Showing posts with label Hàn Quốc. Show all posts
Showing posts with label Hàn Quốc. Show all posts

Thursday, December 31, 2015

Phim Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao và cái chết của điện ảnh Hoa Kỳ

Điện ảnh là chính trị, tất nhiên có nhiều người sẽ phản đối điều này. John Wight trong bài "Star Wars and the Death of American Cinema" đã mô tả quá trình thành công của những bộ phim bom tấn ăn khớp với sự tiến triển của bối cảnh chính trị Hoa Kỳ. Những người hoài nghi về thứ điện ảnh phi chính trị có thể hiểu rõ hơn cơ chế phức tạp mà chính trị tác động tới điện ảnh, phức tạp hơn nhiều so với câu chuyện tào lao kiểu như Kim Jong-un của Triều Tiên ra lệnh cho nhà làm phim nào đó sản xuất bộ phim ca ngợi chủ tịch quá cố Kim Jong-il mà những người ủng hộ điện ảnh phi chính trị vẫn bám lấy. 

Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao và cái chết của điện ảnh Hoa Kỳ

“Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao” là câu chuyện đơn giản, kể một các đơn giản, về cái tốt đối đầu với cái xấu, ánh sáng đối đầu với bóng tối, tự do đối đầu với sự bạo ngược. Hay nói một cách khác là câu chuyện về một nước Mỹ cố gắng đấu tranh để bảo vệ dân chủ và văn minh trong một thế giới bị cái xấu và “những kẻ làm điều xấu” bao vây.

Điện ảnh và tuyên truyền chính trị từ lâu đã đồng hành với nhau. Nếu như có bất cứ phương tiện nào phù hợp với tuyên truyền thì đó phải là điện ảnh. Nếu như có ngành công nghiệp nào được coi là đã tạo ra một sự thay thế hiện thực hiệu quả đến mức đã thuyết phục được nhiều thế hệ người Mỹ và các dân tộc khác về một thế giới bị đảo ngược, đen thành trắng, trái thành phải, thì đó phải là Hollywood. 

George Lucas, tác giả kịch bản phim Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao, bao gồm cả phần mới nhất, đã tạo ra bảy bộ phim kể từ phần đầu tiên xuất hiện năm 1977, cùng với Steven Spielberg là con đẻ của sự phản ứng trước phong trào phản văn hóa Mỹ những năm 1960 và đầu những năm 1970. 

Bằng những sản phẩm của cả hai trong những năm 60 – một thập kỷ mà văn hóa và nghệ thuật, nhất là là điện ảnh, là mặt trận kháng chiến chống lại tổ hợp công nghiệp quân sự Hoa Kỳ - Lucas và Spielberg trở nên sáng chói vào giữa những năm 1970 với những bộ phim gán cho chính quyền vai trò kẻ bảo vệ và áp đặt luân lý quốc gia thay vì đả phá hay hoài nghi về nó. Đây là thời kỳ điện ảnh Hoa Kỳ có văn hóa sống động, chói lọi và được chào đón nhất - thời kỳ đã sản sinh ra những bộ phim kinh điển như ‘Bonnie and Clyde’, ‘MASH’, ‘The Last Detail’, ‘The French Connection’, ‘The Wild Bunch’, ‘Taxi Driver’, ‘Apocalypse Now’ – cùng với phim “Jaws” của Spielberg năm 1975, sau đó là phim “Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao” của Lucas vào năm 1977. Những bộ phim trước khiến người Mỹ sợ hãi, còn những bộ phim sau lại khiến người Mỹ cảm thấy yên ổn.

Cả hai bộ phim cùng tạo ra khái niệm về phim bom tấn, trong đó khán giả được khuyến khích cảm giác thay vì suy lý, cho phép họ đẩy lùi sự hoài nghi và thoát khỏi thực tại, thay vì chia sẻ kinh nghiệm của sự đối đầu, thông qua những câu chuyện về các nhân vật xa lạ thể hiện sự tức giận, thất vọng, bực bội và sự chống đối mà bản thân họ đã trải qua trong cuộc sống, do vậy tạo ra cảm giác đoàn kết.

Đó là kỷ nguyên của phản anh hùng, những nhân vật chính mà đối với họ là hệ thống và sự tuân phục là kẻ thù, cũng như những ai hành động đơn độc bất chấp hậu quả. Sự hoài nghi về thẩm quyền cũng như sự thật đập vào mắt đã phản ánh về một đất nước có người còn trẻ và không còn trẻ đang khát khao sự thay đổi lớn lao. Chiến tranh ở Việt Nam, Watergate, phong trào đòi quyền công dân của người da màu cũng như phong trào quốc gia đã lay chuyển xã hội Hoa Kỳ và cùng với nó là văn hóa và thẩm quyền văn hóa.

Nhưng vào giữa những năm 1970, cùng với sự kết thúc Chiến Tranh Việt Nam và phản văn hóa đã thoái trào, sự xa lạ, giận dữ cũng như nổi loạn cần phải được đóng lại và huyền thoại về giấc mơ Mỹ cũng như dân chủ cần phải được phép tiếp tục thống trị.

Trong cuốn sách lịch sử vô song về thời kỳ sống động của điện ảnh Hoa Kỳ - “Easy Riders, Raging Bulls” – tác giả và nhà phê bình văn hóa Peter Biskind viết:
“Sau tác động của đối với marketing và thương mại hóa điện ảnh, bộ phim Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao còn có tác động mạnh mẽ đối với văn hóa. Nó được hưởng lợi từ sự kiểm duyệt của chính quyền Carter [tổng thống Jimmy Carter], sự dịch chuyển về trung tâm sau khi kết thúc Chiến Tranh Việt Nam.”
Sự dịch chuyển về trung tâm này trở thành sự dịch chuyển sang cánh hữu dưới thời Reagan, thể hiện ở Hollywood sự trì trệ về văn hóa cũng như nghệ thuật, mà các nhà đạo diễn như Spielberg và Lucas trở nên ít quan tâm tới câu chuyện và tính cách, tập trung hơn vào hình ảnh. Lớn hơn, ồn ào hơn và giàu có hơn là câu thần chú khi mà tính cách hai mặt và cốt truyện cho khả năng hình dung và sức tưởng tượng của đứa nhóc mười tuổi chiếm địa vị thống trị. 

Biskind viết:
“Lucas hiểu rằng thể loại và quy ước điện ảnh phụ thuộc vào sự đồng thuận, tập hợp các giả định được chia sẻ đã kết thúc vào những năm 1960. Ông ta tái tạo và tái khẳng định những giá trị đó, Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao cùng với chủ nghĩa luân lý bảo thủ Manichean của nó, trắng là trắng mà đen là đen, đã khôi phục các giá trị bị bóp nghẹt như chủ nghĩa anh hùng và chủ nghĩa cá nhân.” 
Phần mới nhất của Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao, do J. J. Abrams đạo diễn, Lucas chỉ còn được nhắc đến trong lời cảm ơn sau khi đã bán thương quyền cho hãng Disney vào năm 2012 với giá 4,05 tỷ dollar. Bạn đừng ngạc nhiên; ông ta bán nó với giá 4,05 tỷ dollar. Chừng đó tiền đủ để mua cho bạn cả núi kiếm ánh sáng.

Hãng Disney và Abrams đã kịp thời khi thương quyền đến hạn tái đăng ký, đưa bộ phim quay lại nguyên bản của nó với sự trở lại của Han Solo (Harrison Ford), công chúa Leia (Carrie Fisher), Luke Skywalker (Mark Hamill), cũng như những nhân vật được yêu thích là Chewbacca và R2D2. Trong phần giới thiệu về Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao còn có sự xuất hiện của phi thuyền không gian Millennium Falcon của Han Solo. Nhân vật phản diện trong phim, Darth Vader, được gọi là Kylo Ren, do Vladimir Putin…xin lỗi Adam Driver đóng. Một điểm thú vị nằm trong sự thay đổi của cốt truyện với những nhân vật này. Hãy lưu ý rằng, chúng ta đang nói về sự “đáng chú ý” liên quan đến phần còn lại của cốt truyện. Chúng ta không nói về Roman Polanski và “Chinatown” ở đây.

Bộ phim cũng có những vai chính cho hai người tương đối vô danh, cả hai đều là người Anh: Rey, có đôi mắt biết kể chuyện, do Daisy Ridley đóng, còn Finn do John Boyega đóng.

Sau tất cả những sự cường điệu quanh sự phát hành bộ phim cũng như các đánh giá say sưa mà nó thu nhận được, phần mới nhất của thương quyền Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao kéo dài và không nguyên bản – “Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao: The Force Awakens” – rối rắm và rập khuôn khó chịu cho thấy nó không thể phát triển mà không có vấp váp.

Dĩ nhiên, khía cạnh tranh cãi nhất của bộ phim không phải là cuộc chiến giữa cái tốt và cái xấu như nó thể hiện mà là tin tức Harrison Ford được trả cao gấp 76 lần diễn viên mới Daisy Ridley để tham gia vào bộ phim. Gói thù lao của diễn viên 73 tuổi này bao gồm tiền thù lao cho vai chính là 20 triệu dollar cộng với 0,5% của doanh thu trước thuế của phim, vốn được dự báo là khoảng 1,9 tỷ dollar.

Đó là bằng chứng cho thấy câu chuyện về nước Mỹ không phải là cái tốt đối đầu với cái xấu hay ánh sáng đối đầu với bóng tối. Trái lại, đó là câu chuyện về kẻ siêu giàu đối đầu với mọi người còn lại.

John Wight is the author of a politically incorrect and irreverent Hollywood memoir – Dreams That Die – published by Zero Books. He’s also written five novels, which are available as Kindle eBooks. You can follow him on Twitter at @JohnWight1

Monday, November 16, 2015

Phản công ở Hàn Quốc

Gregory Elich trong bài "Fightback in Korea" đã chỉ ra mấu chốt của cuộc biểu tình lớn ở Hàn Quốc. Chính quyền và doanh nghiệp Hàn Quốc đang tìm cách tước bỏ quyền lợi của công nhân bằng kế hoạch cải cách lao động. Hàn Quốc đang đi theo con đường của chủ nghĩa tân tự do, tuy có chậm hơn so với Hoa Kỳ và Châu Âu. Tiền lương và phúc lợi của công nhân sẽ bị cắt giảm để doanh nghiệp có thêm lợi nhuận. Đây là nỗ lực kéo doanh nghiệp trở lại Hàn Quốc đầu tư, sau khi các tập đoàn lớn của Hàn Quốc đã chuyển sang đầu tư ở các nước có nhân công giá rẻ hơn. Hiện tượng phổ biến này cho thấy rõ rằng công nhân không thể đấu tranh đơn lẻ ở một quốc gia mà cần đến một phong trào công nhân quốc tế.

Phản công ở Hàn Quốc

Trong bầu không khí gia tăng đàn áp, chính quyền Park Geun-hye ở Hàn Quốc tiến hành loạt tấn công mới nhất vào người dân lao động. Một kế hoạch cải cách lao động tồi tệ đang được triển khai, nhằm mục đích giảm lương và phá vỡ sự ổn định của công ăn việc làm. Công nhân và nông dân đã tham gia đấu tranh trên đường phố, đây là sự phản kháng rộng rãi và quyết định đối với kế hoạch này.

Cải cách lao động được triển khai với một danh sách các biện pháp đáng mơ ước mà chủ doanh nghiệp theo đuổi, họ hy vọng thấy lợi nhuận tăng vọt. “Từ phía cầu, chúng ta phải cắt giảm gánh nặng của doanh nghiệp có thuê nhân công bằng cách làm cho thị trường linh hoạt hơn,” bộ trưởng bộ tài chính Choi Kyung-hwan khẳng định. (1) “Sự linh hoạt” tưởng tượng, không có gì ngạc nhiên, được coi là chỉ phụ thuộc vào công nhân.

Một trong những mục tiêu chủ chốt của kế hoạch là phổ biến việc sử dụng lao động thời vụ. Trong số các quốc gia của Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế và Phát Triển (OECD), Hàn Quốc đã xếp hạng cao nhất về mức độ sử dụng lao động thời vụ, chiếm 1/5 lực lượng lao động. (2) Công nhân thời vụ đặc trưng nhận được ít hoặc không có phúc lợi, lương của họ chỉ bằng 2/3 lương của lao động cố định. Đối với công nhân bán thời gian, tình hình còn tồi tệ hơn, lương chỉ hơn chút xíu so với một nửa lương của lao động cố định. (3) Vì những lý do rõ ràng, doanh nghiệp muốn áp dụng sự sắp xếp này cho một bộ phận lớn hơn của lực lượng lao động.

Cải cách lao động gia tăng gấp đôi thời gian một công nhân được thuê theo thời vụ, kéo dài tới 4 năm. Phạm vi của cách ngành sử dụng công nhân thời vụ cũng được mở rộng. Khi hợp đồng thuê lao động hết hạn, không có gì ngăn cản doanh nghiệp thuê lại chính công nhân đó trong thời gian 4 năm tiếp theo, cũng với mức lương thấp như cũ.

Một biện pháp sẽ phá hủy sự bảo vệ đối với công ăn việc làm ổn định là cho phép các doanh nghiệp đơn phương sa thải công nhân, dựa trên các yếu tố khách quan. Cải cách lao động cũng tạo cho doanh nghiệp quyền được đơn phương thay đổi quy định về nơi làm việc. Nhóm doanh nghiệp dẫn chứng luật hợp đồng lao động năm 2007 làm hình mẫu, luật này cho phép các doanh nghiệp “điều chỉnh quy định về lao động mà không cần sự đồng thuận của người lao động… nhằm giúp doanh nghiệp thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.” Theo quan điểm của doanh nghiệp, tỷ lệ công đoàn thấp của Hàn Quốc vẫn là quá cao và “việc sử dụng công nhân thay thế phải được phép để đáp lại các yêu cầu vô lý thông qua bãi công của công đoàn.” (4)

Điều gây tranh cãi nhất trong cải cách lao động là việc áp dụng hệ thống lương tối đa, theo đó doanh nghiệp không chỉ được phép mà còn được khuyến khích cắt giảm lương của công nhân khi họ đến tuổi 55. Chính quyền đang bán rao quy định này như là một giải pháp đối với tỷ lệ thất nghiệp cao của thanh niên. Lập luận được đưa ra là tiền mà doanh nghiệp tiết kiệm được bằng cách giảm lương của công nhân có kinh nghiệm sẽ giúp họ thuê nhiều lao động trẻ tuổi hơn. Logic này thật kỳ quặc. Một doanh nghiệp thuê số lao động mà nó cảm thấy cần. Cắt giảm lương của một bộ phận nhân công không tự động tạo ra các vị trí mới. Mặt khác, theo quan điểm của doanh nghiệp, lợi thế chủ yếu của việc thuê lao động trẻ tuổi là họ có thể trả mức lương khởi điểm thấp. Nếu cắt giảm thu nhập của công nhân có kinh nghiệm thì doanh nghiệp lại càng có ít động lực để thuê lao động trẻ tuổi. 

Doanh nghiệp bị tiền mặt hấp dẫn nhưng họ lại ngại ngần về chi tiêu. Chính quyền đã giảm thuế doanh nghiệp ba điểm phần trăm, một nỗ lực thất bại để thúc đẩy đầu tư. Trái lại, khuynh hướng của doanh nghiệp là tích lũy tiền mặt. (5) 1.835 doanh nghiệp đăng ký tại Sở Giao Dịch Hàn Quốc sở hữu dự trữ tiền mặt lên tới 845 nghìn tỷ won – tương đương với 730 tỷ dollar. Hiện tượng này đã gia tăng 159% so với năm 2008. (6) Hơn nữa, trong bốn thập kỷ qua, doanh nghiệp Hàn Quốc đã tăng gấp ba lần lượng tiền mặt họ cất giữ trong các tài khoản quốc tế. (7) Không có lý do gì để tin rằng việc quẳng thêm tiền vào núi tiền mặt của doanh nghiệp sẽ khuyến khích doanh nghiệp thuê thêm lao động trẻ. 

Trong khi đó, chính quyền thông báo ý định gia hạn tuổi nhận khoản lương hưu và phúc lợi nghèo nàn lên 70 tuổi. Gần một nửa công dân già sống dưới mức nghèo khổ, con số này sẽ gia tăng với kế hoạch của chính quyền. Những người đủ may mắn để giữ được việc làm sẽ bị buộc phải làm việc với mức lương thấp trong khi những người còn lại phải dựa vào con cái để sinh sống. Với độ tuổi nghỉ hưu mới, công nhân già hơn sẽ giữ việc làm trong thời gian dài hơn, chính quyền được cho là không muốn giải phóng những chỗ làm đó cho công nhân trẻ.

Sự quan tâm giả tạo đối với thanh niên là bình phong che đậy cho những người thực sự hưởng lợi từ cải cách lao động. Doanh nghiệp thu được lợi nhuận khổng lồ từ việc cắt giảm lương của công nhân lớn tuổi cũng như gia tăng sử dụng lao động thời vụ. Nỗ lực đẩy người trẻ đối đầu với người già là mánh lừa gạt trong cẩm nang tân tự do cũ kỹ, nhằm mục đích đánh lạc hướng công nhân ra khỏi các đầu mối chính trị. Kế hoạch được doanh nghiệp ủng hộ chỉ là tạo thêm công việc thời vụ cho thanh niên và lời hứa hão.

Giáo dục đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của thanh niên, bộ trưởng bộ tài chính Choi có một tầm nhìn cho tương lai của giáo dục. Ông ta thông báo rằng một sự tiến bộ đã được tạo ra cho cải cách lao động, chính quyền dự định tái cấu trúc hệ thống giáo dục. “Đại học phải có khả năng cung cấp các tài năng mà công nghiệp muốn,” ông ta khẳng định. Đây lại là một lập luận khác từ cẩm nang lừa gạt tân tự do cũ kỹ, theo đó khái niệm về giáo dục tạo ra các công dân được có hiểu biết và hoàn thiện được ném qua cửa sổ. Thay vào đó, vai trò cao quý của giáo dục chẳng là gì ngoài việc đào tạo nghề. Trên hết, đâu là sự tốt đẹp của kiến thức không trực tiếp phục vụ cho lợi nhuận của doanh nghiệp? 

Nhiều sinh viên hoài nghi về lập trường của chính quyền. Một nhóm sinh viên có tên là Misfits đã gửi thư cho Choi, nói rằng: “Chúng tôi không bất bình vì những công nhân bình thường được bảo vệ quá mức. Chúng tôi bất bình vì các công nhân thời vụ không được đảm bảo các phúc lợi như công nhân bình thường.” (8)

Doanh nghiệp cần phải cắt giảm lương của công nhân lớn tuổi, chính phủ của Park Geun-hye khẳng định, bởi vì công nhân già có năng suất kém hơn khi cao tuổi. Cũng với lý do tương tự, doanh nghiệp phải được tự do sa thải công nhân khi họ thấy giá trị giảm đi. Đâu là cơ sở của khẳng định này? Không có bằng chứng nào ủng hộ định kiến này, thực sự là những công nhân già nói chung tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong vị trí của họ.

Chính quyền và doanh nghiệp khẳng định rằng năng suất trì trệ là do công nhân được bảo vệ quá mức. Mặc dù vậy, vào thời kỳ 2007-2012, tiền lương thực tế giảm 2,3% trong khi năng suất lao động tăng gần 10%. (9) Ai thiệt hại? Năng suất lao động gia tăng không đi cùng với tăng lương để gia tăng bóc lột công nhân. Mối lo ngại thực tế của lãnh đạo doanh nghiệp là tỷ suất bóc lột không tăng đủ nhanh để thỏa mãn họ.

Cải cách lao động của chính quyền sẽ không được áp dụng đơn lẻ. Chính quyền đã cấm công đoàn giáo viên và nhân viên chính quyền, cũng như đảng Tiến Bộ Thống Nhất dựa trên các bản án vu cáo. Cảnh sát đã thường xuyên đột kích các văn phòng công đoàn, thu giữ hồ sơ và bắt giữ các cán bộ công đoàn. Theo khuynh hướng không khoan nhượng, doanh nghiệp kiện công nhân ra tòa vì “tổn thất lợi nhuận” khi công nhân đình công và tòa án thường xuyên phán xét có lợi cho doanh nghiệp. Trong một vụ kiện mới đây, điển hình cho khuynh hướng này, tòa Thượng Thẩm Seoul đã yêu cầu 139 công nhân trả tổng cộng 2,8 triệu dollar cho công ty Ssangyong Motor vì tổ chức bãi công “bất hợp pháp”. (10) Điều đó có nghĩa là mỗi công nhân phải trả hơn 20.000 dollar.

Những người nắm quyền lực “đã khiến công nhân sợ hãi rằng đấu tranh có thể dẫn đến mất tất cả,” Han Sang-kyun, chủ tịch của Tổng Liên Đoàn Công Đoàn Hàn Quốc (KCTU), giải thích. “Khoản tiền phạt khổng lồ và tịch thu tài sản cho những cái được gọi là thiệt hại, lệnh bắt giam, sa thải, giải tán các công đoàn dân chủ - đó là những hình thức trừng phạt đối với những người dám đấu tranh. Một sân chơi không công bằng, trong đó chính quyền nhất quán đứng về phía tư bản, đã phá hủy nghiêm trọng các quyền của công nhân.”

Han kể về kinh nghiệm của ông, đã bị bỏ tù ba năm vì vai trò trong cuộc đình công ngồi ở nhà máy sản xuất của công ty Ssangyong Motor. Hiện nay, ông không thể đi ra khỏi văn phòng, bị hàng trăm cảnh sát bao vây, chờ để bắt giữ ông ngay khi ông ra khỏi tòa nhà.

Trong một nỗ lực đe dọa KCTU, vào ngày 6 tháng 11, khoảng 200 cảnh sát đã đột kích trụ sở của một thành viên Tổng Liên Đoàn, Công Đoàn Công Nhân Vận Tải và Dịch Vụ Công Cộng. Cảnh sát đã tịch thu hồ sơ và ổ cứng máy tính, sau đó thâm nhập và tìm kiếm các văn phòng chi nhánh của công đoàn. Lệnh bắt giữ mười hai thành viên của công đoàn đã được phát ra.

Công nhân bị đàn áp dữ dội, nhưng vẫn chưa đủ để xoa dịu doanh nghiệp. Doanh nghiệp Hàn Quốc coi cải cách lao động chỉ là một bước trong việc tước đoạt lợi ích của công nhân. Một thông cáo được Tổng Liên Đoàn Lao Động Hàn Quốc, phòng Thương Mại và Công Nghiệp Hàn Quốc, cũng như ba nhóm doanh nghiệp khác ký tên nêu rõ rằng kế hoạch cải cách lao động “không đủ để làm cho thị trường lao động linh hoạt hơn,” và “thậm chí là chưa tiến đến gần với cải cách lao động mà xã hội của chúng ta cần.” Công nhân có thể sẽ phải nhận nhiều cuộc tấn công hơn. “Doanh nghiệp sẽ không ngừng thúc đẩy nỗ lực làm cho thị trường lao động linh hoạt hơn,” bản thông cáo cảnh báo. (11)

Phản kháng đang gia tăng, một cuộc tuần hành quy mô lớn ở Seoul được tổ chức vào ngày 14 tháng 11 nhằm lôi kéo khoảng 100.000 người biểu tình. Năm mươi ba tổ chức đã liên kết để tổ chức hành động, trong đó có KCTU, Liên Minh Nông Dân Hàn Quốc và Liên Minh Phụ Nữ Quốc Gia. Các cuộc tuần hành đơn lẻ cũng được tổ chức tại khắp các nơi ở Seoul, sau đó tất cả các nhóm tập hợp lại thành một cuộc biểu tình lớn ở Gwanghwamun Plaza.

Trong khi động cơ tức thời của cuộc biểu tình là kế hoạch cải cách lao động thì những bất bình đối với chính quyền bảo thủ lại có rất nhiều. Liên minh đã cho thấy phạm vi các yêu cầu trải rộng xung quanh mục tiêu được cuộc biểu tình hướng tới, khung cảnh chung là kêu gọi chấm dứt đàn áp cũng như tiến tới một xã hội hướng tới người dân nhiều hơn. (12)

Nông dân được cho là biểu dương sức mạnh, thể hiện sự bất bình đối với việc ký kết hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương, mà bộ nông nghiệp Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng sẽ “phá vỡ các rào cản thị trường đối với nhà xuất khẩu Hoa Kỳ.” (13) Điều đó sẽ khiến nhiều nông dân Hàn Quốc bị thiệt hại, nhiều người trong số họ có thể sẽ phá sản. Kim Yeong-ho, chủ tịch của Liên Minh Nông Dân Hàn Quốc, lên án chính phủ Park Geun-hye về việc “tạo ra một cấu trúc bóc lột thường xuyên.” Ông nói thêm: “Họ đang cố gắng tước đoạt dân chủ…. Đó là lý do chúng tôi biểu tình vào ngày 14 tháng 11 – cho công nhân, nông dân, thanh niên và sinh viên để thể hiện những gì đang diễn ra và báo động.”

KCTU đã “ném mọi thứ vào cuộc chiến này,” chủ tịch Han Sang-kyun của KCTU nói. Nếu chính quyền tiếp tục triển khai cải cách lao động, “chúng tôi đã chuẩn bị tiến hành tổng bãi công. Lần này sẽ không phải là bãi công một ngày. Chúng tôi nói về việc ngừng sản xuất, xe tải chở hàng hóa ngừng chạy, công nhân đường sắt và tàu điện ngầm bãi công bất hợp pháp, làm tê liệt đất nước đến mức chính quyền sẽ cảm thấy thiếu công nhân. Đấy là điều mà chúng tôi chuẩn bị.” 

Đấu tranh đang trở nên nóng bỏng ở Hàn Quốc, một nước mà truyền thông doanh nghiệp phương Tây chắc chắn là sẽ bỏ qua. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải đi theo con đường lảng tránh của họ. Người dân Hàn Quốc đang mong đợi sự đoàn kết của chúng ta đúng vào lúc mà họ cần tới. 

Notes.

1) “Rethinking Labor Reform,” Korea Times, August 17, 2015

2) Choonsik Yoo, “In South Korea, Park’s Revamp of Rigid Labor Laws Faces Opposition,” Reuters, September 23, 2015.

3) Kim Bok-soon, “Comparison of Wages and Working Conditions by Size of Enterprise,” Issue Paper, Labor News, No. 160, Korea Labor Institute, August 25, 2015.

4) Statement, “Business Stance on the Labor Reform,” The Korea Employers Federation, The Korea Chamber of Commerce and Industry, The Federation of Korean Industries, The Korean Federation of Small and Medium Business, The Korea International Trade Association, August 31, 2015.

5) “S. Korean Firms’ Cash Reserves Hit Record High,” Korea Herald, February 16, 2015.

6) Samsung, Hyundai Motor Groups Pare Cash Reserves in H1,” Yonhap, September 13, 2015.

7) Michael Herh, “Korean Companies’ Offshore Balances Tripled Over Last 4 Years,” Business Korea, October 1, 2015.

8) Kahyun Yang, “With Jobs Scarce, South Korean Students Remain on Campus,” Reuters, January 5, 2015.

9) Wol-san Liem, “Overview of the Korean Labor Movement: the Current Moment,” Korean Public Service and Transport Workers’ Union.

10) “Ssangyong Labor Union Ordered to Pay Compensation for Strikes,” Yonhap, September 16, 2015.

11) Statement, “Business Stance on the Tripartite Agreement,” The Federation of Korean Industries, The Korean Chamber of Commerce and Industry, The Korea Federation of Small and Medium Business, The Korea International Trade Association, the Korea Employers Federation, September 15, 2015.

12) A sampling of demands: Employment and Labor (Stop Retrogressive Labor Market Reform); Agriculture (Stop rice imports, Oppose the TPP); People’s Livelihood/Urban Poor (Abolish the disability ranking system, Stop crackdowns on street vendors); Youth/Students (Open the safes of chaebols to create meaningful jobs for youth); Democracy (Stop state repression, Abolish the National Security Law, Free all prisoners of conscience); Human Rights (Stop government/municipality violation of human rights); Peace and Self-determination (Oppose THAAD deployment om the Korean Peninsula, Improve North-South relations); Sewol (Carry out the salvaging of the Sewol ferry); Environment (Abandon plans for cable car construction in national parks); Public Service (Stop privatization of healthcare, railroad, gas, and water); Chaebol Responsibility (Reclaim chaebol reserve assets to implement a minimum wage of 10,000 won).

13) “Why Trade Promotion Authority is Essential for U.S. Agriculture and the Trans-Pacific Partnership,” U.S. Department of Agriculture, April 2014.

Gregory Elich is on the Board of Directors of the Jasenovac Research Institute and the Advisory Board of the Korea Policy Institute. He is a columnist for Voice of the People, and one of the co-authors of Killing Democracy: CIA and Pentagon Operations in the Post-Soviet Period, published in the Russian language.

Friday, December 5, 2014

Người dân đảo Jeju của Hàn Quốc: Không căn cứ hải quân

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Jeju: “Island of Peace” in the Crosshairs of War" của nhà hoạt động hòa bình Mica Cloughley về phong trào của người dân đảo Jeju, Hàn Quốc phản đối việc xây dựng căn cứ hải quân trên đảo. Tiêu đề do người dịch đặt.

Jeju: “Hòn đảo Hòa Bình” trong tầm ngắm của chiến tranh

Một số người có thể ngạc nhiên, làm sao mà một tỉnh nhỏ của Hàn Quốc được gọi là “Hòn đảo Hòa Bình” lại có tỷ lệ tội phạm cao nhất Hàn Quốc? Dân số đảo Jeju vào khoảng 500.000 người, và cho tới nay thì cộng đồng trên đảo vẫn đặc trưng bởi sự bình yên. Seoul, trái lại, có dân số 10 triệu người, lớn hơn 20 lần. Câu trả lời nằm ở định nghĩa về tội phạm. Cuộc đấu tranh kéo dài 8 năm chống lại việc xây dựng căn cứ hải quân khổng lồ đã bị nhà cầm quyền Hàn Quốc đàn áp với sự xâm phạm nhân quyền trắng trợn, trong đó có việc áp dụng bất thường luật lệ dẫn đến hơn 600 người bị bắt giam và hơn 400 người bị buộc tội liên quan đến các hoạt động phi bạo lực ở cửa ngõ đảo Jeju, địa điểm xây dựng căn cứ hải quân Hàn Quốc. Do đó “tội phạm” lên đến mức ấy. Các vi phạm từ đi bộ ẩu tới “cản trở công việc”, loại thứ hai mới đây được áp dụng cho một nữ tu già, Sơ Stella Soh, về việc ngồi trước cửa của căn cứ hải quân, chặn lối vào của xe tải. Điều này có nghĩa là lần đầu tiên trong 200 năm lịch sử Thiên Chúa Giáo Hàn Quốc, một nữ tu bị truy tố về tội hình sự.

Nhưng những cư dân đảo chống chủ nghĩa đế quốc cản trở công việc của ai khi họ từ chối căn cứ hải quân? Căn cứ hải quân trên đảo Jeju có vẻ là dành cho quân đội Hàn Quốc, nhưng có thể hiểu rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ sử dụng căn cứ. Đó là viên ngọc trên vương miện “xoay trục sang Châu Á” của tổng thống Obama, thứ thực sự tạo thành một vòng cung các căn cứ hải quân và quân sự bao quanh Trung Quốc. Căn cứ hải quân trên đảo Jeju cũng là công việc kinh doanh mạo hiểm đầy lợi nhuận đối với Samsung. Quả thực vậy, cũng chính là Samsung sản xuất điện thoại di động, chính họ đang xây dựng căn cứ quân sự lớn nhất khu vực lòng chảo Thái Bình Dương. Trong quá trình xây dựng, Samsung trắng trợn vi phạm luật pháp quốc tế và gây tổn hại cho môi trường dễ tổn thương của hòn đảo, cũng như địa điểm Di Sản Thế Giới của UNESCO. Công ty này đã đánh mìn, đúng theo nghĩa đen, một phần đảo mà người dân bản địa đã tôn kính nhiều thế kỷ. Đó là nơi linh thiêng nhất trên hòn đảo của họ.

Hải quân Hàn Quốc dự tính căn cứ sẽ được hoàn thành vào tháng 12 năm 2015. Bản thiết kế mô tả một căn cứ hải quân rộng 50 ha sẽ chứa 7.000 lính, tối đa 24 tàu chiến, trong đó có hai tàu khu trục hộ vệ, 6 tàu ngầm hạt nhân. Cần biết rằng mỗi tàu khu trục có một động cơ lên đến 100.000 mã lực, khó có thể tưởng tượng rằng căn cứ sẽ an toàn đối với một môi trường nhạy cảm về sinh thái. 7.000 lính thủy sẽ cập bến ở Gangjeong, một ngôi làng với dân số khoảng 2.000 người. Dân làng biết rằng dự án này có nguy cơ xóa sổ toàn bộ cộng đồng của họ.

Nếu họ xây nó, căn cứ hải quân sẽ phá hủy nhiều phần sinh quyển độc đáo của đảo Jeju. Vùng biển quanh đảo được luật pháp quốc tế bảo vệ bởi vì chúng nằm trong phạm vi Bảo Tồn Sinh Quyển của UNESCO. Chỉ còn ít hơn 120 cá heo mũi chai sống trong vùng biển quanh đảo. Rừng san hô mềm lớn nhất thế giới, ngoài khơi của làng Gangejong, đã bắt đầu chết từ khi việc xây dựng được khởi công vào năm 2011. Samsung đã phá vỡ hàng sa số các luật môi trường để cấp tốc xây dựng căn cứ quân sự. 

Do đó, các nhà hoạt động hòa bình của đảo Jeju đã công khai kêu gọi mọi người trên thế giới tự nguyện tới và sống trong làng của họ, trực tiếp chứng kiến cuộc đấu tranh. Tôi đáp ứng lời kêu gọi ấy, đi tới làng Gangjeong, đảo Jeju. Tôi biết rằng mình tới đó để giương cao lá cờ màu vàng trên vỉa hè, kêu lên: “Không căn cứ hải quân!” Do các nhà hoạt động bị chính quyền giám sát thường xuyên và nhiều người ủng hộ quốc tế của cuộc đấu tranh chống căn cứ hải quân đã bị từ chối nhập cảnh vào Hàn Quốc, tôi được dặn là không thông báo với bất cứ ai trong làng khi tôi tới nơi. Lúc tôi ngó vào Trung Tâm Hòa Bình, hy vọng có ai đó sẽ giúp đỡ khi tôi nói mình là tình nguyện viên đến từ tổ chức bất bạo động phi chính phủ Peaceworkers ở San Francisco và dự định sẽ ở lại 6 tuần. 

Một người phụ nữ tên là Silver chỉ cho tôi thấy quanh làng trong buổi tối đầu tiên. Lúc chúng tôi ngồi trong nhà hàng miễn phí cho các nhà hoạt động, một cơn gió mạnh thổi vào phòng, làm cốc chén xoong chảo trên quầy va vào nhau

“Tôi nghe nói đảo Jeju nổi tiếng về gió.” Tôi nói với Silver

“Phải,” Silver cười, “Đảo Jeju nổi tiếng về ba thứ: gió, đá và phụ nữ.”

“Sau khi gió thổi, mọi người nghĩ đó là bão to. Chúng tôi thường có bão hàng năm vào giữa tháng 7 và tháng 10, nhưng năm nay chúng tôi vẫn chưa có bão, nên mọi người đang cầu nguyện nó đến ngay.”

Bối rối, tôi hỏi, “bão không phải nguy hiểm sao? Chị có phải sơ tán không?”

“Có, bão rất tệ đối với nông dân trồng quýt,” Silver trả lời, “Chúng phá hủy hết mùa màng và gây ra rất nhiều thiệt hại. Nhưng cơn bão năm ngoái cũng gây thiệt hại tồi tệ cho căn cứ hải quân, thế nên giờ ngay cả nông dân cũng cầu bão.”

Tôi sẽ sớm được biết những người cầu bão trở thành biểu tượng của phong trào phi quân sự hóa đảo Jeju ra sao. Với cuộc đấu tranh kéo dài hơn 8 năm chống lại việc xây dựng căn cứ hải quân tại vùng biển nguyên thủy của làng Gangjeong, các nhà hoạt động đồng hành cùng với một lực lượng đủ sức mạnh để ngăn chặn sự phá hủy đó. 

Dù cho 94% cử tri làng Gangjeong bỏ phiếu chống lại căn cứ quân sự, chính quyền Hàn Quốc không công nhận cuộc trưng cầu dân ý đó. Khi thảo luận về việc xây dựng một căn cứ hải quân trên đảo Jeju khởi công 12 năm trước đây, hải quân Hàn Quốc đầu tiên đã tiếp cận làng Hwansun, phía đông của Gangjeong. Nhưng khi tuân thủ mọi quy tắc và luật lệ để tổ chức một cuộc bầu chọn hợp pháp, kết quả chống lại dự án. Nhiều sự đóng góp thuộc về Haenyeo, những nữ thợ lặn của đảo Jeju. Những phụ nữ Haenyeo đã lặn nhiều thế kỷ ở vùng biển Đông Trung Hoa quanh đảo, thu gom cá nhỏ và sò. Buôn bán các sản vật của họ tiếp sức cho kinh tế của đảo Jeju. Jeju là đảo mẫu quyền, với Haenyeo là các lãnh đạo cộng đồng nhiệt huyết. Haenyeo là một lực lượng mạnh mẽ được ghi vào luật lệ trong sách của đảo Jeju rằng đàn ông bị cấm nhìn họ khi họ làm việc trên biển.

Thế nên khi Hải Quân Hàn Quốc tiếp cận làng Hwansun vào năm 2002, Haenyeo ngay lập tức thấy thật điên rồ nếu chấp nhận dự án. Điều đó làm ô nhiễm “cánh đồng biển” của họ, nơi họ “thu hoạch mùa màng” là bào ngư và tảo bẹ. Haenyeo thống nhất với những người khác trong làng để phủ quyết dự án của hải quân. Khi tiếp cận làng thứ hai vào năm 2005, Wimi, ở phía tây của Gangjeong, kết quả cũng tương tự: không căn cứ hải quân.

Sau đó hải quân đến Gangjeong, họ tiếp cận theo cách khác, phá vỡ quy định của tất cả các làng để thúc đẩy bằng một cuộc bỏ phiếu phi pháp. Thay vì tổ chức một diễn đàn cho toàn bộ làng, hải quân phỉnh phờ riêng rẽ một nhóm nhỏ các dân làng chủ chốt, trong đó có trưởng làng, chủ tịch Hiệp Hội Ngư Nghiệp Gangjeon, và những nữ thợ lăn Haenyeo có ảnh hưởng nhất. Những người này được cung cấp chuyến đi miễn phí đến Hawaii để thấy căn cứ của Hải Quân Hoa Kỳ đã bất ngờ gia tăng du lịch và tạo ra bùng nổ kinh tế. Thượng lưu Gangjeong được nghe rằng hải quân muốn biến đảo Jeju thành “Hawaii của Hàn Quốc”.

Trong thời gian đó hải quân đã gửi cho Hiệp Hội Ngư Nghiệp Gangjeong 7,8 triệu dollar để “bù đắp thiệt hại”, những Haenyeo được lựa chọn đã chia nhau khoản tiền đó. Tới lúc tổ chức bỏ phiếu, chỉ có 87 người dân tham gia, chiến thuật của chính quyền Hàn Quốc đã có hiệu quả, kết quả bỏ phiếu chấp nhận căn cứ. 1.800 người dân còn lại của làng Gangjeong hoàn toàn không biết gì về điều này cho tới khi bản tin tối thông báo rằng họ nhất trí ủng hộ căn cứ quân sự. Sau khi cú sốc qua đi, một cuộc bỏ phiếu toàn làng hợp pháp được tổ chức, trong đó 94% người dân chống lại căn cứ quân sự, Hải Quân Hàn Quốc đã chuyển giao dự án trị giá 1 tỷ dollar cho Samsung.

Lập luận phổ biến về ưu thế hải quân là căn cứ sẽ cung cấp an ninh sống còn cho Jeju. Nhưng lịch sử lại cho thấy điều khác. Bất cứ khi nào lực lượng quân sự chủ chốt hiện diện trên đảo, chúng dẫn đến chết chóc, di cư, và phá hủy dân cư địa phương. Còn sự thật nào hơn cuộc thảm sát diễn ra sau cuộc nổi dậy nhỏ của nông dân vào ngày 13 tháng 4 năm 1948 chống lại lực lượng chiếm đóng Hoa Kỳ? Ngay sau khi đánh bại lực lượng xâm lược Nhật Bản trên đảo Jeju, Hoa Kỳ khởi động một cuộc bầu cử trên đảo Jeju để chia Triều Tiên thành hai miền Nam và Bắc. Khi các địa phương phản đối một Triều Tiên bị phân chia, họ đã tổ chức một cuộc nổi dậy nhỏ chống lại cuộc bầu cử đó. Hoa Kỳ và chính quyền Hàn Quốc đã nhanh chóng gọi các cư dân đảo Jeju là cộng sản, điều này biện minh cho chiến dịch tàn phá sau đó của họ.

Dưới sự chỉ huy của Hoa Kỳ, chính quyền địa phương trên đảo Jeju tiến hành một cuộc tấn công tàn bạo khiến khoảng từ 30.000 đến 80.000 người chết. (Ước lượng khác nhau do xác chết được chôn trong các ngôi mộ tập thể khắp trên đảo.) Đại đa số người dân bị thảm sát trong thời kỳ 1945-1954 là thường dân trên đảo, không phải cộng sản. Dư chấn của sự kiện đó giải thích tại sao có nhiều hơn những người dân đảo không nổi dậy công khai giờ đây cũng chống lại việc xây dựng căn cứ quân sự. Đại đa số người dân đảo Jeju biết rằng căn cứ này được xây dựng không phải để bảo vệ họ mà là để leo thang căng thẳng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Dĩ nhiên là căn cứ sẽ đảm bảo an ninh đường biển cho các tập đoàn nhiều tài nguyên của Hàn Quốc, trong đó Samsung.

Nhiều tổ chức tôn giáo trên đảo Jeju đã phản đối xây dựng căn cứ hải quân bằng cách tổ chức các buổi lễ trước cửa, chặn đường vào căn cứ của xe tải chở xi măng, thép và các vật liệu khác. Hàng ngày trong hơn 3 năm, các mục sư Thiên Chúa Giáo đã tổ chức đám đông trước cửa căn cứ, theo mệnh lệnh của giám mục đảo Jeju, giám mục Peter Kang U-Il. Tất cả các cuộc biểu tình của Thiên Chúa Giáo diễn ra dưới sự cầu nguyện của ông. Hàng ngày, trừ chủ nhật, các nhà hoạt động khác cúi mình 100 lần đối mặt với cánh cửa, cầu nguyện chấm dứt xây dựng, và thức tỉnh rằng tất cả cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau.

Căn cứ hải quân đã chặn hoàn toàn lối đi chung tới Đá Gureombi, nơi các buổi lễ tôn giáo được tổ chức hàng trăm năm nay. Đá Gureombi là nơi linh thiêng nhất trong làng và người dân Gangjeong tin rằng đá đang sống. Như nhà hoạt động, cựu phê bình điện ảnh, Yang Yoon Mo giải thích điều này: “Đó là nơi duy nhất trên đảo mà đá thân thiện với người dân.”

Yang Yoon Mo đấu tranh cho khu bảo tồn với thân thể của ông, bám vào dưới các xe tải xây dựng và nằm trên đường đi của chúng. Nhà cầm quyền Hàn Quốc đã bỏ tù ông 4 lần, vào năm 2010, 2011, 2012 và mới đây nhất là năm 2013 khi ông phải ngồi tù 18 tháng vì các hành động bất tuân dân sự. Trong ba lần ngồi tù ông đã thực hiện các cuộc tuyệt thực dài. Cuộc tuyệt thực dài nhất vào năm 2011 khi ông gần như đã chết sau cuộc tuyệt thực tổng cộng 74 ngày.

Người dân Gangjeong có nhận thức sâu sắc rằng cuộc sống trên trái đất không được cấu tạo từ các số phận cá biệt, mà tất cả chúng có liên hệ qua lại với nhau. Tình trạng của người này được ràng buộc chặt chẽ với tình trạng của người khác. 

Trong tuần thứ ba ở làng, tôi chứng kiến một mục sư già, Cha Mun, đứng lại sau khi kết thúc buổi lễ hàng ngày và tiếp tục một mình chặn cửa. Viên chức cảnh sát vẫn ra tín hiệu hướng dẫn giao thông cho xe tải đi vào cửa. Một chiếc xe tải kềnh càng với bánh xe cao đến vai tôi tăng tốc đến cửa và Cha Mun, phanh rít lên chỉ một đoạn ngắn trước khi đâm vào ông. Một lúc sau, tôi hỏi Cha Mun rằng ông có cảm thấy sợ khi đứng chặn đường xe tải không. Ông cho tôi thấy một nụ cười vui sướng và nói đơn giản, “không, tôi là Đá Gureombi. Bạn là Đá Gureombi. Nếu tôi để cho hải quân giết Đá Gureombi, họ cũng giết tôi. Họ cũng giết cả bạn.”

Những gì tôi có thể nói là ông ấy không định làm thơ hay diễn ngôn bi kịch. Ông ấy tin một cách chân thành rằng đá linh thiêng là một phần trong thân thể ông ấy, và ông ấy sẽ tiếp tục mạo hiểm cuộc sống để phản đối việc xây dựng trên hòn đảo và văn hóa của ông ấy.

Trong tuần thứ tư ở làng, Jung Sun-Nyeo, người phụ nữ dẫn đầu đoàn cúi mình 100 lần hàng ngày, báo tin cho tôi: “cơn bão đến vào ngày mai.” Bà ngừng lại, tìm kiếm từ tiếng Anh để giải thích thêm. Tôi đoán bà muốn tiếp tục với điều gì đó giống như, “sẽ không có các hoạt động trước cửa ngày mai, hãy ở nhà,” nhưng trái lại bà nói với một nụ cười phấn khởi, “chúng tôi sẽ chào đón cơn bão tối nay với đồ uống. Bạn được chào đón!”

Các nhà hoạt động của đảo Gangjeong hiểu rằng cuộc chiến đấu chống lại dự án căn cứ hải quân lớn nhất ở Đông Á không chỉ là bảo vệ đảo của họ khỏi bị nhấn vào các cuộc xung đột tương lai ở Thái Bình Dương. Như họ hát vào lúc kết thúc buổi lễ hàng ngày: “Gangjeong, bạn là ngôi làng nhỏ nhất/ nhưng hòa bình cho cả thế giới sẽ đến từ bạn.”

Khi chúng ta công nhận mọi nỗ lực chống lại việc xây dựng của họ, chúng ta cũng phải công nhận mọi nỗ lực có tính xây dựng để thúc đẩy hòa bình của họ. Bên cạnh sự nổi tiếng về gió, đá và phụ nữ, đảo Jeju cũng nổi tiếng về ba thứ không: không cánh cửa, không ăn xin, không trộm cắp. Cả ba thứ đó là biểu tượng của truyền thống và di sản cộng đồng của Jeju, nơi mọi người luôn chăm lo cho người khác. Cư dân đảo chia sẻ những gì họ có với người khác nên không có người ăn xin, không cần phải ăn trộm, và không cần cánh cửa. Nhà của họ luôn mở với bất cứ ai cần mái che, và do không có kẻ trộm nên cũng cũng chẳng cần ngăn chặn ai với cánh cửa.

Trong 6 tuần ở Gangjeong, tôi thực sự kinh ngạc về văn hóa hòa bình đang lớn mạnh trong 1.900 người dân làng. Nếu chúng ta cho phép căn cứ hải quân vượt qua làng Gangjeong, nó sẽ không chỉ là 1.900 cuộc sống di cư và một đá núi lửa trên đảo bị nghiền nát để mở đường cho chủ nghĩa quân phiệt Hàn Quốc và Hoa Kỳ. Mọi người trên trái đất sẽ đánh mất hòn đảo nhỏ của hòa bình, chúng ta không thể để những gì Gangjeong đã dạy chúng ta bị phá hủy. Khi chúng ta cầu bão, hãy để chúng ta chìm trong những con sóng từ khắp nơi của thế giới cùng với nhận thức và hành động của chúng ta. Hãy để hòa bình sống ở Gangjeon và thế giới.

Bạn có thể xem thêm các thông tin về cuộc đấu tranh và các thức tham gia tại SaveJejuNow.org.

Mica Cloughley is the co-founder of Emergency Peace Teams (.org) and Empathy App (.org). She lives in Oakland, CA. Those interested in going to Jeju Island can contact her through the website emergencypeaceteams.org.

Thursday, October 30, 2014

Tony Buổi Sáng và trò tống tiền bằng tinh thần dân tộc

Trò tống tiền bằng tinh thần dân tộc trước đây có công ty cafe Trung Nguyên, với câu khẩu hiệu rất oách "Uống cafe Trung Nguyên là yêu nước", nhưng Trung Nguyên không quảng cáo cafe Trung Nguyên bằng hình ảnh người trồng cafe Việt Nam mà bằng mấy ông nhạc sĩ cổ điển Châu Âu từ xưa lắc. Người Việt Nam yêu nước thì phải uống cafe Trung Nguyên, còn công ty cafe Trung Nguyên yêu nước thì quảng cáo bằng người nước ngoài.

Giờ lại có trang Tony Buổi Sáng, với bài viết "Cô bán hàng mỹ phẩm ở Seoul", nói chuyện Hàn Quốc để ám chỉ chuyện Việt Nam, cũng trò tống tiền tinh thần dân tộc, nhưng trang Tony Buổi Sáng nguy hiểm hơn công ty Cafe Trung Nguyên ở chỗ trắng trợn bịa đặt và xuyên tạc lịch sử.

Về góc độ lịch sử văn hóa

Bài viết của trang Tony Buổi Sáng được mở đầu bằng một đoạn như sau:

Thập niên 60, Hàn Quốc là 1 trong những nước nghèo đói nhất châu Á. Năm 1968, người Hàn quyết định mang sách giáo khoa của người Nhật về dịch sang tiếng Hàn và giảng dạy, ngoại trừ các môn xã hội như địa lý, lịch sử và văn học. Lúc đó cũng có nhiều người chỉ trích vì tính sĩ diện của người Hàn Quốc rất cao, lẽ nào lại không tự soạn được một bộ sách giáo khoa. Nhưng họ vẫn quyết tâm thực hiện, vì để có chương trình giáo dục đó, người Nhật đã mất cả trăm năm cải biên từ cách đào tạo của giáo dục phương Tây phù hợp với đặc trưng châu Á, bắt đầu từ thời Minh Trị Thiên Hoàng. Để rút ngắn khoảng cách, chẳng có cách nào ngoài việc lấy kinh nghiệm của người đã thành công, thời gian thay vì mày mò tìm hiểu, mình dùng để lo việc khác, hay hơn. Vì Hàn Quốc muốn trở thành một bản sao mới của Nhật, nền kinh tế dựa trên lòng tự hào dân tộc, tính kỷ luật và đạo đức của toàn thể xã hội.

Đọc những dòng được rất nhiều độc giả trẻ Việt Nam tung hô nhiệt liệt này, điều mà tôi thốt lên là: Ôi, giọng điệu của một gã phát xít Nhật! Họ viết như thể Triều Tiên là một dân tộc mông muội, ăn lông ở lỗ nhờ có ánh sáng văn minh Nhật Bản mới vươn lên được. 

Vào năm 1875, chính quyền Nhật Bản gửi một chiến hạm tới đảo Ganghwa của Triều Tiên và gây sự. Sau đó Nhật Bản buộc Triều Tiên phải ký Hiệp Ước Nhật-Triều 1876. Sau Hiệp Ước 1876, Nhật Bản buộc Triều Tiên phải mở cửa ba cảng là Wonsan, Busan và Incheon cho thương mại. Khi cảng Wonsan được mở cửa vào năm 1879, người Triều Tiên đã cải cách trường học truyền thống để lập ra trường học kiểu phương Tây đầu tiên theo mô hình của Nhật. Cũng kể từ sau năm Hiệp Ước 1876, Triều Tiên đã ký kết các hiệp ước khác với Hoa Kỳ vào năm 1882, với Anh và Đức năm 1883. Vào những năm 1880, Triều Tiên đã tích cực trao đổi kiến thức với phương tây. Tức là từ sau năm 1876, Triều Tiên đã bắt đầu mở cửa, học tập các kiến thức khoa học của nước ngoài cũng như tổ chức trường học theo kiểu phương tây.

Triều Tiên đã sử dụng sách giáo khoa của Nhật Bản từ rất sớm chứ không phải đến tận năm 1968 mới dùng. Vào đầu những năm 1900, các nhà toán học Triều Tiên đã biên tập lại các sách giáo khoa toán học của Nhật Bản và sử dụng cho trường tiểu học và trung học cơ sở của Triều Tiên. Ngoài ra họ cũng viết các sách giáo khoa về toán học khác dựa trên sách của các nước phương tây. Các sách giáo khoa về toán học của Nhật Bản đã được sử dụng trong một thời gian dài cho tận tới khi Triều Tiên giành được độc lập.

Vào năm 1910, Nhật Bản chính thức sáp nhập Triều Tiên vào lãnh thổ Nhật Bản. Kể từ đó Nhật Bản kiểm soát hoàn toàn hệ thống giáo dục của Triều Tiên. Tất cả mọi thứ ở Triều Tiên đều phải theo làm mô hình Nhật Bản. Hệ thống trường Nhật dạy bằng sách giáo khoa Nhật rất phát triển, các gia đình thượng lưu và giàu có Triều Tiên thường theo học trường Nhật. Ngôn ngữ và văn hóa Nhật được phổ biến rộng rãi ở Triều Tiên. Cho đến năm 1945 có tới 16% người Triều Tiên nói được tiếng Nhật. Sau khi giành được độc lập, chính quyền Hàn Quốc đã phải ra lệnh cấm sử dụng các sách giáo khoa bằng tiếng Nhật ở Hàn Quốc.

Vào cuối những năm 1950, sau khi đã chán ngấy những món hàng nhái Châu Á, chính quyền Hàn Quốc cải cách hệ thống giáo dục sang kiểu Mỹ, xây dựng các trường học theo tinh thần của nhà triết học John Dewey. Hệ thống trường thực nghiệm ở Việt Nam sau này mà giáo sư Ngô Bảo Châu từng học cũng được xây dựng theo tinh thần đó. Song thời gian tồn tại của chính sách mới rất ngắn ngủi, một cuộc đảo chính đã phá hủy tất cả mọi thứ.

Vào năm 1961, Park Chung-hee, một sĩ quan quân đội tốt nghiệp trường quân sự Nhật Bản và từng làm việc cho Nhật đã đảo chính và thiết lập chế độ độc tài quân sự, ông này chính là bố của đương kim tổng thống Hàn Quốc. Đến tận năm 1965 Hàn Quốc mới ký hiệp định bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản. Trong thời kỳ cầm quyền Park Chung-hee đã ban lệnh thiết quân luật, vô hiệu hóa Quốc Hội, xóa bỏ Hiến Pháp và phổ thông đầu phiếu. Sinh viên các trường đại học biểu tình chống chế độ độc tài liên miên. Do Park Chung-hee và các thành viên chính phủ hầu hết xuất thân là cựu quan chức của chính quyền phát xít Nhật, đường lối chính trị lại theo xu hướng thân Nhật, nên bài Nhật trở thành một trong những vũ khí chính trị của người dân Hàn Quốc để chống lại chế độ độc tài. Park Chung-hee đã đàn áp rất khốc liệt các phong trào đối lập đặc biệt là trong vấn đề lên án tội ác chiến tranh của Nhật Bản. Sau khi Park Chung-hee bị ám sát vào năm 1979, chính quyền Hàn Quốc đã nới lỏng sự đàn áp đối với các phong trào đối lập, tinh thần bài Nhật của người Hàn Quốc lập tức bùng phát. Kể từ đó đến nay, hầu như không năm nào mà người Hàn Quốc không lên án chính quyền Nhật Bản chỉnh sửa sách giáo khoa về lịch sử để che đậy các tội lỗi ở Hàn Quốc thời kỳ 1910-1945, họ còn lên án cả chính quyền Hàn Quốc tìm cách sửa sách giáo khoa lịch sử để bào chữa cho những người đã hợp tác với người Nhật thời thuộc địa.

Trang Tony Buổi Sáng cho rằng nhờ dùng sách giáo khoa Nhật Bản, được đúc kết từ hàng trăm năm văn minh nhân loại nên người Hàn Quốc đã thoát khỏi nghèo khổ, nhưng không giải thích tại sao suốt gần một thế kỷ trước đó người Hàn Quốc cũng dùng những sách giáo khoa Nhật Bản mà đến những năm 1960 vẫn nghèo nhất Châu Á. Thậm chí trong một thời gian dài, suốt 35 năm Triều Tiên được tổ chức y hệt như Nhật Bản, học trực tiếp từ người Nhật, được người Nhật quản lý, vậy tại sao sau này họ còn phải thành bản sao của Nhật Bản?

Trang Tony Buổi Sáng cũng quên không giải thích tại sao Hàn Quốc không dùng các sách giáo khoa về địa lý, lịch sử và văn học. Lý do rất đơn giản, sách giáo khoa của Nhật Bản thường xuyên tạc lịch sử và địa lý Triều Tiên. Ví dụ một cuốn sách giáo khoa lịch sử Nhật Bản dùng cho học sinh trung học trước năm 1945 viết là vua Triều Tiên đã bán nước cho đế quốc Nhật Bản. Còn gì sỉ nhục người Hàn Quốc hơn thế nữa? Trang Tony Buổi Sáng có thể chọn nhiều thứ khác để nói về điều thần kỳ Hàn Quốc, song nếu lựa chọn sách giáo khoa và giáo dục thì đã đụng đến một vấn đề mà ngay cả người Hàn cũng cảm thấy rất khó nói.

Hệ thống giáo dục của Hàn Quốc có rất nhiều loại trường, sách giáo khoa của họ cũng có nhiều bộ chứ không phải là một bộ duy nhất. Bộ sách giáo khoa của Nhật được dịch ra tiếng Hàn cũng chỉ được giảng dạy ở một số trường nhất định, kiến thức khoa học của Nhật không thể phổ biến rộng rãi như dưới thời Triều Tiên bị Nhật cai trị. Mặt khác những sách giáo khoa Nhật không ngừng bị những người theo phong trào bài Nhật nhất là giới trẻ đả kích và tẩy chay. Do vậy, gán cho bộ sách giáo khoa Nhật Bản có tác dụng thần kỳ thì quả thật là nực cười.

Tinh thần bài Nhật của người Hàn Quốc rất cao. Mặc dù bình thường hóa quan hệ từ năm 1965, nhưng đến tận năm 2003 các bài hát Nhật Bản vẫn bị cấm phát trên truyền hình Hàn Quốc. Trên báo chí ở Hàn Quốc thường xuyên xuất hiện các tranh châm biếm về sự sa đọa của văn hóa Nhật Bản. Người Hàn Quốc luôn cho rằng tất cả những gì tinh hoa nhất của văn hóa truyền thống Nhật Bản, như Judo, Karate, kiếm đạo, cắm hoa, Chanoyu hay trà đạo đều có nguồn gốc từ Triều Tiên. Vào năm 2005, một nhà hàng ở Seoul còn treo biển "Cấm chó và người Nhật Bản", một sân golf nổi tiếng trương biển "Không phục vụ người Nhật". Không hiểu với sự thù ghét như vậy có người Hàn Quốc nào dám tuyên bố học theo tinh thần Nhật Bản không?

Về góc độ kinh tế

Những cái loa của giai cấp tư sản thường gán cho giai cấp tư sản sứ mệnh dẫn dắt một quốc gia về kinh tế. Mô tả mọi thành công về kinh tế của một quốc gia như là sự phát triển của giai cấp tư sản. Thật nực cười khi tuôn ra hàng tràng giang đại hải những thứ kiểu như nước ngoài có gì hay gì mới, giai cấp tư sản chỉ cần cho người sang đó học rồi về làm với sự ủng hộ của người trong nước, thế là hóa rồng hóa hổ ngay.

Khi đọc được những dòng mà trang Tony Buổi Sáng viết như: "Không ai biết trong 20 năm đó, cả dân tộc Hàn Quốc đã nắm chặt tay với quyết tâm thoát nghèo như thế nào", thì đương kim tổng thống Hàn Quốc sẽ khóc hết nước mắt, tặng ngay cho trang Tony Buổi Sáng một huân chương hữu nghị Việt-Hàn to oạch trong một buổi lễ có các ụ pa đẹp giai hát hò và vỗ mông đành đạch để góp vui. Cho tới năm 1973, có 300.000 lính Hàn Quốc bận đi đánh Việt Cộng thuê cho Mỹ ở chiến trường Việt Nam nên đâu có nắm tay được. Việc đầu tiên khi Park Chung-hee lên nắm quyền là bắt giam 24 chủ nhân của các công ty lớn nhất Hàn Quốc để ép họ phải cam kết ủng hộ chính sách kinh tế của ông ta, chỉ có chủ tịch của công ty Samsung thoát nạn vì đang ở nước ngoài, nhưng khi quay về nước cũng bị bắt luôn. Thế nên cái sự "nắm tay chặt tay với quyết tâm" ấy đối với nhiều người là sự cưỡng bức. Park Chung hee cũng đã ký hiệp định bình thường hóa quan hệ với Nhật Bản bất chấp ý muốn của người Hàn Quốc, thay vì đòi bồi thường chiến tranh thì chấp nhận các khoản viện trợ và cho vay lãi suất thấp, đồng thời từ bỏ quyền được kiện chính quyền Nhật Bản về tội ác chiến tranh của người dân Hàn Quốc. Chính điều đó đã gây ra làn sóng phản đối dữ dội. Sinh viên và thanh niên biểu tình chống chế độ độc tài liên miên, họ không nắm tay với chế độ độc tài như trang Tony Buổi Sáng viết. Nhà độc tài Park Chung-hee bị giám đốc cơ quan tình báo bắn chết trong một cuộc họp được cho là Park đã ra lệnh đàn áp một cuộc biểu tình ngay cả khi phải gây nguy hiểm cho tính mạng của 30.000 người Hàn Quốc. Cái câu mà trang Tony Buổi Sáng viết thì người Hàn thường xuyên hiểu ngược lại, tức là họ bị cưỡng bức phải làm theo những gì chính quyền muốn.

Một chi tiết nhỏ mà trang Tony Buổi Sáng không chú ý khi ca ngợi sự mẫn cán của tập đoàn Lotte. Tập đoàn đó mặc dù do người Hàn Quốc làm chủ nhưng là công ty Nhật Bản, được thành lập và phát triển ở Nhật. Ban đầu họ chỉ là một xưởng sản xuất bánh gạo nhỏ và phất lên nhờ trúng thầu cung cấp hàng hóa cho các căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật Bản. Sau này, dưới chế độ Park thân Nhật Lotte mới mở rộng việc kinh doanh ở Hàn Quốc.

Một điều cần lưu ý là Hàn Quốc, một trong các con hổ Châu Á, thường được đưa vào chương trình giảng dạy kinh tế như là một hình mẫu của chính sách phát triển kinh tế nhờ khuyến khích xuất khẩu, tức là bán hàng cho nước ngoài. Hình mẫu Hàn Quốc đã nhiều năm được dùng để phê phán mô hình phát triển nhờ thay thế hàng nhập khẩu mà Việt Nam từng theo đuổi, tức là tự sản xuất lấy mọi thứ, trong các trường đại học ở Việt Nam hơn một thập kỷ trước đây. Hàn Quốc phát triển thần kỳ trong những năm 60-80 của thế kỷ trước là nhờ hàng rào thuế quan khốc liệt ngăn chặn hàng nhập khẩu và tài trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tức là họ giàu lên nhờ xuất khẩu chứ không phải dựa vào thị trường nội địa nhỏ bé. Hoàn cảnh kinh tế Hàn Quốc lúc đó cũng rất thuận lợi khi nhận được nguồn vốn đầu tư và viện trợ dồi dào từ Nhật và Hoa Kỳ đổ vào. Triết lý kinh tế chế độ Park Chung-hee lúc đó là bản sao của triết lý Nhật Bản, khẩu hiệu của họ rất ngắn gọn: "dân nghèo, quốc gia mạnh" tức là người dân phải hy sinh vì quốc gia. Chính quyền Park Chung-hee đã đứng ra vay tiền nước ngoài rồi cho các doanh nghiệp thân hữu vay lại với lãi suất bằng không, đó là nguyên nhân họ lập lên các cheabol và có tới 9/20 cheabol của Hàn Quốc có nguồn gốc từ tỉnh quê hương của nhà độc tài Park Chung-hee. Gánh nặng chi phí đổ lên đầu người dân, mọi người phải thắt lưng buộc bụng, thanh niên Hàn phải bán mạng ở chiến trường Việt Nam, phụ nữ Hàn phải làm lụng cực nhọc ở Đức, để kiếm tiền bù đắp chi phí của chính sách kinh tế mà chính quyền Park Chung-hee áp dụng. Một nhóm nhỏ các tài phiệt đã "nắm chặt tay" nhau để kiếm lãi to trên sự hy sinh (bị ép buộc) của cả dân tộc Hàn Quốc.

Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Châu Á năm 1997, câu chuyện cổ tích hiện đại đã trở thành ác mộng, Hàn Quốc rơi vào nợ nần và trì trệ, bắt kịp Nhật Bản, Châu Âu hay Hoa Kỳ đối với Hàn Quốc giờ là chuyện không tưởng. Thậm chí họ còn bị Trung Quốc vượt qua rất xa, mặc dù Trung Quốc đến tận năm 1979 mới mở cửa. Các giáo sư kinh tế ở Việt Nam đã từng ca ngợi mô hình kinh tế Hàn Quốc nhiệt thành cách đây hơn chục năm thì giờ thậm chí không còn nhớ tới. Lý do là thời thế đã đổi thay, các hiệp định tự do thương mại không cho phép bảo hộ thương mại nữa, nguồn vốn nước ngoài không còn dồi dào và các chính phủ cũng không thể đứng ra vay tiền nước ngoài để cho các công ty lớn vay lại một cách phổ biến.

Người Hàn Quốc phải dùng những đồ xấu xí chất lượng tồi là do chính sách bảo hộ thương mại khốc liệt hồi đó, và cũng chính là cách Park ưu đãi cho các tập đoàn thân hữu với ông ta, chứ chả phải họ có tinh thần dân tộc gì. Nhưng tầng lớp giàu có thì chưa bao giờ chịu ảnh hưởng. Dưới thời Park Chung-hee, viện trợ của Hoa Kỳ chiếm tới 50% ngân sách dân sự và 75% ngân sách quân sự, phần lớn số tiền đó bị các quan chức chính quyền và tướng lĩnh quân đội biển thủ và dùng để mua hàng tiêu dùng ngoại nhập.Tầng lớp giàu có ở Hàn Quốc coi đồ ngoại nhập giá cao là thứ thể hiện đẳng cấp của họ. Sau khi lệnh cấm đi nước ngoài bị dỡ bỏ năm 1988, các gia đình Hàn Quốc giàu có đã gửi con cái ra đi học tập ở nước ngoài ngày càng nhiều, nói theo kiểu hiện đại là họ đã mua dịch vụ giáo dục của nước ngoài.

Trang Tony Buổi Sáng viết:

Người Hàn Quốc, dù dân thường hay sếp lớn, tất tần tật mọi thứ họ dùng phải Made in Korea, dù lúc sản phẩm kém cỏi còn xấu xí và đầy lỗi của thập niên bảy mươi hay hiện đại như bây giờ. Mỗi cá nhân chịu thiệt thòi một chút thì đã sao. Nếu người tiêu dùng không ủng hộ sản phẩm nhem nhuốc của thời khởi nghiệp, thì doanh nghiệp còn tồn tại đâu mà có sản phẩm tinh xảo sau này?

Đây chính là trò tống tiền bằng tinh thần dân tộc mà tôi muốn nói tới. 

Nếu ai đó nói với bạn về việc ủng hộ hàng nội địa xấu xí giá cao nhân danh tinh thần dân tộc thì hãy trả lời như sau: Việc ủng hộ hoàn toàn đúng, song tại sao doanh nghiệp không bày tỏ lòng yêu nước bằng cách cung cấp cho người tiêu dùng hàng hóa tốt giá rẻ, có thiệt lợi nhuận một chút thì vấn đề gì đâu?

Nếu họ vẫn chưa hài lòng, thì bạn hãy viện dẫn đến lý trí của các nhà khoa học kinh tế như sau: Một doanh nghiệp sản xuất hàng hóa chất lượng tồi, giá cao, ế không bán được cho ai thì có nghĩa là họ đang sử dụng lãng phí tài nguyên của quốc gia. Ủng hộ họ tức là bao che cho sự lãng phí tài nguyên quốc gia. Yêu nước như thế bằng mười hại nước.

Nếu bạn là người lao động mà nghe được câu khẩu hiệu trên thì hãy nhớ rằng: Tiêu dùng hàng hóa chính là để tái tạo ra sức lao động của bạn. Nếu bạn vì tinh thần dân tộc mà dùng những hàng hóa kém chất lượng thì không chỉ túi tiền của bạn vơi và mà sức lao động của bạn cũng bị suy giảm. Hậu quả là bạn sẽ không đủ sức lực nuôi sống bản thân, chăm lo cho gia đình hay phục vụ đất nước. Bạn sẽ nghèo đói khố rách áo ôm, lúc đó bạn sẽ được nghe giai cấp tư sản nói rằng những kẻ nghèo đói là những kẻ ngu dốt.

Cái trò mị dân ấy của giai cấp tư sản đã tố cáo sự tham lam của họ. Giai cấp tư sản mong muốn trở nên giàu có bằng cách bóc lột người lao động hai lần, lần thứ nhất trong nhà xưởng, lần thứ hai bằng cách bán cho họ những đồ kém chất lượng. Nếu như thế kỷ 19 ở Anh thịnh hành những cái tommy-shop [cửa hàng của chủ xưởng, công nhân làm thuê cho chủ xưởng bị bắt buộc phải mua hàng hóa tại cửa hàng này] thì giờ đây giai cấp tư sản muốn biến cả quốc gia thành một cái tommy-shop.

Tài liệu tham khảo:







Tuesday, September 23, 2014

Những vụ bắn hạ máy bay trong hệ thống tuyên truyền

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Plane Shootdowns in the Propaganda System" của giáo sư người Mỹ chuyên nghiên cứu về kinh tế và chính trị quốc tế Edward S. Herman, để có một cái nhìn so sánh về cách thức truyền thông chính thống đưa tin các vụ bắn hạ máy bay dân sự.

Cách thức truyền thông Hoa Kỳ đổ lỗi vụ bắn hạ máy bay dân sự số hiệu 17 của hãng hàng không Malaysia cho “những người ly khai” miền đông Ukraina và đặc biệt là Putin và Nga, tuân thủ theo một kịch bản đã có từ lâu về việc chấp nhận nhanh chóng và đầy phẫn nộ các cáo buộc chính thống phục vụ cho chính trị, bất chấp các kỷ lục lừa dối đã có về vấn đề này. Nếu chúng ta tập trung vào hành xử của truyền thông trong các trường hợp Hoa Kỳ hay Israel bắn hạ máy bay dân sự, sự tương phản và tiêu chuẩn kép sẽ đầy bi kịch và thậm chí là lố bịch.

Khi Họ làm điều đó

KAL-007. Trường hợp yêu thích của tôi là vụ Soviet bắn hạ máy bay KAL-007 của hãng hàng không Hàn Quốc vào ngày 31 tháng 8 năm 1983. Đó là thời kỳ mà chính quyền Reagan đang trong thời kỳ chạy đua vũ trang và liên minh tấn công “đế chế ma quỷ”. Như âm mưu ám sát Giáo hoàng vào năm 1981, sự kiện đó đã được chào đón như một cơ hội tuyên truyền tuyệt vời, chính quyền lên án Liên Bang Soviet nhanh chóng và đầy phẫn nộ. Chiếc máy bay đã rời quá xa đường bay và bay trên bầu trời Soviet cũng như phía trên căn cứ hải quân của Soviet, nó cũng không phản hồi lại điện đàm của máy bay chiến đấu Soviet. Một trường hợp tốt nhất có thể tạo ra là chiếc máy bay thực hiện nhiệm vụ quân sự đồng thời chuyên chở hành khách dân sự (P.Q. Mann, “Reassessing the Sakhalin Incident,” Defense Attache, June 1994; David Pearson, “K.A.L. 007,” the Nation, August 25, 1984). Cáo buộc của chính quyền Reagan là Soviet đã cố ý bắn hạ máy bay dân sự – được biên tập cho truyền thông để phục vụ cho lời tuyên truyền dối trá – mặc dù các trao đổi thông điệp điện đàm đã cho thấy là Soviet không xác định được chiếc máy bay đó là dân sự. 

Truyền thông tham gia chiến dịch tuyên truyền này rất hăng hái, lên án Soviet là “man rợ” và can dự vào vụ “sát hại máu lạnh”. Tờ New York Times đã đăng 147 tin tức về vụ bắn hạ chỉ riêng trong tháng 9 năm 1983, tổng số cột báo dài tới gần 71 m, và trong 10 ngày liên tục họ xuất bản các bản đặc biệt của tạp chí về sự kiện này. “Hành động dã man” của Liên Bang Soviet theo như James Reston mô tả là “tự gánh lấy sự căm hờn của thế giới văn minh” (NYT, September 4, 1983). Bài xã luận của tờ Times vào ngày 2 tháng 9 đề cập rằng “Không thể có lời xin lỗi chính đáng đối với bất kỳ quốc gia nào bắn hạ máy bay dân sự vô hại”.

Chiến dịch tuyên truyền là một thành công lớn của Hoa Kỳ, khi Liên Bang Soviet bị tổn hại danh tiếng và phải chịu sự tẩy chay tạm thời ở khắp các sân bay trên thế giới. Như phóng viên Bernard Gwertzman ghi nhận một năm sau thảm kịch, các quan chức Hoa Kỳ “xác nhận sự chỉ trích toàn cầu đối với hành xử của Soviet trong cuộc khủng hoảng đã gia tăng sức mạnh cho Hoa Kỳ trong các tác động với Moscow” (NYT, August 31, 1984). Khi các bằng chứng cho thấy KAL-007 thực hiện nhiệm vụ do thám, và khi chính quyền Reagan lặng lẽ thừa nhận rằng phi công Soviet không biết đó là máy bay dân sự, bằng chứng mới đó đã bị tảng lờ, hoàn toàn không được chú ý tới hay bị coi như chưa được chứng minh hoặc tuyên truyền của Soviet. Nó hoàn toàn không gây trở ngại cho chiến thắng của truyền thông. Gwertzman không cần phải dè dặt khi tuyên bố về một chiến thắng mãn nguyện của chiến dịch truyền thông chính thống trước sự dã man.

Vào ngày 18 tháng 1 năm 1988, tờ New York Times xuất bản bài xã luận có tiêu đề “Lời nói dối rằng đó không phải là bắn hạ”. Trong đó các biên tập viên thừa nhận rằng chính quyền Reagan đã biết trong vòng vài giờ sau vụ bắn hạ là Soviet không coi máy bay 007 là máy bay dân sự và chính quyền đã “đánh lừa người dân Mỹ cũng như thế giới”. Nhưng bản thân tờ báo cũng là một phần của chương trình nói dối, khi nó nhảy bổ vào các lên án phẫn nộ và đưa tin ồ ạt mà không có chút hoài nghi hay bất cứ nỗ lực điều tra nào. Cần biết rằng năm năm sau đó tờ báo đã thừa nhận rằng họ là một thành viên có lỗi của truyên truyền và đã không thực hiện bất cứ điều tra nào để đưa ra kết luận. Sau năm năm, tờ báo đã bỏ qua hay lảng tránh đưa thông tin về các nỗ lực điều tra nhằm tìm kiếm sự thật về vụ việc, các biên tập viên ưu tiên bỏ qua việc lời nói dối mà họ đã hung hăng và cấp tốc gieo rắc khắp nơi được làm rõ bởi những người khác.

Pan Am-103. Tờ Times và các đồng sự chính thống của họ làm báo rất tệ nhưng tuyên truyền rất tốt trong vụ đánh bom và rơi máy bay Pan Am-103 vào tháng 12 năm 1988 tại Lockerbie, Scotland , khiến 270 người thiệt mạng. Ngay lập tức Iran bị nghi ngờ là đứng sau vụ đánh bom, và vụ việc nhanh chóng trở thành lời cáo buộc Tổng Chỉ Huy Mặt Trận Nhân Dân Giải Phóng Palestine (PFLP-GC) hành động theo lệnh của Iran. Vụ việc được tin rằng là để trả đũa việc Hoa Kỳ bắn hạ máy bay số 655 của hãng hàng không Iran, một máy bay dân sự với 299 người thiệt mạng, vào tháng 7 năm 1988, chỉ 5 tháng rưỡi trước vụ Lockerbie. Việc PFLP-GC có liên hệ với Iran được truyền thông chấp nhận và phát tán đúng lúc. Nhưng chỉ một năm sau, sự thay đổi của địa chính trị do Hoa Kỳ và Anh quốc muốn xoa dịu Syria, nơi trú ẩn của PFLP, và Iran, có ảnh hưởng ở Lebanon, để giúp họ đối đầu với Iraq và giải cứu con tin ở Lebanon. Chỉ trong thời gian ngắn, cáo buộc đối với PFLP (và gián tiếp là Iran) bị đặt sang một bên, những gã quê mùa của Muammar Qaddafi và Lybia bị coi là kẻ đánh bom.

Sự lạc quan chính trị trong vụ này đã thất bại trong việc báo động truyền thông chính thống, họ đưa tin theo mục tiêu mới mặc dù họ vẫn giữ mục tiêu cũ (khi mà mọi thứ đã được chuẩn bị tốt hơn). Lybia bị cưỡng bách phải bắt giữ hai công dân của họ, những người bị cáo buộc là thực hiện vụ tấn công và khi họ từ chối thực hiện thì “cộng đồng quốc tế” áp đặt các trừng phạt đắt giá đối với Lybia, cho tới khi họ đầu hàng và đồng ý chịu xét xử theo luật Scotland bởi quan tòa Scotland tại Camp Zeist ở Hà Lan. Các quan tòa đã phán quyết một trong số hai người Libya có tội mặc dù họ thừa nhận rằng mọi bằng chứng là “suy diễn”.

Có rất nhiều dấu hiệu cho thấy sự can thiệp ngay từ ban đầu khi CIA và FBI có mặt tại hiện trường vụ Lockerbie chỉ hai giờ sau khi máy bay rơi và dường như được nhà cầm quyền Scotland trao quyền (for a good account, see John Ashton and Ian Ferguson, Cover-Up of Convenience: The Hidden Scandal of Lockerbie). Quyết định là một cú sốc đối với các chuyên gia như giáo sư luật Scotland Robert Black và nhà quan sát Hoa Kỳ Hans Kochler, cả hai người cảm thấy “không thể hiểu nổi” và là “thất bại mất mặt nhất trong lịch sử tư pháp Scotland hàng trăm năm nay” (Black, in Scotsman, November 1, 2005). Lời kêu gọi và quyết định vào tháng 6 năm 2007 của Ủy Ban Thẩm Tra Các Vụ Án Hình Sự Scotland giải thích sáu cơ sở riêng biệt của quyết định năm 2001 có thể là sai lầm. Nhưng trước khi phiên tòa mới được mở, tù nhân Ali Al-Megrahi đã được thả vì lý do sức khỏe và trở về Lybia. 

Truyền thông chính thống thất bại trong việc ghi nhận sự kỳ quặc về việc chỉ một trong số những người cáo buộc bị buộc tội, khi mà các quan tòa Scotland, dưới sức ép chính trị nặng nề và định kiến của truyền thông, đã quyết định rằng họ phải quăng ít nhất một khúc xương cho những con chó như là biện pháp chính trị cần thiết. Truyền thông, trong khi thừa nhận với các quan tòa về sự suy diễn của vụ án, đã không kêu gọi sự chú ý đối với hàng loạt các vi phạm đáng chú ý trong quản lý bằng chứng và thủ tục tố tụng, điều mà Black, Kochler và dường như là Ủy Ban Thẩm Tra của Scotland. Trong số 15 bài xã luận của tờ Times về vụ hạ máy bay Pan Am 103 và liên hệ với Libya, không có bất cứ bài nào biểu lộ sự e dè dù là nhỏ nhất về quy trình hay sự xác thực của cáo buộc chống lại những người Lybia. Truyền thông tỏ ra phẫn nộ với việc phóng thích về lý do sức khỏe của Al-Megrahi, nhưng khi họ lảng tránh các quyết định và phân tích căn bản của Hội Đồng Thẩm Tra, thì họ cũng bỏ qua khả năng trong đó công bố là biện pháp tốt nhất để tránh các hệ quả của đánh giá đó. Hai người Libya bị xét xử - đặc biệt là Al-Megrahi, và Libya trong suốt nhiều năm bị trừng phạt và Kaddafi cũng như Lybia bị tô vẽ như kẻ khủng bố - đã nhận những đòn nặng nề. Đồng thời Phương Tây tô điểm cho hình ảnh của họ là chiến sĩ đấu tranh cho công lý, luật pháp và trật tự toàn cầu, trái với sự thật trong vụ việc này, các lãnh đạo của họ đã lạm dụng nghiêm trọng các nguyên tắc danh nghĩa về tư pháp dựa trên cơ sở mà họ đưa ra một cách giả định cho vụ việc.

Khi Chúng Ta làm điều đó 

Iran Air Flight 655. Chiếc máy bay dân sự của hãng hàng không Iran bị bắn hạ vào tháng 7 năm 1988 theo lệnh của chỉ huy tàu chiến USS Vincennes, khi thi hành nhiệm vụ tại Vịnh Ba Tư trong chiến dịch hỗ trợ cuộc chiến xâm lược Iran của Saddam Hussein. Không giống như chiếc máy bay 007, chiếc 655 không rời khỏi đường bay và cũng không tạo ra mối đe dọa đối với binh lính Hoa Kỳ. Tờ New York Times, đã có một xã luận mang tiêu đề “Sát hại” liên hệ với vụ hạ máy bay 007 và nhắc lại năm 1983 rằng, “Không thể có lời xin lỗi chính đáng đối với bất kỳ quốc gia nào bắn hạ máy bay dân sự vô hại,” dường như là một dự đoán cho trường hợp chiếc 655: “sự cố vẫn không được coi như là một tội ác [chỉ riêng “sát hại”] mà chỉ là một sai lầm và là một bi kịch.” Cả Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ lẫn Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng đều không lên án Hoa Kỳ về hành động đó, mặc dù cả hai đã làm điều đó với Soviet trong vụ KAL-007. Tất nhiên, Hội Đồng An Ninh đã tiến hành một hoạt động trả đũa Lybia trong vụ Pan Am 103. Không có bất cứ trừng phạt nào đối với thuyền trưởng Will Rogers (được biết tới với biệt danh Rambo), người được “chào đón như người hùng” khi trở về San Diego năm tháng sau vụ bắn hạ (Robert Reinhold, “Crew of Cruiser That Downed Iranian Airliner Gets a Warm Homecoming,” NYT, October 25, 1988), và tiếp đó được trao tặng phần thưởng Legion of Merit cho “hành xử phi thường xứng đáng được khen ngợi trong khi thi hành nhiệm vụ nổi bật.”

Người Iran đã giận dự với sự đón tiếp và cách đối xử với người đàn ông phải chịu trách nhiệm về sinh mạng của 290 thường dân Iran và cảm thấy phẫn uất về hoạt động của hệ thống tư pháp quốc tế cũng như tác động của nó đối với họ. Các khảo sát cho thấy sự đón tiếp nồng nhiệt Rogers nhận được ở San Diego là một sự lầm lạc – công chúng hài lòng với những gì ông ta đã hoàn thành. 

Điều này phản ánh sự thật là truyền thông đưa tin về vụ bắn hạ 655 đã tập trung vào các cáo buộc chính thống về nguyên nhân của hành động chết chóc, chứ không phải hoàn cảnh của các nạn nhân và nỗi đau khổ của gia đình họ - những thứ được tập trung mạnh mẽ và liên tục trong cả vụ chiếc 007 lẫn Pan Am 103. Sự đau khổ của thuyền trưởng Rogers nhận được nhiều sự chú ý hơn sự đau khổ của 290 nạn nhân và gia đình của họ. Chúng ta quay trở lại sự tương phản giữa nạn nhân “đáng giá” và “không đáng giá” và “mục đích hữu ích” của sự tập trung chú ý, như chính quyền và truyền thông Hoa Kỳ thấy.

Israel bắn hạ máy bay Libya 

Vào ngày 21 tháng 2 năm 1973, chiếc máy bay dân sự số 114 của hãng hàng không Libya, đi lệch đường bay trong một trận bão cát, lấn vào vùng trời bán đảo Sinai, và đã bị chiến đấu cơ Israel bắn hạ, 108 người thiệt mạng. Israel bị Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng Quốc Tế lên án và bị Hoa Kỳ chỉ trích, mặc dù là họ biết rằng đã bắn hạ máy bay dân sự, nhưng không có bất cứ sự trừng phạt nào, không có tố cáo nào đối với Israel. Họ không bị buộc tội sát nhân, tấn công, tàn ác hay man rợ - những từ ngữ được áp dụng cho Soviet năm 1983. Lãnh đạo Israel Golda Meier được chào đón tới Washington trong vòng một tuần sau sự cố mà không có bất cứ câu hỏi gây ngạc nhiên nào của truyền thông hay chính giới. 

Tờ New York Times đã có 25 bài báo về vụ bắn hạ (so với 147 trong vụ chiếc 007), và không có số tạp chí đặc biệt nào cho vụ việc. Đáng chú ý nhất là các xã luận của họ về sự cố, khẳng định rằng “Không có mục đích hữu ích nào trong tranh luận về các chi tiết của cáo buộc đối với vụ hạ máy bay của hãng hàng không Libya tại bán đảo Sinai tuần qua” (Ngày 1 tháng 3 năm 1973).

Nhưng cũng như truyền tải cấp tốc và tranh luận cho mục đích hữu ích trong vụ chiếc 007, giúp biến “đế chế ma quỷ” thành ác quỷ, thì truyền tải tối thiểu và lảng tránh tranh luận phục vụ cho lợi ích của đồng minh Israel. Chúng ta thấy sự thừa nhận công khai về tiêu chuẩn kép và chính trị hóa báo chí.

Nga và đối tác Ukraina có thể đã bắn hạ máy bay 

Vụ bắn hạ máy bay số 17 của hãng hàng không Malaysia vào ngày 17 tháng 7 là một của trời cho về tuyên truyền đối với phe cánh hiếu chiến Hoa Kỳ và đối tác Ukraina của họ, cũng như tiếp tục nuôi dưỡng việc biến Putin và nước Nga hung hăng thành ác quỷ, có thể biện minh cho các chính sách khắc nghiệt đối với Nga, tăng thêm viện trợ quân sự cho chính quyền Kiev và ủng hộ cuộc chiến bình định của họ. Sự tương đồng với vụ 007 là rất rõ ràng, khi việc sử dụng vụ bắn hạ năm 2014 để giành lợi thế cho phe hiếu chiến tương tự như chính quyền Reagan đối đầu với “đế chế ma quỷ” vào năm 1983.

Sự khác biệt quan trọng trong hai trường hợp là vào năm 1983 xác định phe bắn hạ máy bay là rõ ràng, mặc dù chính quyền Reagan lựa chọn sự dối trá về động cơ của Soviet để đạt được mục đích, trong khi vụ chiếc 17 thì ai bắn hạ vẫn chưa được xác định tại thời điểm này (ngày 2 tháng 8). Obama và Kerry nhanh chóng cáo buộc “những người ly khai” miền đông Ukraina, cùng với Nga, đã cung cấp cho họ tên lửa. Nga cũng bị cáo buộc là đã không ngăn chặn những người ly khai và che chở cho cuộc kháng chiến.

Obama và Kerry nhanh chóng khẳng định rằng những người ly khai-người Nga có lỗi trong vụ bắn hạ, khẳng định về các bằng chứng vững chắc, mà họ không cung cấp để kiểm tra công khai. Nga đã phủ nhận trách nhiệm của họ và người ly khai, đồng thời cung cấp bằng chứng cho Liên Hiệp Quốc và công chúng thấy rằng chiếc 17 đã rời khỏi đường bay và bị hai chiến đấu cơ phản lực của Không Quân Ukraina bám đuổi, thậm chí chỉ cách chiếc máy bay của Malaysia khoảng từ 3 đến 5 km (see letter dated July 22 from the Permanent Representative of the Russian Federation to the United Nations addressed to the Secretary-General. One can actually watch this on a 29-minute video at the RT website). Trung tướng Nga A. V. Kartapolov hỏi: “Tại sao máy bay quân sự lại bay vào đường bay dân sự hầu như cùng lúc và cùng trạng thái với máy bay dân sự? Chúng tôi muốn câu hỏi này được trả lời.” Nga đã liên tục kêu gọi một cuộc điều tra quốc tế để tìm ra chân tướng vụ việc, đồng thời thúc giục Hoa Kỳ cung cấp các bằng chứng cho việc điều tra.

Điều chưa rõ ràng là ai đã bắn hạ máy bay, nhưng điều rõ ràng là người ly khai và Nga không có lợi ích gì khi làm điều đó, nên nếu họ có trách nhiệm thì đó sẽ là một sai lầm tệ hại và đắt giá về mặt chính trị đối với họ. Chính quyền Kiev, trái lại, có lợi ích khi làm điều đó nếu nó có thể gán cho người ly khai và Nga, và nó đã được gán ngay cả khi các bằng chứng chưa rõ ràng. Như vụ 007 và Lockerbie, sức mạnh tuyên truyền Hoa Kỳ có thể tạo ra dối trá về chuyến bay (007) và kẻ hung đồ có thể được chọn cũng như thay đổi để phục vụ cho lợi ích chính trị (Lockerbie, từ Iran sang Libya), cùng với các đòn tuyên truyền khổng lồ về vụ chiếc 17 thì mục tiêu đã đạt được trước khi sự thật được phơi bày. Chiến thắng tuyên truyền dựa trên hãng truyền thông, chiến dịch tuyên truyền của truyền thông trong vụ này cũng tương tự như vụ 007 và Lockerbie. Điểm chủ chốt của chiến dịch tuyên truyền là chấp nhận một cách phổ biến khẳng định của Obama-Kerry về trách nhiệm của người ly khai-Nga trong vụ bắn hạ. Cũng như vụ chiếc 007, không có câu hỏi nào được đưa ra và sự chân thực trong khẳng định của Kerry về bằng chứng được chấp nhận mà không cần phải thấy bằng chứng, bất chấp kỷ lục về các tuyên bố sai lệch của Kerry (On these false statements, and more, see Veteran Intelligence Professionals for Sanity Steering Committee, “Obama Should Release Ukraine Evidence,” ConsortiumNews.com, July 29, 2014.) Một đặc trưng khác của truyền thông là sự chấp nhận giả định của Obama/Kerry về trách nhiệm tối cao của tất cả những gì khó chịu đang diễn ra ở miền đông Ukraina thuộc về Putin và chính sách của ông ta – sự ủng hộ của ông ta đối với “những người ly khai” và thất bại của ông ta trong việc ngăn chặn họ cũng như chấp nhận hay thậm chí là ủng hộ nỗ lực bình định của Kiev.

Xã luận của tờ Times, “Vladimir Putin có thể ngăn chặn cuộc chiến này” (ngày 18 tháng 7) là mẫu mực về sự thiên lệch. Hoa Ky có thể ngăn chặn cuộc chiến dễ dàng hơn nhiều băng cách thuyết phục chính quyền tay sai Kiev ngừng cuộc tấn công của họ ở miền đông và đàm phán một giải pháp với “những người ly khai”. Điều đó không được bàn luận ở tờ Times và truyền thông chính thống một cách rộng rãi hơn.

Đối với truyền thông, Hoa Kỳ có quyền hỗ trợ tích cực chính quyền Kiev, ở rất xa biên giới Hoa Kỳ; nhưng Nga thì không có quyền hỗ trợ những người ly khai láng giềng trong một cuộc nội chiến kết hợp với chiến tranh tay sai của Hoa Kỳ nhắm chống lại Nga. Trong khi cáo buộc Nga đã giật dây các hoạt động ly khai ở miền đông (Sabrina Tavernise, “Orchestrated Conflict,” NYT, June 15, 2014) thì Hoa Kỳ không bao giờ “giật dây” các xung đột, chỉ là sự giúp đỡ từ bên ngoài đối với chính quyền Ukraina hợp pháp trong việc ổn định và chống trả xâm lược nước ngoài. Đó là những sự thật được thể chế hóa trong hệ thống tuyên truyền hoạt động đẹp đẽ, đôi khi là sống sượng.

Wednesday, May 21, 2014

Chiến tranh và hòa bình ở Triều Tiên và Việt Nam

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "War and Peace in Korea and Vietnam" của nhà hoạt động hòa bình Hoa Kỳ David Hartsough, bài viết cung cấp nhiều cảm nhận chân thực của một người Mỹ về Việt Nam sau những ấn tượng kinh hoàng của chiến tranh.

Tôi mới quay trở lại sau 3 tuần ở Triều Tiên và Việt Nam, những đất nước trong quá khứ đã phải chịu đựng và đang tiếp tục phải chịu đựng sự tàn phá của chiến tranh.

Hàn Quốc

Bắc và Nam đang bị giam hãm trong trạng thái bi kịch của chiến tranh lạnh với đất nước bị chia rẽ mà Hoa Kỳ áp đặt (và không có Liên Bang Soviet phản đối) từ năm 1945 và được củng cố vào năm 1948. Mười triệu gia đình bị chia rẽ bởi sự chia cắt của miền Bắc và miền Nam. Người dân ở Nam Triều Tiên không thể gọi điện, viết thư hay thăm viếng người thân hay bạn bè ở Bắc Triều Tiên và ngược lại. Một giáo sĩ Catholic từ Nam Triều Tiên mà tôi gặp đã trải qua ba năm rưỡi ngồi tù ở Nam Triều Tiên vì thăm viếng Bắc Triều Tiên trong một sứ mạng hòa bình. Biên giới giữa Bắc và Nam Triều Tiên là khu vực chiến tranh, nơi mà chiến tranh súng đạn có thể nổ ra bất cứ khi nào. Quân đội Hoa Kỳ và Nam Triều Tiên thường xuyên tập trận bắn đạn thật với 300,000 lính đóng vai phòng thủ và tấn công với các chiến đấu cơ ở biên giới Bắc Triều Tiên. Bắc Triều Tiên cũng thường xuyên đe dọa chiến tranh. Liên Bang Soviet không còn tồn tại và đây là lúc Hoa Kỳ cầu khẩn sự tha thứ của người dân Nam và Bắc Triều Tiên vì đã áp đặt trạng thái chiến tranh lên hai đất nước, ký kết một thỏa thuận hòa bình với Bắc Triều Tiên để chính thức chấm dứt chiến tranh Triều Tiên, công nhận chính quyền của Bắc Triều Tiên và đồng ý đàm phán về mọi xung đột trên bàn hội thảo, không phải trên chiến trường.

Tôi dành phần lớn thời gian ở Triều Tiên trên đảo Jeju, một hòn đảo xinh đẹp ở cách đất liền phía nam của Nam Triều Tiên 50 dặm, nơi đó đó có khoảng từ 30,000 đến 80,000 ngượi bị sát hại kể từ năm 1948 theo mệnh lệnh của chỉ huy quân đội Hoa Kỳ. Người dân đảo Jeju đã phản kháng mạnh mẽ sự chiếm đóng của Nhật Bản trong thế chiến thứ hai và cùng với phần lớn người dân ở Triều Tiên, trông mong một quốc gia tự do và độc lập. Mặc dù vậy, thay vì một quốc gia thống nhất, Hoa Kỳ đã áp đặt một chính quyền chống cộng sản cực đoan ở Nam Triều Tiên và đặc biệt là ở đảo Jeju. Tất cả những người phản kháng một Nam Triều Tiên chống cộng sản và quân sự hóa đều bị sát hại (hơn một phần ba dân số thời đó). Bởi vì chế độ độc tài chống cộng sản kéo dài nhiều thập kỷ sau năm 1948, nên người dân đảo Jeju thậm chí không được phép nói về quá khứ hoặc họ sẽ bị tình nghi là thân cộng sản và bị trừng phạt. Chỉ đến năm 2003, tổng thống Roh Moo-huyn mới xin lỗi theo lệnh của chính quyền Hàn Quốc về việc thảm sát người dân đảo Jeju vào năm 1948. Đảo Jeju hiện nay được công bố là “Đảo Hòa Bình” và cũng được coi là “Vùng Di sản Thế giới” do có những dải san hô ngầm và vẻ đẹp tự nhiên.

Nhưng hiện nay chính quyền Hoa Kỳ quyết định “xoay trục sang châu Á” và lập kế hoạch chuyển tâm điểm của các chiến dịch quân sự sang châu Á – có lẽ là để bao vây Trung Quốc với các căn cứ quân sự và chuẩn bị cho cuộc chiến tiếp theo. Làng Gangjeong được lựa chọn làm cảng cho một căn cứ quân sự quy mô lớn, ở đó hiện nay chính thức là một căn cứ quân sự Hàn Quốc, nhưng thực tế được coi là nơi để các tàu chiến Hoa Kỳ giúp “bao vây” Trung Quốc. Do vậy, đảo Jeju có nguy cơ lại trở thành tâm điểm trong một cuộc chiến mới - thậm chí là cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Kể từ khi kế hoạch về căn cứ được thông báo lần đầu tiền bẩy năm trước đây, người dân Gangjeong đã phản đối việc xây dựng căn cứ và trong bốn năm qua đã ngăn chặn phi bạo lực các máy ủi và các xe tải xi măng đi vào căn cứ. Các nhà hoạt động Nam Triều Tiên (nhiều người thuộc các nhà thờ Catholic) đã tham gia phong trào phản kháng phi bạo lực. Hàng ngày có một đám đông tín đồ Catholic trong đó các thầy tu và nữ tu chặn đường chính vào căn cứ và mỗi ngày bị cảnh sát giải tán khi nhiều xe tải chở xi măng xếp hàng để đi vào căn cứ. Khi cảnh sát rút lui sau khi những xe tải tiến vào căn cứ, các thầy tu và nữ tu lại mang ghế ngồi ra tiếp tục chặn lối vào căn cứ - họ cầu nguyện suốt. Tôi tham gia với họ trong hai ngày cuối cùng trên đảo Jeju. Sau khi đám đông duy trì mỗi ngày khoảng hai giờ, các nhà hoạt động tới và khiêu vũ để chặn cửa chính khoảng một giờ. Một số người hành động theo lương tâm bằng cách chặn lối vào đã phải ngồi tù hơn một năm. Những người khác bị áp đặt các án phạt tiền nặng nề vì những hành động xuất phát từ lương tâm. Nhưng phong trào phản kháng phi bạo lực vẫn tiếp tục.

Một số người Triều Tiên làm việc chăm chỉ cho hòa giải và hòa bình giữa Bắc và Nam Triều Tiên. Nhưng các chính quyền Hoa Kỳ, Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên vẫn tiếp tục đối đầu quân sự và hiện nay nếu căn cứ được xây dựng, sẽ là một căn cứ rất lớn khác ở Nam Triều Tiên. Những người Mỹ quan ngại cần phải hỗ trợ phong trào phi bạo lực của người dân đảo Jeju để chấm dứt xây dựng căn cứ quân sự ở đó.

Tôi tin rằng người dân Mỹ cần phải yêu cầu chính quyền của chúng ta chấm dứt lối hòa bình theo kiểu Mỹ đối với phần còn lại của thế giới. Chúng ta cần xử lý xung đột với Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và tất các các quốc gia bằng đàm phán trên bàn họp, chứ không phải triển khai quân đội hay đe dọa và xây dựng nhiều căn cứ quân sự hơn.

Và giờ tới Việt Nam.

Việt Nam

Vào tháng tư tôi đã dành ra hai tuần ở Việt Nam với tư cách là một thành viên trong đoàn đại biểu Cựu chiến binh vì Hòa bình do một nhóm cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam của Hoa Kỳ sống ở Việt Nam tổ chức. Tâm điểm trong chuyến viếng thăm của chúng tôi là tìm hiểu xem người dân Việt Nam tiếp tục phải chịu đựng đau khổ của cuộc chiến tranh đã kết thúc cách đây 39 năm ra sao.

Một số ấn tượng/điểm nhấn trong chuyến viếng thăm Việt Nam của tôi như sau:

*Sự thân thiện của người dân Việt Nam, những người chào đón chúng tôi, mời chúng tôi tới nhà họ và tha thứ cho chúng tôi mọi đau khổ, thương tích và chết chóc mà đất nước của chúng ta đã bắt họ phải gánh chịu trong cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Việt Nam, với hy vọng rằng họ và chúng ta có thể sống trong hòa bình với nhau. 

*Sự đau khổ, thương tích và chết chóc khủng khiếp do cuộc chiến ở Việt Nam gây ra. Nếu Hoa Kỳ tôn trọng hiệp định Geneva, theo đó kết thúc cuộc chiến tranh với Pháp-Việt Nam vào năm 1954 và cho phép bầu cử tự do trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào năm 1956, ba triệu người Việt Nam (trong đó có hai triệu thường dân) đã không phải chết trong chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Quân đội Hoa Kỳ đã ném hơn tám triệu tấn bom (nhiều hơn tất cả các bên trong thế chiến thứ hai cộng lại) giết hại, gây thương tật và buộc người dân phải bỏ nhà cửa chạy trốn và nhiều người trong số họ phải sống dưới hầm. Ở tỉnh Quảng Trị, bốn tấn bom được ném xuống mỗi đầu người trong tỉnh (tương đương với tám quả bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima).

*Người dân Việt Nam vẫn tiếp tục đau khổ và chết bởi bom chưa nổ và chất độc màu da cam được Hoa Kỳ ném xuống Việt Nam trong cuộc chiến. Mười phần trăm số bom ném xuống Việt Nam chưa nổ ngay và vẫn tiếp tục nổ trên sân vườn của người dân, trên cánh đồng và trong làng của họ, dẫn đến người dân ở mọi độ tuổi, có cả trẻ em bị mất chi, bị mù hay bị chết hoặc bị các thương tật khác. Tám trăm ngàn tấn bom chưa nổ vẫn nằm trên mặt đất Việt Nam. Kể từ khi kết thúc cuộc chiến, ít nhất có 42,000 người chết và 62,000 người khác bị thương hay tàn phế vĩnh viễn do bom chưa nổ. Chúng tôi đã chứng kiến một quả bom bướm chưa nổ được cho nổ an toàn sau khi được tìm thấy cách mười feet ở phía sau một căn nhà trong ngôi làng khi họ phát quang cỏ dại một ngày trước khi chúng tôi tới đó.

*Hơn 20 triệu gallon thuốc diệt cỏ đã được phun xuống con người và đất nước Việt Nam, trong đó có 15 triệu gallon chất độc màu da cam hủy diệt cây cối và mùa màng. Có ba triệu người Việt Nam là nạn nhân của chất độc màu da cam với cơ thể và trí óc dị dạng, ba thế hệ tiếp theo vẫn chịu đựng đau khổ do chất hóa học cực độc này gây ra, nó làm biến đổi gen và di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên trẻ em vẫn tiếp tục bị dị dạng bẩm sinh trong trí óc và cơ thể. Chúng tôi thăm viếng một trại trẻ mồ côi bị ảnh hưởng bởi chất độc màu da cam, những đứa trẻ không bao giờ có khả năng sống một cuộc đời bình thường. Chúng tôi tới thăm một gia đình nơi những đứa trẻ nằm trên giường hay sàn nhà không có khả năng điều khiển cơ thể hay thậm chí nhận ra những người xung quanh. Một người mẹ hay người bà dành 24 giờ một ngày để chăm sóc chúng. Điều đó vượt quá sức chịu đựng của trái tim chúng ta.

*Tổ chức Cựu chiến binh (Hoa Kỳ) vì Hòa Bình Hiến Chương 160 ở Việt Nam đang trợ giúp các dự án giống như dự án Renew, trong đó người Việt Nam được hướng dẫn cách vô hiệu hóa hay cho nổ an toàn những quả bom chưa nổ mà họ tìm thấy ở cộng đồng. Họ cũng hỗ trợ các trại trẻ mồ côi và gia đình mà có một hay nhiều thành viên không thể lao động bằng cách mua cho gia đình ấy một con bò hay lợp mái nhà và hỗ trợ gia đình ấy. Đoàn của chúng tôi đóng góp 21,000 dollar cho trại trẻ mồ côi và hỗ trợ các gia đình bị nhiễm chất độc màu da cam và bị ảnh hưởng của bom chưa nổ - một giọt nhỏ so với nhu cầu, nhưng cũng rất đáng giá.

*Chính quyền Hoa Kỳ nên gánh trách nhiệm giải phóng sự đau khổ và thương tích mà cuộc chiến của chúng ta vẫn đang gây ra cho người dân Việt Nam và đóng góp hàng trăm triệu dollar cần thiết để làm sạch cả chất độc màu da cam lẫn bom chưa nổ và hỗ trợ các gia đình cũng như nạn nhân đang phải chịu đau khổ của chiến tranh. Người Việt Nam đã sẵn sàng làm việc, nhưng cần sự trợ giúp tài chính. Người Mỹ chúng ta đã gây ra thảm kịch này. Chúng ta có trách nhiệm -đạo đức phải dọn sạch nó.

*Ấn tượng rất mạnh mẽ với các cựu chiến binh Hoa Kỳ, những người đã tham gia giết chóc và phá hủy Việt Nam và giờ đang tìm thấy sự hồi phục những chấn thương trong chiến tranh cách đây 40 năm hoặc nhiều hơn, qua việc tiếp xúc với những người Việt Nam vẫn đang phải chịu đựng đau khổ của chiến tranh. Một cựu chiến binh Hoa Kỳ kể với tôi là sau chiến tranh ông ấy đã không thể sống với bản thân hay với bất cứ ai khác và sống xa cách mọi người đến chừng nào ông ấy có thể - khoảng hàng trăm dặm về phía bắc Anchorage, Alaska, làm việc với đường ống dẫn dầu ngày qua ngày, uống nhiều rượu hoặc sử dụng chất gây nghiện trong phần thời gian còn lại để trốn tránh khỏi những ấn tượng đau thương về chiến tranh. Ông ấy nói có hàng trăm cựu chiến binh khác cũng như vậy trong các cánh rừng ở Alaska. Chỉ sau ba mươi năm trong địa ngục, ông ấy cuối cùng cũng quyết định quay trở lại Việt Nam để hiểu người Việt Nam và tìm thấy cách chữa lành vết thương chiến tranh – bằng cách cố gắng chữa lành vết thương cho những người Việt Nam cũng như bản thân. Ông ấy nói rằng quyết định tồi tệ nhất trong cuộc đời là đến Việt Nam như một người lính và quyết định tốt nhất là trở lại Việt Nam như một người bạn của người dân Việt Nam.

*Có một đạo luật được quốc hội thông qua phân bổ 66 triệu dollar để kỷ niệm chiến tranh Việt Nam vào năm 2015, lễ kỷ niệm 40 năm kết thúc chiến tranh. Nhiều người ở Washington muốn làm đẹp hình ảnh của cuộc chiến ở Việt Nam – coi đó là một “cuộc chiến tốt” và thứ gì đó mà người Mỹ nên tự hào. Sau chuyến viếng thăm mới đây tới Việt Nam, tôi cảm thấy rằng chúng ta phải không cho phép chính phủ làm đẹp hình ảnh chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến khủng khiếp như mọi cuộc chiến. Chúng ta có thể học được từ lịch sử cũng như từ bài giảng tôn giáo của chúng ta rằng chiến tranh không phải là câu trả lời, rằng chiến tranh không giải quyết xung đột mà gieo mầm cho các cuộc chiến tương lai. Chiến tranh là thảm họa đọa đức đối với mọi người nhất là đối với những người tham gia giết chóc. (Có một số lượng lớn các vụ tự tử do các binh lính đang làm nghĩa vụ và cựu binh thực hiện, và linh hồn của tất cả những người còn lại trong số chúng ta cũng bị tổn thương).

*Hoa Kỳ có thể là quốc gia được yêu mến nhất trên thế giới nếu chúng ta chuyển từ hòa bình kiểu Mỹ trong quan hệ với thế giới sang một tầm nhìn thế giới về gia đình nhân loại toàn cầu. Chúng ta cần làm việc vì “an ninh được chia sẻ” cho mọi người dân trên trái đất và hành động theo niềm tin đó bằng cách hiến hàng trăm tỷ dollar mà chúng ta đang chi cho các cuộc chiến và chuẩn bị chiến tranh cho nhu cầu nhân đạo và môi trường ở Hoa Kỳ cũng như khắp thế giới. Chúng ta có thể giúp kết thúc nạn đói thế giới, xây dựng trường học cũng như bệnh xã trong các cộng đồng quanh thế giới – tạo dựng một cuộc đời tử tế cho tất cả mọi người trên hành tinh. Điều đó sẽ là biện pháp chiến đấu chống khủng bố hiệu quả hơn những nỗ lực hiện nay để duy trì an ninh bằng nhiều vũ trang hơn, nhiều bom nguyên tử hơn hay nhiều doanh trại quân đội bao quanh hành tinh hơn.