Showing posts with label Kinh tế chính trị cổ điển. Show all posts
Showing posts with label Kinh tế chính trị cổ điển. Show all posts

Friday, April 24, 2015

Marx học toán để làm gì?

Marx học toán để làm gì? Đó là câu hỏi đáng chú ý và cũng đã có nhiều người nghiên cứu. Song hầu hết là quan tâm về mặt toán học, Guglielmo Carchedi nhìn dưới một góc độ khác. Theo Carchedi đó là sự phát triển của phương pháp biện chứng, có ý nghĩa với khoa học xã hội hơn là đối với toán học. Điều này đáng chú ý khi mà hiện nay kinh tế chính trị học đang tìm cách thanh toán những nền tảng siêu hình mà nó nhiễm phải từ kinh tế học, và nửa bên kia là kinh tế học đã tha hóa thành một thứ toán học kinh tế phi lý. Đây là bản dịch phần phụ lục thứ ba "Marx's Mathematical Menuscripts" trong cuốn sách "Behind the Crisis: Marx's Dialectics of Value and Knowledge" của Guglielmo Carchedi do nhà xuất bản Brill ở Boston, Hoa Kỳ, phát hành năm 2011. Ai quan tâm có thể download bản scan của cuốn sách này tại trang gen.lib.rus, tôi không dẫn link để tôn trọng bản quyền của tác giả.

Bản dịch này xin được tặng cho bạn Thichthichiu, độc giả của trang này, vốn là người nghiên cứu toán học. Hy vọng bản dịch này sẽ giúp bạn sẽ hiểu rõ hơn về giới hạn của toán học trong nghiên cứu khoa học xã hội cũng như nguồn gốc ra đời của phong trào phản đối kinh tế học chính thống PAECON của sinh viên Pháp. Carchedi và những người thuộc phái biện chứng trong kinh tế chính trị học Marxist rất được chào đón ở PAECON.

Bản thảo toán học của Marx1

Sự xác thực tiếp theo về quan điểm biện chứng được đề cập tại Chương 1 có thể thấy trong Bản Thảo Toán Học của Marx.

Thông thường, các nhà bình luận tập trung vào bản thảo toán học để tìm hiểu phương pháp tính vi phân của Marx trên phương diện lịch sử toán học2. Một trong những câu hỏi được các nhà bình luận đưa ra là tại sao Marx bắt tay vào công việc nghiên cứu đó. Như đã được biết, Marx bị thúc đẩy một cách rõ ràng bởi sự quan tâm tới việc tính toán, do ông đã thừa nhận là kiến thức về toán học của ông không đủ để soạn tỉ mỉ các nguyên lý của kinh tế học.

Alcouffe cho rằng Marx thích toán học như vậy là do “sự rèn luyện mang tính chặt chẽ và trí tuệ”3 của nó cũng như khía cạnh giải trí, tiêu khiển và triết lý của toán học đối với Marx ít nhất là cũng quan trọng như sự mối bận tâm của ông đối với kinh tế học. Mặt khác, Yanovskaya, nhà bình luận quan trọng nhất về Bản thảo, đã nhận xét rằng Bản thảo không đưa ra câu trả lời về việc điều gì đã thúc đẩy Marx chuyển từ việc theo đuổi đại số và số học thương mại sang tính vi phân4. Marx dường như bị cuốn hút bởi nhiều mối bận tâm nên lập luận của Alcouffe loại trừ một cách không cần thiết lý do đã được Marx tuyên bố rõ ràng. Nhưng cũng có thể có lý do khác mang tính triết học hơn. Như chúng ta sẽ được thấy ở phía dưới, sự phê phán của Marx đối với việc tính vi phân và phát triển phương pháp riêng về vi phân tập trung vào bản chất tự nhiên của các vi đại lượng. Luận đề trong phần phụ lục này là Marx tìm kiếm sự cả sự hỗ trợ và vật liệu để tiếp tục phát triển phương pháp của ông về phân tích xã hội trong quá trình nghiên cứu phép toán vi phân. Từ góc nhìn này, Bản thảo đáng chú ý đối với các nhà khoa học xã hội  hơn là đối với các nhà toán học hay lịch sử toán học.

Bằng chứng đầu tiên về sự quan tâm của Marx đối với toán học nằm trong một lá thư gửi cho Engels vào năm 1858, trong đó ông viết: “Khi xây dựng các nguyên lý của kinh tế học, tôi đã bị chậm trễ khủng khiếp vì những sai lầm trong tính toán, để thoát khỏi sự tuyệt vọng thì tôi đã xem lướt lại môn đại số. Số học luôn là thứ xa lạ đối với tôi. Sau việc đi trật đường đại số, tôi đã nhanh chóng quay đầu trở lại”5. Vào năm 1863, ông lại viết cho Engels: “Trong thời gian rảnh, tôi tính vi phân và tích phân.”6  Đáng chú ý nhất là trong một bức thư khác gửi cho Engels mười năm sau đó (1873), ông đưa ra một ví dụ về nguyên lý kinh tế học mà ông đang suy nghĩ:

Tôi đã nói với Moore về vấn đề đôi lúc khiến tôi đau đầu. Mặc dù vậy, ông ấy cho rằng không thể giải quyết được, ít nhất là vào lúc này [pro tempore], bởi vì có rất nhiều yếu tố liên quan, các yếu tố mà đa phần vẫn chưa được khám phá. Vấn đề là: anh biết về các đồ thị thay đổi của giá cả, tỷ lệ chiết khấu, vv, trong năm, vv, được trình bày theo các đường zích zắc lên xuống. Tôi đã rất nỗ lực phân tích các cuộc khủng hoảng bằng cách coi các đường lên và xuống đó bất thường và tôi đã tin rằng (và vẫn tin rằng không khả thi nếu tài liệu không được nghiên cứu đầy đủ) tôi có thể xác định về mặt toán học những nguyên lý chi phối khủng hoảng. Như tôi đã nói, Moore cho rằng không thể hoàn thành vào lúc này và tôi giải quyết bằng cách tạm ngừng cho đến khi phù hợp7

Dưới ánh sáng của sự kiện “các nguyên lý chi phối khủng hoảng”, cũng như tất cả các quy luật xã hội, khuynh hướng và mâu thuẫn, “để xác định về mặt toán học” các quy luật là một việc không khả thi. Thứ nhất, toán học là một nhánh của logic hình thức, như đã thấy ở phía trên, các tiên đề của logic hình thức không thể mâu thuẫn. Mặc dù vậy, để nghiên cứu các quy luật vận động trong một xã hội thì phải bắt đầu từ các tiên đề mâu thuẫn (theo nghĩa là mâu thuẫn biện chứng như đã giải thích tại Chương 1 phía trên) và đây là lý do khiến quy luật vận động là khuynh hướng. Thứ hai, ngay cả khi tất cả “các yếu tố liên quan” được biết rõ thì về mặt thực tiễn cũng không thể tính toán tất cả chúng. Đây là lý do khiến các mô hình kinh tế lượng, ngay cả những mô hình liên kết được một nghìn quan hệ, cũng chỉ coi kết quả thảm hại đó là công cụ dự báo. Nhưng nếu không thể xác định quy luật khủng hoảng thuần túy bằng các khái niệm toán học thì chắc chắn vẫn có thể phân tích các vận động chu kỳ của các chỉ số kinh tế (lên và xuống) bằng việc sử dụng “toán học cao cấp hơn”. Đây là trực giác của Marx. 

Tại giao điểm này, hai câu hỏi khác được đặt ra. Thứ nhất, tại sao Marx không sử dụng vi phân trong nghiên cứu của ông? Theo Smolinski

Đối với ông ấy [Marx, G.C.] sự thật căn bản là hàng hóa có giá trị hoặc không, lao động là năng suất hoặc không, người tham gia vào quá trình kinh tế là một nhà tư bản hay một người vô sản, xã hội là tư bản hoặc xã hội chủ nghĩa. Đối với vũ trụ phân cực này thì các phép toán nhị phân là công cụ thích hợp hơn so với phép toán vi phân8.

Mặc dù vậy, Alcouffe bình luận rằng sơ đồ tái sản xuất và khuynh hướng đi suy giảm của tỷ suất lợi nhuận dễ xử lý với phương pháp toán học do Marx phát triển. Ví dụ như phép toán vi phân có thể được sử dụng để tính sự thay đổi tức thời của tỷ suất lợi nhuận9. Cả hai góc nhìn dường như đều có một phần của sự thật. Phép toán vi phân thực sự được áp dụng trong một số phần của lý thuyết kinh tế của Marx, nhưng câu hỏi là điều này có phù hợp. Hơn nữa, câu hỏi thích hợp không phải là tỷ suất lợi nhuận thay đổi tức thời ra sao mà là nó thay đổi ra sao dưới sự tác động qua lại biện chứng giữa khuynh hướng và phản khuynh hướng10. Giải thích có vẻ thích hợp hơn là Marx, cứ cho là rốt cuộc cũng thành thạo tính toán cho đến cuối đời,  không có đủ thời gian và cơ hội để viết ra những phân tích định lượng về đời sống kinh tế (ví dụ, chu kỳ kinh tế, những “đường zích zắc” mà ông viết trong lá thư phía trên).

Câu hỏi thứ hai là Marx đã áp dụng tính toán ra sao khi ông có thời gian và cơ hội để làm việc đó. Câu hỏi này không thể giải quyết bằng việc xem xét xem toán học đã được áp dụng vào việc lập kế hoạch kinh tế ra sao bởi những nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây. Như Smolinski tường thuật, “Theo một quan điểm được công nhận phổ biến, ảnh hưởng của Marx đã gây chậm chễ nhiều thập kỷ trong việc phát triển kinh tế học định lượng trong các hệ thống kinh tế kiểu Soviet, điều đó có thể nói là đã tác động bất lợi đối với hiệu quả hoạt động của họ.”11 Nhưng cũng như tác giả đã chỉ ra một cách chính xác, và cũng như Bản thảo đã cho thấy, Marx không hề tẩy chay tính toán và rất quan tâm tới ứng dụng của chúng trong kinh tế học. Sự thật là

các nhà kế hoạch hóa “cuồng toán học”, sử dụng cách thể hiện thích hợp của L. Kantorovich, đã đi tới một sự phân bổ sai lầm đáng kể nguồn lực thông bằng các quyết định không tối ưu …  Tổn thất trí tuệ của sự cấm kỵ trong câu hỏi này là khá lớn: giảm xuống trạng thái của một khoa học “định tính”, phi định lượng, kinh tế trì trệ … [Oskar Lange – G.C.] chỉ ra rằng kinh tế học Soviet đã hạ cấp thành một giáo điều cằn cỗi, mục đích chỉ là “biện hộ cho lợi ích riêng của tầng lớp quan liêu thống trị và xuyên tạc cũng như làm sai lệch hiện thực kinh tế.”Quá trình đó dẫn đến “một sự xa rời chủ nghĩa Marx … khoa học [kinh tế] Marxist bị thay thế bằng một chủ nghĩa biện hộ giáo điều.”12

Có một sự nhầm lẫn rõ ràng ở đây. Trong khi Marx không thể bị quy trách nhiệm về việc thiếu áp dụng toán học trong các nền kinh tế kiểu Soviet, và đồng thời sự thiếu áp dụng đó rõ ràng là một cản trở đối với việc vận hành hiệu quả một hệ thống kinh tế, lý do cho sự sụp đổ của Liên Bang Soviet và các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung kiểu Soviet khác nên tìm ở chỗ khác. Nói ngắn gọn, bất chấp đặc tính riêng của nó, trong đó có sự thiếu vắng thị trường, Liên Bang Soviet đã trở thành một hệ thống mà trong đó các tầng lớp chính trị/quản lý thực hiện chức năng của tư bản. Áp dụng các kỹ thuật lập kế hoạch là công cụ để phản ánh thị trường và hệ thống phân bổ, nhưng đồng thời cũng làm suy yếu vị thế của tầng lớp quan liêu và củng cố tầng lớp kỹ trị. Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc áp dụng các kỹ thuật lập kế hoạch trong các nền kinh tế này là đối kháng với một hệ thống dựa trên sự tự quản lý kinh tế và xã hội của người lao động. Trái ngược với quan điểm của Smolinski, sự lựa chọn của nhà quản lý thường xuyên sai lầm không phải bởi vì họ “phản ánh học thuyết giá trị lao động sai lầm”13 mà bởi vì hệ thống tư bản chủ nghĩa ẩn mình trong đó cần thị trường làm hệ thống phân bổ hơn là bất cứ kiểu hệ thống phân bổ nào khác. Sự phân bổ tối ưu đối với tư bản chỉ có thể đạt được thông qua thị trường. Hệ thống do vậy bị suy yếu và không thể cạnh tranh với các nước tư bản phát triển14.

Đối với Marx, câu hỏi quan trọng ở đây không phải là có hay không và Marx đã áp dụng phép toán vi phân vào lý thuyết kinh tế ra sao. Điều này ít quan trọng. Hơn nữa, điểm chủ chốt là ngay cả khi Bản thảo không giải quyết mối quan hệ giữa phép biện chứng và phép toán vi phân thì phương pháp vi phân của Marx cũng cho phép khám phá quan điểm biện chứng về hiện thực của Marx. Các nhà bình luận Bản thảo đã không biết điều đó. Mặc dù vậy, sự khám phá này quan trọng hơn ở chỗ phương pháp tính vi phân của Marx là khía cạnh thật sự quan trọng của Bản thảo.

Hãy bắt đầu xem xét “Lebniz đi đến khái niệm đạo hàm … từ các nghiên cứu hình học.”15. Lấy y1=x13, bắt đầu bằng dx=x1–x0 và dy=y1–y0:
(1)   y1=x13 =(x0 + dx)3=x03+3x02dx+3x0(dx)2+(dx)3

Do y0=x03  nên 
(2)   y1=y0+3x02dx+3x0(dx)2+(dx)3

Do vậy 
(3)   y1-y0=dy=3x02dx+3x0(dx)2+(dx)3

Và chia cả hai vế cho dx thì thu được
(4)   dy/dx=3x02+3x0dx+(dx)2

Tại điểm này, theo Leibniz thì ta có thể giản lược dx ở vế bên phải do dx là đại lượng cực nhỏ. Qua đó thu được 
(5)   dy/dx =3x02 hay tổng quát hơn là 3x2

Vấn đề theo Marx là có hai phần. Thứ nhất là đạo hàm 3x02 đã xuất hiện trong phương trình (1), có nghĩa là trước khi đạo hàm, trước khi đặt dx bằng 0. Do vậy, để tính đạo hàm, các phần thu được trong phần bổ sung của đạo hàm lần thứ nhất [3x0dx + (dx)2 - G.C.] … phải được loại bỏ để thu được kết quả chính xác [3x02 - G.C.]16. Điều này là cần thiết để thu được kết quả chính xác thay vì kết quả bất kỳ17. Marx gọi đây là phương pháp “thần bí”. Thứ hai, nếu dx là một đại lượng cực nhỏ, và nếu nó không phải là số thường (hệ Archimed) thì tại sao ta được phép dùng quy luật của số thường, cụ thể là phép mở rộng nhị thức (x0 + dx)3. Tổng quát hơn nữa, trạng thái bản chất và lý thuyết của các đại lượng cực nhỏ là gì?

Để giải quyết những khó khăn đó, Marx tự phát triển phương pháp đạo hàm. Về cơ bản, phương pháp của Marx như sau. Cho một hàm số cụ thể như y=f(x), sau đó Marx cho x0 tiến tới x1. Cả x và y tăng tới một định lượng giới hạn, Δx và Δy, do dó quy luật của số thường có thể áp dụng được. Tỷ số Δy/Δx=[f(x1)–f(x0)]/(x1–x0) được ông gọi là đạo hàm tạm thời hay sơ bộ. Sau đó, ông cho x1 tiến tới x0, tức là x1–x0=0 và do đó y1–y0=0, qua đó giảm giá trị giới hạn tới đại lượng tối thiểu tuyệt đối. Đây là đạo hàm cuối cùng, dx/dy (để đạo hàm chỉ xuất hiện sau quá trình vi phân)18. Đại lượng x1 mặc dù thu được từ biến số x, không biến mất mà chỉ giảm xuống giá trị giới hạn tối thiểu của nó19. Hãy xem xét cách Marx tính đạo hàm của y=x3

Nếu x0 tăng tới x1, y0 tăng tới y1. Giả sử x1–x0=Δx và y1-y0=Δy 
(1)   Δy/Δx =(y1-y0)/(x1–x0)=(x13–x03)/(x1–x0).

Do 
(2)   (x13–x03)=(x1–x0)(x12+x1x0+x02)

Ta đem thay (2) vào (1) 
(3)   Δy/Δx =[(x1–x0)(x12+x1x0+x02)]/(x1–x0)

Và thu được đạo hàm sơ bộ 
(4)   Δy/Δx =x12+x1x0+x02

Đạo hàm cuối cùng do đó là “đạo hàm sơ bộ giảm tới đại lượng nhỏ tuyệt đối”20. Hai phương pháp cùng tạo ra một kết quả nhưng có nhiều sự khác nhau giữa chúng. Thứ nhất, “xuất phát điểm … là các cực đối lập cũng như phương pháp triển khai diễn ra”21. Trong trường hợp thứ nhất x0+dx=x1 (“phương pháp dương”); trong trường hợp thứ hai (Marx) thì x0 tăng tới x1, có nghĩa là x1–x0=Δx (“phướng pháp âm”22). “Một phương pháp thể hiện cùng một nội dung như phương pháp khác: dạng thứ nhất là Δx âm, dạng còn lại là số gia h dương”23. Trong phương pháp dương “khởi đầu chúng ta nhận định sự khác biệt mà sự đối lập của nó như là một tổng số24.Phương pháp thứ hai, trình tự cũng khác biệt: phân số Δy/Δx được chuyển đổi thành dy/dx và kết quả đạo hàm được thu được sau khi tính đạo hàm, sau khi x1 giảm tới đại lượng tối thiểu tuyệt đối. Trong phương pháp dương, “đạo hàm do đó không có cách nào thu được bằng phép toán vi phân trái lại mở rộng đơn giản hàm f(x+h) hay y1 trong một biểu hiện xác định thu được bằng phép nhân đơn giản”25. Có thể lập luận rằng những sự khác biệt này không đáng chú ý do cả hai đều chỉ sử dụng đại số sơ cấp và chia gia lượng của định lượng, y, phụ thuộc vào một đại lượng khác, x, bởi gia lượng của x26. Hơn nữa, từ quan điểm toán học, phương pháp của Marx là giới hạn về khả năng áp dụng “bởi vì thường là không thể chia f(x1)-f(x0) cho x1-x0.”27 Mặc dù vậy, cũng có thể lập luận rằng phương pháp của Marx đáng chú ý về mặt lịch sử. Phương thức tính toán của ông cho phép nhận thấy rằng dy/dx không phải là tỷ số giữ hai số 0 mà là một biểu tượng cho thấy trình tự trước hết là tăng x0 tới x1 (và do đó y0 tới y1) và sau đó giảm x1 (cùng với y1) tới giá trị tối thiểu, x0 và y0. Khám phá của Marx cho thấy dy/dx là một biểu tượng vận động đã thấy trước “một ý tưởng chỉ xuất hiện lại vào thế kỷ 20”28 Sự trình bày của Marx về dy/dx như là một biểu tượng vận động, “sự biểu hiện của một quá trình” và “biểu tượng của một quá trình hiện thực” là một thành tích thực sự, một sự phê phán nổi bật đối với những nền tảng “thần bí” của phép toán vi phân, đối với bản chất siêu hình của các vi đại lượng vừa không hữu hạn vừa không là 029.

Như đã trình bày, những xem xét này mang lại lợi ích nhỏ đối với mục đích hiện tại. Điểm mấu chốt là phân tích về phương pháp cho thấy sự thấu hiểu quan trọng đối với khái niệm của Marx về biện chứng như đã đề cập ở trên30. Hãy cùng xem xét những nguyên lý đã ẩn chứa trong Bản thảo. Thứ nhất, đối với Marx, khái niệm về các vi đại lượng, về một giới hạn gần đúng bằng 0, của một thứ không phải là số hay 0, cần phải phủ nhận như là “siêu hình”, như con quái vật “Chimera”. Trong phương pháp của ông, đầu tiên x0 tăng tới x1 (có nghĩa là bởi dx) và sau đó x1 giảm xuống x0, như vậy x1 không biết mất mà chỉ giảm tới giá trị giới hạn tối thiểu x0. Do vậy, dx, thay vì đồng thời vừa là 0 vừa không phải là 0, thì trước hết là một số thực và sau đó được đặt bằng 0. Đây là lý thuyết hóa quá trình hiện thực, nhất thời. Theo cách này, Marx thoát khỏi khái niệm “ma quỷ” về đạo hàm. Khái niệm dx=0 và dy=0 là biểu tượng của quá trình này, không phải là các số thực bị chia cho 031.

Thứ hai, trong phương pháp “dương”, vận động là kết quả của một đại lượng (nhỏ) (dx) thêm vào x0, là một hằng số. Có nghĩa là x0 vẫn được giữ nguyên là hằng số, do đó vận động và thay đổi chỉ tác động đến một phạm vi giới hạn của hiện thực32. Điểm khởi đầu là một hằng số, không vận động và thay đổi, đối với nó sự thay đổi chỉ được bổ sung như là phần phụ thêm. Đây là quan điểm hiện thực thống kê chỉ bị nhiễu loạn tạm thời bởi sự vận động, hơn nữa chỉ được áp dụng cho phần vô cùng nhỏ của hiện thực. Suy luận tương tự với cân bằng và phi cân bằng (sai lệch tạm thời khỏi cân bằng) trong khoa học xã hội với chủ nghĩa cận biên trong kinh tế là rõ ràng. dx được thêm x từ bên ngoài x. Sự vận động không được thúc đẩy bởi bản chất bên trong của cấu trúc mà là kết quả của các lực lượng bên ngoài. Phía sau “dạng dương” là giải thích thống kê về hiện thực, còn phía sau dạng kia là quan điểm động lực.  

Đối với Marx “x1 là sự gia tăng của bản thân x; sự tăng trưởng của nó không tách rời nó … Công thức này không tách biệt x, cụ thể là x1, khỏi dạng nguyên gốc trước khi tăng lên, từ x, nhưng nó cũng không tách biệt x khỏi phần gia lượng của nó”33. Trong phương pháp của Marx, đó là tổng thể, x0 vận động, nó tăng lên x1 bằng dx. Sự vận động từ x0 tới x1 (xuất phát điểm của Marx) và quay trở lại (điểm kết thúc) cho thấy một sự thay đổi trong toàn bộ hiện thực, ngay cả khi do tác động của một phần tối thiểu. x0 không thể tăng lên do Δx (hay dx) mà không biến thành x1; sự thay đổi trong một phần hiện thực (mặc dù là nhỏ) thay đổi toàn bộ hiện thực do sự liên hệ qua lại giữa tất các các phần cấu thành của hiện thực. Đây là quan điểm động lực mà theo đó sự thiếu vắng vận động cũng như thay đổi không có tác dụng. x0 có thể tăng tới x1 chỉ bởi vì x+dx đã hàm chứa trong x như là một trong những tiềm năng của nó. Sau đó, phương pháp của Marx hàm ý rằng x hàm chứa trong phạm vi bản thân x+dx, sau đó hiện thực hóa bản thân như là x+dx, nếu x+dx chuyển thành x thì nó lại trở thành tiềm năng nằm trong x. Ngay cả khi không được Marx khẳng định một cách rõ ràng thì phương pháp của ông giả định rằng quan điểm biện chứng được tạo áp dụng trong trường hợp này đã phân biệt giữa kết quả và tiềm năng34. Thực tế, đây có thể không phải là cách mà khái niệm dx của toán học hiện đại bất hòa với những mục đích này.

Đó là một khía cạnh, mặc dù vậy điều đó có thể trái ngược với khái niệm biện chứng được phát triển ở đây. Marx đề cập trong thoáng qua (chỉ một lần duy nhất) rằng phương pháp tiếp cận hai bước của đạo hàm là một ví dụ về phủ định của phủ định: “Toàn bộ khó khăn trong việc thấu hiểu tính toán vi phân (như phủ định của phủ định nói chung) nằm một cách chính xác ở chỗ xem xét nó tách biệt khỏi một phương pháp đơn giản ra sao và do đó dẫn tới các kết quả hiện thực”35. Điều này dương như là trong phép toán vi phân, nếu thoát khỏi phương pháp tiếp cận siêu hình, quay sang phủ định biện chứng”36. Một sự lựa chọn khác, người ta sẽ bị lôi cuốn vào việc xem xét nó như là ví dụ về việc Marx làm đỏm với phương thức trình bày kỳ dị kiểu Hegel. Nhưng Marx viết rằng ông đã làm đỏm với thuật ngữ của Hegel vào năm 1873 trong khi bản thảo đang xem xét được viết vào năm 1881.

Trích dẫn phía trên có thể giải thích theo hai cách khác nhau. Thứ nhất, có thể là Marx nghĩ rằng phủ định của phủ định là một khái niệm đúng cho cả khoa học tự nhiên và xã hội. Điều này sẽ mâu thuẫn với lý thuyết được thúc đẩy trong công trình này theo nghĩa là nó sẽ chỉ tập trung vào sự tương đồng có tính hình thức. Ví dụ, người ta có thể cho rằng x0 bị x1 phủ định và sau đó x1 lại bị x0 phủ định. Nhưng sự phủ định kép này hoàn toàn khác so với hiện thực xã hội. Sự vận động (1) chỉ là một sự thay đổi về lượng từ x0 tới x1 và ngược lại, có nghĩa là không có sự thay đổi về chất; và (2) không có giải thích về lực lượng tiềm tàng trong x0, khiến nó biến đổi thành x1 và ngược lại. Trong xã hội, giải thích phủ định của phủ định về khả năng các hiện tượng xã hội thay thế bản thân bằng cách tự tạo ra các điều kiện cho sự thay thế là nhờ bản chất mâu thuẫn của chúng. Đây không phải là môi trường của phép đạo hàm. Nếu đây là tình thế của Marx, ông sẽ đồng ý với Engels, người coi các quy luật biện chứng là “đúng với sự vận động trong tự nhiên và lịch sử nhân loại và với sự vận động của tư duy”37. Mặc dù vậy, nếu câu hỏi là giải thích sự mâu thuẫn, vận động mâu thuẫn, thì không có sự phủ định của phủ định trong quá trình đạo hàm cũng như không có sự phủ định của phủ định trong toán học.

Lập luận toán học dựa trên logic hình thức, thứ logic loại trừ các mâu thuẫn và do đó là vận động mâu thuẫn. Marx đồng ý rằng toán học có thể giải thích sự vận động: “phương pháp đại số … [là] sự đối lập rõ ràng [của] phương pháp vi phân”38 bởi vì phương pháp thứ nhất là phân tích về đại lượng thống kê trong khi phương pháp thứ hai phân tích sự thay đổi của các đại lượng. Mặc dù vậy, bất chấp sự khác biệt này, cả hai nhánh của toán học cùng có một đặc trưng là làm việc với các đại lượng và do đó là sự thay đổi về lượng mà không thể có thay đổi về chất và mâu thuẫn. Nếu toán học chỉ làm việc với định lượng thì nó chỉ làm việc trong vương quốc của hiện thực hóa (tức là không ở trong vương quốc của khả năng). Do đó, nó không thể xử lý các mâu thuẫn biện chứng và sự thay đổi về chất. Toán học trừu tượng hóa các hiện thực cụ thể. Các khái niệm của nó có thể áp dụng cho mọi vương quốc hiện thực có thể định lượng và vì lý do này nó không tìm kiếm sự xác thực trong các sự vật cụ thể. Mặt khác, logic biện chứng là sự tập trung mang tính lý thuyết của hiện thực cụ thể (xem Chương 1, Phần 7). Vì lý do đó, nó tìm kiếm sự xác thực trong hiện thực đó. Nhưng cũng có khả năng là Marx đề cập tới sự phủ định của phủ định, trong cả khoa học tự nhiên và xã hội, cùng chung đặc điểm là dẫn tới “kết quả hiện thực”, bất chấp sự khác biệt của chúng. Trong trường hợp này, sẽ có một sự đồng thuận với lý thuyết hiện tại về quy định biện chứng.      

Bất kể thế nào, kết luận quan trọng là Marx tính vi phân với con mắt của nhà khoa học xã hội, của nhà biện chứng học. Phương pháp vi phân của ông phản ánh một quá trình hiện thực, nhất thời mà trong đó một trường hợp thực (một số thực) không thể đồng thời là một trường hợp thực khác (số 0) và trong đó sự vận động tác động tới tổng thể thay vì chỉ là một phần và kết quả của sự tác động qua lại giữa các tiềm năng và đó là thứ được hiện thực hóa. Phương pháp tính vi phân của Marx chỉ phù hợp với phương pháp tiếp cận động lực và nhất thời (và không phù hợp với phương pháp tiếp cận mà trong đó thời gian không tồn tại, như phương pháp đồng thời trong kinh tế học), tổng quát hơn, với khái niệm biện chứng như đã trình bày. Kết luận này rất phù hợp với tranh luận giữa các nhà Marxist cho rằng trong lý thuyết của Marx thì thời gian là sự kết hợp cần thiết của động lực, một hệ thống không cân bằng và những người trung thành với một hệ thống không có thời gian và vận động (xem Chương 2 phía trên). Câu hỏi không phải là phương pháp của Marx (bất kể trường hợp nào, chính xác trong giới hạn của nó) có phù hợp với toán học hay lịch sử của toán học hay không39. Câu hỏi phải là Bản thảo có thực sự phù hợp với các nhà khoa học xã hội quan tâm đến việc khám phá và tiếp tục phát triển khái niệm biện chứng của Marx như là phương pháp nghiên cứu xã hội và là một công cụ để thay đổi xã hội hay không.

Chú thích

1 Phụ lục này được chỉnh sửa từ bài viết của Carchedi ở 2008a và của Carchedi ở 2008b. Hai phiên bản trước nhận được những bình luận của Hans van den Bergh, giáo sư toán học tại trường đại học Wagenningen, của Josephn Dauben, giáo sư (Distinguished Professor) về lịch sử và lịch sử khoa học, đại học Thành Phố New York, và Alain Alcouffe, giáo sư khoa học xã hội, đại học Toulouse. Sự thay đổi đã được báo trước. Xem Carchedi 2008b.

2 Xem Alcouffe 1985 và 2001; Antonova 2006; Blunden 1984; Engels 1983 và 1987; Gerdes 1985; Yanovskaya 1969 và 1983; Kennedy 1977; Lombardo Radice 1972; Smolinski 1973.

3 Alcouffe 1985, trang 40–41.

4 Yanovskaya 1969, trang 23.

5 Marx 1978.

6 Marx 1974.

7 Marx 1976.

8 Smolinski 1973, trang 1199.

9 Alcouffe 1985, trang 37.

10 Điểm này khác với quan điểm của Alcouffe là xử lý toán học hình thức đối với quy luật khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận suy giảm sẽ được “đặc biệt hoan nghênh” (sách đã dẫn).

11 Smolinski 1973, trang 1189.

12 Sách đã dẫn

13 Smolinski 1973, trang 1190.

14 Carchedi 1987. Theo Dauben, “Nghiên cứu Bản thảo Toán học của Marx có tác động chủ chốt đối với nghiên cứu của Soviet trong lịch sử và triết học về toán học, khởi đầu vào những năm 1930. Điều này là thật trong lịch sử toán học, khi mà hầu như toàn bộ các công trình công bố giữa năm 1930 và 1950 đều liên quan đến bản thảo. Mặc dù vậy, lịch sử của toán học cũng nhận được sự thúc đẩy đáng kể nhờ những gì Marx đã viết … Do vậy sự đáng chú ý của khám phá và nghiên cứu bản thảo toán học của Marx ở Liên Bang Soviet có thể đánh giá theo nhiều phương diện khác nhau. Đánh giá về việc các công trình biên tập về bản thảo đã thúc đẩy nghiên cứu trong những năm 1930 của lịch sử toán học, hiệu ứng của việc đó là tích cực. Đặc biệt là bản thảo cung cấp một nhân tố căn bản cho việc nghiên cứu nghiêm túc lịch sử của phân tích. Cũng có thể rút ra là để thừa nhận Marx hoàn toàn thì cần phải nghiên cứu lịch sử toán học một cách tổng quát. Đáng tiếc là đối các nền tảng toán học liên quan được quan tâm thì Marx và bản thảo hầu như chỉ có tác động tiêu cực. Điều này là do khuynh hướng ban đầu của các nghiên cứu cơ bản tập trung hầu hết vào việc diễn giải biện chứng toán học theo học thuyết cơ bản của Marx. Đối với sự tự phát triển nội tại và kỹ thuật của toán học, bản thảo của Marx dường như không đóng một vai trò đáng kể nào, dù là tích cực hay tiêu cực”. Dauben 2003, trang 2-3.

15 Gerdes 1985, trang 24–30. Xem Struik 1948, trang 187 và ff.

16 Marx 1983a, trang 91.

17 Sách đã dẫn

18 Về công thức chính xác hơn trên phương diện toán học trong phương pháp của Marx, xem Marx 1983a, ghi chép 7, trang 195–6.

19 Marx 1983a, trang 7; bổ sung gạch chân.

20 Sách đã dẫn

21 Marx 1983a, trang 68.

22 Marx 1983a, trang 88.

23 Marx 1983a, trang 128.

24 Marx 1983a, trang 102.

25 Marx 1983a, trang 104.

26 Tôi biết ơn Hans van den Berg về trao đổi cá nhân.

27 Gerdes 1985, trang 7.

28 Kolmogorov, được trích dẫn trong Gerdes trang 75. Theo Lombardo Radice, Marx không biết gì về các cơ sơ quan trọng của giải tích, từ Cauchy tới Weierstrass, đó là điều khẳng định “thiên tài” của ông trong việc phê phán độc lập nền tảng “thần bí” của phép toán (Lombardo Radice 1972, trang 274).

29 Lombardo Radice, được trích dẫn trong Ponzio 2005, trang 23.

30 Quan điểm này khác với diễn giải của Alcouffe rằng “hình thức hóa một khoa học xã hội, nhất là một khoa học phế phán” phải được tìm kiếm trong tác phẩm Khoa học về Logic của Hegel (Alcouffe 1985, trang 104). Như đã lập luận phía trên, nhất là tại Chương 1, cần phải tìm kiếm và bóc tách từ công trình của Marx.

31 Điều tương tự được Yanovskaya đưa ra. Theo Gerdes, “một số nhà khoa học giải thích các vi đại lượng hay các đại lượng vô cùng nhỏ theo khái niệm về bản chất biện chứng của đối lập – vừa bằng 0 vừa khác 0. Yanovskaya gọi các nhà khoa học này là “Marxist giả hiệu” do họ quên mất rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng không thừa nhận mâu thuẫn thống kê (=0 và #0), mà chỉ thừa nhận mâu thuẫn liên hệ với vận động.” (Gerdes 1985, trang 115-116).

32 Trong một lá thư gửi Marx vào năm 1882, Engels viết: “sự khác biệt căn bản giữa phương pháp của anh và phương pháp cũ là anh cho x thay đổi sang x’, do đó làm cho chúng thật sự biến đổi, trong khi cách kia bắt đầu bằng x+h, luôn chỉ là tổng của hai số lượng, nhưng không bao giờ là sự biến thiên của một số lượng.” Engels 1983, trang xxix.

33 Marx 1983a, trang 86.

34 Trái lại, trong hiện thực xã hội, một sự hiện tượng xã hội có thể giảm về kích thước tới một điểm khi nó trở thành hiện tượng cá biệt, một hiện tượng xã hội tiềm năng. Nhưng trong hiện thực xã hội thì khái niệm về vi đại lượng là vô nghĩa.

35 Marx 1983a, trang 3.

36 Ponzio 2005, trang 33. Xem Kennedy 1977, trang 311.

37 Được trích dẫn trong Gerdes 1985, trang 88.

38 Marx 1983a, trang 21.

39 Dauben gợi lên sự chú ý tới mối liên hệ giữa phân tích phi chuẩn mực và Bản thảo Toán học của Marx ở Trung Quốc: “Gần một thế kỷ sau Marx, các nhà toán học Trung Quốc đã liên kết một cách rõ ràng tư tưởng Marxist và các nền tảng toán học thông qua một chương trình mới diễn giải phép toán sử dụng vi lượng, như Marx đã dự báo, nhưng hiện giờ là theo các khái niệm chặt chẽ của phân tích phi chuẩn mực, phát minh của Abraham Robinson vào những năm 1960. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976), toán học bị hoài nghi ở Trung Quốc do quá trừu tượng, tách biệt khỏi mối quan tâm của người bình thường và nỗ lực đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của đời sống trong một xã hội hầu hết là nông nghiệp. Mặc dù vậy, khi các nhà toán học Trung Quốc khám phá ra bản thảo toán học của Karl Marx, chúng dường như đem lại một cơ sở mới mẻ để biện minh cho toán học trừu tượng, đặc biệt là liên quan tới các đánh giá cơ bản và mang tính phê phán của phép toán” (Dauben 2003, trang 328). Lưu ý rằng điều này dường như không đưa ra câu trả lời cho vấn đề câu hỏi quan trọng của Marx là gì, tức là bản chất tự nhiên của các vi đại lượng hay số lớn. Giả thuyết về một “đám mây” các số siêu thực trôi nổi li ti gần với mỗi con số trên đường *R không trả lời câu hỏi của Marx. 

Thursday, November 6, 2014

Ba nguyên tắc chi tiêu ngân sách của bộ trưởng Vinh

Trước đây cũng khá lâu, bác Giao có yêu cầu bình luận về phát biểu của bộ trưởng bộ kế hoạch đầu tư Nguyễn Quang Vinh trong bài "Bộ trưởng Kế hoạch-Đầu tư: Việt Nam vi phạm ba nguyên tắc trụ cột", bình luận qua comment thì sẽ quá dài nên phải viết một bài riêng cho bác Giao.

Hoàn cảnh của cuộc tranh luận về ngân sách

Trước hết nếu chỉ nhìn vào bài báo đó thì không thể bình luận nhiều, cần phải nhìn vào bối cảnh lịch sử của Việt Nam để hiểu tại sao có bài báo đó.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam mấy năm gần đây đang chậm lại, nguồn thu ngân sách bị giảm sút trong khi đó các khoản phải chi lại phình ra rất nhanh. Kế hoạch tăng lương đã phải hoãn hai năm, chính phủ thậm chí đã phải phát hành trái phiếu để đảo nợ. Thu chi ngân sách trở thành vấn đề nóng bỏng tại diễn đàn Quốc Hội. 

Ngân sách thì có rất nhiều cơ quan tiêu nhưng giải trình về ngân sách trước Quốc Hội thì chỉ có hai bộ là Bộ Tài Chính (BTC) và Bộ Kế Hoạch-Đầu Tư (BKHĐT). Song hai bộ này cũng chỉ nắm chung về chi tiêu và đầu tư, họ không nắm được chi tiêu của các bộ khác và các địa phương. Ngân sách cũng là vấn đề phức tạp, dưới Luật Ngân Sách Nhà Nước thì còn có 300 văn bản khác. Đa phần các đại biểu cũng không bao quát hết được vấn đề ngân sách.

Tuy cùng phải giải trình về vấn đề ngân sách trước Quốc Hội song quan điểm của BTC và BKHĐT lại đối chọi nhau. Điều này dẫn đến bài phát biểu của bộ trưởng Vinh.

Gần đây nhất hai bộ này đã trực tiếp đối thoại với nhau về ngân sách là trong cuộc hội thảo về Kế Hoạch và Đầu Tư ở Đà Nẵng vào ngày 7.8.2014. Trong cuộc hội thảo đó đại diện của BKHĐT đã nói về việc xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn, còn đại diện của BTC nhấn mạnh việc ưu tiên chi cho cải cách tiền lương và an sinh xã hội.

Mới đây, chủ tịch Quốc Hội đã phát biểu về vấn đề chi ngân sách, nhấn mạnh việc phải thực hiện cải cách tiền lương, trong khi bộ trưởng BTC muốn ưu tiên trả nợ và chi cho quốc phòng. 

Chưa đầy hai tuần sau, bộ trưởng Vinh đã phát biểu về ba trụ cột kinh tế của quản lý ngân sách, quan điểm của BKHĐT là giảm chi thường xuyên, giảm chi an sinh xã hội và gia tăng chi đầu tư phát triển. BTC cũng đã nhanh chóng đưa ra quan điểm của mình. BTC một lần nữa nhấn mạnh việc chi cho an sinh xã hội là dựa trên các nghị quyết của Quốc Hội và chính phủ. Một điểm đáng chú ý là BTC đã đề cập đến vấn đề phải xiết lại việc lập dự toán đầu tư, tức là công việc của BKHĐT.

Nguyên tắc kinh tế nào?

Về nguyên tắc kinh tế, dựa trên kinh tế học thì chỉ có hai loại quan điểm. Quan điểm của trường phái Keynes là nhà nước có thể can thiệp vào thị trường để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại theo quan điểm của phái tân cổ điển thì nhà nước nên hạn chế can thiệp vào thị trường, chỉ nên can thiệp để sửa chữa các khuyết tật của thị trường.

Thu chi ngân sách về bản chất là liên quan chặt chẽ đến nhau, không thể tách rời việc thu riêng và chi riêng. Ví dụ như tăng chi lương chẳng hạn, thì cũng có nghĩa là khoản thu từ thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng cũng tăng lên, do vậy phải tính toán cân đối cả thu và chi. Khoa kinh tế học gộp hai vấn đề đó lại thành chính sách tài khóa.

Phái Keynes khuyến khích nhà nước chi tiêu để điều tiết nền kinh tế do vậy chính sách tài khóa là vấn đề trọng tâm của họ. Một người theo phái Keynes, giáo sư kinh tế học Warron Smith đã đúc kết nguyên tắc về chính sách tài khóa là: "Quy tắc tốt nhất là ngân sách không bao giờ nên cân bằng, trừ một khoảnh khắc khi thay đổi từ dư thừa để chống lạm phát sang thâm hụt để chống suy thoái". Còn các đại biểu của phái tân cổ điển thì thường dẫn quan điểm ngắn gọn của người sáng lập ra khoa kinh tế chính trị cổ điển, Adam Smith: "Ngân sách tốt duy nhất là ngân sách cân bằng"

Khoản 1 điều 8 Luật Ngân Sách Nhà Nước năm 2002 ghi rõ: Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.

Bàn về ba nguyên tắc của bộ trưởng Vinh

Nguyên tắc trong trường hợp này chỉ có hai loại, một là dựa trên lý thuyết kinh tế, hai là dựa trên luật.

Về vi phạm nguyên tắc thứ nhất, "tăng chi cho lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Đây là vi phạm nguy hiểm, bởi ở các nước chỉ tăng lương khi năng suất lao động tăng, hiệu quả lao động tăng lên thì được bù đắp.". Khoa kinh tế học chưa bao giờ chứng minh được lương tương ứng với năng suất lao động. Khoa kinh tế học cho rằng lương là do cung và cầu về lao động quyết định. Doanh nghiệp thuê lao động dựa trên nguyên tắc lương bằng giá trị sản phẩm biên của lao động, tức là không chỉ liên quan đến năng suất lao động của lao động, mà còn phụ thuộc vào giá cả của sản phẩm đầu ra và công nghệ sản xuất. Khoa kinh tế chính trị học Marx-Lenin thì coi lương là giá cả của sức lao động, nên cũng không liên quan đến năng suất lao động. Khoa kinh tế chính trị học cổ điển thì còn có quy luật sắt về tiền lương, như của Malthus, tức là theo quy luật thị trường thì lương thực tế luôn chỉ bằng mức tối thiểu đủ sống. Còn về mặt thực tiễn thì doanh nghiệp không bao giờ áp dụng tăng lương bằng tăng năng suất lao động, nguyên tắc được áp dụng phổ biến là tỷ lệ tăng lương nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát.

Vi phạm nguyên tắc thứ hai, tốc độ tăng cho chi an sinh xã hội cao hơn tốc độ tăng thu ngân sách, mất cân đối ngayChi an sinh xã hội là nhu cầu bức xúc quan trọng của mọi quốc gia nhưng dù muốn thế nào thì muốn, nhu cầu an sinh xã hội rất lớn phải cân đối, phải thấp hơn tốc độ thu về ngân sách.

Vi phạm nguyên tắc thứ ba là trong quy luật kinh tế quy định tốc độ tăng chi cho phát triển phải cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, để tiến lên nếu ngược lại thì khó khăn.

Tôi đã tra cứu các loại sách giáo khoa về kinh tế học và không tìm thấy nguyên tắc thứ hai và thứ ba của bộ trưởng ở bất cứ chỗ nào, có lẽ đó là loại nguyên tắc cao cấp chỉ dành riêng cho các chuyên gia cao cấp chăng?

Nếu đối chiếu với quy định của khoản 1 điều 8 của luật NSNN thì nguyên tắc số 2 và 3 của Bộ trưởng Vinh chỉ là những trường hợp cụ thể của quy định ấy. Lý do là cả chi lương, chi an sinh xã hội đều thuộc về khoản chi thường xuyên. Hãy lấy quy tắc thứ 3 để xem xét, tốc độ tăng chi thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng chi phát triển, điều đó có nghĩa là tốc độ tăng chi thường xuyên phải thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, vì chi thường xuyên cộng với chi đầu tư phát triển chính bằng tổng chi. Nhưng ngay cả khi tốc độ tăng chi thường xuyên lớn tốc độ tăng thu ngân sách thì tốc độ tăng chi đầu tư phát triển vẫn có thể lớn hơn nhờ bội chi theo luật NSNN. Xét quy tắc thứ hai, khi tốc độ tăng chi thường xuyên được duy trì thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, đương nhiên theo logic đơn giản thì các cấu thành của chi thường xuyên, như  tốc độ chi an sinh xã hội phải thấp hơn tốc độ tăng thu ngân sách, nhưng ngay cả trong trường hợp đó thì chi an sinh xã hội vẫn có thể có tốc độ cao hơn tốc độ thu ngân sách nếu tốc độ gia tăng của các khoản khác thuộc về chi thường xuyên giảm đi. 

Trong bài báo bộ trưởng nêu rõ là Việt Nam đang gặp rắc rối vì không tuân thủ ba nguyên tắc này, nhưng suy nghĩ kĩ hơn một chút sẽ thấy áp dụng cả ba nguyên tắc này thì Việt Nam cũng không tránh khỏi rắc rối. Các khoản chi cho lương, an sinh xã hội đều nằm trong khoản chi thường xuyên. Trong thực tế sẽ xảy ra tình huống các nguyên tắc đó tạo sức ép lên nhau, ví dụ tuân thủ nguyên tắc thứ ba, giữ tốc độ tăng chi phát triển lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên mà năng suất lao động tăng nhanh buộc phải tăng lương đẩy tốc độ tăng chi thường xuyên vượt quá tốc độ chi phát triển thì lúc đó không biết sẽ phải hy sinh nguyên tắc nào. Nếu có thể hy sinh nguyên tắc này để chọn nguyên tắc khác thì ba nguyên tắc đó không thể là nguyên tắc mà chỉ có thể là tùy chọn.

Tại sao quan điểm của Bộ trưởng Vinh được ủng hộ?

Quan điểm của bộ trưởng Vinh là gia tăng chi đầu tư phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chi đầu tư phát triển là những khoản chi như sau: chi xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, chi hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước và góp vốn vào doanh nghiệp, chi dự trữ nhà nước. Bộ trưởng Vinh vốn chỉ nắm được khoản chi xây dựng cơ sở hạ tầng còn hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước và góp vốn lại thuộc BTC, dự trữ nhà nước thì do Tổng Cục Dự Trữ quản lý trong đó khoản dự trữ lớn nhất là ngoại tệ lại do Ngân Hàng Nhà Nước nắm. Với các dự án cơ sở hạ tầng thì đương nhiên là doanh nghiệp có lợi, xét trên phương diện kinh tế vĩ mô thì cơ sở hạ tầng tốt sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí sản xuất, xét trên phương diện trực tiếp thì các doanh nghiệp sẽ được nhận thầu thêm các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng mới. Trong bối cảnh kinh tế trì trệ thì quan điểm của bộ trưởng Vinh sẽ được nhóm doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng ủng hộ mạnh mẽ. 

Song vấn đề nằm ở chỗ, Việt Nam đã từng sử dụng chính sách tài khóa theo kiểu Keynes trước đây không lâu. Vào năm 2008 khi thế giới bị chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính do nợ dưới chuẩn của Mỹ gây ra, chính phủ Việt Nam đã tung ra gói kích thích tài khóa trị giá 8 tỷ USD. Cho đến nay chưa có bất cứ nghiên cứu nào đánh giá tác động của gói kích thích kinh tế đó. Những năm tiếp theo Việt Nam đã phải chứng kiến mức lạm phát kinh hoàng và tình trạng các doanh nghiệp đua nhau đầu cơ làm rối loạn thị trường. Hiện nay trong chính phủ không còn nhiều người nhắc đến kích thích tăng trưởng kinh tế bằng chính sách tài khóa nữa. Từ sau cuộc chạy đua lãi suất của hệ thống ngân hàng năm 2012, chính sách tiền tệ đã bắt đầu có tiếng nói nhất định đối với việc ổn định kinh tế vĩ mô.

Điều đáng chú ý hơn trong bài phát biểu của bộ trưởng Vinh.

Đó là đoạn cuối bài:

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh kể rằng, Quốc hội từng yêu cầu ông phải trả lời câu hỏi những dự án nào không hiệu quả, kém hiệu quả. Để làm việc này, Bộ Kế hoạch đã gửi công văn đến tất cả các địa phương thì nhận được phản hồi là "dự án nào cũng hiệu quả". “Tôi hỏi tiêu chí nào là hiệu quả thì các ông ấy bảo không hiệu quả chỗ này thì hiệu quả chỗ khác”, Bộ trưởng chia sẻ.

Những người làm quản lý doanh nghiệp đều thuộc lòng câu cách ngôn của nhà kinh tế học Peter Drucker "Không thể quản lý khi thiếu đo lường". Câu chuyện của bộ trưởng Vinh cho thấy BKHĐT hoàn toàn không có chuẩn mực để đo lường hiệu quả dự án. Việc bộ hỏi các địa phương là vô ích vì thứ nhất họ sẽ không biết dựa trên tiêu chí nào để trả lời BKHĐT. Thứ hai là cho dù có được đầy đủ báo cáo của các địa phương thì BKHĐT cũng chẳng thể làm gì vì mỗi báo cáo ấy sẽ theo một chuẩn mực khác nhau và không thể nào tổng hợp vào một báo cáo để phân tích hay đánh giá. Chỗ này làm tôi nhớ đến câu khen của một người bạn khi phải chứng kiến tình trạng tương tự ở nhiều bộ ngành: "Thế mà Việt Nam vẫn quản lý được mới tài!". 

Friday, July 18, 2014

Tiền lương và năng suất lao động

Từ hàng trăm năm nay, giai cấp tư sản đã vô vọng và từ bỏ mọi hy vọng chứng minh vốn đẻ ra lợi nhuận. Khoa kinh tế học từ lâu đã coi việc vốn tạo ra lợi nhuận là tội tổ tông mà giai cấp tư sản phải đau khổ gánh lấy, mặc dù cái tội tổ tông không bắt họ đổ mồ hôi kiếm miếng ăn hàng ngày, thậm chí còn đem lại cho họ một cái thiên đường trần thế sáng láng hơn cái thiên đường ở thế giới bên kia nhiều.

Để thể hiện sự công bằng với giai cấp cần lao hàng ngày phải đổ mồ hôi kiếm miếng ăn thì các đại biểu của giới chủ doanh nghiệp tuyên bố rằng tiền lương tương ứng với lao động mà giai cấp cần lao thực hiện. Song vấn đề là ở chỗ nếu người lao động nhận được đúng những gì mà họ đóng góp vào quá trình sản xuất thì lợi nhuận sẽ không tồn tại. Vì vậy các đại biểu của giới chủ doanh nghiệp đã lảng tránh câu trả lời bằng cách đưa ra lập luận là người lao động nhận được tiền lương tương ứng với năng suất lao động. 

Đó là một câu chuyện kiểu anh chàng Robinson trên hoang đảo. Hãy tưởng tượng một người công nhân ngồi bên máy may, mỗi ngày anh ta may được 100 bộ quần áo thì nhận được mức lương cụ thể nào đó, nếu anh ta may được 200 bộ quần áo thì lương sẽ gấp đôi, còn nếu may được 500 bộ thì chả mấy chốc anh ta sẽ giàu nứt đố đổ vách. Song ở thiên đường trần thế thì sự thực trái ngược hoàn toàn, tại nước tư bản phát triển nhất thế giới từ năm những năm 70 của thế kỷ trước đến nay năng suất lao động đã tăng lên gấp đôi nhưng tiền lương của công nhân vẫn dậm chân tại chỗ, thậm chí lương khởi điểm trung bình của công nhân ngành ô tô còn tụt xuống thấp hơn mức lương 5 USD/ngày (khi quy đổi theo đồng dollar hiện tại) mà hãng Ford trả cho công nhân vào năm 1914, phần lớn của cải được tạo ra rơi vào túi một nhóm nhỏ giai cấp tư sản. Có thể coi đó là vụ cướp bóc lớn nhất mọi thời đại, cướp bóc mà không cần đến vũ khí và đe dọa, một vụ cướp bóc mà tất cả những kẻ cướp táo bạo nhất trong lịch sử loài người cũng không thể tưởng tượng ra được.

Cái ví dụ quen thuộc về một kỹ sư xây dựng khi làm thuê cho doanh nghiệp nội địa chỉ nhận được mức lương bằng 1/5 so với khi làm thuê cho doanh nghiệp nước ngoài thường được dùng để chứng minh cho lập luận tiền lương tương xứng với năng suất lao động thì thật ra chứng minh cho điều ngược lại, cũng một người lao động ấy với năng suất lao động cá nhân ấy nhưng mức lương nhận được lại khác xa nhau, tức là tiền lương không có liên quan gì đến năng suất lao động cá nhân cả. Năng suất lao động cá nhân một người lao động là bao nhiêu không quan trọng, bởi vì khi làm thuê cho một nhà tư bản nào đó thì anh ta gia nhập vào một hệ thống sản xuất, tại đó anh ta phải đạt được cái năng suất lao động trung bình tính trên đầu lao động của hệ thống đó. Trong một hệ thống sản xuất nhất định thì người lao động không làm việc một mình, anh ta là một mắt xích trong một dây chuyền, đầu vào của anh ta là sản phẩm của người lao động khác và sản phẩm đầu ra của anh ta lại là đầu vào của một người lao động khác. Nếu anh ta làm được ít hơn so với năng suất trung bình thì sẽ trở thành trở ngại đối với cả hệ thống và ngay lập tức bị sa thải. Nhưng nếu anh ta làm được nhiều hơn thì tình cảnh cũng không khá khẩm hơn, hoặc là bán thành phẩm sẽ bị chất đống lại, hoặc khiến cho dây chuyền sản xuất bị đình trệ, hoặc sau khi hoàn thành công việc của mình nhanh chóng thì anh ta sẽ bị sử dụng vào các công việc phi sản xuất mà không nhận được thêm đồng nào, hoặc nếu anh ta láu cá sử dụng thời gian tiết kiệm được cho bản thân mình thì sẽ bị coi là kẻ chây lười trốn việc và cũng sẽ bị sa thải. Người ta thường cho rằng năng suất lao động thấp là do người lao động lười biếng và dẫn chứng bằng tình trạng người lao động tụ tập tại quán xá trong giờ làm việc, nhưng việc đó chứng minh chính cái điều ngược lại, vì người lao động có năng suất lao động cá nhân cao hơn năng suất trung bình của hệ thống nên họ có thể hoàn thành công việc được giao với thời gian ít hơn và có thời gian rảnh rỗi để tụ tập. Điều bí ẩn nằm ở chỗ: Năng suất lao động trung bình tính trên đầu lao động của một hệ thống sản xuất phụ thuộc vào cái gì? 

Năng suất lao động trung bình tính trên đầu lao động của một hệ thống phụ thuộc vào mức độ phân công lao động trong hệ thống ấy. Tại nơi nào mà một người lao động phải tự làm hoàn chỉnh một sản phẩm hoặc phải làm nhiều phần của sản phẩm ấy thì năng suất trung bình bao giờ cũng thấp hơn ở những nơi mà mỗi người lao động chỉ làm một phần nhỏ của sản phẩm ấy. Ví dụ như ở xưởng may, nếu một người thợ may phải may hoàn chỉnh một chiếc áo thì số lượng áo mà người đó may được trong ngày sẽ ít hơn rất nhiều so với người lao động trong một xưởng may khác mà tại đó mỗi người chỉ may một phần của chiếc áo. Phân công lao động trong một hệ thống sản xuất không phụ thuộc vào ý chí của nhà tư bản sở hữu nó mà phụ thuộc vào lượng vốn mà nhà tư bản đó có thể đầu tư vào hệ thống sản xuất ấy, vì phân công lao động chi tiết hơn không chỉ đòi hỏi một số lượng công nhân nhất định mà còn đòi hỏi nhiều tiền hơn để mua sắm các máy móc tinh vi hơn, có tốc độ cao hơn và nhiều nguyên vật liệu hơn. Một người lao động may được gấp ba người lao động khác trong cùng thời gian thì cũng đòi hỏi số lượng nguyên vật liệu gấp ba lần và một số lượng nhất định các máy móc có tốc độ cao hơn hoặc các công cụ lao động tinh xảo hơn.

Thế nên khi người lao động phải làm việc cho một doanh nghiệp có năng suất lao động trung bình thấp và nhận lương thấp thì điều đó không liên quan đến năng suất lao động cá nhân của anh ta. Điều đó cho thấy lượng vốn mà nhà tư bản đầu tư vào sản xuất là không đủ lớn, do vậy chỉ có thể tổ chức phân công lao động đơn giản. Để duy trì một hệ thống kém hiệu quả đó thì nhà tư bản trút gánh nặng lên vai người lao động bằng cách hạ thấp tiền lương của họ xuống dưới giá trị sức lao động của họ, chỉ trong điều kiện đó nhà tư bản mới duy trì được mức lợi nhuận đủ để hệ thống tồn tại. Tiền lương thấp cuối cùng không phải là do người lao động có năng suất lao động kém mà chỉ là túi tiền của nhà tư bản quá bé. Cái tình trạng ấy phản ánh vào hành vi của người lao động ở chỗ, một mặt họ sẽ chỉ làm đúng mức năng suất cần thiết bởi vì làm có muốn làm hơn cũng không có đủ tư liệu sản xuất phù hợp, mặt khác do chỉ được trả công dưới sức lao động bỏ ra nên người lao động sẽ tìm các tiết kiệm sức lao động của mình để bù vào khoản thâm hụt. Nhà tư bản thì đứng ngồi không yên vì sức lao động mà họ đã bỏ tiền ra mua không hoạt động hết công suất, nó bị lãng phí đi mà không đem lại chút lợi nhuận nào, vì vậy hoặc là họ sẽ phung phí sức lao động đã mua được ấy vào những công việc phi sản xuất hoặc sẽ tìm cách hạ thấp tiền lương xuống. Cái mâu thuẫn ấy biểu hiện ra thành vòng luẩn quẩn quen thuộc: Năng suất lao động thấp dẫn đến tiền lương thấp, tiền lương thấp lại dẫn đến năng suất lao động thấp.

Khi người lao động làm thuê cho một nhà tư bản đầu tư lượng vốn lớn hơn thì họ nhận được tiền lương cao hơn, người ta lầm tưởng rằng điều đó là do năng suất lao động của họ đem lại, nhưng thực ra cái mức lương cao hơn đó chỉ là mức ngang bằng với giá trị sức lao động mà họ bỏ ra, cao hơn là khi so với việc họ đã bị tước đoạt một phần giá trị sức lao động khi làm thuê cho những nhà tư bản có túi tiền bé hơn. Nhưng ngay cả khi được trả đúng giá trị sức lao động thì tình cảnh của người lao động cũng không khá hơn là bao nhiêu, bởi vì mức lương họ nhận được chỉ đủ để tái sản xuất sức lao động hàng ngày nhưng cái sức lao động mà họ phải tiêu hao đi thì không chỉ có cái phần bù nguyên vật liệu và máy móc đã tiêu hao đi, bù lại tiền lương đã trả cho họ mà còn phải tạo ra lợi nhuận của nhà tư bản nữa. Lợi nhuận của nhà tư bản càng lớn thì cuộc đời của người lao động lại càng ngắn lại.

Saturday, June 7, 2014

Người ta có thể hiểu sai Marx đến mức nào?

Trong bài viết phân tích về khủng hoảng kinh tế của của ông Vũ Quang Việt, một chuyên gia về thống kê, đăng trên tạp chí Thời Đại Mới số 27 tháng 3 năm 2013 có một đoạn ở trang 2 và 3 như sau: 

Karl Marx trong tư bản luận xuất bản trong thời kỳ 1867-1894 cho rằng khủng hoảng có nguyên nhân nội tại trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Thặng dư lao động là do bóc lột công nhân, đẩy tư bản đến việc dùng máy thay người, do đó không còn chỗ để bóc lột, lợi nhuận sẽ giảm và đưa đến khủng hoảng. Nguyên nhân Marx đưa ra rõ ràng là sai vì ngày nay dù tư bản vẫn dùng máy thay người nhưng lợi nhuận lại tăng vì lợi nhuận của tư bản phát triển phần lớn không đi từ bóc lột lao động mà đi từ sản phẩm tri thức (và sẵn sàng biến tri thức thành tư bản để cùng chia lợi nhuận) dù qua phát triển đẩy lao động tay chân vào thất nghiệp hoặc vào hoạt động dịch vụ không cần tri thức.

Xem phần chú thích thì được biết ông Vũ Quang Việt tham khảo cuốn Crisis Economics của Nouriel Roubin và Stephen Mihm trong nhận xét về các lý thuyết khủng hoảng, do không có cuốn sách đó trong tay nên tạm thời chưa biết đây là quan điểm của ông Việt hay được trích dẫn từ cuốn sách đã nêu.

Nhưng cần phải nói là đoạn được trích dẫn cho thấy người viết nó hoàn toàn hiểu sai hoàn toàn về kinh tế chính trị học của Marx.

Thứ nhất, lý thuyết của Marx trình bày về sự bóc lột giá trị thặng dư chứ không phải lao động thặng dư, cái được gọi là lao động thặng dư là mục tiêu bóc lột của thời phong kiến, khi đó nông dân phải làm việc không công một số ngày nhất định trong năm cho lãnh chúa.

Thứ hai, việc bóc lột giá trị thặng dư không thúc đẩy nhà tư bản (chứ không phải tư bản vì tư bản là quan hệ sản xuất, không phải là người) đến việc buộc phải sử dụng máy móc thay người. Như Marx đã lập luận trong chương 13 quyển 3 bộ "Tư Bản", việc nâng cao cấu tạo hữu cơ tức là sử dụng nhiều tư liệu sản xuất (không chỉ máy móc mà còn cả nguyên vật liệu) hơn so với lao động là xu hướng tất yếu thể hiện sự tiến bộ sức sản xuất xã hội, nhà tư bản buộc phải tuân theo xu hướng ấy. Một điều cần nhắc nữa là tác giả hiểu sai hoàn toàn về vấn đề giảm số lượng lao động một cách tuyệt đối. Theo Marx giá trị của máy móc nguyên vật liệu sẽ tăng lên so với tiền lương, còn số lượng lao động tuyệt đối có thể tăng lên, giảm xuống hoặc giữ nguyên. Ví dụ một nhà tư bản có một cái máy trị giá 10 triệu đồng và 2 triệu đồng để thuê nhân công thì khi nhà tư bản đầu tư tăng giá trị máy móc lên gấp đôi, số tiền thuê nhân công sẽ không tăng thêm tương ứng là 2 triệu đồng mà có thể chỉ là 1 triệu đồng thôi. Với 20 triệu tiền máy và 3 triệu tiền thuê nhân công thì số lượng nhân công nhà tư bản thuê còn tùy thuộc vào mức tiền lương cho mỗi nhân công nữa, nếu tiền công được giữ nguyên thì số lượng công nhân sẽ tăng gấp rưỡi nhưng nếu tiền công tăng gấp rưỡi thì số nhân công được thuê sẽ không tăng thêm. Lập luận là dùng máy móc thay thế nhân công thì sẽ đến lúc không còn nhân công để bóc lột nữa để phản bác Marx chỉ là sự hiểu sai Marx.

Thứ ba, Marx đã chứng minh rất rõ trong chương viết về xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận bình quân ở quyển 3 bộ "Tư Bản" là khi sử dụng nhiều tư liệu sản xuất hơn so với lao động thì thứ bị giảm sút là tỷ suất lợi nhuận bình quân, trong khi khối lượng lợi nhuận vẫn tăng lên. Lập luận trong đoạn trích hoàn toàn không phải là của Marx.

Thứ tư, lý thuyết của Marx không có gì sai khi ngày nay máy móc được sử dụng thay cho người mà khối lượng lợi nhuận vẫn tăng, bởi vì chính Marx cũng đã lập luận như vậy. Tỷ suất lợi nhuận bình quân suy giảm mới là tai họa của chủ nghĩa tư bản. Khủng hoảng là do tỷ suất lợi nhuận bình quân giảm sút chứ không phải là do khối lượng lợi nhuận giảm sút như tác giả gán cho Marx.

Thứ năm, tác giả đã đưa quan niệm lợi nhuận là không chỉ do lao động mà phần lớn do sản phẩm tri thức tạo ra. Nhưng cách nói này cũng sai nốt, vì các nhà kinh tế học tư sản từ hàng trăm năm nay đã cố gắng chứng minh rằng tri thức tạo ra lợi nhuận, hay lợi nhuận là sản phẩm của tri thức, nói sản phẩm tri thức tạo ra lợi nhuận thì thật vô nghĩa. Mặt khác, khi cả lao động và tri thức cùng tạo ra lợi nhuận mà tri thức có thể được biến thành tư bản để cùng thu lợi nhuận thì lao động cũng có thể biến thành tư bản để cùng chia sẻ lợi nhuận. Người công nhân sẽ tự thuê bản thân mình thay vì làm việc cho nhà tư bản.

Thứ sáu, Marx khẳng định lao động tạo ra giá trị, nhưng lao động đó không phải là lao động cụ thể như chân tay hay trí óc mà là lao động trừu tượng, tức là sự tiêu hao sinh lực của con người. Gán cho Marx cái quan niệm chỉ có lao động chân tay mới tạo ra giá trị để phủ nhận bằng quan niệm lao động trí óc mới tạo ra giá trị lớn hơn chính là xuyên tạc Marx.

Hiện nay phong trào nghiên cứu kinh tế chính trị Marxist rất phát triển ở các nước phương Tây. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ năm 2008 đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu kinh tế chính trị Marxist như Fred Moseley, Andrew Kliman, Deepankar Basu, Micheal Thomas, Guglielmo Carchedi sử dụng lý thuyết của Marx để giải thích khủng hoảng kinh tế rất thành công, một trong những tác phẩm đáng chú ý là cuốn "The Failure of Capital Production" xuất bản năm 2009 của giáo sư người Mỹ Andrew Kliman. Nhưng có lẽ chưa có nhiều người Việt được tiếp cận với những thành tựu trên. Còn về phía phản bác lý thuyết khủng hoảng của Marx thì đã có hàng sa số các lập luận kể từ Ladislaus von Bortkiewiecz tới định lý của Nobuo Okishio đã được giới học giả phương Tây bàn thảo rộng rãi trong suốt nửa thế kỷ qua, phần lớn sự phản bác Marx về sau này đều dựa trên các lập luận đó, song có lẽ những người phản bác Marx ở Việt Nam cũng không hề biết tới.

Saturday, May 17, 2014

Những vị chúa doanh nghiệp của Hoa Kỳ

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết ngắn "The Corporate Gods of America" của Robert Fatina. Bài viết bày tỏ những ưu tư về một xã hội đặt lợi nhuận của doanh nghiệp lên trên hết.

Có ai hoài nghi rằng Hoa Kỳ được cai trị vì lợi ích của doanh nghiệp? Công thức cao quý “vì nhân dân” đã biến mất trong đám bụi thần diệu tưởng tượng nhiều thế hệ trước đây.

Trong thiên niên kỷ mới, bất cứ yêu sách nào phục vụ nhân dân, hơn là doanh nghiệp, bị loại bỏ ngay; dường như, những người được lựa chọn, hay còn được gọi là đại diện, và các doanh nghiệp sở hữu họ, được thuyết phục rằng 99% đã hoàn toàn bị ru ngủ bởi niềm tin gà gật kiểu như Hoa Kỳ là quốc gia vĩ đại nhất thế giới, và điều gì tốt cho kinh doanh thì cũng tốt cho họ. Những người còn mang niềm tin kỳ quái ấy xin hãy xem qua những sự thật rất cơ bản và sơ đẳng:

* Luật an toàn. Bị doanh nghiệp chống lại, các luật an toàn lỏng lẻo hay không-tồn tại đem lại lợi ích cho những doanh nghiệp nhỏ với chi phí do các cá nhân gánh chịu. Nhồi nhét nhiều công nhân hơn vào một nhà máy có thể gây ra nhiều nguy hiểm cho sức khỏe của họ, nhưng nhiều công nhân hơn thì sản xuất nhiều hàng hóa hơn, và điều đó tốt cho doanh nghiệp

* Các tiêu chuẩn về xả thải. Các tiêu chuẩn đó cho phép hàng triệu người được sống trong một bầu không khí ít nhất là chấp nhận được, cũng như có nguồn nước uống dễ chịu. Nhưng việc doanh nghiệp buộc phải phải giảm lượng chất thải mà họ xả vào không khí và/hay nguồn nước lại tốn tiền, mà không đem lại bất cứ khoản thu nào. Khi không có doanh thu cho khoản đầu tư, doanh nghiệp chống lại các tiêu chuẩn đó. 

* Lương tối thiểu. Duy trì lương tối thiểu thấp làm gia tăng lợi nhuận doanh nghiệp trong khi buộc hàng sa số cá nhân và gia đình phải sống trong sự nghèo đói, một sự cộng thêm cho doanh nghiệp. Điều đó cho phép các giám đốc doanh nghiệp nhận được hàng triệu dollar tiền lương và thưởng, trong khi công nhân của họ chỉ đủ tiền mua thực phẩm, những người giàu có ấy dành riêng các hàng hóa xa xỉ như giáo dục cấp cao hơn cho bản thân hay cho con cái họ. Thêm vào chi phí cắt cổ của giáo dục cấp cao hơn là các khoản cho vay sinh viên với lãi suất cao đến nản lòng, và một lực lượng lao động thiếu giáo dục, tuyệt vọng sẽ hài lòng vớ lấy bất kỳ công việc nào với lương tối thiểu, và sẽ lưỡng lựu khi yêu cầu bất cứ thứ gì tốt hơn.

* Nước ngoài. Rất nhiều, nếu không phải là phần lớn, các doanh nghiệp lớn chuyển việc làm tới các quốc gia có mức lương gần như lương của nô lệ, không có tiêu chuẩn an toàn, giúp ích cho những kẻ tìm kiếm lợi nhuận, trong khi lấy đi của công dân Mỹ hàng triệu việc làm. Sự hủy hoại đối với sức khỏe và hạnh phúc của công nhân ngoại quốc không phải là mối bận tâm của các doanh nghiệp đang thuê họ làm việc.

* Phá hủy hay làm suy yếu các công đoàn. Trong nhiều thế hệ, các công nhân liên hiệp có thể tăng phần của mình thông qua đàm phán tập thể. Hiện nay, mặc dù vậy, các doanh nghiệp, cùng với quan chức chính phủ được họ mua và trả tiền, đang cố gắng làm suy yếu hay phá hủy các công đoàn. Ví dụ, ở Wincosin trong cuộc bỏ phiếu tín nhiệm năm 2012, có khoảng 66% nguồn tài trợ của thống đốc chống công đoàn Scott Walker đến từ bên ngoài bang, nhiều trong số đó là từ các nhóm kinh doanh bảo thủ, bao gồm anh em nhà Koch và Sheldon Anderson. Tổng cộng khoản đóng góp của ông Walker là 30,5 triệu dollar. Đối thủ của ông ta, Tom Barrett, nhận được khoảng 26% trong số 4 triệu dollar từ các nhóm bên ngoài.

* Doanh nghiệp kiểm soát truyền thông. Vào năm 1983, khoảng 15 công ty sở hữu 90% truyền thông Hoa Kỳ. Ngày nay, chỉ có sáu công ty sở hữu 90% truyền thông. Điều đó có nghĩa là 232 giám đốc truyền thông kiểm soát cái mà 277 triệu công dân Hoa Kỳ xem. Tại sao họ lại không muốn công dân chỉ xem những “tin tức” và “thông tin” sẽ nâng cao giá trị của các cổ đông, và cùng với điều đó là lương của họ? 

Tòa án tối cao đồng lõa với tất cả những điều đó. Một pháo đài cuối cùng của việc giải thích hiến pháp, công lý ngày nay, đôi khi dường như đã bị đốn hạ, sùng bái bàn thờ doanh nghiệp mà tòa án ủng hộ. Vào năm 2010, trong vụ Liên minh Công dân kiện Ủy ban bầu cử Liên bang, tòa án đã phán quyết rằng Tu chính án thứ nhất cấm các biện pháp giới hạn của chính phủ đối với quyên góp của “doanh nghiệp, hiệp hội hay công đoàn”. Điều đó mở ra cánh cổng tài chính cho phép những doanh nghiệp giàu có quyên góp không giới hạn cho các ứng cử viên sẽ phục vụ họ, trong khi chỉ mang lại lợi ích ít ỏi cho những người lao động bình thường.

Tất cả những điều đó không phải là hạt nhân chính của chủ nghĩa phát xít? Các mục tiêu của doanh nghiệp không phải là vị chúa tối cao, cùng với mối ưu tư cuồng tín về an ninh quốc gia, trong những cột trụ của nhà nước phát xít?

Mặc dù gần như tất cả các chính khách, tả, hữu và trung, quấn mình trong lá cờ Hoa Kỳ và tuyên bố về sự vĩ đại của điều tồi tệ Hoa Kỳ, dường như có nhiều công dân – động vật gặm nhấm, khi họ nhìn lá cờ, mở to đôi mắt ứa lệ và ủng hộ các chính sách cũng như chương trình phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp mà nhu cầu cơ bản của họ phải gánh chịu chi phí.

Phong trào “Chiếm đóng” tạo ra một bước chống lại thói quen tự hủy hoại đó, nhưng bất cứ phong trào nào cũng phụ thuộc vào việc phát hành, và truyền thông do doanh nghiệp sở hữu sẽ không chú ý tới những vấn đề không phục vụ cho lợi ích của bản thân. Truyền thông xã hội có thể là công cụ cuối cùng có thể, nhưng doanh nghiệp không quay lưng với giá trị đồng dollar của họ, hay các tác động tiềm tàng có thể nếu “nhân dân chúng ta” được phép kiểm soát. Mạng internet trung lập, nguyên tắc mà theo đó mọi website, dịch vụ và ứng dụng được nhà cung cấp dịch vụ Internet đối xử bình đẳng, đã thu hút sự chú ý của những người tìm kiếm sự giàu có cho bản thân, những cái két tiền đã phồng to. Với đề xuất mới của chính phủ Hoa Kỳ, các website sẽ nhận được dịch vụ tương ứng với khoản tiền mà họ sẵn sàng chi trả. Một lần nữa, những doanh nhân nhỏ, độc lập dựa vào sự nhân từ của những kẻ cạnh tranh lớn, và trong phần lớn các trường hợp không có cơ hội thành công.

Đó là cuộc sống ngày nay ở “xứ sở của cơ hội” được ca tụng nhiều nhất. Nếu ai đó đã giàu có sẵn, cơ hội có thừa. Mặc dù vậy, đối với 99% không có cơ hội, ồn ào tạo ra cơ hội cuối cùng có thể là điều tốt nhất.

Wednesday, February 26, 2014

Sự phi lý của kinh tế học hiện đại

Khoa kinh tế học hiện đại tuyên bố đưa ra một sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố sản xuất và mỗi bên tham gia nhận được phần tương xứng với đóng góp của mình để thay thế khoa kinh tế chính trị cổ điển vốn đi sâu vào phân tích quá trình sản xuất nên đã gây ra những xung đột về lợi ích giữa lao động và tư bản.

Mô hình sản xuất của khoa kinh tế học hiện đại bao gồm hai yếu tố là lao động và vốn. Lý thuyết về năng suất biên của vốn đã bị chỉ ra là chứa đựng đầy những điều phi lý và bế tắc ở bài này. Phần lý thuyết về năng suất biên của lao động cũng phi lý không kém, nhưng khoa kinh tế học hiện đại đã lén lút thủ tiêu chủ đề này đi. Trong hầu hết các sách giáo khoa về kinh tế học ngày nay phần phân tích về năng suất biên của lao động đã bị cắt bỏ, chỉ còn có thể tìm thấy chúng trong sách giáo khoa về kinh tế học của Paul Samuelson. Lý do chủ yếu bởi vì Paul Samuelson là đại biểu chính của phái Keynes, để trình bày lý thuyết về thất nghiệp bắt buộc, vốn là hòn đá tảng trong lý thuyết tổng quát của Keynes, thì không thể nào không trình bày khái niệm năng suất biên của lao động.

Khoa kinh tế học mô tả khái niệm năng suất biên của lao động là số lượng sản phẩm tăng thêm khi tăng thêm một đơn vị lao động trong khi các yếu tố đầu vào khác không đổi. Ví dụ minh họa bằng bảng sau:

Tổng số lao động        Tổng sản phẩm   Sản phẩm biên  Giá trị sản phẩm biên 
          1                                  5                         0                              0
          2                                  9                         4                              16
          3                                 12                        3                              12       
          4                                 14                        2                              8

Giả định là giá của sản phẩm đầu ra là 4, để tối đa hóa lợi nhuận thì nhà tư bản sẽ thuê 4 nhân công với mức lương là 8, tức là tiền lương của người công nhân sẽ bằng với giá trị sản phẩm biên của người lao động cuối cùng được thuê. Có ba điểm phi lý xảy ra trong phân tích này.

Thứ nhất, khoa kinh tế học hiện đại không giải thích được tại sao năng suất biên của lao động lại giảm. Tổng số lượng sản phẩm do 2 người kết hợp làm ra lại ít hơn tổng số lượng sản phẩm do 2 người làm việc riêng lẻ, điều này chống lại mọi kinh nghiệm thực tế cũng như khoa học về lao động. 

Thứ hai, mỗi người công nhân được thuê đều chỉ nhận được tiền lương là 8, bất kể năng suất lao động, đóng góp của họ ra sao. Tức là tiền lương không bằng với giá trị sản phẩm mà họ tạo ra. Điều này phản lại nguyên tắc công bằng mà khoa kinh tế học theo đuổi.

Thứ ba, phần chênh lệch giữa tổng giá trị sản phẩm biên và tổng tiền lương của công nhân (16+12+8)-(8x4) = 4 thuộc về nhà tư bản. Tức là nhà tư bản đã bóc lột những công nhân không ở vị trí marginal. Khoa kinh tế học hiện đại đã chứng minh sự hài hòa lợi ích giữa lao động và tư bản bằng sự bóc lột lao động.

John B. Clark, người tạo ra phân tích về năng suất biên của các yếu tố đầu vào đã cố gắng giải quyết vấn đề thứ ba bằng cách đưa ra giả định là năng suất biên của mọi người lao động là như nhau. Song điều đó lại mâu thuẫn với giả định năng suất biên giảm dần khiến cho động cơ tối ưu hóa lợi nhuận của nhà tư bản trở thành vô nghĩa.

Nhận rõ sự mâu thuẫn trong lý thuyết của John B. Clark nên sau khi trình bày phân tích về năng suất biên của lao động thì Paul Samuelson đã  tránh phải đi sâu hơn nữa vào vấn đề bằng cách lập luận rằng lý thuyết năng suất biên của lao động chỉ nhằm giải thích nhà tư bản sẽ quyết định thuê lao động ra sao khi mức lương đã được biết trước chứ không nhằm giải thích lương, tô hay lợi nhuận.

Giáo sư kinh tế học người Anh Roy H. Grieve sau khi thừa nhận những phi lý của khoa kinh tế học hiện đại đã tuyên bố rằng: "Ideological comfort was bought at the price of intellectual integrity", đó chính là lời thú tội của khoa kinh tế học hiện đại, nó đã vứt bỏ cái áo khoác của nhà khoa học và choàng lên mình chiếc áo chùng của thầy tu.

Tài liệu tham khảo:

1. E. K. Kunt and Mark Lautzenheiser: "Hisory of Economic Thought: A Critical Perspective"; Third Edition; M. E. Shape Publisher; New York 2011

2. Roy H. Grieve: "The marginal productivity theory of the price of capital: An historical perspective on the origins of the codswallop"; Link 2012

3. Marc Linder: "The Anti-Samuelson", Volume II: Microeconomic; Urizen Book; New York 1977

4. Michael Perelman: "The End of Economics"; Routledge Publisher; New York 1996