khi Liên Bang Soviet sụp đổ. Nhưng có một khía cạnh của sự thống trị mà Smith đã không đề cập: bảo vệ sự thống trị của đồng dollar trong thương mại thế giới. Trung Quốc và Nga đang tạo ra sự thay thế, đe dọa sự thống trị độc tôn của đồng dollar trong vai trò tiền tệ thế giới. Thông qua việc trao đổi không dùng đồng dollar, họ chống lại giá trị của đồng dollar và do vậy đe dọa nền kinh tế Hoa Kỳ.

Bart Gruzalski is a professor emeritus of Northeastern University, Boston. He has published three books and a number of articles online as well as in academic journals.

Wednesday, May 20, 2015

Chính quyền Hoa Kỳ đã diễn bài "mượn gió bẻ măng" ra sao?

Những vụ đột nhập được coi là của Nga đang trở thành cái cớ để chính quyền biện minh cho việc kiểm soát gắt gao hơn nữa người dân Mỹ. Đó là nội dung bài viết "Who hacked White House" của Justin Raimondo đăng trên tạp chí ColdType số 98 tháng 5 năm 2015. Tiêu đề do người dịch đặt

Khi vụ đột nhập hệ thống máy tính của hãng Sony tạo ra một mớ hỗn độn nực cười, một số “chuyên gia” con cưng của chính quyền đã nhanh chóng lên án Bắc Triều Tiên. Lý do: Do Sony phát hành một bộ phim tuyên truyền chống Triều Tiên, rõ ràng là Vua Jong-un phải chịu trách nhiệm cá nhân. Bên cạnh đó, vụ tấn công có vẻ như xuất phát từ khu vực không gian ảo mà siêu cấu trúc Internet đáng khinh của Triều Tiên tọa lạc. 

Chỉ có một vấn đề với kịch bản thật là dễ chịu này: nó chả có gì ngoài giả định. Một số chuyên gia máy tính – không có liên hệ với chính quyền – đã kịch liệt phản đối giải thích này, ngược lại đã chỉ ra sự thoải mái mà kẻ đột nhập xâm nhập vào hệ thống cho thấy đó chắc chắn là một công việc ở bên trong, công việc của một nhân viên với kiến thức chuyên sâu về hệ thống và là một sự trả thù đối với Sony. Thực tế là cá nhân đó đã nhanh chóng được xác định: một cựu nhân viên mới bị sa thải và thề sẽ trả thù. Mặc dù vậy, Washington với lý do riêng đã phớt lờ bằng chứng hiếm hoi đó và bám lấy câu chuyện của họ: các “chuyên gia” con cưng, những người có lợi ích kinh tế riêng trong việc thổi phồng “mối đe dọa” giả định do những kẻ đột nhật phục vụ cho kẻ thù nước ngoài gây ra – tất cả đều để đảm bảo rằng từng đồng tiền thuế nhỏ sẽ tiếp tục đổ đầy túi của họ.

Giờ chúng ta có một vụ đột nhập khác, được cho là đến từ Nga. Tờ New York Time đưa tin:

“Việc một số thư điện tử của tổng thống Obama đã bị các hacker Nga thu gom thông qua một lỗ hổng của hệ thống máy tính bí mật của Nhà Trắng không chỉ là đột nhập và phiền nhiễu như đã được thừa nhận công khai, theo một kết luận ngắn của quan chức cấp cao Hoa Kỳ trong cuộc điều tra.” 

Không hề có một mẩu bằng chứng nào như danh tính hay quốc tịch của hacker được đưa ra ngoại trừ sự khẳng định của các quan chức chính quyền nặc danh. Chúng ta phải chờ cho đến 7 đoạn sau để đọc được rằng họ “phỏng đoán là có liên hệ với chính quyền Nga, nếu không phải là làm việc cho chính quyền Nga.”

Một vài đoạn sau đó, ở gần cuối cùng, chúng ta thấy:

“Đây là một trong những kẻ đột nhập tinh vi nhất mà chúng ta từng gặp,” một quan chức Hoa Kỳ cấp cao kết luận ngắn về cuộc điều tra.

“Những người khác xác nhận rằng vụ đột nhập Nhà Trắng được coi là nghiêm trọng khiến các quan chức họp hầu như hàng ngày vài tuần sau khi nó bị phát hiện. “Đó là âm mưu của Nga trong vụ quấy rối đặc biệt này”, một quan chức cấp cao khác nói.

“Trong khi các nhóm đột nhập Trung Quốc được biết thường thu gom một khối lượng lớn thông tin thương mại và thiết kế, các hacker giỏi nhất của Nga có khuynh hướng che dấu giấu vết tốt hơn và tập trung vào các các mục tiêu đặc biệt, thường là mục tiêu chính trị. Vụ đột nhập diễn ra vào thời điểm tái diễn sự căng thẳng với Nga – về sự sáp nhập Crimea, sự có mặt của quân đội Nga ở Ukraina và sự tái diễn tuần tra quân sự của Nga ở Châu Âu, gợi nhớ lại chiến tranh lạnh.”

Được thôi, hãy tóm tắt các bằng chứng được đưa ra trong đoạn này để chỉ vào Nga:

1) Thủ phạm là “những kẻ đột nhập tinh vi.”

2) Đó không thể là người Trung Quốc bởi vì họ chỉ quan tâm tới tiền – thế nên phải là người Nga, bởi vì mục tiêu là chính trị. Bên cạnh đó người Nga “giỏi che dấu dấu vết hơn.” 

3) Thời điểm: “Nó diễn ra vào thời điểm tái diễn căng thẳng với Nga.”

Có thật sự cần phải phơi bày bóng ma ốm yếu của lập luận này? Để bắt đầu, có hàng sa số các “kẻ đột nhập tinh vi” trong thế giới hacker, không phải tất cả trong số họ đều hành động theo lệnh của nhà nước. Thứ hai, nếu thủ phạm trong vụ này đã che dấu tốt các dấu vết của họ thì chúng ta lần theo dấu vết của họ ra sao – và chúng ta chắc chắn đó là người Nga đến mức độ nào? Cũng về câu hỏi thời điểm: chúng ta có thời điểm “căng thẳng” một số lượng lớn kẻ thù quốc tế trong năm qua, bất cứ ai cũng có thể phải chịu trách nhiệm.

Một bài bào khác về sự kiện trên tờ Motherboard còn nực cười hơn nữa.

“Các nhà nghiên cứu an ninh nói rằng học đã tìm được bằng chứng xác thực kết nối vụ tấn công với chính quyền Nga, hay ít nhất là với hacker Nga.

“Chiến dịch nhằm vào Nhà Trắng, có biệt danh CozyDuke, có code, cơ sở hạ tầng và lợi ích chính trị tương tự như các cuộc tấn công trong quá khứ có liên hệ với hacker Nga, có thể làm việc cho chính quyền, các nhà nghiên cứu nói.”

“Các cuộc tấn công trong quá khứ có liên hệ với hacker Nga” – với bằng chứng nào? Nếu có ví dụ về sự thiên kiến thì đây chính là nó. “Code tương tự” và “cơ sở hạ tầng”? Đừng làm tôi buồn cười: code của virus được phán tán miễn phí và phổ biến rộng rãi. Bất cứ ai cũng có thể phát triển loại virus đánh cắp thông tin đã được đưa vào hệ thống máy tính của Nhà Trắng và Bộ Ngoại Giao. Còn về “lợi ích chính trị” thì hoàn toàn là vô nghĩa: Kremlin là chính quyền duy nhất trên trái đất có động cơ để đột nhập vào hệ thống máy tính của chính quyền Hoa Kỳ? Và điều này trở nên tệ hơn: 

“CozyDuke được thực hiện bởi cùng một nhóm đứng đằng sau các chiến dịch do thám mạng tinh vi như MiniDuke và Cosmic Duke, theo hãng an ninh Kaspersky Lab, có liên hệ với chính quyền Nga trong quá khứ. “MiniDuke và CosmicDuke được “một cơ quan của chính quyền Nga” thực hiện, nhân viên nghiên cứu của F-Secure, một hãng an ninh khác xác nhận vào tháng giêng. Đó là kết luận hầu như dựa trên các mục tiêu của chiến dịch: Những gã buôn ma túy Nga và chính quyền có lợi ích trái ngược với những người ở Nga.”

Hay nói cách khác, đó hoàn toàn là những phân tích phi kỹ thuật, không có bất cứ bằng chứng thực tế nào ngoại trừ các giả định chính trị và “phân tích” nghiệp dư của các “chuyên gia” máy tính hăm hở nói với chính quyền Hoa Kỳ điều mà họ muốn nghe. Đây là cách mà các thiên tài ở F-Secure đi đến kết luận sáng lạng của họ:

“Theo tình huống tham chiếu về các nạn nhân của hành pháp có vẻ như từ Nga và không có nạn nhân đáng giá nào thực sự thân Nga, chúng tôi tin rằng một cơ quan chính quyền Nga đứng đằng sau những chiến dịch này.”

Trái với sự dự đoán chắc chắn ngay từ đầu của đoạn này, đi đến kết thúc thì Mikko Hypponen, lãnh đạo nghiên cứu của F-Secure nói rằng “có thể” là Nga. Ồ, nhưng cũng có thể không…

Mặc dù vậy, Washington không có bất cứ sự nhập nhằng nào. Theo các bản tin, trong bài phát biểu mới đây ở đại học Stanford, bộ trưởng quốc phòng Ashton Carter khẳng định rằng “các cảm biến trong hệ thống bảo vệ bí mật của Lầu Năm Góc đã phát hiện ra vụ đột nhập của hacker Nga, những người đã khám phá ra một lỗ hổng cũ để tiếp cận. Sau khi nghiên cứu thông tin quý giá về chiến thuật của họ, chúng ta đã phân tích hoạt động mạng lưới của họ, sự liên kết của họ với Nga và sau đó nhanh chóng hất họ ra khỏi hệ thống, theo cách giảm thiểu cơ hội quay trở lại của họ.”

Phải vậy, chắc chắn rồi. Chỉ là sự trùng hợp khi Lầu Năm Góc phát hành một báo cáo “chiến lược mạng” mới, trong đó xác định Nga cùng với Trung Quốc là các thủ phạm lớn cần phải giám sát – dấy lên những mối đe dọa đối với cơ sở hạ tầng mạng, đòi hỏi một số lượng tiền lớn và “chuyên gia” để ngăn chặn. 

Một “sự trùng hợp” khác: Không có ít hơn ba đạo luật “an ninh mạng” quan trọng trong ngăn bàn quốc hội được thiết kế để chuyển giao nhiều hơn các thông tin cá nhân vào bàn tay chờ sẵn của cơ quan an ninh quốc gia và các cơ quan hành pháp, tất cả đều dưới danh nghĩa “bảo vệ” chúng ta khỏi các hacker-ông ba bị-Nga và Trung Quốc. Một lá thư ngỏ mới đây từ hơn 65 chuyên gia và học giả an ninh mạng đáng kính lên án những đạo luật đó là sự xâm nhập không cần thiết vào quyền riêng tư cũng như tạo ra một cảm giác sai lệch về an ninh – và họ kết luận rằng những đạo luật đó cũng khiến chúng ta dễ bị đột nhập hơn. 

Như Trevor Timm khẳng định:

“Các nghị sĩ quốc hội – hầu hết họ không thể đảm bảo an ninh cho website của bản thân và một số trong họ thậm chí không sử dụng thư điện tử - đang cố gắng nhồi nhét đạo luật “an ninh mạng” nguy hiểm vào cổ họng công chúng. Sự riêng tư của mọi người nằm trong tay của những người, với tất cả các chỉ báo, không hiểu gì về những điều mà họ nói. Cuộc chiến tranh lạnh mới với Nga đang lơ lửng trên đầu chúng ta, và luật lệ là: khi có rắc rối thì hãy đổ tội cho Putin. Sự ngờ nghệch về công nghệ của chúng ta – và truyền thông theo đuôi chính quyền sẵn sàng ngả về điều vô nghĩa này. Trong khi tôi không loại trừ bất cứ ai – trong đó có cả những “đồng minh” được tán tụng của chúng ta – khỏi trách nhiệm thì trong trường hợp này tôi nhìn những cáo buộc mang tính phản xạ nhằm vào Kremlin với ánh mắt tức giận.

Justin Raimondo is the editorial director of Antiwar.com, and a senior fellow at the Randolph Bourne Institute. He is a contributing editor at The American Conservative, and writes a monthly column for Chronicles. He is the author of “Reclaiming the American Right: The Lost Legacy of the Conservative Movement” [Center for Libertarian Studies, 1993; Intercollegiate Studies Institute, 2000], and “An Enemy of the State: The Life of Murray N. Rothbard” [Prometheus Books, 2000].

Wednesday, April 29, 2015

Chiến tranh lạnh phiên bản 2.0: Từ Việt Nam đến Iran

Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch Bản Tin Chống Đế Quốc số 138 "Cold War 2.0" của tác giả William Blum. Tiêu đề do người dịch đặt.

Chiến Tranh Lạnh Phiên Bản 2.0

Chiến tranh lạnh 2.0, phần I

Trong “Bản Tin Chống Đế Quốc” mới nhất của tôi (ColdType số 95), tôi đã mang đến cho các bạn cuộc phiêu lưu mới nhất của người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Jen Psaki trong việc cố gắng bảo vệ thứ không thể bảo vệ. Bà ta đã nói: “Trong vấn đề chính sách dài hạn, Hoa Kỳ không ủng hội việc thay đổi chính trị bằng các phương tiện vi hiến”, điều đó đã thúc đẩy tôi cung cấp tin tức cho độc giả: “Nếu bạn biết cách liên lạc với bà Psaki, hãy bảo bà ấy xem danh sách hơn 50 chính quyền mà Hoa Kỳ đã cố gắng lật đổ kể từ khi kết thúc Thế Chiến Thứ II của tôi”. 

Vào ngày 13 tháng 3, cuộc tấn công thường lệ của bà ta vào tất cả những gì của Nga bao gồm cả chuyện này, trong cuộc trao đổi với phóng viên Matthew Lee của hãng thông tấn AP:
Lee: Về chủ đề này, bà có thể cho biết thêm về yêu cầu đối với Việt Nam về vịnh Cam Ranh và không cho phép người Nga – không muốn họ cho phép – bà không muốn họ cung cấp nhiên liệu cho máy bay Nga ở đó?
Psaki: Vâng, cần phải rõ ràng – và tôi có thể đã không rõ ràng vào ngày hôm qua, hãy để tôi cố gắng làm lại điều đó – điều đó – mối lo ngại của chúng ta là các hoạt động mà họ có thể thực hiện trong khu vực, câu hỏi là: Tại sao họ ở khu vực này? Không phải là việc tiếp liệu cụ thể hay yêu cầu Việt Nam không cho phép họ tiếp liệu. [thêm gạch chân]
Lee: Vậy là không có yêu cầu ngừng tiếp liệu cho họ? Hay là có?
Psaki: Điều đó còn hơn là về mối lo ngại. Đó không chỉ là về Việt Nam – mà còn là mối lo ngại về những hành động mà họ sẽ có ở khu vực.
Lee: Vâng, thưa bà – tôi cho rằng có máy bay Hoa Kỳ bay lượn ở đó suốt.
Psaki: Chắc chắn vậy.
Lee: Vậy là bà không muốn máy bay Nga bay ở đó, nhưng máy bay Hoa Kỳ bay ở đó thì được? Tôi muốn nói là, tôi chỉ - điều này là theo ý của bà – phỏng đoán rằng mọi thứ người Nga làm vào bất cứ khi nào ở bất cứ đâu đều bất chính và có ý định khiêu khích. Nhưng bà không thể - bà dường như không thể hiểu hay chấp nhận rằng máy bay Hoa Kỳ bay lượn ở khắp nơi, bao gồm cả khu vực đó, là quấy nhiễu Trung Quốc, đối với họ cũng như đối với Nga. Nhưng giả định rằng các chuyến bay của Hoa Kỳ luôn luôn tốt và có lợi và không gây ra căng thẳng, và chuyến bay của những người khác gây ra căng thẳng. Vậy bà có thể giải thích cơ sở cho mối lo ngại của bà về việc các chuyến bay của Nga ở khu vực Đông Nam Á – gây ra sự căng thẳng?
Psaki: Tôi không thể đi sâu hơn vào chi tiết.

Chiến tranh lạnh 2.0, phần II

Vào tháng trước, chính quyền Obama công bố một loạt các hình ảnh vệ tinh được coi là cho thấy quân đội Nga đã tham gia phe nổi loạn trong các trận tấn công tổng lực để bao vây các binh lính trong khu vực quanh thành phố. Nga đã phủ nhận rằng họ tham gia xung đột, không thể xác thực ba bức ảnh vệ tinh đen trắng có nhiều nhiễu được đại sứ Hoa Kỳ ở Ukraina Geofrey Piat đăng trên Twitter

Theo Hoa Kỳ, các bức ảnh thu được từ công ty vệ tinh tư nhân Digital Global cho thấy hệ thống pháo binh và súng phóng rocket nhiều nòng vào ngày thứ năm ở khu vực gần Debaltseve. “Chúng tôi tin chắc đây là các hệ thống của quân đội Nga, không phải của quân ly khai”, Pyatt đăng tin. (Washington Post, ngày 5 tháng 2 năm 2015) Khi liệt kê những cách mà Hoa Kỳ chìm dần xuống cát lún, từ từ biến chất thành một nước Thế Giới thứ ba, chiến dịch của Washington vào năm 2014-2015 để thuyết phục thế giới rằng Nga đã liên tục xâm lược Ukraina chiếm vị trí gần đầu bảng. Hàng sa số các ví dụ như trên có thể được đưa ra. Nếu tôi vẫn còn là gã quốc gia sô-vanh hiếu chiến như tôi đã được nuôi dạy thì tôi cũng sẽ cảm thấy bối rối bởi sự hiển nhiên trơ trẽn của tất cả chúng.

Hình ảnh lịch sử ngắn về sự suy tàn và sụp đổ của Đế quốc Hoa Kỳ, hãy xem video “Sự Tan Rã của Đế Quốc” của Class War Films (8 phút 50)

Trong thời kỳ chiến tranh lạnh 1.0, truyền thông Hoa Kỳ ưa thích chế giễu truyền thông Soviet về việc không đáp ứng được các tiêu chuẩn sáng láng của báo chí phương tây. Một trong những nhận xét phổ biến nhất là về hai tạp chí chủ chốt của Nga – Pravda (có nghĩa là “sự thật” theo tiếng Nga) và Izvestia (có nghĩa là “tin tức” theo tiếng Nga). Chúng ta được nghe đi nghe lại rằng “không có sự thật ở Pravda và không có tin tức ở Izvestia”. Về sự giễu cợt như tôi đã làm nhiều năm đối với cách mà truyền thông chính thống Hoa Kỳ đưa tin về những kẻ thù chính thức (ODE), các tin tức mới về Nga đã vượt qua cả dự đoán tồi tệ của tôi. Tôi kinh ngạc mỗi ngày vì sự bất chấp tính khách quan hay công bằng trong các tin tức về Nga. Dĩ nhiên ví dụ quan trọng nhất về sự thiên vị này là việc không lưu ý các độc giả của họ rằng Hoa Kỳ và NATO đã bao vây Nga – với vụ đảo chính của Washington ở Ukraina là ví dụ mới nhất – và Moscow, vì một số lý do kỳ quặc, cảm thấy bị đe dọa bởi điều đó. (Hãy nhìn bản đồ trực tuyến các căn cứ quân sự của NATO và Nga, với một mô tả như: “Tại sao anh lại đặt nước mình vào giữa các căn cứ quân sự của tôi?”) 

Chiến tranh lạnh 2.0, phần III

Sau vụ sát hại lãnh tụ đối lập và là cựu phó thủ tướng Nga Boris Nemtsov ở Moscow vào ngày 27 tháng 2, phương tây đã có một ngày thu hoạch. Từ ám chỉ bóng gió mạnh mẽ tới cáo buộc phẫn nộ về vụ sát hại, truyền thông và chính khách phương tây đã không từ một cơ hội nào để mô tả Vladimir Putin như là một cầu thủ bóng đá ngớ ngẩn. Nghị viện Châu Âu ra nghị quyết thúc giục một cuộc điều tra quốc tế về cái chết của Nemtsov và đề xuất tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu, Hội đồng Châu Âu, Liên Hiệp Quốc có thể tham gia điều tra. Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ John McCain và Lindsey Graham đề xuất nghị quyết của thượng viện lên án vụ giết hại Nemtsov. Nghị quyết cũng kêu gọi tổng thống Obama và cộng đồng quốc tế theo đuổi một cuộc điều tra độc lập về vụ sát hại và các nỗ lực không khoan nhượng thúc đẩy tự do ngôn luận, nhân quyền, thượng tôn pháp luật ở Nga. Thêm vào đó, họ còn thúc giục Obama tiếp tục trừng phạt những người vi phạm nhân quyền ở Liên Bang Nga và gia tăng sự hỗ trợ của Hoa Kỳ đối với các nhà hoạt động nhân quyền ở Nga. Chuyện đã diễn ra như vậy … khắp phương tây.

Trong cùng lúc đó ở Ukraina, bên ngoài khu vực thân Nga ở đông nam, các sự kiện dưới đây được đưa tin:
Ngày 29 tháng 1: Cựu chủ tịch chính quyền địa phương của khu vực Kharkov, Alexey Kolesnik, treo cổ tự tử.
Ngày 24 tháng 2: Stanislav Melnik, một thành viên của đảng đối lập (Partia Regionov), tự sát bằng súng.
Ngày 25 tháng 2: Thị trưởng Melitopol, Sergey Valter, treo cổ tự tử vài giờ trước phiên tòa xét xử ông ta.
Ngày 26 tháng 2: Alexander Bordiuga, phó giám đốc cảnh sát Melitopol, được phát hiện đã chết trong nhà để xe của ông ta.
Ngày 26 tháng 2: Alexander Peklushenko, cựu nghị sĩ quốc hội Ukraina, cựu thị trưởng của Zaporizhi, được phát hiện bị bắn chết.
Ngày 28 tháng 2: Mikhail Chechetov, cựu nghị sĩ quốc hội, thành viên của đảng đối lập (Partia Regionov), “rơi từ cửa sổ căn hộ tầng 17 của ông ta ở Kiev”.
Ngày 14 tháng 3: Công tố viên 32 tuổi ở Odessa, Sergey Melnichuk, “rơi” từ tầng 9 và chết.
Đảng Các Khu Vực đã trực tiếp cáo buộc chính quyền Ukraina trong cái chết của các đảng viên và kêu gọi phương tây phản ứng trước các sự kiện đó. “Chúng tôi kêu gọi Liên Minh Châu Âu, PACE [Thường Trực Hội đồng Nghị Viện Châu Âu] và các tổ chức nhân quyền Châu Âu cũng như quốc tế ngay lập tức phản ứng với tình hình ở Ukraina, đưa ra một đánh giá pháp lý với các hoạt động tội ác của chính quyền Ukraina, họ đã giết hại các đối thủ chính trị.” Chúng ta không thể kết luận từ những điều ở trên rằng chính quyền Ukraina phải chịu trách nhiệm về mọi thứ hay bất cứ thứ gì trong những cái chết đó. Nhưng chúng ta cũng không thể kết luận rằng chính quyền Nga phải chịu trách nhiệm về cái chết của Boris Nemtsov, truyền thông và chính khách Hoa Kỳ cũng vậy. Một tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu tin tức khổng lồ của Nexus phát hiện không có bất cứ đề cập vào về cái chết của những người Ukraina ngoại trừ trường hợp cuối cùng ở trên là Sergei Melnichuk, nhưng rõ ràng đây không phải là người đó. Dường như là không có cái chết nào ở trên được quy cho chính quyền Ukraina đồng minh của phương tây. 

Yêu cầu điều tra quốc tế về những cái chết đó đâu? Ở Hoa Kỳ hay ở Châu Âu? Thượng nghị sĩ McCain đâu rồi?

Hành hạ bằng trừng phạt

Thảo luận về việc kiềm chế chương trình vũ khí hạt nhân của Iran đã diễn ra hơn một năm giữa Iran và P5+1 (năm cường quốc hạt nhân của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cùng với Đức), do Hoa Kỳ chủ trì. Suốt thời kỳ này, chướng ngại vật đáng chú ý trong việc đạt được một thỏa thuận là tuyên bố của Yukiya Amano, giám đốc của Ủy Ban Năng Lượng Hạt Nhân Quốc Tế (IAEA). IAEA là cơ quan giám sát hạt nhân của Liên Hiệp Quốc, và các cuộc thanh sát của họ được coi là biện pháp an toàn chủ chốt chống lại các quốc gia sử dụng công nghệ năng lượng hạt nhân dân sự để sản xuất vũ khí hạt nhân.

Amano đã thường xuyên cáo buộc Iran không đáp ứng đầy đủ và cần thiết các chất vấn về “các khuynh hướng quân sự có khả năng” của các hoạt động hạt nhân hiện tại và quá khứ, hay không tạo điều kiện cho các tiếp cận cần thiết đối với các cơ sở hạt nhân. 

Việc Iran thất bại trong việc đáp ứng toàn diện các yêu cầu của IAEA đã phá hủy các nỗ lực đạt được việc dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt của Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ, hiện nay đang ngăn cản các công ty nước ngoài hợp tác với Iran và không cho Iran tiếp cận hệ thống tài chính toàn cầu. Tường thuật của truyền thông về các cuộc đàm phán thường xuyên nhấn mạnh cáo buộc của Amano về việc Iran không đáp ứng các yêu cầu của IAEA. Do vậy rất đáng để điều tra xem Amano là ai. 

Vào năm 2009, nhà ngoại giao Nhật Bản Yukiya Amano trở thành người đứng đầu IAEA. Điều mà truyền thông phương tây không lưu ý độc giả của họ là điện tín của đại sứ quán Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2009 (do Wikileaks công bố vào năm 2010) đã nói rằng Amano “chấp nhận đau đớn để khẳng định sự ủng hộ của ông ta đối với các mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ đối với ủy ban. Amano lưu ý đại sứ [Hoa Kỳ] vào một số dịp rằng … ông ta hoàn toàn nhất trí trong các phiên điều của Hoa Kỳ về mọi quyết định chiến lược, từ chỉ định các nhân sự cấp cao cho tới đàm phán về chương trình vũ khí hạt nhân được gán cho Iran.”

Ngay cả khi Iran có nỗ lực phi thường thỏa mãn các yêu cầu của IAEA và Washington về mọi vấn đề, thì vẫn chưa rõ là phạm vi và các biện pháp trừng phạt sẽ bị dỡ bỏ nhanh ra sao, nhất là khi quốc hội do phe cộng hòa nắm. Các chuyên gia của Iran và tác giả Gareth Porter mới đây đã viết rằng “Hoa Kỳ và các đồng minh của họ đã nỗ lực che dấu sự thật rằng họ có ý định duy trì “thiết chế trừng phạt” trong nhiều năm sau khi việc triển khai hiệp định đã bắt đầu. Vào tháng 11 vừa qua, các quan chức chính quyền đã giải thích rằng biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ sẽ được dỡ bỏ sau khi IAEA xác nhận rằng “Tehran tuân thủ các quy định của một thỏa thuận về gia hạn thời gian nhằm 'thúc đẩy Iran tôn trọng hiệp định'.”

Để thấy mức độ khủng khiếp của sức ép và sự áp bức mà Hoa Kỳ áp đặt đối với một quốc gia khác thì chúng ta có thể xem xét trường hợp của Libya trong thập kỷ tiếp theo vụ phá hủy chiếc máy bay số 103 của hãng hàng không PanAm vào năm 1988 trên bầu trời Scotland. Để buộc Libya “phải nhận trách nhiệm” về tội ác, Washington áp đặt các biện pháp trừng phạt nặng nề đối với chính quyền Gaddafi, trong đó có cấm các chuyến bay quốc tế tới Libya và bồi thường hàng tỷ dollar cho gia đình các nạn nhân. Libya đã “phải nhận trách nhiệm về tội ác” mặc dùy họ vô tội. Điều này khó có thể tin được nhưng là sự thật. Hãy xem tường thuật của tôi về chuyện đó ở đây.

Ngay cả khi Libya nhận trách nhiệm thì vẫn mất nhiều năm để Hoa Kỳ dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt, và không rõ là vào lúc Gaddafi chết năm 2011 thì tất cả các biện pháp trừng phạt đã được dỡ bỏ hay chưa. Khi một quốc gia được chính thức coi là kẻ thù của đế chế thì các phương pháp tra tấn có thể tinh tế và bất tận. Cuba mới đây đàm phán để chấm dứt các biện pháp trừng phạt của Hoa Kỳ đối với Havana. Họ sẽ cần phải rất cẩn trọng.
Giống như những anh chàng cùng loại khác – như David Horowits và Christopher Hitchens – anh ta học quá nhiều ở trường đại học và quá ít sau đó.” Sam Smith
Tôi chưa bao giờ quá ấn tượng bởi trường đại học của một cá nhân, hay thậm chí là họ có đi học đại học không. Gore Vidal không học đại học; H. L. Mencken cũng vậy; Edward Snowden, người đã cho thấy khả năng ăn nói lưu loát và tư duy có giáo dục, cũng không. Trong số nhiều người cao quý bỏ dở việc học đại học có Bernard Shaw, Ernest Hemingway và Johann Wolfgang von Goethe.

Rồi chúng ta có những gã tốt nghiệp trường đại học thuộc Ivy League như George W. Bush, Barack Obama và Tom Cotton. Tôi không cần phải giới thiệu về trường hợp tư duy thiếu giáo dục của Bush; chúng ta đều quá quen thuộc với sự hấp dẫn của nó. Nhưng Obama đã bắt kịp cậu chàng Georgie về sự ngu ngốc và ngớ ngẩn hết lần này đến lần khác. Câu yêu thích của tôi, thứ mà ông ta sử dụng ít nhất là năm lần, là câu trả lời của ông ta về việc tại sao chính quyền của ông ta không truy tố Bush, Cheney và những kẻ khác về tội tra tấn và các tội ác chiến tranh khác: “Tôi mong muốn nhìn về phía trước hơn là phía sau.” Bức ảnh một bị cáo trước khi quan tòa xét hỏi được thấy vô tội trên cơ sở những lý do như vậy. Điều đó đơn giản khiến cho luật pháp, hành pháp, tội ác, công lý và sự phật là phi lý. Bức ảnh Chelsea Manning và những người tiết lộ khác cũng sử dụng lập luận này. Bức ảnh trái ngược với điều đó của Barack Obama, người trở thành công tố viên hàng đầu đối với những người tiết lộ trong lịch sử Hoa Kỳ.

Có ai còn nghĩ Barack Obama là một dạng tiến bộ tiến trí tuệ hơn so với George W. Bush? Dường như có dạng người vẫn còn nghĩ như vậy: (1) Những người coi trọng vấn đề màu da; (2) Những người bị ấn tượng mạnh bởi khả năng đặt câu đúng ngữ pháp. Nào chúng ta hãy xem Mr. Cotton, thượng nghị sĩ từ Arkansas và tốt nghiệp trường cao đẳng và trường luật Harvard. Ông ta có thể giải trí cho chúng ta nhiều năm với những phẩm chất như bình luận của ông ta trong chương trình “Đối mặt quốc gia” (15 tháng 3): “Hơn nữa, chúng ta phải chống lại các nỗ lực của Iran trong việc tiến tới thống trị khu vực. Họ đã kiểm soát Tehran, tiếp đó, họ kiểm soát Damascus, Beirut và Bagdad. Hiện giờ là Sana'a.”

Trời đất, Iran kiểm soát Tehran! Ai biết được? Thứ tiếp theo mà chúng ta sẽ được nghe là Nga kiểm soát Moscow! Sarah Palin, hãy vượt qua. Cậu chàng Cotton đã sẵn sàng cho chương trình Truyền Hình Trực Tiếp Đêm Thứ Bảy.

Wednesday, December 10, 2014

Chiến tranh băng giá của Washington chống lại Nga

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Washington’s Frozen War Against Russia" của tác giả Diana Johnstone về cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Nga hiện nay. Tác giả đã chỉ ra mục tiêu của Hoa Kỳ là thay đổi chế độ ở Nga, lật đổ tổng thống Putin.

Chiến Tranh Băng Giá của Washington chống lại Nga

Hơn một năm qua, Hoa Kỳ đã triển khai kịch bản được thiết kế để (1) tái lập sự kiểm soát của Hoa Kỳ đối với Châu Âu bằng cách ngăn chặn Châu Âu giao thương với Nga, (2) làm phá sản Nga, (3) lật đổ Vladimir Putin và thay thế ông ta bằng một tay sai của Hoa Kỳ, giống như kẻ say sưa Boris Yeltsin trước đây.

Những ngày qua đã cho thấy rất rõ sự phản bội kinh tế trong cuộc chiến của Hoa Kỳ chống lại Nga.

Tất cả bắt đầu ở hội nghị quốc tế cấp cao quan trọng về tương lai của Ukraina được tổ chức ở Yalta vào tháng 12 năm 2013, tại đó chủ đề chính là cuộc cách mạng khí đá phiến mà Hoa Kỳ hy vọng có thể sử dụng để làm suy yếu Nga. Cựu bộ trưởng năng lượng Hoa Kỳ Bill Richardson ở đó để tạo đà, được Bill và Hillary Clinton hoan nghênh. Washington hy vọng sử dụng kỹ thuật fracking để tạo ra nguồn năng lượng thay thế cho khí đốt tự nhiên, loại Nga ra khỏi thị trường. Khối lượng đó sẽ khiến cho Châu Âu mù quáng.

Nhưng cú lừa đó không thể hoàn thành dựa trên “thị trường” bất khả xâm phạm, do fracking tốn kém hơn việc chiết xuất khí đốt của Nga nhiều. Một cuộc khủng hoảng quan trọng là cần thiết để bóp méo thị trường với sức ép chính trị. Với cuộc đảo chính ngày 22 tháng 2, do Victoria Nulanad dàn xếp, Hoa Kỳ đã thành công trong việc giành quyền kiểm soát Ukraina, đưa tay chân “Yats” (Arseniy Yatsenyuk) lên nắm quyền, người này ủng hộ việc gia nhập NATO. Mối đe dọa trực tiếp đối với căn cứ hải quân của Nga ở Crimea đã dẫn tới cuộc trưng cầu dân ý sáp nhập một cách hòa bình bán đảo lịch sử của Nga trở lại Nga. Nhưng dàn đồng ca của Hoa Kỳ lên án việc sáp nhập hòa bình bán đảo Crimea là “cuộc xâm lược quân sự của Nga”. Động thái phòng vệ đó được NATO loan báo là bằng chứng của việc Putin có ý đồ xâm lược các quốc gia láng giềng của Nga ở Đông Âu bất kể lý do. 

Cùng lúc đó, kinh tế xâm lược của Hoa Kỳ đã lặng lẽ lan tỏa.

Ukraina là một trong những nguồn dự trữ khí đá phiến lớn nhất ở Châu Âu. Giống như các quốc gia Châu Âu khác, người Ukraina đã chống lại các tác động tổn hại môi trường của việc fracking trên quê hương của họ, nhưng không giống các quốc gia khác, Ukraina không có luật cấm. Chevron đã tham gia.

Vào tháng 5 vừa qua, R. Hunter Biden, con trai của phó tổng thống Hoa Kỳ, trở thành thành viên trong ban giám đốc của Burisma Holdings, nhà cung cấp khí đốt tư nhân lớn nhất của Ukraina. Biden trẻ chịu trách nhiệm về bộ phận pháp lý của Holdings và đóng góp vào “sự mở rộng quốc tế” của công ty.

Ukraina có đất canh tác màu mỡ cũng lớn như dự trữ dầu đá phiến. Người khổng lồ nông nghiệp Cargill của Hoa Kỳ đã đặc biệt tích cực ở Ukraina, đầu tư vào kho chứa ngũ cốc, thức ăn gia súc, nhà cung cấp trứng và hãng kinh doanh nông nghiệp chủ chốt, Ukr Land Farming, cũng như cảng tại Novorossiysk ở Biển Đen. Hội Đồng Kinh Doanh Hoa Kỳ-Ukraina cũng rất tích cực với sự có mặt của Monsanto, John Deere, nhà chế tạo nông cụ CNH Industrial, DuPont Pioneer, Eli Lilly và Công Ty. Monsanto dự định xây dựng một “nhà máy hạt giống ngũ cốc không biến đổi gen” trị giá 140 triệu dollar ở Ukraina, nhắm tới thị trường e ngại hạt giống biến đổi gen (GMO) của Châu Âu. Trong bài phát biểu tại hội nghị của Hội Đồng Kinh Doanh Hoa Kỳ-Nga do Chevron tài trợ một năm trước đây, Victoria đề cập tới việc Hoa Kỳ đã chi 5 tỷ dollar trong hai mươi năm qua để giành được Ukraina.

Vào ngày 2 tháng 12, tổng thống Poroshenko bổ nhiệm ba người ngoại quốc làm bộ trưởng trong nội các: một người Mỹ, một người Lít-va và một người Grudia. Ông ta cấp quốc tịch Ukraina cho họ chỉ vài phút trước buổi lễ bổ nhiệm. 

Người sinh ra ở Mỹ, Natalie Jaresko, là bộ trưởng tài chính mới của Ukraina. Với một nền tảng gia đình Ukraina cũng như bằng cấp của trường Harvard và DePaul, Jaresko chuyển từ Bộ Ngoại Giao tới Kiev để lãnh đạo phòng kinh tế của đại sứ quán Hoa Kỳ mới mở khi Ukraina tách ra khỏi Liên Bang Soviet. Ba năm sau, bà ta rời đại sứ quán Hoa Kỳ để lãnh đạo quỹ Western NIS Enterprise được Hoa Kỳ tài trợ. Vào năm 2004, bà ta thiết lập quỹ đầu tư cổ phiếu riêng. Với vai trò là người ủng hộ cuộc Cách Mạng Cam năm 2004, bà ta tham gia Hội Đồng Cố Vấn Nhà Đầu Tư Nước Ngoài của tổng thống “Cam” Viktor Yushenko. 

Chủ ngân hàng đầu tư Aivaras Abromavicius là bộ trưởng Kinh Tế mới, đặt chính sách kinh tế vào ảnh hưởng của Hoa Kỳ hơn là kiểm soát.

Bộ trưởng Y Tế mới, Aleksandr Kvitashvili từ Grudia, được đào tạo ở Hoa Kỳ và không nói tiếng Ukraina. Ông ta từng là bộ trưởng y tế tại quê hương Grudia dưới thời tổng thống tay sai của Hoa Kỳ Mikheil Saakashvili.

Hoa Kỳ đã hoàn tất việc kìm chặt kinh tế Ukraina. Bước kế tiếp là bắt đầu fracking, dĩ nhiên sẽ biến Hunter Biden thành nhà tài phiệt mới nhất của Ukraina.

Không ai đề cập tới điều này nhưng hiệp định thương mại gây tranh cãi giữa E.U. và Ukraina, đã bị trì hoãn khiến cho cuộc biểu tình Maidan dẫn tới cuộc đảo chính ngày 22 tháng 2 do Hoa Kỳ chỉ đạo, xóa bỏ các rào cản thương mại, cho phép tự do xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp do công ty Hoa Kỳ sản xuất ở Ukraina sang các quốc gia E.U. Chính quyền Ukraina chìm đắm trong nợ nần nhưng điều đó không ngăn cản các công ty Hoa Kỳ kiếm lợi nhuận khổng lồ từ đất nước màu mỡ, lương thấp và phi luật lệ. Các nhà sản xuất ngũ cốc Châu Âu, như Pháp, có thể bị thiệt hại lớn khi gặp cạnh tranh giá rẻ.

Cuộc tấn công của chính quyền Kiev bị ám ảnh bởi Nga ở Đông Nam Ukraina đã giết chết lĩnh vực công nghiệp vốn có thị trường ở Nga của quốc gia. Nhưng đối với những nhà cai trị Kiev từ miền tây Ukraina thì điều đó không quan trọng. Cái chết của công nghiệp cũ kỹ có thể giữ cho lương thấp và lợi nhuận cao.

Ngay sau khi người Mỹ giành quyền kiểm soát kinh tế Ukraina, Putin thông báo hủy bỏ dự án đường ống dẫn khí đốt Tuyến Phương Nam. Hợp đồng được ký vào năm 2007 giữa Gazprom và công ty hóa dầu ENI của Ý, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp khí đốt của Nga cho vùng Ban-căng, Áo và Ý tránh đi qua Ukraina, một quốc gia trung gian không đáng tin cậy khi liên tục không thanh toán các khoản nợ và hút khí đốt chuyển cho Châu Âu để sử dụng. Công ty Đức Winterhall và công ty Pháp EDF cũng đầu tư vào Tuyến Phương Nam.

Trong những tháng gần đây, các đại diện của Hoa Kỳ gia tăng sức ép, buộc các quốc gia Châu Âu đã tham gia phải hủy bỏ dự án. Tuyến Phương Nam là phao cứu sinh đối với Serbia, vẫn đang khốn đốn bởi hậu quả từ những trận ném bom của NATO và tư hữu hóa các ngành công nghiệp để bán đổ bán tháo cho nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh nhu cầu về công ăn việc làm và an ninh năng lượng, Serbia cũng sẽ nhận được 500 triệu euro phí quá cảnh hàng năm. Belgrade phản đối cảnh báo rằng Serbia phải tuân thủ chính sách đối ngoại chống lại Nga của E.U. để đáp ứng các điều kiện làm ứng cử viên gia nhập E.U.

Điểm yếu là Bulgaria, nước này cũng nhận được những lợi ích tương tự khi chấp nhận cho đường ống đi qua lãnh thổ. Đại sứ Hoa Kỳ ở Sofia, Marcie Ries đã bắt đầu cảnh báo các doanh nhân Bulgari rằng họ có thể phải gánh chịu trừng phạt nếu hợp tác với các công ty Nga. Chủ tịch về hưu của Ủy Ban Châu Âu, José Manuel Barroso người Bồ Đào Nha, người được coi là “Maoist” khi “chủ nghĩa Mao” biện minh cho việc chống lại phong trào giải phóng được Soviet hậu thuẫn ở các thuộc địa Châu Phi của Bồ Đào Nha, đã đe dọa Bulgaria với việc khởi kiện bất tuân thủ Châu Âu trong hợp đồng Tuyến Phương Nam. Điều này dẫn chiếu tới quy định của E.U. chống lại việc cho phép cùng một công ty cung cấp và chuyển tiếp khí đốt. Nói ngắn gọn là E.U. đang cố gắng áp dụng quy định của bản thân theo kiểu hồi tố cho hợp đồng được ký kết với một quốc gia không thuộc E.U.

Cuối cùng, John McCain bay tới Sofia để hăm dọa thủ tướng Bulgaria, Plamen Oresharski, để hủy bỏ hợp đồng, khiến cho Tuyến Phương Nam nằm trên Biển Đen mà không có lối vào đất liền Ban-căng.

Tất cả những chuyện nực cười đó cho thấy hoàn cảnh cuộc chiến tuyên truyền hiện nay của Hoa Kỳ chống lại Nga, kiểu như Gazprom là một vũ khí nguy hiểm được Putin sử dụng để “ép buộc” và “bắt nạt” Châu Âu.

Bằng chứng duy nhất là Nga thường xuyên kêu gọi một cách vô ích Ukraina trả các khoản nợ khí đốt quá hạn.

Hủy bỏ Tuyến Phương Nam là một cú đánh đến muộn của NATO vào Serbia. Thủ tướng Serbia Aleksandar Vucic than vãn về tổn thất Tuyến Phương Nam: “Chúng ta đang trả giá cho xung đột giữa các cường quốc.”

Các đối tác người Ý trong hợp đồng cũng không vui vẻ với tổn thất lớn đó. Nhưng quan chức và truyền thông E.U. vẫn lên án Putin về mọi thứ như thường lệ.

Dĩ nhiên là khi bạn thường xuyên bị xúc phạm và cảm thấy không được chào đón thì bạn sẽ quay đi. Putin mang dự án đường ống dẫn dầu sang Thổ Nhĩ Kỳ và ngay lập tức bán cho thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Recep Erdogan. Điều đó có vẻ như là một hợp đồng tốt cho Nga, cho Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng toàn bộ sự việc vẫn chỉ là điềm báo.

Dầu của Nga là công cụ ép buộc? Nếu Putin có thể sử dụng Gazprom để buộc Erdogan thay đổi chính sách về Syria, và từ bỏ quyết định lật đổ Bachar al Assad, nhằm đánh bại Nhà Nước Hồi Giáo thần kỳ, thì đó sẽ là kết quả tuyệt vời. Nhưng hiện giờ vẫn chưa có dấu hiệu của một sự tiến triển như vậy.

Sự thay đổi từ Ban-căng sang Thổ Nhĩ Kỳ đào sâu ngăn cách giữa Nga và Tây Âu, mà trong dài hạn sẽ gây tổn thương cho cả hai phía. Nhưng điều đó cũng đào sâu bất bình đẳng kinh tế giữa phương Nam và phương Bắc Châu Âu. Đức vẫn nhận được khí đốt của Nga từ Tuyến Phương Bắc, dự án hợp tác của Gerhard Schroeder với Putin. Song các quốc gia phía Nam Châu Âu, vốn đang chìm trong khủng hoảng của đồng euro, thì bị bỏ mặc trong lạnh giá. Điều này có thể thúc đẩy nổi loạn chính trị đang lớn dần tại những quốc gia đó.

Khi những tiếng nói dấy lên ở Ý phàn nàn rằng trừng phạt Nga khiến Châu Âu bị tổn thương nhưng Hoa Kỳ thì vô sự, người Châu Âu có tự an ủi bằng diễn ngôn của người được giải Nobel Hòa Bình ở Nhà Trắng, người ca ngợi Liên Minh Châu Âu làm điều đúng đắn, ngay cả khi điều đó “là gay go đối với kinh tế Châu Âu”.

Trong bài phát biểu với các CEO hàng đầu vào ngày 3 tháng 12, Obama nói rằng sự trừng phạt nhằm mục tiêu thay đổi “nhận thức” của Putin, nhưng không nghĩ rằng điều đó sẽ thành công. Ông ta chờ đợi “chính trị trong nội bộ Nga” sẽ “bắt kịp với những gì diễn ra trong kinh tế, đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục duy trì sức ép.” Hay nói cách khác là ăn cắp thị trường khí đốt của Nga, ép buộc Châu Âu áp đặt trừng phát, và khiến những gã gốc mù quáng của Washington ở Arab Saudi hạ giá dầu bằng cách làm tràn ứ thị trường, đều chỉ nhằm mục đích khiến nhân dân Nga đủ ghét Putin để lật đổ ông ta. Nói một cách ngắn gọn là thay đổi chế độ.

Vào ngày 4 tháng 12, Hạ Viện Hoa Kỳ chính thức công bố động cơ của Hoa Kỳ phía sau thông điệp bằng cách đưa ra một thứ có thể coi là tồi tệ nhất mà khối lập pháp từng đưa ra: Nghị quyết 758. Nghị quyết là một bản tóm tắt tất cả những dối trá chống lại Vladimir Putin và Nga trong hơn một năm qua. Chưa bao giờ có nhiều lời dối trá được nhồi nhét trong một văn bản chính thức như vậy. Mặc dù vậy, cuộc chiến tuyên truyền được chứng thực bằng số phiếu thông qua 411 so với 10 phản đối. Nếu như điều này không dẫn đến chiến tranh giữa hai cường quốc hạt nhân, và vẫn còn những nhà sử học trong tương lai, thì họ sẽ đánh gia nghị quyết này là bằng chứng sự thất bại hoàn toàn của trí tuệ, trung thực, và tinh thần trách nhiệm của hệ thống chính trị mà Washington đang cố gắng áp đặt cho toàn thế giới.

Ron Paul đã viết một phân tích xuất sắc về tài liệu đáng xấu hổ đó ở đây và ở đây nữa

Bất kể người ta có nghĩ gì về chính sách đối nội của Paul, về đối ngoại thì ông ta đứng riêng một mình – rất riêng biệt – tiếng nói của lý trí. (Đúng như vậy, có cả Dennis Kucinich nữa, nhưng họ loại bỏ ông ta bằng cách xóa bỏ theo kiểu gian lận quận của ông ta khỏi bản đồ.)

Sau một danh sách dài những lời nói dối “Xét rằng”, gây tổn thương và đe dọa, chúng ta trở thành phe gây sự thô bỉ trong chiến dịch nguy hiểm này. Hạ Viện kêu gọi các quốc gia Châu Âu “làm suy yếu khả năng sử dụng nguồn khí đốt như là công cụ tạo sức ép chính trị và kinh tế đối với các quốc gia khác của Liên Bang Nga” và “thúc giục tổng thống xúc tiến phê chuẩn của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ về việc xuất khẩu khí đốt hóa lỏng sang Ukraina và các quốc gia Châu Âu khác.” 

Quốc Hội đã sẵn sàng mạo hiểm và thậm chí là khuyến khích chiến tranh hạt nhân, nhưng họ đi từ “tuyến dưới”. Điều quan trọng là việc đánh cắp thị trường khí đốt của Nga bằng thứ mà cho đến nay vẫn là trò lừa gạt: khí đá phiến thu được từ fracking của Hoa Kỳ.

Tồi tệ hơn Chiến Tranh Lạnh

Phái tân bảo thủ đang điều khiển các chính khách thiếu trải đời của Hoa Kỳ sẽ đẩy chúng ta vào một cuộc Chiến Tranh Lạnh mới. Cuộc đối đầu dai dẳng với Liên Bang Soviet là “Lạnh” do Sự Phá Hủy Đảm Bảo Cho Đôi Bên (MAD). Cả Washington và Moscow đã hoàn toàn nhận thức được rằng chiến tranh “Nóng” có nghĩa là đụng độ vũ khí hạt nhân sẽ tiêu diệt tất cả mọi người.

Khi thời đó qua đi, Hoa Kỳ nghĩ rằng họ đã “thắng” trong Chiến Tranh Lạnh và dường như say sưa với sự tự thỏa mãn rằng họ có thể thắng một lần nữa. Sự nâng cấp vũ khí hạt nhân của họ và xây dựng “lá chắn hạt nhân” quanh biên giới Nga chỉ nhằm mục tiêu tạo cho Hoa Kỳ khả năng đánh phủ đầu – khả năng hạ gục bất cứ sự trả đũa nào của Nga đối với tấn công hạt nhân của Hoa Kỳ. Điều đó không thể có tác dụng, nhưng nó làm suy yếu sự ngăn chặn.

Nguy cơ của một cuộc chiến toàn diện giữa hai cường quốc hạt nhân thực sự lớn hơn dưới thời Chiến Tranh Lạnh. Hiện nay chúng ta đang ở trong một dạng Chiến Tranh Băng Giá, bởi vì tất cả những gì mà Nga làm hay nói đều không có bất cứ tác động nào. Phe tân bảo thủ đang tạo ra các chính sách của Hoa Kỳ ở phía hậu trường đã sáng tạo ra câu chuyện giả tưởng về “sự xâm lược” của Nga mà thổng thống của Hoa Kỳ, truyền thông và giờ là Quốc Hội phải chấp nhận và tán thành. Các nhà lãnh đạo Nga phản ứng với sự trung thực, sự chân thành và nhận thức chung, vẫn đang kiềm chế bất chấp những thóa mạ đối với họ. Điều đó không tạo ra bất cứ thứ gì tốt đẹp. Tình thế bị đóng băng. Khi lý trí thất bại, bạo lực sẽ tiếp bước. Sớm hay muộn.

Diana Johnstone is the author of Fools’ Crusade: Yugoslavia, NATO, and Western Delusions. Her new book, Queen of Chaos: the Foreign Policy of Hillary Clinton, will be published by CounterPunch in 2015. She can be reached at diana.johnstone@wanadoo.fr

Monday, November 24, 2014

VTV nhầm lẫn về lịch sử khai thác dầu mỏ

Mới đây VTV đưa tin:
Ngôi làng Bobrka nhỏ bé ở phía Nam Ba Lan sở hữu một di sản thế giới rất đặc biệt. Đó chính là giếng dầu cổ nhất thế giới đã có lịch sử từ năm 1860. Người có công phát hiện và khai thác mỏ dầu này là ông Ignacy Lukasewic với mục đích ban đầu chỉ là để cung cấp nhiên liệu cho những chiếc đèn dầu.
Dầu mỏ đã được khai thác từ rất lâu đời, theo trang RigsInternational thì người Trung Quốc vào khoảng thế kỷ thứ tư sau công nguyên đã biết khoan giếng để lấy khí đốt bằng mũi khoan gắn vào cọc tre, khí đốt được dùng để đun cho nước biển bay hơi nhằm thu lấy muối. Người Trung Quốc đã khoan được giếng sâu tới 243m để lấy khí đốt.

Khai thác dầu mỏ phát triển nhất là ở Baku, Azebaijan. Mặc dù đến thứ kỷ thứ 8, tức là sau người Trung Quốc khoảng 400 năm thì người Baku mới đốt đất thấm dầu để sưởi ấm, do thiếu củi. Chỉ trong vòng khoảng 100 năm sau đó, người Baku đã xuất khẩu dầu mỏ sang các nước Iran, Iraq và Ấn Độ do dầu mỏ của họ rất được các nước này ưa chuộng. Người Baku lúc đó chưa biết khoan dầu, các mỏ dầu lộ thiên của họ rất sẵn, họ chỉ việc múc dầu rỉ ra từ lòng đất và cho vào túi đựng, rồi dùng thú thồ hàng chở đi các nơi. Dầu mỏ không chỉ được sử dụng làm chất đốt mà còn được chế làm thuốc chữa bệnh.

Theo trang GeoHelp thì ở một khu vực khác của châu Âu vào khoảng những năm 1500 có mỏ dầu lộ thiên là vùng núi Carpathian, dầu thu được từ mỏ lộ thiên đã được dùng để thắp sáng ở thị trấn Krosno của Ba Lan ngày nay.

Khi dầu lộ thiên ngày càng khan hiếm thì người Baku bắt đầu đào giếng sâu xuống lòng đất, dùng vải thấm lấy dầu rồi đem lên mặt đất ép ra cho dầu chảy ra. Người ta phát hiện một bia đá đề năm 1594 tại một giếng dầu đào bằng tay sâu 35m ở Baku. Như vậy có thể thấy các giếng dầu ở Baku ít phải có từ năm 1594. Sau đó, dầu mỏ đã sử dụng nhiều trong chiến trận, các chiến thuyền được trang bị vòi để phun dầu sang thuyền của đối phương rồi đốt cháy, đó là một trong những vũ khí khủng khiếp đương thời. 

Suốt nhiều thế kỷ việc khai thác dầu đã đem lại sự giàu có cho các chủ mỏ dầu ở Baku. Do nhu cầu về dầu không ngừng tăng lên và điều kiện kỹ thuật cho phép, người Baku đã chuyển sang khai thác các mỏ dầu ngoài khơi. Vào năm 1803 họ đã có hai giếng dầu đào thủ công ở cách bờ biển 18m và 30m trên vịnh Bibi-Heybat, các mỏ dầu này đã tồn tại tới năm 1825 khi bị một cơn bão lớn phá hỏng.

Đến cuối thế kỷ 19, công nghiệp dầu mỏ ở Baku đã rất phát triển, các công nghệ hiện đại đã được áp dụng, họ xây dựng nhiều nhà máy chế xuất, hệ thống đường ống dẫn dầu tới các nhà máy nằm ở xa khu khai thác dầu, và thậm chí đóng cả các tàu chở dầu để chở dầu để mang dầu vượt biển sang các thị trường có nhu cầu lớn nhưng ở xa.

Kỹ thuật khoan dầu ban đầu đơn giản là khoan xoay, tức là dùng lực xoay mũi khoan để cắt xuyên qua đất đá, xuống đến túi dầu. Kỹ thuật khoan đó chỉ thích hợp với khu vực đất sét, cát và đá nhỏ. Còn túi chứa dầu nằm giữa các vỉa đá lớn thì không thể khoan được. Sau này người ta phát minh ra kỹ thuật khoan đập, tức là mũi khoan nặng có răng được thả rơi từ trên cao xuống để đập vỡ đá, thì các túi dầu nằm giữa vỉa đá mới được đưa vào khai thác. Khoan đập cũng như khoan xoay, ban đầu đều dùng sức người hoặc động vật kéo. Sau này khi các máy hơi nước được phát minh thì mới có máy khoan cơ giới.

Dựa trên tài liệu của các giáo sư người Azerbaijan thì vào năm 1846, theo đề xuất của một kỹ sư người Nga, người Baku đã tổ chức khoan thăm dò thành công lần đầu tiên trên thế giới với kỹ thuật khoan đập, giếng khoan có độ sâu 21m, đi trước người Mỹ 13 năm trong việc khoan dầu bằng kỹ thuật khoan đập. Vài năm sau, người Ba Lan ở vùng Krosno dùng kỹ thuật khoan đập đã tạo ra giếng dầu trên vỉa đá đầu tiên vào khoảng năm 1852-1854, theo trang RigsInternational và nhiều tài liệu khác.

Như vậy, VTV có ba cái nhầm lẫn. Thứ nhất là về năm người Ba Lan khai sinh ra giếng trên vỉa đá ở làng Bóbrka, thuộc thị trấn Krosno. Họ khoan cái giếng đó vào khoảng năm 1852-1854 (nhiều tài liệu cho là vào năm 1852, trong khi nhiều tài liệu khác ghi năm 1854) chứ không phải 1860 như VTV đã đưa tin. Hầu hết các tài liệu của Ba Lan đều tự hào là họ có giếng dầu hiện đại đầu tiên trên thế giới, không có tài liệu nào nói rằng họ có giếng dầu cổ nhất thế giới. Ba Lan có tranh chấp danh hiệu này với Mỹ bởi vì rất nhiều tài liệu của Mỹ luôn khẳng định rằng người Mỹ khoan giếng dầu hiện đại đầu tiên trên thế giới vào năm 1859. Cái nhầm thứ nhất của VTV quả là tai họa đối với niềm tự hào của người Ba Lan. Thứ hai là phóng viên của VTV đã không hiểu về kỹ thuật và lịch sử, giếng dầu ở Ba Lan chỉ là giếng khoan dầu trên vỉa đá đầu tiên của thế giới chứ không phải là giếng khoan dầu đầu tiên trên thế giới. Theo các bằng chứng hiện tại thì giếng khoan dầu cổ nhất là ở Baku, Azerbaijan, có từ năm 1594. Thứ ba là thật nhạo báng người Ba Lan khi nói họ khoan dầu chỉ để đốt đèn, Ignacy Łukasiewicz, người khai sinh ra giếng dầu vỉa đá ở Krosno, vốn nghiên cứu công nghệ chế xuất dầu, ông ta lập công ty khai thác và xưởng chế xuất dầu là để bán sản phẩm chế xuất cho công nghiệp đang lên của đế quốc Áo-Hung.

Mặc dù dầu mỏ đã được dùng để thắp sáng đường phố ở Krosno từ những năm 1500, nhưng đại công quốc Ba Lan-Lít va không biết làm gì để phát triển việc khai thác dầu mỏ. Thị trấn Krosno vào cuối thế kỷ 17 đã bị các đạo quân cướp bóc và dịch bệnh biến thành một xứ sở bị quên lãng. Sau khi đại công quốc Ba Lan-Lít va bị ba đế quốc Nga, Áo-Hung và Phổ phân chia, nước Ba Lan đã biến mất trên bản đồ thế giới, chỉ còn lại tỉnh Ba Lan thuộc Nga. Thị trấn Krosno thuộc về đế quốc Áo-Hung, dưới sự cai trị của vua Hung, ngành công nghiệp dầu mỏ của Krosno mới được hồi sinh và phát triển mạnh mẽ. Đế quốc Áo-Hung khi đó lên kế hoạch phát triển một hệ thống đường sắt khổng lồ, do vậy họ cần một lượng lớn các sản phẩm chế xuất từ dầu, ví dụ như mỡ bôi trơn, nhưng các sản phẩm chế xuất từ dầu lại đang bị đối thủ của họ là người Nga kiểm soát ở Baku, thế nên họ phải tìm cách khai thác các mỏ ở vùng Carpathian. Xưởng chế xuất dầu của Ignacy Łukasiewicz vào năm 1859 đã bán cho công ty đường sắt ở Vienna 50.000 kg mỡ bôi trơn.

Quay trở lại với bản tin của VTV, mặc dù họ không ghi nguồn, nhưng sau khi tìm kiếm bằng tiếng Anh, thì thấy có thể là VTV đã lược dịch bài báo của tờ New Strait Times trước đây đúng một tuần. Tờ NST cho thấy họ đăng lại tin của AFP, và đến đây thì mọi sự rõ ràng. AFP có một phóng sự  về mỏ dầu ở Krosno của Ba Lan vào ngày 12.11.2014. AFP khéo léo dùng bản tin này để bợ đỡ chính quyền Mỹ với việc ca ngợi một ông chủ mỏ dầu tốt bụng khiêm tốn, đã bỏ tiền ra xây dựng cơ sở hạ tầng và trường học địa phương, gợi ý về sự hợp tác tốt đẹp xưa kia giữa Mỹ và Ba Lan thông qua câu chuyện đồn thổi về Rockerfeler, có thể là tăng cường tình đoàn kết Mỹ-Ba Lan để chống lại trò đe dọa đóng van đường ống dẫn dầu của nước Nga, nhưng lại quên nói rằng các hãng dầu mỏ Mỹ từng làm ăn rất phát đạt với Nga ở Baku. Cũng có thể là AFP cố tìm cách an ủi người Ba Lan sau khi giấc mơ khí đá phiến đã tan tành và các ông lớn phương Tây đã chuồn sạch.

AFP cũng không quên gài những chi tiết bôi nhọ người Ba Lan và làm lợi cho người Mỹ, như xuyên tạc năm khai sinh của giếng dầu ở Ba Lan để cho nó ra đời sau cái giếng dầu ở Mỹ đúng một năm. AFP chắc chắn không thể nhầm lẫn về chi tiết này, bởi vì trang web của làng Bobrka viết rất rõ rằng giếng dầu của làng được khoan vào năm 1854 và có trước giếng dầu của Mỹ ở Pennsylvania 5 năm. Một chi tiết khác phải theo dõi bản tin tiếng Anh mới thấy. AFP đưa tin giếng dầu được đào và xây dựng bằng tay, sau đó trích dẫn lời người phụ trách bảo tàng mô tả rằng những người khoan dầu đầu tiên ở Krosno thực ra giống người đào giếng hơn, họ dùng các công cụ thô sơ như xẻng và búa để đào giếng dầu (có lẽ là người phụ trách bảo tàng nói về giai đoạn khai thác dầu lộ thiên ở Krosno). Điều đó làm người xem lầm tưởng là giếng dầu ở Krosno được đào bằng xẻng. Nếu người Ba Lan mà dại dột nhảy múa với bản tin của AFP thì người Mỹ có thể cười giễu người Ba Lan và tự hào với cái giếng dầu khoan xuyên vỉa đá đầu tiên trên thế giới vào năm 1859 của mình.

Người Việt Nam, hãy cảnh giác với những bản tin của AFP!

Thursday, November 20, 2014

Nga xâm lược Ukraina: Một lần nữa. Một lần nữa. Lại một lần nữa.

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Russia Invades Ukraine: Again. And Again. And Yet Again" của tác giả William Blum bàn luận về bằng chứng của cái gọi là Nga xâm lược Ukraina.

Nga xâm lược Ukraina: Một lần nữa. Một lần nữa. Lại một lần nữa

“Nga tăng cường hành động mà các quan chức Phương Tây và Ukraina mô tả là cuộc xâm lược bí mật vào ngày thứ tư [27 tháng 8], đưa các đội quân thiết giáp vượt qua biên giới để mở rộng xung đột sang một khu vực mới trên lãnh thổ Ukraina. Trong cuộc xâm nhập mới nhất, mà quân đội Ukraina cho biết là có 5 xe thiết giáp chở lính, ít nhất là lần thứ ba quân lính và vũ khí từ Nga đã vượt qua biên giới phía đông nam trong tuần.” 

Không có bất kỳ bức ảnh nào trong câu chuyện của tờ New York Times cho thấy quân đội Nga hay xe thiết giáp.

Câu chuyện tiếp tục, “Chính quyền Obama khẳng định trong suốt các tuần qua rằng Nga đã di chuyển pháo binh, hệ thống phòng không và thiết giáp để hỗ trờ quân nổi dậy ở Donetsk và Luhansk. ‘Những cuộc xâm nhập cho thấy một cuộc phản công do Nga chỉ huy đang được chuẩn bị’, Jen Psaki, nữ phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao, nói. Trong bản tin vắn hàng ngày ở Washington, bà Psaki cũng chỉ trích ‘thái độ không sẵn sàng nói sự thật’ của chính quyền Nga về việc quân đội của họ đã đưa binh lính vào sâu trong lãnh thổ Ukraina 30 dặm.” 

Ba mươi dặm sâu trong lãnh thổ Ukraina và không hề có một bức ảnh vệ tinh, hay một máy quay phim ở bất cứ đâu gần đó, thậm chí không có một phút video nào cho thấy điều đó. “Bà Psaki dường như [sic] đề cập tới những đoạn phim ghi hình binh lính Nga, do chính quyền Ukraina đưa ra.” Tờ Times có vẻ cũng quên cho độc giả biết họ có thể xem những đoạn phim đó ở đâu.

“Mục tiêu của Nga, một quan chức Phương Tây nói, có thể là chiếm đóng một hành lang thoát ra biển để gia cố cho khu vực bị bao vây của phe nổi dậy ở miền đông Ukraina.” 

Điều đó dĩ nhiên là không xảy ra. Điều gì diễn ra khi tất cả những binh lính Nga đó đi sâu vào lãnh thổ Ukraina 30 dặm?

“Hoa Kỳ có những bức ảnh cho thấy pháo binh Nga di chuyển vào Ukraina, quan chức Hoa Kỳ nói. Một bức hình được chụp vào thứ năm vừa qua, đã cho một phóng viên tờ New York Times xem, cho thấy các đơn vị quân đội Nga đang di chuyển các pháo tự hành vào Ukraina. Một bức ảnh khác vào ngày thứ bảy cho thấy đơn vị pháo binh đó trong vị trí chiến đấu ở Ukraina.”

Những bức ảnh đó đâu? Làm sao chúng ta biết đó là binh lính Nga? Làm sao chúng ta biết là những bức ảnh đó được chụp ở Ukraina? Nhưng quan trọng nhất là những bức ảnh khốn kiếp đó đâu?

Tại sao tôi hoài nghi? Bởi vì chính quyền Ukraina và Mỹ đã cung cấp cho chúng ta những câu chuyện kinh hãi suốt 8 tháng qua, mà không hề có bằng chứng hình ảnh rõ ràng hay bất kỳ bằng chứng nào khác, thường xuyên trái ngược với nhận thức thông thường. Đây là một số trong rất nhiều ví dụ khác, trước và sau điều này: 

* Tờ Wall Street Journal (March 28) đưa tin: “Binh lính Nga tập trung ở gần Ukraina đang tích cực che dấu vị trí và củng cố đường tiếp vận để có thể sử dụng trong một chiến dịch lâu dài, làm dấy lên quan ngại rằng Moscow đang chuẩn bị cho một cuộc xâm nhập quan trọng [sic] khác và không phải là tập trận như họ khẳng định, quan chức Hoa Kỳ tuyên bố.”

* “Chính quyền Ukraina cáo buộc rằng quân đội Nga không chỉ áp sát mà thực tế đã vượt qua biên giới vào khu vực do quân nổi dậy kiểm soát. (Washington Post, ngày 7 tháng 11)

* “Tướng Không Lực Hoa Kỳ Philip M. Breedlove nói với các phóng viên ở Bulgaria rằng NATO đã chứng kiến các xe tăng, pháo binh, hệ thống phòng không và lính chiến đấu Nga tiến vào Ukraina qua một biên giới hoàn toàn mở với Nga hai ngày trước đây.” (Washington Post, ngày 13 tháng 11)

* “Ukraina cáo buộc Nga gửi nhiều binh lính và vũ khí hơn tới hỗ trợ quân nổi dậy chuẩn bị cho một cuộc tấn công mới. Kremlin đã liên tục phủ nhận việc hỗ trợ quân nổi dậy. (Reuters, ngày 16 tháng 11)

Kể từ cuộc đảo chính vào tháng hai do Hoa Kỳ hậu thuẫn ở Ukraina, Bộ Ngoại Giao đã đưa ra lời cáo buộc tiếp đó về các hoạt động của quân đội Nga ở Đông Ukraina mà không có bằng chứng hình ảnh vệ tinh hay các bằng chứng hình ảnh và tài liệu khác; hoặc họ đưa ra một số thứ rất không rõ ràng và không thể kết luận, như xe vận tải không có tên hiệu, các bản tin không có nguồn gốc, hay trích dẫn “truyền thông xã hội”, những gì mà chúng ta thấy thường không gì hơn chỉ là lời cáo buộc. Chính quyền Ukraina rất xứng đôi vừa lứa với họ.

Sau tất cả những điều này chúng ta phải lưu ý rằng nếu Moscow quyết định xâm lược Ukraina thì chắc chắn họ sẽ dùng không lực để yểm hộ cho bộ binh. Không hề có bất cứ đề cập nào về yểm hộ bằng không lực.

Điều này gợi nhớ tới hàng sa số các câu chuyện trong ba năm qua về “máy bay Syria ném bom các thường dân không có phòng vệ”. Bạn có từng thấy một bức ảnh hay một đoạn phim về máy bay của chính quyền Syria ném bom? Hay bom đang nổ? Khi nguồn của những câu chuyện đó được đề cập, hầu hết là từ các nhóm nổi loạn đang đánh lại chính quyền Syria. Tiếp đó là tấn công bằng “vũ khí hóa học” của chính quyền Assad độc ác. Nếu một bức ảnh hay đoạn phim xác nhận câu chuyện đó thì tôi chưa bao giờ thấy ai đó buồn đau hay truyền thông đăng tải; không có ai đeo mặt nạ hơi độc. Chỉ có trẻ em bị giết hay đau đớn? Không có kẻ nổi loạn?

Tiếp theo là vụ bắn hạ máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia vào ngày 17 tháng 6, trên bầu trời miền đông Ukraina, làm 298 người thiệt mạng, mà Washington thích thú gán cho Nga hay quân nổi dậy thân Nga. Chính quyền Hoa Kỳ - và do đó truyền thông Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu và NATO – muốn chúng ta tin rằng đó là do quân nổi dậy và/hay Nga. Thế giới vẫn đang chờ đợi các bằng chứng. Hay thậm chí là là động cơ. Bất cứ thứ gì. Tổng thống Obama không chờ đợi. Trong phát biểu ngày 15 tháng 11 ở Australia, ông ta nói “phản đối cuộc xâm lược Ukraina của Nga – đó là một mối đe dọa thế giới, như chúng ta đã thấy qua vụ bắn hạ máy bay MH17 kinh hoàng”. Dựa trên những gì tôi đã đọc, tôi đoán là chính quyền Ukraina đứng đằng sau vụ bắn hạ, do nhầm lẫn nó với chiếc máy bay của Putin, vốn được đưa tin là có mặt tại khu vực.

Có thể nói rằng mọi lời cáo buộc trên là dối trá? Không, nhưng gánh nặng bằng chứng nằm trên vai người cáo buộc, và thế giới vẫn đang chờ đợi. Những người cáo buộc sẽ cố gắng tạo ra ấn tượng rằng có hai mặt trong mỗi câu hỏi mà không thực sự đưa ra một trong số chúng.

William Blum là tác giả cuốn sách Killing Hope: U.S. Military and CIA Interventions Since World War II, Rogue State: a guide to the World’s Only Super Power . Sách mới nhất của ông là: America’s Deadliest Export: Democracy. Có thể liên lạc với ông qua hòm thư điện tử: BBlum6@aol.com

Thursday, November 13, 2014

Kiev leo thang chiến tranh ở miền đông Ukraina

Xin mời bạn đọc blog theo dõi bản dịch bài viết "Kiev escalates war in eastern Ukraine" của tác giả Christoph Dreier với các bình luận mới về tình hình chiến sự tại Ukraina.

Kiev leo thang chiến tranh ở miền đông Ukraina

Cuối tuần qua nổ ra trận chiến khốc liệt nhất tại các thành phố Donetsk và Luhansk ở miền đông Ukraina kể từ khi hiệp định ngừng bắn được ký kết vào đầu tháng 9. Cuộc tấn công quân sự của chính quyền Kiev cho thấy NATO đang tăng cường đe dọa Nga. 

Nhân chứng cho biết đạn pháo hạng nặng đã được bắn đi từ các khu vực do quân đội Kiev kiểm soát cũng khu vực của quân nổi dậy. Sân bay Donetsk là một chiến trường đẫm máu. Hiệp định Minsk yêu cầu giao sân bay cho phe nổi dậy. Mặc dù vậy, các binh lính trung thành với Kiev đã từ chối rút quân và đụng độ dữ dội hàng ngày với quân nổi dậy.

Theo quân nổi dậy cho biết, các xe tăng quân đội Ukraina đã tiến về phía Donetsk. Hai xe tăng được cho biết là bị quân nổi dậy phá hủy trong cuộc tấn công vào làng Nikichino.

Quân nổi dậy cáo buộc quân đội Ukraina đã ném bom các khu vực dân cư và sử dụng các loại bom cháy. Trong bản tin ngày thứ ba, tổ chức Human Rights Watch xác nhận bom cháy được sử dụng trong trận chiến trước đó ở khu vực Donetsk.

Nhiều dân thường đã trở thành nạn nhân của các vụ tấn công. Vào cuối tuần, hai thiếu niên đã thiệt mạng trong một vụ nã pháo vào trường học. Theo phe nổi dậy cho biết, ít nhất có 12 thường dân đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công vào làng Frunze gần Luhansk. 

Chính quyền Kiev và đồng minh của họ ở Washington cáo buộc Nga gửi xe tăng và các trang thiết bị quân sự khác qua biên giới để gia tăng sức mạnh cho các tổ chức nổi dậy. Nhiều phóng viên đã đưa tin về sự di chuyển của quân đội tại khu vực Donetsk.

Tổ Chức An Ninh Và Hợp Tác Châu Âu (OSCE), có một đội quan sát viên ở khu vực, đưa tin về hai đoàn xe với 40 chiếc xe tải 9 xe tăng di chuyển theo hướng đông ở khu vực Donbass. Nguồn gốc của những chiếc xe này và loại hàng hóa được chuyên chở vẫn chưa rõ. Chỉ huy phó của quân nổi dậy, Eduard Basurin, nói trong đoàn xe có các đơn vị dân quân được thành lập để bảo vệ Donetsk trước các cuộc tấn công của chính quyền Ukraina.

Người phát ngôn chính thức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Jen Psaki, nói vào thứ hai là “Nga và dân quân mà họ ủng hộ” đã “thường xuyên” phá vỡ Hiệp định Minsk. Ngoại trưởng John Kerry đe dọa Nga bằng những biện pháp trừng phạt mới vào ngày thứ bảy sau cuộc hội đàm với người đồng sự phía Nga Sergei Lavrov.

Giám đốc chính sách đối ngoại Liên Minh Châu Âu, Federica Mogherini, gọi sự di chuyển của quân đội là “một sự tiến triển rất đang lo ngại”. Bà ta thúc giục Nga thể hiện sự kiềm chế và giảm leo thang xung đột. Bà ta cũng yêu cầu Moscow ngăn chặn binh lính, vũ khí và chiến binh tiến vào Ukraina từ lãnh thổ Nga.

Cuối tuần tới, ngoại trưởng của 28 nước Liên Minh Châu Âu sẽ họp để quyết định về các biện pháp trừng phạt mới đối với Nga. “Cuộc tranh luận sẽ không chỉ xoay quanh các biện pháp trừng phạt chặt chẽ, mà còn chú trọng tới việc chúng ta có thể hỗ trợ Ukraina ra sao trong thời gian khó khăn này”, Mogherini nói. 

Thủ tướng Đức Angela Merkel thông báo về một sự mở rộng có thể danh sách những người sẽ bị trừng phạt.

Thủ tướng Anh David Cameron cáo buộc Nga không tuân thủ luật pháp quốc tế. Nếu Nga “tiếp tục theo con đường hiện tại, chúng tôi sẽ gia tăng sức ép và quan hệ của Nga với phần còn lại thế giới sẽ rất khác trong tương lai”, Cameron nói.

Vào thứ ba, tổng thống Hoa Kỳ Barack Obam và người đồng sự Nga, Vladimir Putin, đã họp ngắn bên lề hội nghị thượng đỉnh Hợp Tác Kinh Tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) ở Bắc Kinh. Bên cạnh vấn đề Ukraina, họ cũng thảo luận về chương trình hạt nhân của Iran. Không có bản tin chính thức nào về cuộc họp của họ được công bố. Có thể kỳ vọng rằng hai nhà lãnh đạo sẽ lại gặp nhau vào tuần tới ở hội nghị thượng đỉnh G20 ở Australia.

Vào thứ hai, một bản tin được công bố liệt kê 40 tình huống đối đầu quân sự giữa Nga và NATO có thể biến thành chiến tranh. Tuần trước, tướng Đức của NATO Hans-Lothar Domröse đã thống báo rằng đồng minh sẽ tiếp tục mạnh tay hơn với Nga. 

Tổng thống Ukraina Petro Poroshenko ký hiệp định ngừng bắn Minsk sau khi chính quyền Ukraina đánh nhau với quân nổi dậy ở miền đông và phải gánh chịu nhiều thiệt hại nghiêm trọng. Chính quyền Kiev hy vọng câu giờ bằng ngừng bắn để ổn định sự cai trị của họ và tái tổ chức quân đội.

Nhưng chính phủ đã vi phạm hiệp định ít nhất cũng thường xuyên như phe nổi dậy. Quân đội của họ từ chối rút khỏi các khu vực bên cạnh sân bay Donetsk theo như quy định trong hiệp định Minsk. Hơn nữa, họ lại liên tục nã pháo Donetsk và Luhansk.

Quyền tự trị của miền đông Ukraina đã bị tước đoạt. Mặc dù nghị viện Ukraina đã thông qua luật liên quan, người phát ngôn nghị viện Alexander Turchinov từ chối ký tên hay chuyển đạo luật đó tới tổng thống. Sau khi quân nổi dậy tổ chức bầu cử một tuần trước ở miền đông Ukraina, Turchinov tuyên bố là luật tự trị không có giá trị.

Một đạo luật thanh thanh lọc cơ quan và dịch vụ công cộng đã được thông qua trước cuộc bầu cử nghị viện do chính quyền Kiev tổ chức vào tháng 10, đạo luật đó được dùng để đưa các cơ quan nhà nước vào khuôn khổ. Nhiều vị trí trước đó thuộc về những người phê phán chính quyền đã được chuyển giao cho lực lượng cực đoan cánh hữu, lực lượng đóng vai trò trọng yếu trong cuộc đảo chính lật đổ tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych vào tháng 2 vừa qua.

Juri Michaltschisin, người sáng lập viện Joseph Goebbels vào năm 2005, được đưa tin là trở thành lãnh đạo mới của cục “tuyên truyền và phân tích” thuộc cơ quan mật vụ Ukraina, SBU. Tân phát xít Vadim Troyan được Bộ Nội Vụ phong chức cảnh sát trưởng Kiev.

Các tiểu đoàn cánh hữu của Vệ Binh Quốc Gia, được nhiều nhà tài phiệt tài trợ và đóng vai trò quan trọng trong cuộc nội chiến, tìm cách can thiệp trực tiếp hơn vào chính trị thông qua các ứng cử viên tham gia vào tranh cử nghị viện. Mặc dù các đảng phát xít công khai nhận được rất ít phiếu bầu, nhưng các chính đảng lớn đã đưa nhiều thành viên cực hữu vào danh sách đề cử của họ. Một đại diện nổi bật là Yuri Bereza, thủ lĩnh của tiểu đoàn Dnepr khét tiếng, vốn phải chịu trách nhiệm về hàng loạt các vi phạm nhân quyền. 

Bereza được bầu vào nghị viện theo danh sách đề cử của đương kim thủ tướng Arseniy Yatsenyuk. Với vai trò là thành viên mới của nhóm lớn nhất trong nghị viện, ông ta tuyên bố ngay sau cuộc bầu cử là tiểu đoàn của ông ta sẽ chuẩn bị các cuộc tấn công khủng bố vào Nga. Dựa vào những lực lượng như vậy, và sự hậu thuẫn của Washington, Berlin và NATO, Kiev đang chuẩn bị tái diễn các tấn công quân sự ở miền đông.

Tuesday, November 4, 2014

Hoa Kỳ và Châu Âu tiếp tục đe dọa sau cuộc bầu cử của phe nổi dậy ở Ukraina

Ngay sau cuộc bầu cử nghị viện của chính quyền Ukraina, các khu vực nổi dậy đã tổ chức các cuộc bầu cử của riêng họ. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "US, Europe issue new threats after elections in Ukraine’s separatist regions" của tác giả Andrea Peters để biết thêm chi tiết các cuộc bầu cử tại khu vực nổi dậy. Tiêu đề do người dịch đặt.

Hoa Kỳ, Châu Âu đưa ra những đe dọa mới sau cuộc bầu cử tại khu vực của phe nổi dậy ở Ukraina 

Tổng thống Ukraina Petro Poroshenko và các lãnh đạo phương Tây đã lên án các cuộc bầu cử được tổ chức vào ngày chủ nhật tại Cộng Hòa Nhân Dân Donetsk (DPR) và Cộng Hòa Nhân Dân Luhansk (LPR). Các cuộc bầu cử mang lại thắng lợi cho các lãnh đạo thân Nga tại cái nôi của khu vực nổi dậy ở đông nam Ukraina. Washington, Đức và Liên Minh Châu Âu đã ngay lập tức tuyên bố các cuộc bầu cử đó là phi pháp.

Aleksandr Zakharchenko và Igor Plotnitsky, những người đang phục vụ trong vai trò thủ tướng tự phong của DPR và LPR sau khi có sự thay đổi về lãnh đạo trong lực lượng nổi dậy vào tháng 8, đã thắng cử với 79% và 64% tổng số phiếu bầu. Các khối nghị viện liên minh với các lãnh đạo này cũng có chiến thắng cần thiết trong một cuộc bầu cử ở các khu vực đã đề cập.

Sau khi tuyên bố các cuộc bầu cử là một “trò hề” vào chủ nhật, tổng thống Ukraina kêu gọi một cuộc hội đàm cấp cao với lãnh đạo an ninh và quốc phòng vào thứ hai để “tái đánh giá tình hình” tại khu vực đông nam của người nổi dậy. Cơ quan an ninh Ukraina lên án cuộc bầu cử là sự “tiếm quyền”.

Kiev ra hiệu cho thấy sự sẵn sàng của họ trong việc tiếp tục các tấn công quân sự vào khu vực dựa trên lý do cuộc bầu cử ngày 2 tháng 11 đã vi phạm thỏa thuận hòa bình mong manh được ký với những người nổi dậy vào tháng 9.

Khoảng 4,000 người đã bị giết hại trong cuộc nội chiến và hơn nửa triệu người trở phải chạy tị nạn. Cơ sở hạ tầng khu vực Donbass đã bị phá hủy khốc liệt bởi các cuộc tấn công và cắt giảm hay tước đoạt các dịch vụ thiết yếu đối với cư dân còn lại. 

Các cư dân đã không nhận được lương hưu từ chính phủ trung ương, và nợ lương rất phổ biến. Hiệp định ngừng bắn đã liên tục bị vi phạm, với các cuộc tấn công liên tiếp vào các trung tâm dân sự và các đụng độ quy mô nhỏ giữa người nổi dậy và quân đội Ukraina.

Theo như hãng thông tấn Nga ITAR-TASS đưa tịn, kèm theo kế hoạch đã tuyên bố nhằm bãi bỏ luật đảm bảo quyền tự chủ giới hạn cho khu vực Donbass, Poroshenko đang kêu gọi Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ủng hộ các nỗ lực tái lập kiểm soát của họ đối với khu vực nêu trên và đề xuất biến khu vực đó thành khu vực tự do thương mại.

Lên án và đe dọa của Poroshenko đã được các quyền lực phương Tây hưởng ứng. Trong những ngày trước cuộc bầu cử chủ nhật, thủ tướng Đức Angela Merkel đã khẳng định các cuộc bầu cử ở DPR và LPR là vô giá trị. Từ đó, chính quyền của bà ta đã chỉ trích quyết định “tôn trọng” kết quả bầu cử của Nga, mổ tả chúng là “kém hiểu biết”. Berlin đang tuyên bố họ đã loại bỏ mọi trở ngại đối với các biện pháp trừng phạt đã được áp đặt để trả đũa sự ủng hộ của Nga đối với những người nổi dậy. 

Hoa Kỳ và Liên Minh Châu Âu cũng đã từ chối công nhận các cuộc bầu cử, giám đốc chính sách đối ngoại EU Federica Mogherini coi chúng là “bất hợp pháp và vi hiến”.

Vào thứ hai, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mô tả cuộc bầu cử ngày chủ nhật ở DPR và LPR là “đáng xấu hổ”. Cho thấy rõ rằng họ đã chuẩn bị sử dụng cuộc bầu cử để kích động sự đối đầu mới với Kremlin, Bộ Ngoại Giao đe dọa, “Nếu Nga tiếp tục lảng tránh những đóng góp của họ [để tôn trọng luật bầu cử Ukraina] và tiếp tục gây bất ổn cũng như các hoạt động nguy hiểm, cái giá mà Nga phải gánh chịu sẽ gia tăng.” 

Những đe dọa đối với Nga đến cùng với tin tức cho biết Ba Lan, một thành viên NATO, với ý định tái tập hợp quân đội chủ chốt trong thời gian tới, đã chuyển hàng ngàn quân tới biên giới phía đông của họ. “Tình hình địa chính trị đã thay đổi. Chúng tôi có một cuộc khủng hoảng an ninh lớn nhất kể từ Chiến Tranh Lạnh và chúng tôi phải phác thảo các kết luận từ đó”, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Tomasz Siemoniak nói với hãng thông tấn AP vào cuối tháng 10.

Việc Hoa Kỳ và Châu Âu lên án các cuộc bầu cử ở DPR và LPR là bất hợp pháp cũng như vi hiến hoàn toàn đạo đức giả. Các thế lực phương Tây quyết định những cuộc bầu cử nào được thừa nhận hay phủ nhận chỉ dựa trên lợi ích đế quốc của họ. 

Cuộc đảo chính cực hữu do Hoa Kỳ và Đức hậu thuẫn đã lật đổ tổng thống dân cử Viktor Yanukovych vào tháng hai vừa qua được hoan nghênh như là một thắng lợi của dân chủ. Cuộc bầu cử nghị viện tháng trước ở Ukraina được thể hiện như một chiến thắng dân chủ khác, mặc dù nó đưa một nhóm theo chủ nghĩa quốc gia và phát xít mới đến quyền lực, để dùng bạo lực áp đặt các biện pháp thắt lưng buộc bụng bị căm ghét theo yêu cầu của phương Tây.

Dựa trên các tính toán chiến lược của họ, Đức và Hoa Kỳ đã nhiều lần công nhận “sự hợp hiến” của nhiều khu vực ly khai, có thể kể tên một số như Croatia, Slovenia, Bosnia và Kosovo, dẫn đến các cuộc nội chiến đẫm máu tước đoạt mạng sống của hàng chục nghìn người.

Cuộc bầu cử diễn ra vào chủ nhật ở đông nam Ukraina không hề ít hợp hiến hơn cuộc bầu cử nghị viện quốc gia diễn ra trong tuần trước đó, trong đó số người đi bỏ phiếu chỉ hơn 52%, giảm so với tất cả các cuộc bầu cử nghị viện trước đây. Tại những khu vực mà dân chúng được coi là thù địch với chính quyền Kiev, tỷ lệ tham gia bỏ phiếu thấp hơn 30%, với đa số người bỏ phiếu lựa chọn khối đối lập. 

Ủy Ban Bầu Cử Trung Ương của LPR khẳng định tổng số người bỏ phiếu đạt gần 60%. Do người bỏ phiếu xếp hàng quá dài tại các điểm bỏ phiếu nên họ tiếp tục mở cửa điểm bỏ phiếu thêm 2 giờ. Ngay cả các bản tin ở phương Tây cũng buộc phải công nhận dấu hiệu sự tham gia phổ biến của dân chúng, bao gồm đám đông tại các điểm bỏ phiếu.

Cư dân địa phương được báo chí phỏng vấn không bày tỏ sự nhiệt tình đối với các lãnh đạo nổi dậy của DPR hay LPR mà bày tỏ sự phẫn nộ về bạo lực chính quyền Kiev đối với họ. Một bản tin trên tờ Guardian mô tả “một đám đông khổng lồ tại trường học số 13, một trong ba điểm bỏ phiếu được mở trong thành phố [Ilovaysk]”, ở đó “cư dân nói họ bỏ phiếu cho một ‘tương lai hòa bình’”. 

“Valentina, một tiểu thương 61 tuổi ở Ilovaysk, nói bà đã phải trú ẩn 23 ngày dưới hầm cùng với vài tá người khác, và bị các tiểu đoàn quân tình nguyện Ukraina đe dọa, những người đó cố gắng sử dụng bà và những người khác làm lá chắn sống cũng như ăn cắp điện thoại di động và các của cải khác”, bản tin cho biết.

Tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền mới công bố một điều tra chi tiết cáo buộc quân đội Ukraina về việc sử dụng các đầu đạn chùm đã bị cấm trong các cuộc tấn công ở khu vực đông nam.

Tại DPR, quan chức địa phương cho biết có hơn một triệu cử tri trong tổng số ba triệu cư dân đủ điều kiện tham gia bỏ phiếu đi bầu cử. Mặc dù vậy, tỷ lệ bỏ phiếu khó có thể đánh giá, do cuộc khủng hoảng tị nạn và sự thật là nhiều cử tri đủ điều kiện về mặt kỹ thuật đang sống trong các khu vực thuộc sự kiểm soát của quân đội Ukraina. Bỏ phiếu trực tuyến là lựa chọn của những người này, mặc dù không rõ là có bao nhiêu nhiêu người sử dụng lợi thế đó. Các điểm bỏ phiếu cũng được thiết lập gần các tỉnh Rostov, Voronezh, Belgorod của Nga để phục vụ cho người tị nạn trong khu vực.

Tổ Chức An Ninh và Hợp Tác Châu Âu (OSCE), thường theo dõi các cuộc bầu cử, đã từ chối gửi các đại diện tới khu vực đông nam Ukraina để quan sát cuộc bầu cử. Việc chắp vá các lực lượng cánh hữu và giả cánh tả ở Châu Âu và Hoa Kỳ tạo thành các quan sát viên bầu cử và báo cáo không có vi phạm bầu cử chính yếu. Các cá nhân đó, bao gồm các thành viên đảng phái chính trị và chính quyền ở Hy Lạp, Pháp, Serbia, và mọi nơi khác, đã bị báo chí lên án là những quan sát viên bầu cử “dỏm” và bị chính quyền Kiev tuyên bố là “khách không mời” của quốc gia. Họ bị đưa vào “sổ đen”.

Theo các quan chức của DPT và LPR, người thắng cử ở DPR Aleksandr Zakharchenko đã giành được chức thủ tướng với 765,000 phiếu, trong khi Plotnitsky ở LPR đảm bảo chiến thắng với 445,000 phiếu. Các đối thủ của họ tụt xa phía sau. Aleksandr Kofman, phó chủ tịch Quốc Hội Novorossiya, đơn vị chính trị thống nhất của DPR và LPR, giành được 10% số phiếu bầu trong cuộc đua với Zakharchenko. Tại LPR, vị trí thứ hai thuộc về thủ lĩnh công đoàn Oleg Akimov, người giành được 15,5% tổng số phiếu bầu.

Các khối chinh trị liên kết với các lãnh đạo nổi dậy cũng đã thắng lợi dễ dàng trong cuộc đua vào nghị viện. Đảng Cộng Hòa Donetsk giành được 662,750 phiếu bầu ở DPR. Đảng Hòa Bình Luhansk áp đảo hoàn toàn đối thủ Liên Minh Kinh Tế và Liên Minh Nhân Dân Luhansk, họ giành được gần 70% số phiếu bầu.

Theo các bản tin, năm chính đảng đã bị loại khỏi cuộc bầu cử do những lý do kỹ thuật, trong đó có Đảng Cộng Sản. Mặc dù vậy, đâu đó có đưa tin ra Đảng Cộng Sản mới được thành lập trong khu vực ủng hộ việc lựa chon Zakharchenko.

Cần phải thấy rằng những người nổi dậy thân Nga đang kiểm soát DPR và LPR có sự ủng hộ của dân chúng, họ đã thu được điều đó dựa trên những lời hứa về cải thiện xã hội và triển khai các chương trình phúc lợi. Một sự pha trộn những người theo chủ nghĩa quốc gia Nga, vô chính phủ và bảo thủ cánh hữu sẽ gắn bó với nhiều lớp của tầng lớp cai trị ở Moscow, họ dùng hoài niệm về quá khứ Soviet để chống đỡ cho chính phủ còn non nớt của họ.