Showing posts with label Chiến tranh. Show all posts
Showing posts with label Chiến tranh. Show all posts

Monday, April 11, 2016

Lý Quang Diệu đã bình luận gì về Việt Nam ở Harvard vào năm 1967?

Toàn bộ các thông tin dưới đây được dịch từ trang The Crimson về các phát biểu của Lý Quang Diệu tại Harvard, Hoa Kỳ vào năm 1967.

Bối cảnh lúc đó là Singapore vừa mới tách ra khỏi liên bang với Malaysia sau một thời gian gian ngắn thành lập. Lý Quang Diệu đi công du ở Hòa Kỳ và đề nghị được nói chuyện với sinh viên trường Hành Chính Công, sau này đổi tên thành trường Kennedy. Singapore lúc đó đã là thành phố cảng lớn thứ 5 thế giới, có mức thu nhập bình quân đầu người 500 dollar/năm và có mức sống cao nhất khu vực Đông Nam Á. Ông ta thúc giục Hoa Kỳ tiếp tục cuộc chiến xâm lược Việt Nam để dựng lên một lá chắn bảo vệ các nước Đông Nam Á.

Huyền thoại Lý Quang Diệu mơ Singapore được như Sài Gòn đều nhắc đến quãng thời gian năm 1965-1967. Có nhiều dị bản về huyền thoại này, có cái thì viết rằng họ Lý nói điều đó năm 1965 khi Singapore tách ra khỏi liên bang với Malaysia, có cái lại viết họ Lý nói điều đó tại một khách sạn ở Sài Gòn vào năm 1967.

Những bài báo của Mỹ vào năm 1967 cho thấy Lý so sánh Singapore và Sài Gòn vào năm 1954 để nhấn mạnh sự thất bại của ngụy quyền Sài Gòn về mặt chính trị. Vào năm 1954, Singapore không nhận được sự hậu thuẫn lớn của Anh như chính quyền Sài Gòn đã nhận được từ Mỹ. Mặc dù người Mỹ cho rằng đây chỉ là chuyện xuyên tạc nhằm mục đích đề cao cá nhân Lý. 


Khuyết danh, 20/10/1967

0

Ngài Lý Quang Diệu, thủ tướng nước cộng hòa Singapore, sẽ viếng thăm Diễn Đàn Dunster vào lúc 14h15 ngày hôm nay tại nhà ăn của Dunster.



Khuyết danh, 21/10/1967

8

Hoa Kỳ đã bỏ lỡ các cơ hội rút lui khỏi Việt Nam và hiện giờ phải tiếp tục ở lại và chiến đấu, Lý Quang Diệu, thủ tướng của nước cộng hòa Singapore, đã phát biểu tại Harvard chiều ngày hôm qua.

“Chuyến xe đã dừng vài lần và anh phải xuống xe,” Lý nói với một trong số 125 khán giả tại diễn đàn Dunster. Ông ta nhắc tới năm 1954, 1956 và 1961 như là những lúc mà Hoa Kỳ có thể từ chối tham chiến ở Việt Nam. Lý cho rằng vụ sát hại Diệm là cơ hội cuối cùng để Mỹ rút lui, theo quan điểm của ông ta là chính sách “tốt hơn nhiều” vào lúc đó.

Sự rút lui chung cuộc

Vị thủ tướng nói rằng ông ta muốn người Mỹ cuối cùng cũng rời khỏi Việt Nam. Song ông ta nhấn mạnh, nhưng hiện giờ Hoa Kỳ phải thể hiện sự đáp trả bằng quân sự mạnh mẽ. Giải pháp cứng rắn của Hoa Kỳ sẽ buộc Bắc Việt Nam phải đàm phán, Lý nói.

Để thúc giục Hoa Kỳ tiếp tục can thiệp ở Việt Nam, Lý nói về lợi ích rộng lớn của Hoa Kỳ với một chính quyền phi cộng sản ổn định.

Ông ta nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ phải cố gắng tìm ra một nhóm người miền Nam Việt Nam có thể nắm quyền lãnh đạo. Ông ta lên án việc Anh và Mỹ đã phá hủy “có hệ thống” mọi sự thay thế cho lãnh đạo của Diệm vào năm 1954.

Lý nói rằng, thực tiễn ở Singapore là ví dụ cho thấy một giải pháp tốt hơn cho vấn đề như Việt Nam. Vị thủ tướng giải thích là khi người Anh thấy rằng không thể đồng thời chống lại cả cộng sản và quốc gia, họ đã cho phép chuyển giao quyền lực cho “người có năng lực tốt nhất trong những nhóm phi cộng sản.” Ông ta nhấn mạnh rằng trong các cuộc bầu cử tự do hiện nay thì cộng sản sẽ không nhận được nhiều hơn 13% số phiếu bầu. 

Mong muốn đối thoại 

Kế hoạch ban đầu của Lý chỉ là viếng thăm Trung Tâm Đối Ngoại khi lưu lại ở Havard. Tuy vậy, trong cuộc đối gặp mặt tổng thống Johnson vào thứ tư, Lý bày tỏ mong muốn được gặp các sinh viên Hoa Kỳ.

Yêu cầu của ông ta được chuyển đến cho Alwin M. Pappenheimer ’29, chủ nhân của Diễn Đàn Dunster, người sắp xếp cho Lý phát biểu. Giữa tiếng hoan hô và vỗ tay, Lý giải thích, “Tôi đến đây để thu thập ý kiến” và “tìm ra những kế hoạch tiếp theo mà tôi phải thực hiện.”


Thursday, March 17, 2016

Những huyền thoại an ủi: Canada và chiến tranh Việt Nam

Trong bài viết "Những huyền thoại an ủi: Canada và Chiến Tranh Việt Nam", tác giả Yves Engler đã phơi bày sự thật về huyền thoại một cựu thủ tướng Canada chống chiến tranh Việt Nam, mà thực ra ông ta ủng hộ nó. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến huyền thoại Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa dân tộc và chống lại Hoa Kỳ. Tất nhiên đó là sự dối trá.

Những huyền thoại an ủi: Canada và chiến tranh Việt Nam

Trong khi việc đưa tin về chuyến viếng thăm Washington mới đây của Justin Trudeau vô vị một cách đáng ngạc nhiên trong sự nhấn mạnh vào “sự thân thiết” giữa Obama và thủ tướng Canada, ít nhất nó cũng chính xác (theo nghĩa giới hạn mà truyền thông chính thống đặt ra), ngoại trừ việc chương trình 60 Phút đã nhầm lẫn một cách nực cười bức ảnh ngôi sao Kim Cattral của phim Sex and the City với Margaret Trudeau. Tuy vậy, một nội dung khác đã không bị truyền thông chống lại như là lời nói dối và huyền thoại quốc gia nguy hiểm.

Một số hãng truyền thông đã thảo luận về việc Lester Pearson viếng thăm Lyndon Johnson sau khi ông ta được cho là “có một bài phát biểu lên án sự can dự của Hoa Kỳ ở Việt Nam.” Báo chí Canada đã tường thuật bài phát biểu của cự thủ tướng và cuộc gặp mặt với tổng thống Hoa Kỳ như sau: “’Pearson không bao giờ viếng thăm nữa, sau xung đột nổi tiếng năm 1965. Ông ấy phản đối chiến tranh Việt Nam và Johnson đã tóm lấy ve áo của ông ta rồi nói gằn giọng: “Đừng đến phòng ngủ của tao và đái ra chăn của tao.’”

Phát biểu của Pearson tại đại học Temple ở Philadelphia vào đêm trước khi ông ta gặp Johnson dường như là ví dụ được trích dẫn nhiều nhất về việc lãnh đạo Canada (được cho là) phản đối chủ nghĩa quân phiệt Hoa Kỳ. Ngay cả các tác giả nói chung là quan trọng như Linda McQuaig cũng nhắc đến nó như là “sự đóng góp vào nỗ lực chấm dứt của chiến tranh Hoa Kỳ ở Việt Nam.”

Nhưng đây là điều mà Pearson đã thực sự nói ở Philadelphia: “Chính quyền và đại đa số người dân ở đất nước tôi hoàn toàn ủng hộ chính sách giữ gìn hòa bình và tạo dựng hòa bình của Hoa Kỳ ở Việt Nam.” 

Trong Sự đồng phạm lặng lẽ: Sự can dự của Canada trong Chiến Tranh Việt Nam, Victor Levant đặt phát biểu của Pearson vào bối cảnh chính xác: 

“Trong bài diễn văn ở Temple, thủ tướng không chấp nhận tất cả những điều kiện và hầu hết các kết luận của chính sách Hoa Kỳ. Theo quan điểm của Pearson, nguyên nhân chính gây ra sự gia tăng chiến tranh ở Việt Nam là sự xâm lược của Bắc Việt. Ông ta nói, ‘tình hình này không thể cải thiện được cho đến khi Bắc Việt hiểu rằng sự xâm lược, dưới bất cứ vỏ bọc nào, vì bất kỳ lý do gì, đều không được chấp nhận và sẽ không thể thành công.’ Điều này có tác động rộng lớn, do ‘không có quốc gia nào… có thể cảm thấy an toàn nếu như sự đầu hàng ở Việt Nam dẫn đến sự biện hộ cho xâm lược thông qua lật đổ và chiến tranh giải phóng quốc gia giả tạo.’ Nếu như hòa bình có thể đạt được, điều kiện đầu tiên là ngừng bắn và điều này chỉ diễn ra nếu như Hà Nội thừa nhận những sai lầm trong đường lối của họ: ‘hành động xâm lược của Bắc Việt để mang sự giải phóng cộng sản (có nghĩa là sự cai trị của cộng sản) đến Nam Việt Nam phải chấm dứt, chỉ khi đó thì đàm phán mới có thể diễn ra.’ Hành động quân sự của Hoa Kỳ nhằm mục đích chống lại sự xâm lược của Hà Nội, các biện pháp có đi quá xa, trong đó có việc ném bom miền Bắc, song hoàn toàn chính đáng: ‘các cuộc tấn công trả đũa đối với các mục tiêu quân sự của Bắc Việt, vốn là một sự khiêu khích lớn, nhằm mục đích cho thấy rõ rằng việc duy trì chính sách xâm lược đối với miền nam sẽ trở thành một gánh nặng lớn đối với chế độ miền Bắc. Sau khoảng hai tháng không kích, thông điệp đã được đưa ra rõ ràng và sáng tỏ.’”

Levant viết tiếp:

“Mặt khác, Pearson khẳng định rằng việc tiếp tục ném bom, thay vì làm suy yếu ý chí kháng cự của Hà Nội, có thể dẫn đến tình thế không khoan nhượng. Do đó, ông ta đề xuất một động thái chiến thuật là Hoa Kỳ nên cân nhắc “tạm ngừng” ném bom: ‘có nhiều yếu tố mà tôi không ở vị thế để cân nhắc. Nhưng ở đây ít nhất là việc tạm ngừng không kích Bắc Việt, vào đúng thời điểm, có thể cho nhà cầm quyền Hà Nội một cơ hội. Nếu họ muốn đón nhận cơ hội đó, để tạo ra một số sự linh hoạt cho chính sách của họ mà không có vẻ như là phải làm điều đó dưới sức ép quân sự. Nếu như sự tạm ngừng diễn ra trong một thời gian giới hạn, tỷ lệ đụng độ ở Nam Việt Nam có thể cho thấy cách đo lường chính xác sự hữu dụng và mong muốn tiếp tục. Dĩ nhiên, tôi không đề xuất bất cứ sự nhượng bộ nào về nguyên tắc, hay bất cứ cắt giảm sức kháng cự xâm lược nào ở Nam Việt Nam. Sự kháng cự có thể đòi hỏi gia tăng sức mạnh quân sự được dùng để chống lại và tấn công cộng sản có vũ trang. Tôi chỉ muốn đề xuất rằng một sự tạm ngừng có tính toán và được thông báo trên chiến trường vào đúng lúc có thể tạo điều kiện thuật lợi cho sự phát triển các giải pháp ngoại giao vốn không dễ dàng áp dụng cho vấn đề trong tình thế hiện tại. Ít nhất, điều đó cũng có thể cho thấy sự không khoan nhượng của chính quyền Bắc Việt.’” 

Hãy tiếp tục phân tích lập trường “chống chiến tranh” của Pearson. Khoảng 3 triệu người Việt Nam đã chết trong chiến tranh của Hoa Kỳ ở Đông Dương, với khoảng 100.000 người chết khi Hoa Kỳ ném bom miền Bắc. Đánh giá phát biểu của Pearson ở Temple theo các khái niệm hời hợt nhất, sự phản đối ném bom miền Bắc là lời kêu gọi chấm dứt 3,3% số người chết.

Khi Pearson gặp Johnson vào ngày kế tiếp, tổng thống đang phát khùng vì các quan chức lập chính sách đối ngoại cao cấp đã tranh luận về việc tạm ngừng ném bom Bắc Việt (điều sẽ diễn ra một tháng sau đó và khi Washington tái khởi động chiến dịch ném bom thì Pearson lại công khai bảo vệ nó). Bằng phát biểu của mình, Pearson đã đứng về phía các đối thủ của Johnson trong chính quyền Hoa Kỳ sau khi Johnson ra lệnh ném bom. Theo các tài liệu nội bộ của chính quyền được tiết lộ trong Hồ Sơ Lầu Năm Góc, vào tháng 5 năm 1964, Pearson đã đồng ý với yêu cầu của Johnson về việc có các thanh sát viên Canada trong Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế, vốn được coi là để giám sát việc triển khai Hiệp Định Geneva và thống nhất hòa bình Việt Nam, để chuyển thông điệp đe dọa ném bom của Hoa Kỳ cho các lãnh đạo Bắc Việt. Khi làm điều đó, chủ nhân giải Nobel Hòa Bình của Canada đã tiếp tay cho tội ác chiến tranh nghiêm trọng. 

Câu chuyện về việc Johnson phản đối Pearson vào ngày kế tiếp chỉ được phơi bày một thập kỷ sau đó, khi hành động của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã hoàn toàn tai tiếng. Vào năm 1974, cựu đại sứ Canada ở Washington Charles Ritchie viết, “tổng thống bước về phía ông ta và nắm lấy ve áo khoác của ông ta, đồng thời đưa tay kia lên trời.” Ritchie tường thuật Johnson đã nói: “Mày đừng có đến đây và đái ra chăn của tao.”

Trong khi mô tả của vị đại sứ hầu như là một sự cường điệu, các nhà bình luận sau đó đã tô vẽ cho lời kể của Ritchie. Một người nói Johnson “tóm lấy ve áo khoác của Pearson và lắc ông ta rất mạnh.”

Dĩ nhiên là một câu chuyện giải trí nhưng không phải là sự thật, cũng như việc nói rằng Lester Pearson phản đối chiến tranh là sự dối trá.

Trong khi đối với những người tạo ra huyền thoại quốc gia logic và sự kiện không cần phù hợp thì điều quan trọng là chúng ta hiểu thực tế của quá khứ nếu như chúng ta muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.

Yves Engler là tác giả của cuốn sách The Ugly Canadian: Stephen Harper’s Foreign Policy

Monday, January 25, 2016

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Bài viết "How the West Creates Terrorism" của Andre Vltchek nhắc nhở người đọc về chủ nghĩa khủng bố của phương Tây dưới dạng chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, hai bóng ma trong những vụ diệt chủng hàng trăm triệu người trên khắp thế giới, so với chúng đám khủng bố hiện nay chỉ là những kẻ học việc.

Cách thức phương Tây tạo ra chủ nghĩa khủng bố

Chủ nghĩa khủng bố có nhiều dạng và nhiều bộ mặt, nhưng khủng khiếp nhất là sự tàn bạo máu lạnh

Chúng ta được yêu cầu tin rằng những kẻ khủng bố là những tên điên bệnh hoạn, chạy quanh với bom, súng máy và thắt lưng chất nổ. Đó là cách chúng ta được yêu cầu hình dung về chúng

Nhiều kẻ để râu; hầu hết “trông giống người nước ngoài”, không phải da trắng, không phải phương Tây. Nói chung, chúng là kẻ đánh vợ, cưỡng hiếp trẻ em, kẻ phá hủy các bức tượng Hy Lạp và La Mã.

Thực tế là trong chiến tranh lạnh có một số “kẻ khủng bố” trông giống người da trắng – những kẻ cánh tả thuộc về một vài nhóm cách mạng, ở Italy và đâu đó của Đông Âu. Nhưng chỉ đến bây giờ chúng ta mới được biết rằng những hành động khủng bố được gán cho họ thực sự do Đế Quốc gây ra, bởi vài chính quyền cánh hữu Châu Âu và mật vụ. Bạn hãy nhớ, các quốc gia NATO đã làm nổ tung những con tàu trong đường hầm, hoặc đánh bom toàn bộ các nhà ga… 

Điều đó “cần phải thực hiện” để làm mất uy tín của cánh tả, chỉ để đảm bảo rằng người dân sẽ không trở nên thiếu trách nhiệm mà bỏ phiếu cho những người cộng sản hoặc xã hội chủ nghĩa chân chính.

Cũng có vài phần tử “khủng bố” Mỹ Latin – phong trào cách mạng chiến đấu vì tự do và chống lại áp bức, chủ yếu là chống lại chủ nghĩa thực dân phương Tây. Họ phải bị bao vây, tiêu diệt và nếu họ nắm quyền thì phải bị lật đổ.

Nhưng khủng bố thực sự trở nên phổ biến ở phương Tây chỉ sau khi Liên Bang Soviet và khối Cộng Sản bị phá hủy với hàng ngàn biện pháp kinh tế, quân sự và tuyên truyền, cũng như phương Tây đột nhiên phát hiện ra rằng chả có ai để đối đầu. Có lẽ là nó cảm thấy cần phải biện minh có những hành động áp bức tàn bạo của mình ở Châu Phi, Trung Đông, Mỹ Latin và Châu Á.

Nó cần một kẻ thù “tối thượng” mới, thực sự “tối thượng”, để biện minh cho ngân sách quân sự và tình báo khổng lồ. Việc đối mặt với vài trăm “quái vật” ở đâu đó trong rừng rậm xứ Colombia hay Bắc Ireland hoặc Corsia có lẽ là không đủ nữa, cần phải có thứ gì đó thật sự lớn, thứ gì đó so sánh được với “sự độc ác” của “mối đe dọa” từ Soviet.

Ôi mối đe dọa thân thuộc! Dĩ nhiên chỉ là mối đe dọa, không phải là nguy cơ của những lý tưởng bình đẳng và chủ nghĩa quốc tế…

Thế là phương Tây gắn chủ nghĩa khủng bố với Hồi giáo, một trong những nền văn hóa vĩ đại nhất trên trái đất, với 1,6 tỷ tín đồ. Hồi giáo đủ lớn và tối thượng để khiến các bà nội trợ trung lưu ở vùng ngoại ô phương Tây sợ vỡ mật! Trên tất cả những điều đó, nó cần phải bị kiềm chế, như thể là nó quá xã hội chủ nghĩa và quá ôn hòa.

Vào lúc đó trong lịch sử, tất cả các lãnh đạo thế tục và xã hội chủ nghĩa của các nước Hồi giáo, (như Iran, Indonesia và Ai Cập), đều đã bị phương Tây lật đổ, di sản của họ bị đập nát hoặc đơn giản là bị cấm đoán. 

Nhưng điều đó vẫn chưa đủ với phương Tây!

Để biến Hồi giáo thành một kẻ thù đáng giá, Đế Quốc trước hết đã cực đoan hóa và làm hư hỏng hàng sa số các phong trào và tổ chức Hồi giáo, sau đó tạo ra một loại mới, thường xuyên huấn luyện, vũ trang và tài trợ cho chúng, để chúng trông thực sự đủ đáng sợ. 

Dĩ nhiên đó là lý do quan trọng khiến “chủ nghĩa khủng bố”, đặc biệt là “chủ nghĩa khủng bố” Hồi giáo, là cần thiết cho sự sống sót của các học thuyết phương Tây, chủ nghĩa ngoại lệ và sự chuyên chế toàn cầu; nó biện minh cho sự siêu việt tuyệt đối về văn hóa và đạo đức của phương Tây

Đây là cách nó hoạt động

Trong nhiều thế kỷ, phương Tây đã hành động như một con quái vật khát máu. Bất chấp sự tuyên truyền tự họa được truyền thông phương Tây phổ biến khắp thế giới, người ta đều đã nhận thấy rằng Đế Quốc đang cưỡng hiếp, giết hại và cướp bóc ở mọi nơi trên thế giới. Chỉ sau vài thập kỷ sau, thế giới sẽ coi phương Tây là một thảm họa chết chóc và độc hại. Kịch bản đó cần phải được ngăn chặn bằng mọi giá!

Các nhà tư tưởng và tuyên truyền của Đế Quốc đã tạo ra một công thức sáng lạng mới: Hãy tạo ra điều gì đó có bề ngoài và hành xử tồi tệ hơn chúng ta và sau đó chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta vẫn là nền văn hóa hợp lý và khoan dung nhất trên trái đất!

Hãy làm một cú xoay ngoạn mục: Hãy chống lại tạo vật của chúng ta – hãy chống lại với danh nghĩa của tự do và dân chủ!”

Đây là cách mà thế hệ “khủng bố” mới được sinh ra. Chúng đang sống! Chúng đang đống và sinh sôi! Chúng nhân lên như những con kỳ giông của Capek. 

***

Chủ nghĩa khủng bố phương Tây không thực sự được mổ xẻ, mặc dù những dạng cực đoan và bạo lực nhất của nó tàn phá thế giới không thương tiếc và đã có từ lâu, với hàng trăm triệu nạn nhân ở khắp nơi.

Ngay cả những binh đoàn lê dương và đấu sĩ của Đế Quốc, giống như Mujaheddin, Al-Qaida, hay ISIS đều không bao giờ có thể tàn bạo được như những gì mà người Anh, người Pháp, người Bỉ, người Đức hay ông chủ Hoa Kỳ của chúng đã luôn thể hiện trong lịch sử. Dĩ nhiên chúng rất cố gắng để theo kịp các bậc tôn sư và thân sinh nhưng chúng không đủ bạo lực và tàn nhẫn.

Cần phải có “văn hóa phương Tây” để hành quyết 10 triệu người chỉ ở một nơi duy nhất, hầu như chỉ một lần!

***

Đâu là khủng bố thật sự và làm sao ISIS và những kẻ khác có thể theo đuổi sự định hướng của chúng? Họ nói rằng ISIS chặt đầu các nạn nhân của chúng. Đủ tồi tệ. Nhưng ai là thầy của chúng? 

Trong nhiều thế kỷ, các đế quốc Châu Âu đã giết chóc, tra tấn, cưỡng hiếp và băm xác người dân khắp các lục địa của thế giới. Những nước không trực tiếp làm điều đó đã “đầu tư” cho những cuộc viễn chinh thuộc địa, hoặc cử người tới tham gia các binh đoàn diệt chủng. 

Vua Leopold II và đội quân của ông ta đã hành quyết khoảng 10 triệu người ở Tây và Trung Phi, ở nơi mà ngày nay được gọi là Congo. Ông ta đã săn đuổi người dân ở đó như săn thú hoang, cưỡng ép họ phải làm việc trong các đồn điền cao su. Nếu ông ta cho rằng họ đổ đầy két tiền của ông ta không đủ nhanh, ông ta không ngần ngại chặt tay họ, hoặc thiêu sống toàn bộ dân làng trong ngôi nhà của chính họ.

10 triệu nạn nhân đã chết. 10 triệu! Điều đó diễn ra chưa phải là quá lâu, không phải trong “thời đại tăm tối” mà là trong thế kỷ 20, dưới sự cai trị của chế độ quân chủ lập hiến và tự xưng là dân chủ. Làm sao có thể so sánh nó với chủ nghĩa khủng bố đang thống trị ở những khu vực mà ISIS chiếm đóng? 

Cộng Hòa Dân Chủ Congo kể từ năm 1995 đã một lần nữa mất đi 10 triệu mạng người trong một cơn điên loạn khủng bố, do những tay sai của phương Tây, Rwanda và Uganda gây ra (xem giới thiệu bộ phim “Rwanda Gambit” của tôi).

Người Đức đã thực hành diệt chủng ở Nam-Tây Phi, hiện nay là Namibia. Bộ tộc Herero đã bị hủy diệt, hay ít nhất là gần 90% bộ tộc. Đầu tiên, người dân bị đuổi khỏi đất đai và nhà của họ, được đưa đến sa mạc. Nếu họ sống sót, các cuộc viễn chinh thời tiền phát xít của người Đức sẽ tiếp tục, sử dụng đạn và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khác. Các thí nghiệm y khoa trên con người đã được thực hiện, để chứng minh sự siêu việt của dân tộc Đức và chủng tộc da trắng.

Đó chỉ là những thường dân vô tội; người dân chỉ có tội duy nhất đó là họ không có da trắng và ở trên vùng đất mà người Châu Âu xâm lược và đánh phá.

Taliban hay thậm chí ISIS chưa bao giờ tiến đến gần mức đó!

Hiện nay, chính quyền Namibia đang yêu cầu trả lại hàng sa số những cái đầu được chặt từ người dân của họ; những cái đầu bị chặt và gửi đến đại học Freiburg cũng như một số bệnh viện ở Berlin cho các thí nghiệm y khoa.

Hãy tưởng tưởng, ISIS chặt hàng ngàn cái đầu người Châu Âu để thực hiện các thí nghiệm y khoa nhằm mục đích chứng minh sự siêu việt của chủng tộc Arab. Thật hoàn toàn không thể tưởng tưởng được!

Người dân địa phương bị khủng bố ở hầu khắp các thuộc địa mà Châu Âu chiếm được, một số đã được tôi mô tả chi tiết trong cuốn sách dày 840 trang mới nhất của mình “Exposing Lies of the Empire”.

Người Anh và nạn đói mà họ đã dùng để kiểm soát dân số và hăm dọa ở Ấn Độ mới khủng khiếp làm sao! Chỉ riêng năm 1943 có ít nhất 5 triệu người ở Bengal, 5,5 triệu người vào năm 1876-78, 5 triệu người vào năm 1896-97, đó chỉ là một số ít hành động khủng bố của đế quốc Anh đối với dân chúng không có gì tự vệ và bị buộc phải sống dưới một chế độ khủng bố áp bức tàn bạo!

Những gì mà tôi viết phía trên chỉ là ba chương ngắn trong lịch sử lâu dài của chủ nghĩa khủng bố phương Tây. Một từ điển bách khoa toàn thư mới có thể truyền tải hết chủ đề này.

Nhưng tất cả những điều này nằm ngoài nhận thức của người dân phương Tây. Dân chúng châu Âu và Bắc Mỹ không muốn biết bất cứ thứ gì về quá khứ và hiện tại. Chừng nào mà họ còn cho rằng họ cai trị thế giới vì họ tự do, thông minh và chăm chỉ, không phải bởi vì trong nhiều thế kỷ đất nước của họ đã cướp bóc và giết chóc, cũng như trên hết là khủng bố để buộc thế giới phải quy phục.

Dĩ nhiên, tầng lớp thượng lưu biết mọi thứ. Họ càng biết nhiều thì họ càng sử dụng những kiến thức đó cho công việc.

Kinh nghiệm và sự trao đổi khủng bố được chuyển từ các ông chủ phương Tây sang cho lính mới Hồi giáo của họ.

The Mujahideen, Al-Qaida, ISIS – trong kỳ thi cận kề, chiến thuật đe dọa và khủng bố không phải đều là nguyên gốc. Chúng đều được xây dựng dựa trên kinh nghiệm đế quốc và thực dân của phương Tây. 

Tin tức về điều đó, hay thậm chí là về khủng bố trên hành tinh do phương Tây gây ra, hoàn toàn bị kiểm duyệt. Anh sẽ không bao giờ thấy chúng trên chương trình truyền hình của BBC hay đọc được chúng trên các tờ báo và tạp chí chính thống.

Mặt khác, bạo lực và sự tàn nhận của các tổ chức khủng bố tay sai thường xuyên được nhấn mạnh. Chúng được đưa tin đến từng chi tiết nhỏ nhất, lặp đi lặp lại và được “phân tích”.

Mọi người đều giận dữ, khủng khiếp! Liên Hiện Quốc “quan ngại sâu sắc”, các chính quyền phương Tây “phẫn nộ” và công chúng phương Tây “cảm thấy quá đủ - họ không muốn có những người tị nạn từ những đất nước khủng khiếp đã sinh ra chủ nghĩa khủng bố và bạo lực.”

Phương Tây “chỉ đơn giản là phải can thiệp”. Đây là lúc Chiến Tranh chống Khủng Bố.

Đó là cuộc chiến chống lại gã Frankenstein của chính phương Tây. Đó là cuộc chiến không bao giờ thắng. Bởi vì nếu như họ thắng, chúa cấm, sẽ có hòa bình và hòa bình có nghĩa là cắt giảm ngân sách quốc phòng và xử lý những vấn đề thực sự của hành tinh.

Hòa bình có nghĩa là phương Tây nhìn vào quá khứ của họ. Điều đó có nghĩa là suy nghĩ về công lý và sắp xếp lại toàn bộ cấu trúc quyền lực của hành tinh. Điều đó không bao giờ được phép.

Do vậy, phương Tây “đang chơi” trò chiến tranh; họ “chống lại” những lính đánh thuê của họ (hay ngăn cản việc chống lại chúng), trong khi đó thì những người vô tội phải chết.

Không đâu trên thế giới, ngoại trừ phương Tây, có thể tạo ra và phóng thích những thứ tàn bạo và dã man như ISIS hay Al-Nusra!

Xem xét kỹ hơn chiến lược của những nhóm cấy ghép này: chúng không bắt nguồn từ bất cứ văn hóa Hồi giáo nào. Chúng hoàn toàn lấy cảm hứng từ triết lý khủng bố thuộc địa của phương Tây: “Nếu anh không phục tùng hoàn toàn lý thuyết và tôn giáo của chúng tôi thì chúng tôi sẽ chặt đầu anh, cắt cổ họng anh, cưỡng hiếp cả gia đình anh hay đốt trụi làng mạc hoặc thành phố của anh. Chúng tôi sẽ phá hủy các di sản văn hóa vĩ đại của anh như chúng tôi đã làm ở Nam Mĩ 500 năm trước đây, cũng như ở nhiều nơi khác nữa.”

Mọi thứ tiếp tục như vậy! Cần phải thực sự tự lừa dối bản thân để không nhìn vào những mối liên hệ đó!

***

Vào năm 2006, tôi đến thăm một người bạn, cựu tổng thống Indonesia và là một lãnh đạo Hồi giáo tiến bộ vĩ đại, Abdurrahman Wahid (ở Indonesia được gọi là “Gus Dur”). Chúng tôi gặp nhau ở trụ sở của tổ chức quần chúng Hồi giáo Nahdlatul Ulama (NU) của ông. Vào lúc đó NU là tổ chức Hồi giáo lớn nhất thế giới.

Chúng tôi thảo luận về chủ nghĩa tư bản và cách nó phá hủy cũng như làm tha hóa Indonesia. Gus Dur là một “người xã hội chủ nghĩa bí mật” và đó là một trong những lý do chính khiến “giới thượng lưu” nô lệ phương Tây của Indonesia và quân đội lật đổ ông vào năm 2001.

Khi chúng tôi nói tới chủ đề “chủ nghĩa khủng bố”, ông đột nhiên tuyên bố bằng giọng nói nhẹ nhàng mà thâm trầm đặc trưng: “Tôi biết người đã đánh bom khách sạn Marriott ở Jakarta. Đó là do cơ quan tình báo của chúng tôi làm, để biện minh cho sự gia tăng ngân sách của họ, cũng như viện trợ mà họ nhận được từ nước ngoài.”

Dĩ nhiên, quân đội Indonesia, tình bào và cảnh sát đều thuộc về về một nhóm người đặc biệt. Trong vài thập kỷ, kể từ năm 1965, họ đã khủng bố tàn bạo người dân của họ, khi cuộc đảo chính thân phương Tây lật đổ tổng thống tiến bộ Sukarno và đưa phe quân phiệt phát xít lên nắm quyền, do nhóm kinh doanh Thiên Chúa giáo thống trị hậu thuẫn. Sự khủng bố này cướp đi 2-3 triệu sinh mạng ở Indonesia, cũng như ở Đông Timor và (cho đến nay) ở Papua bị chiếm đóng và cướp bóc.

3 cuộc diệt chủng chỉ trong 5 thập kỷ!

Cuộc đảo chính ở Indonesia là một trong những hành động khủng bố khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại. Các dòng sông tắc ngẽn vì xác chết và nước đổi màu sang đỏ.

Tại sao? Đó là cách chủ nghĩa tư bản sẽ sống sót và các công ty khai mỏ phương Tây có thể thu được chiến lợi phẩm, với gánh nặng chi phí là một đất nước Indonesia hoàn toàn bị phá hủy. Thế nên đảng Cộng Sản Indonesia (PKI) không thể thắng cử dân chủ.

Nhưng ở phương Tây, những cuộc thảm sát quy mô lớn do Đế Quốc sắp đặt vào năm 1965 không bao giờ được gọi là “chủ nghĩa khủng bố”. Cho nổ tung một khách sạn hay một quán rượu, nhất là khi chúng thường xuyên có khách hàng phương Tây, thì lại là khủng bố.

Hiện giờ Indonesia đã có những nhóm “khủng bố”. Chúng trở về từ Afghanistan, nơi mà chúng chiến đấu theo lệnh của phương Tây để chống lại Liên Bang Soviet. Chúng cũng vừa trở về từ Trung Đông. Những cuộc tấn công vừa qua ở Jakarta chỉ là màn dạo đầu, một sự khởi đầu được lập kế hoạch chu đáo cho thứ gì đó lớn hơn, có thể mở ra một “mặt trận” mới cho lính đánh thuê của Đế Quốc ở Đông Nam Á.

Về phía phương Tây và những nhà hoạch định của họ - Hỗn loạn hơn là tốt hơn.

Nếu như Abdurrahman Wahid vẫn còn được làm tổng thống Indonesia, có vẻ như sẽ không có chủ nghĩa khủng bố. Đất nước của ông sẽ trải qua một cuộc cải cách xã hội chủ nghĩa, thiết lập công bằng xã hội, phục hồi những người cộng sản và đi theo chủ nghĩa thế tục.

Trong những xã hội cân bằng về mặt xã hội, chủ nghĩa khủng bố không phát triển được.

Đó là điều không thể chấp được đối với Đế Quốc. Điều đó sẽ có nghĩa là – quay trở lại thời Sukarno! Quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới được phép đi theo con đường của họ, hướng tới chủ nghĩa xã hội và tiêu diệt các phần tử khủng bố.

Nó phải bị đe dọa. Nó phải bị sai khiến. Nó phải sợ hãi và đáng sợ! Nó phải như vậy

***

Những trò chơi của phương Tây là phức tạp và tinh vi. Chúng tối tăm và vô chính phủ. Chúng phá hoại và tàn bạo tới mức mà những nhà phân tích lạnh lùng nhất thường không tin vào mắt mình cũng phải tự hỏi: “Có thật sự là tất cả những điều đó xảy ra?” 

Câu trả lời ngắn gọn là: “Phải, nó có thể. Phải, nó có thể, trong nhiều thập kỷ và thế kỷ.”

Về mặt lịch sử, chủ nghĩa khủng bố là vũ khí bản địa của phương Tây. Nó được những người như Lloyd George, một thủ tướng của nước Anh, sử dụng tùy ý, ông ta đã từ chối ký vào hiệp ước cấm ném bom thường dân, với logic không thể lay chuyển của người Anh: “Chúng ta có quyền ném bom những tên mọi đó.” Hay Winston Churchill muốn đưa những “chủng tộc thấp kém”, như người Kurd và Arab, vào lò hơi ngạt.

Đó là lý do khiến toàn bộ phương Tây hoảng loạn khi một kẻ bên ngoài như nước Nga tham gia vào cuộc chiến chống lại các nhóm khủng bố. Nga đang làm hỏng toàn bộ trò chơi của họ! Nga đang phá hỏng sự cân bằng tân thực dân đẹp đẽ.

Hãy nhìn xem mọi thứ đáng yêu làm sao: sau khi giết chết hàng trăm triệu người khắp địa cầu, phương Tây giờ đang tự nhận là nhà vô địch về nhân quyền và tự do. Họ vẫn tiếp tục khủng bố và cướp bóc thế giới, kiểm soát nó hoàn toàn – nhưng họ phải được chấp nhận là lãnh đạo tối cao, cố vấn đạo đức và phần đáng tin cậy duy nhất của thế giới.

Hầu như không có ai cười

Bởi vì tất cả đều đang sợ hãi!

Những binh đoàn lê dương khát máu của họ ở Trung Đông và Châu Phi đang tàn phá nhiều quốc gia, nguồn gốc của chúng có thể dễ tìm thấy, nhưng hầu như không có ai liều lĩnh làm điều đó. Một số đã cố thử làm – và đã chết.

Những con quái vật khủng bố được sáng chế, chế tạo và cấy ghép càng đáng sợ thì phương Tây trông càng đẹp đẽ. Tất cả chỉ là mánh lới quảng cáo. Nó bắt nguồn từ quảng cáo và trong hàng trăm ngàn năm của cơ quan tuyên truyền.

Phương Tây giả vờ chống lại những lực lượng của bóng tối đó. Nó sử dụng thứ ngôn ngữ hùng mạnh và “đúng đắn” dựa trên học thuyết Thiên Chúa giáo chính thống.

Toàn bộ huyền thoại được giải phóng; giống như vở “Ring” của Wagner.

Kẻ khủng bố đại diện cho sự độc ác chứ không phải là khoản chi tiêu khổng lồ từ ngân sách của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Liên Minh Châu Âu và NATO. Chúng đều độc ác hơn cả Quỷ Sứ!

Phương Tây, cưỡi trên con ngựa trắng, say khướt nhưng luôn luôn hài hước, đóng vai cả nạn nhân lẫn kẻ thù chính của những nhóm khủng bố độc ác đó.

Đó là một màn diễn khó tin. Một trò hề khủng khiếp. Hãy nhìn vào phía sau mặt nạ của kị sĩ: hãy nhìn vào những cái răng đang nhe ra; nụ cười chết chóc! Hãy nhìn vào đôi mắt đỏ của hắn, đầy tham lam, thú tính và hung ác.

Hãy đừng bao giờ quên: chủ nghĩa thực dân và đế quốc là hai dạng chết chóc nhất của chủ nghĩa khủng bố. Chúng vẫn là hai vũ khí chính của tên kị sĩ đang bóp nghẹt thế giới!


Andre Vltchek is a philosopher, novelist, filmmaker and investigative journalist. He covered wars and conflicts in dozens of countries. His latest books are: “Exposing Lies Of The Empire” and “Fighting Against Western Imperialism”.Discussion with Noam Chomsky: On Western Terrorism. Point of No Return is his critically acclaimed political novel. Oceania – a book on Western imperialism in the South Pacific. His provocative book about Indonesia: “Indonesia – The Archipelago of Fear”. Andre is making films for teleSUR and Press TV. After living for many years in Latin America and Oceania, Vltchek presently resides and works in East Asia and the Middle East. He can be reached through his website or his Twitter.

Sunday, December 6, 2015

Hoa Kỳ biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt bằng cách kỷ niệm chiến tranh xâm lược Việt Nam

Hoa Kỳ đang tiếp tục triển khai chương trình kỷ niệm 50 năm chiến tranh xâm lược Việt Nam, chính quyền Hoa Kỳ đang tìm cách sửa chữa các thông tin về chiến tranh xâm lược Việt Nam để biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt, nhưng không phải người Mỹ nào cũng khờ khạo đến mức tin vào họ. Robert Fantina trong bài "Whitewashing Militarism, Vietnam-War Edition" đã phân tích từng mục tiêu của chương trình kỷ niệm và chỉ ra những khía cạnh bị che dấu.

Biện minh cho chủ nghĩa quân phiệt, xã luận về chiến tranh Việt Nam
Hình minh họa: Bôi xóa sự thật về chiến tranh xâm lược Việt Nam
Nguồn: Internet
Năm nay đánh dấu 40 năm sự kiện người Việt Nam chiến thắng Hoa Kỳ, trong cuộc chiến tranh đã tàn phá Việt Nam và gây ra những tổn thương và chia rẽ không thể kể hết ở Hoa Kỳ. Có thể thấy rằng sau khi người dân Việt Nam có thể chống lại cỗ máy quân sự hùng mạnh nhất thế giới, Hoa Kỳ cần phải suy nghĩ lại về việc gây chiến tranh và xâm lược quân sự, cũng như chuyển sang ngoại giao trước khi dùng đến bom đạn. Bài học về Việt Nam cần phải được ghi nhớ. 

Không có nhà sử học nào nhận ra rằng những bài học của cuộc chiến tranh thảm họa ấy đều đã nhanh chóng bị quên lãng. Điều đó không chỉ được khẳng định bằng hầu hết sự gây chiến thường xuyên của Hoa Kỳ kể từ khi họ bại trận ở Việt Nam, mà hiện giờ chính quyền cũng “kỷ niệm” thảm họa đế quốc chết chóc ấy. Để kết thúc, họ đã tổ chức một chương trình kỷ niệm trong 13 năm cho mốc 50 năm chiến tranh ở Việt Nam. Chương trình được bắt đầu vào năm 2012 và cả đất nước sẽ phải theo dõi nó, dưới hình thức này hay hình hay hình thức khác, cho đến năm 2025.

Trên trang web của chương trình kỷ niệm có đăng 5 mục tiêu được đặt ra. Mỗi mục tiêu là đều rối rắm hơn mục tiêu trước đó. Chúng ta sẽ xem xét chi tiết từng mục tiêu. 

“Để cảm ơn và vinh danh cựu chiến binh Chiến Tranh Việt Nam, bao gồm cả những người bị bắt làm tù binh chiến tranh (POW), hoặc bị coi là mất tích trong khi hành động (MIA), vì sự phục vụ và hi sinh của họ theo mệnh lệnh của Hoa Kỳ cũng như cảm ơn và vinh danh gia đình của những cựu chiến binh đó.”

Hoa Kỳ có một cách cảm ơn các cựu chiến binh thật kỳ quặc, nếu như họ tin rằng sự phô trương mang tính chất tình thế ấy sẽ lừa gạt được người khác. Cựu chiến binh, trong đó có một số lượng lớn những người đã “phục vụ” (sẽ nói chi tiết hơn về khái niệm nực cười này sau) ở Việt Nam, có tỷ lệ trầm cảm, tự tử, vô gia cư, nghiện ma túy và bạo lực gia đình cao hơn mức trung bình. Nạn nhân của chất độc màu da cam, chất diệt cỏ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, gây ra những vấn đề không thể kể hết về thể chất cho cựu chiến binh và con cái của họ, đã đấu tranh trong nhiều năm để buộc chính quyền thừa nhận bệnh tật của họ là do những hóa chất đó gây ra. Các bệnh viện của cựu chiến binh đã đưa ra những danh sách chờ đợi dài dặc và những tình trạng tệ hại. 

“Để nhấn mạnh sự cống hiến của lực lượng vũ trang trong chiến tranh Việt Nam và sự đóng góp của các cơ quan liên bang và các tổ chức chính phủ cũng như phi chính phủ đã phục vụ cùng với, hoặc hỗ trợ, lực lượng vũ trang.”

Người ta sẽ thấy ngạc nhiên khi có ai đó muốn nhấn mạnh hoạt động của những tổ chức đã giúp cho việc giết hại những người đàn ông, đàn bà và trẻ em vô tội dễ dàng cũng như hiệu quả hơn.

“Để bày tỏ sự tôn kính đối với những đóng góp tại mặt trận quê nhà của những người dân Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.”

Có lẽ bất cứ ai có kiến thức sơ đẳng về cuộc sống ở Hoa Kỳ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam đều biết rằng quốc gia phải bày tỏ sự tôn kính đối với đóng góp của những người đã phản đối chiến tranh. Hàng chục ngàn thanh niên đã bỏ trốn để không trở thành nạn nhân của việc buôn nô lệ của Hoa Kỳ với cái được gọi là nhập ngũ bắt buộc. Hàng sa số những người khác đến Việt Nam rồi trở về quê nhà và tích cực chống chiến tranh. Hàng sa số những người khác đã bị bỏ tù khi những hoạt động phản đối có lương tâm của họ bị từ chối, hay khi họ công khai đốt bỏ thẻ quân dịch. Thậm chí ngay cả truyền thông thuộc sở hữu của doanh nghiệp cũng như nhiều chính khách cũng coi những hành động đó là chính đáng và vinh danh chúng. Nhưng trong chương trình kỷ niệm bất tận này, tất cả những điều đó bị lảng tránh.

“Để nhấn mạnh sự tiến bộ trong công nghệ, khoa học và y tế của các nghiên cứu quân sự được thực hiện trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam”.

Dĩ nhiên là giờ thì chúng ta thấy cốt lõi của vấn đề. “Sự tiến bộ” đó chủ yếu phục vụ cho một nhóm nhỏ tài phiệt làm giàu từ chiến tranh. Mọi con bê vàng đều luôn được tôn sùng ở Hoa Kỳ. Nếu như có nhiều tiến bộ về công nghệ, khoa học và y tế bắt nguồn từ chiến tranh Việt Nam thì tại sao các cuộc chiến khác lại không tạo ra chúng và tại sao lại không nhìn nhận những tiến bộ bổ sung đã được tạo ra?

“Để ghi nhận những đóng góp và hy sinh của các đồng minh của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.”

Thật phi lý khi cho rằng những đồng minh này sẽ sớm quên tất cả mọi chuyện. Tất cả các lưu ý về sự can dự rồ dại của Hoa Kỳ ở Việt Nam đều được so sánh với những sai lầm của Hoa Kỳ khi xâm lược Iraq với biện minh tương tự (hãy hiểu là: không tương tự). Thế nên vụ tưởng niệm vui vẻ này có thể không phải là thứ mà các đồng minh sẽ chào đón.

Giờ thì chúng ta sẽ xem xét khái niệm “phục vụ quân sự”, một phép nghịch hợp ngay cả khi chỉ có một. Chủ nghĩa quân phiệt, như đã được Hoa Kỳ phô bày thừa thãi trong hơn hai thế kỷ qua, đem đến chết chóc, nghèo đói, áp bức, phủ nhận nhân quyền, cũng như hàng sa số tổn thương khác cho những người đàn ông, đàn bà và trẻ em vô tội. Đây là sự thật kể từ chiến tranh 1812 cho đến tận ngày nay, khi Hoa Kỳ và đồng minh của họ ném bom Syria, cũng như phát tán sự thương vong ở đó, đồng thời gia tăng sự thù ghét đối với Hoa Kỳ. Việc giết hại người vô tội có thể được gọi là “thiệt hại liên đới”, nhưng người vô tội đã bị thương và chết nhiều hơn “những kẻ thù” mà Hoa Kỳ đã tự đặt ra.

Liệu những điều này có liên quan gì đến sự phục vụ? Từ đó, trừ khi bị xuyên tạc bằng cách gắn vào với từ “quân đội”, hàm ý về một sự hỗ trợ mang tính vị tha, hoạt động giúp đỡ những người bị thương, hoặc bất hạnh hơn những người đang phục vụ. Những tình nguyện viên tại nhà tạm cho người vô gia cư, tại ngân hàng thực phẩm, chương trình trường học cũng như tại những cơ sở khác mà người dân nhận được sự trợ giúp, có thể được gọi là phục vụ. Những giáo viên cống hiến cả cuộc đời để dạy học, bất chấp đồng lương thấp, cũng là phục vụ. Nhưng binh lính xâm lược một quốc gia độc lập và giết hại thường dân của quốc gia đó thì không phải là phục vụ; đó là từ ngữ để chỉ việc giết người và không phải là “phục vụ”. 

Nhưng ngày nay và cũng như trong nhiều năm tới, dường như tổng thống và nhiều chính khách khác sẽ ca tụng sự vĩ đại của nguyên nhân dẫn đến chiến tranh Việt Nam, với cặp kính mắt màu hồng 40 năm tuổi và ca ngợi điều đó như là một ví dụ về sự vĩ đại của Hoa Kỳ. Không ai đề cập đến sự nổi giận của các trường đại học, thường xuyên dẫn đến việc cảnh sát đàn áp sinh viên cực kỳ dã man. Thanh niên bỏ trốn khỏi đất nước để tránh bị cưỡng bách tham gia một cuộc chiến tranh vô đạo đức cũng bị lảng tránh. Những công dân khờ khạo cũng sẽ quên cảnh người Mỹ bỏ chạy một cách tuyệt vọng khỏi Sài Gòn khi Việt Cộng tiến quân vào, sẽ đặt tay lên ngực, thề trung thành với lá cờ và ngồi xuống khi Hoa Kỳ tiếp tục vận hành cỗ máy giết chóc ghớm ghiếc nhất hành tinh.

Robert Fantina’s latest book is Empire, Racism and Genocide: a History of US Foreign Policy (Red Pill Press).

Thursday, December 3, 2015

Dầu của ISIS

Dầu của ISIS đã được buôn lậu qua Thổ Nhĩ Kỳ như thế nào? Chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã dính líu đến việc này ra sao? Tác giả Vijay Prashad đã xem xét các góc độ của vấn đề trong bài viết "ISIS Oil"

Dầu của ISIS

Vào ngày 2 tháng 12, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Anatoly Antonov đã đưa ra tuyên bố về việc Thổ Nhĩ Kỳ đồng lõa với ISIS. Bản cáo buộc dài và chi tiết, đề cập tới nhiều góc độ, nhưng điều nổi bật nhất là cáo buộc về “dầu của ISIS”.

ISIS kiểm soát các giếng dầu của Iraq ở gần Mosul. Chúng đã kiếm được hàng triệu dollar mỗi ngày bằng cách bán dầu thu được từ các giếng dầu đó. ISIS đã đưa dầu từ các giếng dầu gần Mosul ra thị trường bằng cách nào?

ISIS đã sử dụng mạng lưới buôn lậu dầu cũ từ chính quyền khu vực của người Kurd mà không cần quan tâm tới chủ quyền của Baghdad đối với số dầu đó. Đây là điểm bất đồng đã kéo dài nhiều thập kỷ, kể từ khi khu vực của người Kurd có quyền kiểm soát đối ở miền bắc. Dầu của người Kurd được bán cho những kẻ buôn lậu, sau đó những kẻ buôn lậu sẽ chở bằng xe chở dầu vượt qua biên giới sang Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, các xe tải chở dầu sẽ tiếp tục chạy dọc theo đất nước đến cảng Ceyhan của Địa Trung Hải. Từ Ceyhan, một cảng của chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ, dầu sẽ được các nhà buôn có tàu chở dầu mua lại và chở đến Malta, tại đó dầu sẽ được chuyển sang các tàu đi đến các nơi tiêu thụ như Ashdod (Israel). Điều này từ lâu đã là sự bất đồng gay gắt giữa chính quyền Iraq với chính quyền khu vực của người Kurd và chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ. Chuyện này đã được Tolga Tanış tường thuật cặn kẽ trong cuốn sách Potus ve Beyefendi (2015). Tanis cáo buộc Berat Albayrak, con rể của tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdoğan, có can dự vào hệ thống buôn lậu này. ISIS đã thay thế chính quyền khu vực của người Kurd trong áp phe mới.

ISIS đã làm điều này ra sao? ISIS bán dầu cho những kẻ buôn lậu, những kẻ này chở dầu tới Ceyhan. Nhưng giờ câu chuyện trở nên thú vị. Ai bên phía Thổ Nhĩ Kỳ tham gia buôn bán dầu? Người Nga cáo buộc tập đoàn BMZ đóng vai trò chủ chốt trong việc vận chuyển dầu. Một trong các chủ sở hữu của BMZ là Bilal Erdoğan, con trai của tổng thống. Tập đoàn BMZ đã mua – theo tờ Financial Times – hai tàu chở dầu mới vào tháng trước. Sản lượng dầu của họ đã gia tăng. Đó có phải là dầu của ISIS? Cáo buộc của Nga cần phải được điều tra tiếp. Tại Quốc Hội Anh, lãnh đạo của đảng Lao Động Jeremy Corbyn nói, “Chúng ta cần biết những ngân hàng nào và quốc gia nào liên quan đến việc buôn lậu dầu của ISIS”. Đây là câu hỏi quan trọng nhất nhưng đã bị lảng tránh. 

Việc này được biết rõ ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhiều nhà báo dũng cảm đã viết về vai trò của chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ trong những lổ hổng biên giới Thổ Nhĩ Kỳ-Syria. Đó là lý do khiến chính quyền Erdoğan đàn áp truyền thông tàn nhẫn. Việc bắt giữ biên tập viên Can Dündar và trưởng tòa soạn chi nhánh Ankara của tờ Cumhuriyet Erdem Gül chỉ là một phần của sự đàn áp. Dündar và Gül đã công bố các bức ảnh cho thấy Thổ Nhĩ Kỳ hỗ trợ những kẻ cực đoan ở Syria. Erdoğan đã săn đuổi Ceylan Yeginsu của tờ New York Time sau khi cô đưa tin về trung tâm tuyển mộ của ISIS ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ở Thổ Nhĩ Kỳ không có khoan dung cho tự do báo chí về những chủ đề đó. Nếu ai đó nhắc đến một trong nhưng cái tên – Bilal Erdoğan, Berat Albayrak, Ahmet Çalık – thì anh ta sẽ có nguy cơ bị truy tố. Çalık nắm giữ những chìa khóa của vương quốc tại nhà máy lọc dầu Ceyhan – thông qua đó, theo như cáo buộc, dầu của ISIS được vận chuyển. Liệu việc này có được điều tra kỹ lưỡng không? Có như vẻ là không, có quá nhiều thiệt hại. Erdoğan đã tuyên bố rằng ông ta sẽ từ chức nếu có bất cứ mối liên hệ nào được chứng minh. Có lẽ là sẽ không có mối liên hệ nào được chứng minh.

Việc người Nga đưa ra những cáo buộc này chỉ gia tăng sự căng thẳng giữa Ankara và Moscow. Vào ngày 3 tháng 3, tổng thống Nga Vladimir Putin đề xuất sự trả đũa cho chiếc máy bay bị bắn hạ. Mức độ nguy hiểm đã gia tăng. 

Cảng Ceyhan chỉ cách căn cứ không quân Incirlik vài giờ chạy xe, từ Incirlik máy bay chiến đấu của Hoa Kỳ tấn công các mục tiêu ở Syria. Như vậy, dầu của ISIS đã được vận chuyển ngay trước mũi của máy bay Hoa Kỳ. Trong 14 tháng Hoa Kỳ tấn công ISIS, họ đã tránh tấn công vào các xe chở dầu. Quan chức Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ không tấn công xe chở dầu của ISIS vì e ngại “thiệt hại liên đới”. Trên thực tế, khi Hoa Kỳ tấn công xe chơ dầu vào tháng trước, họ cũng làm điều đó sau khi cảnh báo các lái xe bằng tờ rơi. Đây là một cử chỉ rất cao thượng nhưng vô nghĩa. Nói chung Hoa Kỳ không cảnh báo các mục tiêu. Họ chỉ tấn công các xe chở dầu sau khi máy bay Nga đã bắn cháy chúng. Liệu Hoa Kỳ tấn công xe chở dầu có phải chỉ là để thể hiện với Nga? Khi tôi đưa ra câu hỏi này cho quan chức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, bà ta đã bối rối. Bà ta nói rằng Hoa Kỳ đã thu thập các thông tin tình báo về tuyến đường của xe chở dầu và giờ chuẩn bị để tấn công đoàn xe. Điều này diễn ra sau khi Nga đã không kích đoàn xe chở dầu chỉ là sự trùng hợp, bà ta nói.

Phương Tây ném bom Syria hiện đang trở nên dữ dội hơn. Pháp đã tham gia cùng với Hoa Kỳ. Anh cũng bắt đầu ném bom, trong khi Đức thì hỗ trợ Pháp. Lịch sử của không kích cho thấy các đội quân du kích không dễ dàng bị khuất phục bằng không quân. Hoa Kỳ đã thống trị bầu trời ở Việt Nam nhưng vẫn thua trận. Khi Anh tham chiến Thế Chiến II, việc Đức ném bom chỉ củng cố thêm ý chí kháng chiến của người Anh. Họ đều đã quên bài học này.

Châu Âu muốn giải quyết cuộc khủng hoảng người tị nạn. Họ vẫn tin rằng không kích sẽ giúp họ đạt được mục đích. Dường như điều đó làm gia tăng dòng người di cư ở Syria. Việc chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ yêu cầu “khu vực đệm” là lợi ích của Châu Âu. Họ tin rằng đó là khu vực cho người tị nạn. Nhưng điều đó cũng có thể bảo vệ cho các xe chở đầu khỏi bị Nga không kích. Đó chính là điều khiến yêu cầu của Corby quan trọng – tổ chức một cuộc điều tra về đường vận chuyển dầu của ISIS. Cuộc điều tra này phải hỏi những câu hỏi như sau:

1. Ai đang vận chuyển dầu từ Mosul tới biên giới Thổ Nhĩ Kỳ? Ai sở hữu những xe chở dầu?

2. Ai đang vận chuyển dầu từ biên giới Thổ Nhĩ Kỳ tới Ceyhan? Ai sở hữu những xe chở dầu?

3. Dầu của ISIS đi qua Ceyhan, một cảng thuộc sở hữu của chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ, bằng cách nào?

4. Ai sở hữu những tàu đã chở dầu của ISIS ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ và đi tới các cảng nhận hàng?

5. Những ngân hàng nào xử lý các giao dịch giữa ISIS và người mua dầu ngoại quốc? Họ có dính líu vào việc buôn lậu dầu của ISIS không?

Một cuộc điều tra theo những câu hỏi này sẽ rất lâu, không đủ để chấp nhận hay bác bỏ những cáo buộc của Nga. Những điều này phải khai thác để làm rõ nguồn tài chính của ISIS. Ném bom các giếng dầu tại Omar ở Syria – như Anh đã làm hôm nay – có thể không hiệu quả. Điều này có thể là hỏa mù che dấu bằng chứng về sự liên quan lớn hơn tới dầu của ISIS.

[A shorter version of this will appear this Sunday in BirGün]

Vijay Prashad, director of International Studies at Trinity College, is the editor of “Letters to Palestine” (Verso). He lives in Northampton. 

Tuesday, November 17, 2015

Tấn công khủng bố ở Paris: Thảm kịch có thể mang đến sự thay đổi?

Diana Johnstone trong bài viết "Terrorist Attacks in Paris: Can Tragedy Bring Change?" đã nhấn mạnh các vụ khủng bố ở Pháp bắt nguồn từ hai nguyên nhân là tình trạng đói nghèo ở Pháp và chính sách đối ngoại thân Mỹ và Israel của Pháp. Chính nước Pháp đang theo chân Mỹ và Israel nuôi dưỡng chủ nghĩa cuồng tín Hồi Giáo để phá hủy các nhà nước hiện đại ở Trung Đông. Do vậy, nước Pháp sau vụ khủng bố ở Paris đột nhiên rơi vào tình trạng không biết phải chiến tranh với ai. Họ buộc phải lựa chọn, hoặc là tiếp tục theo chân Mỹ và Israel để gián tiếp trợ giúp những kẻ đã khủng bố nước Pháp hoặc quay lưng với Mỹ và đồng minh để chống lại những kẻ khủng bố. Sự thay đổi mà tác giả đề cập không chỉ đơn giản là sự lựa chọn của nước Pháp, nó báo hiệu sự thay đổi của trật tự thế giới.

Tấn công khủng bố ở Paris: Thảm kịch có thể mang đến sự thay đổi?

Paris.

Hỗn loạn đang lan từ Trung Đông sang Châu Âu. Một dòng người tị nạn và nhập cư hỗn tạp bất tận xuyên qua Balkan đổ vào miền đất hứa Đức và Thụy Điển. Các trận đánh lộn giữa các nhóm quốc gia xảy ra ở trại tị nạn. Cả người nhập cư tụ tập ở gần Calais để vượt biên vào Anh lẫn các công dân của Calais đều mất bình tĩnh và giận dữ. Các lãnh đạo quốc gia, với tầm nhìn Châu Âu thống nhất hạnh phúc trong đầu, theo đuổi cũng như bảo vệ ý tưởng về biên giới mở và chủ nghĩa đa văn hóa, đang nhận ra rằng họ thiếu khả năng đương đầu. Giờ thì Paris phải gánh chịu những tấn công tương tự với Beirut hay Nga. 

Đúng vậy, như Chris Floyd đã viết, phương tây đang phải nhận hậu quả từ sự ủng hộ của họ đối với bạo lực của chủ nghĩa cực đoan. Nhưng đây không phải là lúc nói với nạn nhân rằng họ bị lên án, nhất là khi mục tiêu tấn công ở Paris là những thanh niên đang xả hơi vào một tối thứ sáu, quá trẻ để gánh chịu trách nhiệm về những chính sách tai họa của phương tây, những chính sách đã nuôi dưỡng sự điên loạn ở Trung Đông trong nhiều thập kỷ.

Vụ ám sát các thành viên của Charlie Hebdo vào tháng giêng vừa qua mang đến khẩu hiệu về sự đoàn kết, “Tất cả chúng ta là Charlie.” Khẩu hiệu đó trở thành một sự thật không mấy dễ chịu: đúng vậy, hiện giờ tất cả chúng ta là Charlie. Bất cứ ai đang tham dự một bữa ăn giá mềm ở nhà hàng Campuchia hiện đại nhất của quận 10 không xa hoa cũng có thể bị bắn hạ không nương tay, giống hệt như vậy. Hung thủ không theo đuổi một biểu tượng quyền lực, chúng theo đuổi bất cứ ai và tất cả mọi người. Mục tiêu tấn công của chúng là khu vực dân cư không thu hút khách du lịch, chỉ là các quán café bình thường được thanh niên Paris ưa thích. Mục tiêu đã được những người biết rõ địa hình lựa chọn.

Câu hỏi lớn là: Điều gì tiếp theo? Nỗi sợ hãi này sẽ khiến người dân nhận thấy hiện thực và suy nghĩ rõ ràng? 

Tổng thống François Hollande tức tốc lên truyền hình và cố gắng làm chủ tình hình. Nhưng ông ta đã không làm chủ được bản thân. Bằng cách tuyên bố rằng hiện giờ chúng ta “trong chiến tranh”, tổng tống Hollande dường như lặp lại phản ứng đối với vụ 11/9 của Hoa Kỳ. Nhưng chính xác là trong chiến tranh với ai? Pháp là người ủng hộ cứng rắn cho quan điểm “Assad phải ra đi”. Liệu Pháp có cần phải thay đổi các cuộc chiến? Phải vậy, có thể vậy, có thể thay đổi chính sách đối ngoại?

Tổng thống Obama lên truyền hình với tuyên bố đoàn kết trong khi cuộc tấn công vẫn đang tiếp diễn. Những tuyên bố đó đương nhiên được truyền thông khai thác với mong muốn sử dụng các cuộc tấn công này để củng cố sự thống trị của Hoa Kỳ đối với chính sách đối ngoại của Pháp.

Lời chia buồn của Israel nhanh chóng được các nhà bình luận thông thường sử dụng để thể hiện rằng Israel thấu hiểu chúng ta và đứng về phía chúng ta, bởi vì Israel là một nạn nhân thường xuyên của các cuộc tấn công khủng bố, những với “các vụ tấn công bằng dao găm….” trong ngày.

Không, những cuộc tấn công của người Palestine vô vọng không cùng mức độ như vụ thảm sát ở Paris. Khẳng định là tương tự: Do vụ 11 tháng 9, giờ là vụ 13 tháng 11, tất cả chúng ta đều cùng chung chiến tuyến với Israel, chống lại cùng một kẻ thù. Nhưng trên hết, kẻ thù nào? Kẻ thù của Israel là Hezbollah, đang gánh chịu một cuộc tấn công dữ dội ở Beirut từ những chính những kẻ đã thảm sát người dân Paris. Kẻ thù của Israel là Iran, đang chiến đấu chống lại Daech. Trên hết, ai là kẻ thù và ai là bạn của chúng ta?

Ngày càng có nhiều người không ngần ngại nói: Truyền thông Pháp hoàn toàn bị Zionist [chủ nghĩa phục quốc Do Thái] hóa. Ảnh hưởng của Israel đối với truyền thông ở Pháp dường như mạnh hơn bất cứ nơi nào trên trái đất – dĩ nhiên là hơn cả ở Israel, nơi đó còn có một tạp chí phê phán, tờ Haaretz, đăng những thứ mà không một tờ tạp chí Pháp nào dám đăng.

Không có nhà bình luận truyền thông nào nhận thấy rằng các vụ tấn công ở Paris rất tương đồng với các vụ tấn công khủng bố đã diễn ra ở Nga. Sự cảm thông với những nạn nhân của vụ rơi máy bay ở Sinai đang ở đâu? Còn những trẻ em bị sát hại ở Beslan vào năm 2006? Ở Moscow, những người Nga đồng cảm đã mang hoa đến đại sứ quán Pháp song truyền thông Pháp không đưa tin.

Truyền thông bám chặt lấy câu chuyện của họ về Putin xấu xa và Assad xấu xa. Họ không thể dễ dàng thay đổi câu chuyện và thừa nhận rằng tất cả đã lạc hậu. Nhưng những sự kiện có thể buộc họ phải thừa nhận hiện thực.

Câu hỏi lớn là: Pháp sẽ phản ứng ra sao?

Đặc biệt là ở Hoa Kỳ, họ nhanh chóng kết luận rằng chính quyền Pháp sẽ phản ứng hiếu chiến và cuồng loạn như chính quyền Hoa Kỳ sau vụ 11 tháng 9, khai thác các sự kiện kinh hoàng để tước đoạt tự do của công dân và tiến hành các cuộc chiến với nước ngoài. Nhưng cũng có lý do để hy vọng rằng ở Pháp những cái đầu lạnh hơn sẽ kiểm soát tình hình. Phản ứng tình cảm đối với số phận bi thảm của nạn nhân là không khác biệt. Nhưng cảm xúc không cần thiết phải ngăn cản con người tư duy rõ ràng, mặc dù nó thường làm vậy. Người ta có thể than khóc và vẫn duy lý. 

Đây sẽ là các phản ứng nội địa và phản ứng về chính sách đối ngoại, liên quan chặt chẽ với nhau.

Phản ứng đối nội 

Phản ứng chính thức đầu tiên, tuyên bố của Hollande rằng “chúng ta đang trong chiến tranh”, được kèm theo mệnh lệnh cho phép quân đội tuần tra trên đường phố Paris, không phải là thứ mang nhiều hứa hẹn. Binh lính trên đường phố rõ ràng là nhằm trấn an công chúng (mặc dù không phải tất cả mọi người đều cảm thấy an tâm với sự hiện diện của các loại vũ khí nóng), nhưng họ không thể ngăn chặn các cuộc tấn công tự sát hay có thể xử lý cốt lõi của vấn đề. Dường như bất cứ ai kém may mắn khi “trông giống” như những kẻ mà cảnh sát cho là giống khủng bố cũng sẽ bị chặn lại trên đường phố hay bến tàu và bị yêu cầu xuất trình giấy tờ. Điều này có thể không dễ chịu nhưng không phải là thảm kịch nếu chỉ dừng lại ở đó.

Tồi tệ hơn một chút là yêu cầu bãi bỏ các quy định giới hạn về việc sử dụng vũ khí nóng của cảnh sát. Ở Pháp, cảnh sát không thể thoát khỏi các hậu quả pháp lý của việc giết người khi họ hành động như ở Hoa Kỳ, hy vọng rằng mọi việc vẫn sẽ như cũ.

Trong dân chúng, một phản ứng được báo trước là sự thù địch bài Hồi Giáo hay thậm chí là bài Arab có thể nổ ra dưới hình thức các vụ tấn công vào nhà thờ Hồi Giáo hay các cá nhân. Nhưng sự e ngại về phản ứng này, cũng như các biện pháp để ngăn chặn chúng, đều đã được phổ biến. Trái ngược với ấn tượng thường được các bản tin truyền thông Hoa Kỳ mang đến, các cá nhân Arab tử tế hay giáo phái Hồi Giáo không bị cô lập trong các khu ghetto nghèo nàn vùng ngoại ô. Họ là một phần của xã hội Pháp, cộng đồng của họ cũng có nhiều nạn nhân trong vụ thảm sát ngày 13 tháng 11. Bất chấp những sai lầm vốn có, truyền thông Pháp cùng với trường học đang ngăn chặn sự gia tăng một cách nguy hiểm của chứng sợ Hồi Giáo. Rõ ràng rằng sự đối xử bất công với người Hồi Giáo sẽ là quà tặng tốt nhất cho những kẻ cực đoan. Như một vấn đề thực tiễn, các nhà điều tra Pháp sẽ cần tới sự trợ giúp của dân cư Hồi Giáo trung thành để phá vỡ các cuộc tấn công khủng bố.

Công việc sau này là tuyệt đối cần thiết. Nó đòi hỏi các nỗ lực thấu hiểu những gì nằm phía sau hiện tượng – không có nghĩa là biện minh cho chúng. Một khuynh hướng cánh tả nhất định đồng cảm với mọi sự nổi loạn tiềm tàng, bất kể là động cơ hay mục đích, để coi nó là phản ứng hợp lý đối với sự áp bức, là không có cơ sở, kết luận đạo đức là không phù hợp. 



Ngay cả khi những kẻ khủng bố Paris đã tự sát theo công bố (vẫn còn nghi vấn), có nhiều cách để phản ứng đối với tình trạng xã hội nội địa hơn là các vụ thảm sát ngẫu nhiên không phân biệt. Người Mĩ gốc Phi đã chứng kiến điều đó, sự đàn áp đối với họ còn tồi tệ hơn sự phân biệt (bất hợp pháp) đối với người Pháp Hồi Giáo. Thất nghiệp, một phần lớn là do chính sách kinh tế mà Liên Minh Châu Âu áp đặt, đã ảnh hưởng tới toàn bộ thanh niên, nhưng đặc biệt là các cá nhân ít được đào tạo và không có các mối liên hệ. Sự thiếu vắng các cơ hội nghề nghiệp tử tế làm gia tăng các tội phạm vặt, nhiều phần tử cực đoan Hồi Giáo đã được cải đạo trong tù. Đó là những tệ nạn xã hội cần phải được xử lý bằng cách thực sự quay trở lại với chính sách xã hội, vốn bị chính quyền “xã hội chủ nghĩa” hiện tại phá hủy một cách có hệ thống.

Ngay cả khi đó, so sánh với nhiều thời kỳ khó khăn khác nhau có thể cho thấy rõ rằng sự bùng phát của bạo lực Hồi Giáo cực đoan không chỉ đơn giản là do các yếu tố kinh tế. Nguồn gốc của vụ thảm sát ngày 13 tháng 11 là từ Trung Đông. Daech, hay còn gọi là Nhà Nước Hồi Giáo, tùy bạn muốn gọi là gì, hành động như là sự hấp dẫn đối với thanh niên, nhiều người trong số họ đã vượt qua ranh giới của tội phạm hình sự, cần một sự biện minh cho cuộc sống và một kênh cho cảm xúc của họ. Sự biện minh được đem lại bằng hình ảnh những người dân mà họ có thể thấy tương đồng: người Palestine ở Gaza, các gia đình bị bom Mỹ xóa sổ trong một đám cưới, những quốc gia bị người phương tây ngạo mạn hạ nhục. Tham gia Jihad chống lại “Chiến Binh Thập Tự Chinh Phương Tây” để trở thành “Caliphate” [quan tòa] mới trở thành vòng hào quang che chở cho cả điều tốt lẫn cái xấu ở những người dễ tổn thương nhất định. 

Những người được coi là tội phạm và đang thi hành án tù có thể cảm thấy khuây khỏa với ảo tưởng đổ lỗi cho những thế lực siêu nhiên. Cũng như thiên đường của Allah đang kêu gọi, xã hội phương tây đương đại – dựa trên sự đại diện thương mại hơn là thực tại, mà người dân khó có thể biết được – có thể xuất hiện như là một bể tội lỗi. Lý tưởng của những thành phần Jihad là chủ nghĩa thanh giáo cuồng tín: họ có thể sát hại thanh niên ở quán café hay nhà hát bởi vì họ áp dụng một hệ tư tưởng coi những người kia là “những kẻ tội lỗi” chống lại đấng Allah toàn năng.

Ảo tưởng này không chỉ giới hạn trong phần bên lề của xã hội Pháp. Nước Pháp, với truyền thống thế tục và khai sáng, phải được chuẩn bị tốt để chống lại sự điên cuồng này với lý lẽ và lập luận. Trái lại, khuynh hướng hiện tại là áp dụng hành vi của người Mỹ theo kiểu “không lập luận về tôn giáo”, thậm chí là trong lớp học khi các sinh viên Hồi Giáo phủ nhận sự tiến hóa vì mâu thuẫn với kinh Koran. Đúng như vậy, Pháp được ghi nhận về những nỗ lực ngăn cản các phong tục Hồi Giáo cụ thể, nhưng lại để mặc lý tưởng. Lý tưởng về chủ nghĩa đa văn hóa đã trở thành kẻ thù của lý trí. Họ đã quên mất rằng tranh luận về lý tưởng của cá nhân không phải là tấn công cá nhân. Chủ nghĩa tương đối trí tuệ, nhằm mục đích nuôi dưỡng tình anh em, đã để ngỏ cánh cửa cho chủ nghĩa cuồng tín. Một số thứ là sự thật và một số thứ khác là sai, khái niệm hậu hiện đại về việc mỗi các nhân có “sự thật của riêng mình” có nghĩa là cuối cùng không phải là lý trí mà là sức mạnh sẽ thống trị.

Nhưng một lần nữa, nguồn gốc của lý tưởng giết chóc phía sau các vụ tấn công khủng bố nằm ở Trung Đông và những bi kịch đã làm rung chuyển khu vực trong nhiều thập kỷ.

Phản ứng đối ngoại

Chuỗi phản ứng của Pháp trên phương diện chính sách đối ngoại đối với sự kiện 13 tháng 11 là chưa rõ ràng. Bất chấp sự thể hiện mang tính nhất thời về “sự thống nhất quốc gia”, sự chia rẽ sắc nét hiện rõ trong giới lãnh đạo chính trị. 

Tổng thống Hollande là ví dụ điển hình về lãnh đạo Châu Âu hiện tại, từ lâu đã từ bỏ các nỗ lực tư duy chiến lược thực tiễn, chỉ thiết tha với nỗi sầu muộn ngân sách và nỗi ám ảnh “xây dựng Châu Âu”, có nghĩa là, Liên Minh Châu Âu. Các vấn đề quốc tế đã bị phó mặc cho Người Bảo Trợ Vĩ Đại (Hãy nhớ D-Day [Ngày quân đồng minh đổ bộ ở Normandy]), Hoa Kỳ, người được kỳ vọng là sẽ bảo vệ chúng ta khỏi mọi hỗn loạn mà họ tạo ra. Giờ là lúc thức giấc.

Tình hình rất phức tạp, nhưng không phải tất cả mọi thứ đều không thể hiểu được, ngay cả khi điều đó vô nghĩa.

Hỗn loạn bắt đầu ở hai nơi: Israel xâm lược Palestine và Hoa Kỳ khai thác chủ nghĩa cuồng tín Hồi Giáo ở Afghanistan để phá hủy Liên Bang Soviet. Để chống lại chủ nghĩa quốc gia Arab, cân nhắc tới kẻ thù chủ chốt tại khu vực, Israel đã chào đón sự trỗi dậy của Hồi Giáo chính trị như là một lực lượng để phá hủy chủ nghĩa quốc gia Arab, các nhà nước hiện đại của Iraq, Lybia và Syria đang trên con đường đó. Hoa Kỳ đã thực hiện sự phá hủy các nhà nước đó, sử dụng lý do “nhân đạo”, với sự thúc giục của những người ủng hộ Israel trong bộ máy chính trị của Hoa Kỳ, những người đó đã rao bán chính quyền trên truyền thông với quan niệm rằng kẻ thù của Israel là kẻ thù của Hoa Kỳ. Vai trò của Israel trong những thảm họa này là rất rõ ràng đối với mọi người bên ngoài Hoa Kỳ. Khi được khai thác cho mục đích của Hoa Kỳ hoặc Israel, các khuynh hướng cực đoan đã được thúc đẩy bằng chiến thắng, trở nên mạnh mẽ và trở thành đại diện cho con đường thích hợp để hạ bệ phương Tây trong con mắt của nhiều người. 

Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, Saudi Arabia đã tham gia vào cuộc xung đột, sử dụng nguồn tiền thặng dư khổng lồ của họ để xây dựng các nhà thờ Hồi Giáo và phát tán lý tưởng Wahhabi từ Balkan cho tới Nigeria. Tiền của Saudi đã hỗ trợ nhiều nhóm cuồng tín Sunni với mục tiêu phá hủy Hồi Giáo Shi’ite và làm suy yếu đối thủ Iran. Kể từ khi Israel coi Iran là kẻ thù chính trong khu vực, Saudi Arabia và Israel đã trở thành đồng minh khu vực trên thực tế, cả hai cùng nhận được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ.

Pháp bị ràng buộc với Israel bằng “nhận thức tồi”, vốn được truyền thông nuôi dưỡng và thúc đẩy, các cá nhân và chính khách dưới sự ảnh hưởng của những tổ chức như CRIF (Hội Đồng Đại Diện Các Tổ Chức Do Thái Pháp). Họ cũng bị ràng buộc với Saudi Arabia không chỉ bởi dầu mỏ mà còn bởi vì công nghiệp quân sự Pháp cần thị trường Arabia 

Để tóm tắt câu chuyện, hệ thống liên minh giữa các phe đối lập đã dẫn tình trạng mà “phương tây”, có nghĩa là Hoa Kỳ, Anh và Pháp, đang trong chiến tranh với cả hai phe tham chiến ở Syria. Ít nhất, họ cũng giả bộ ném bom những kẻ cuồng tín Hồi Giáo đang muốn phá hủy nhà nước Syria. Đồng thời họ cũng cố gắng phá hủy nhà nước Syria bằng tuyên bố “Assad phải ra đi”. Dường như họ cho rằng nếu Assad ra đi, Syria sẽ vẫn còn đó. Nhưng thực tế, trên hết Assad là biểu tượng và là yếu tố liên kết trong nhà nước Syria hiện nay, quân đội của họ vẫn chiến đấu chống lại các lực lượng vũ trang được nước ngoài hậu thuẫn trong suốt bốn năm bất chấp những thất bại nặng nề và vẫn sẽ tiếp tục thực hiện chức trách của mình. Assad nhận được sự tôn trọng và tuân phục của quân đội cũng như đa số công dân vẫn còn lại trên đất nước bị bao vây. Chiến tranh ở Syria chỉ là cuộc chiến mới nhất trong chuỗi những cuộc chiến đã phá hủy các kẻ thù của Israel và Saudi Arabia, nhờ sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Kêu gọi Assad “ra đi” có nghĩa là kêu gọi chia cắt Syria.

Ai sẽ nhặt nhạnh những mảnh của Syria?

Dĩ nhiên là ba kẻ thù láng giềng của quốc gia này: Thổ Nhĩ Kỳ chiếm miền Bắc, Israel sẽ chiếm cao nguyên Golan (vĩnh viễn) và dĩ nhiên là nhiều hơn nữa, trong khi những tay sai cuồng tín của Saudi Arabia sẽ chiếm phần còn lại, giống như cuộc xung đột đang diễn ra ở Yemen và những nơi khác.

Chỉ có Nga là hành động rõ ràng và hợp lý. Họ đã can thiệp hợp pháp theo yêu cầu của chính quyền Syria. Nga đang cố gắng cứu vớt nhà nước hiện tại và ngăn chặn sự bành trường của những kẻ cuồng tín Hồi Giáo, những kẻ cũng đang đe dọa nước Nga.

Lãnh đạo Hoa Kỳ và Israel đang cấp tốc vỗ về Pháp với “tình đoàn kết” để ngăn không cho quốc gia bị sốc này thoát khỏi sự ràng buộc của liên minh phá hoại. Nhưng đôi khi một thảm họa có thể báo hiệu điểm chuyển đổi.

Điều gì tiếp theo? Pháp vốn đã tham chiến ở Syria, nhưng cuộc chiến nào? Sau khi kêu gọi tổng thống Hollande thể hiện “sự thống nhất quốc gia”, cựu tổng thống Nicolas Sarkozy đã kêu gọi liên minh với Nga để chống lại Daech. “Không thể có hai liên minh ở Syria”, ông ta nói. Giống như Marine LePen, Sarkozy đã tới thăm Moscow và kêu gọi một liên minh tốt hơn với Vladimir Putin. Điều này có nghĩa là quan hệ với NATO và Hoa Kỳ là không rõ ràng vào lúc này.

Liên Minh Châu Âu cũng bị rung chuyển bởi sự phát tán hỗn loạn từ Trung Đông. Cuộc tấn công của kẻ khủng bố Paris rõ ràng đã phá vỡ mọi sự đồng cảm đối với đám đông người nhập cư hỗn tạp từ Trung Đông. Giống như Hungary và Áo, Pháp đã đóng cửa biên giới. Shengen (hiệp định của Liên Minh Châu Âu về biên giới) đã hỏng. Làm gì với người tị nạn là câu hỏi không có câu trả lời. 

Trong tình trạng hiện thời, cánh tả Pháp đang hấp hối trên giường bệnh. Quá nhiều sự dựa dẫm giáo điều vào EU và đồng euro, quá nhiều lừa dối đối với giai cấp công nhân, quá nhiều ảnh hưởng thân Israel, quá nhiều tuân phục Washington, quá nhiều bùa chú trống rỗng về “chủ nghĩa đa văn hóa”, quá nhiều kiểm duyệt đối với tranh luận và câm lặng về mâu thuẫn, quá nhiều tự hài lòng về đức hạnh của bản thân. 

Sự ngạo mạn và thiếu trung thực của cánh tả chắc chắn sẽ đẩy nước Pháp sang cánh hữu. Nhưng hãy chú ý: Cánh hữu Pháp vẫn quá tả so với cánh hữu Hoa Kỳ và thậm chí là quá nhiều cánh tả Hoa Kỳ trên nhiều phương diện chủ chốt. Người Mỹ quan ngại về hòa bình thế giới sẽ không phán xét một quốc gia cuối cùng cũng ở trên bờ vực của việc chống lại chính sách đối ngoại “được chế tạo ở Hoa Kỳ” của họ.

Diana Johnstone’s Queen of Chaos: the Misadventures of Hillary Clinton is available in both paperback and digital format directly from CounterPunch.

Monday, November 16, 2015

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Nhà báo nữ Tamara Pearson trong bài viết "The Colors of Tragedy: Paris and the Media" mổ xẻ sự thiên lệch của truyền thông trong sự kiện thảm sát ở Paris. Màu cờ nước Pháp tràn ngập thế giới sau vụ thảm sát ở Paris, còn khi phương tây thảm sát hàng triệu người ở đâu đó trên thế giới thì không có lá cờ nào được vẫy lên. Thảm kịch được tầm thường hóa, chỉ được đưa tin nhằm mục đích câu khách, đồng thời lảng tránh sự thật. 

Sắc màu của thảm kịch: Paris và truyền thông

Khi Paris run rẩy đối mặt với vụ tấn công kinh hoàng vào thứ sau, Beirut cũng vậy sau vụ đánh bom kép vào thứ năm và Palestin cũng vậy hàng ngày. Nhưng nhà hát Opera Sydney chỉ đổi màu vì Pháp và cho nước Pháp – lặp lại sự phản ứng đối với sự kiện Hebdo – các tổng thống phương tây phát biểu trong sự bàng hoàng và truyền thông tư nhân tường thuật trực tiếp, các slide show và các trang đăng video.

Ưu tiên về thảm kịch của truyền thông phản ánh và duy trì ưu tiên về chính trị, theo đó cuộc sống của một số người được coi là quan trọng hơn. Hơn nữa, bằng cách sử dụng thảm kịch có lựa chọn, biến thảm kịch thành giật gân để câu khách và do đó tầm thường hóa thảm kịch, thâm chí bỏ qua việc đưa tin số người chết bởi vì họ không thật sự hiểu. 

Truyền thông đã cực kỳ hấp tấp. Cho dù là truyền hình về tổn thất và đau khổ của địa phương cho sự tò mò tọc mạch của khán giả phương tây mà không cần quan tâm nhiều đến câu chuyện ở phía sau – như trong trường hợp động đất ở Nepal – hay cá nhân hóa các nạn nhân ở Paris, bao quát dòng thời gian của bạo lực theo chi tiết từng phút nhưng dàn xếp để duy trì sự thờ ơ bất chấp sự kiện.

Truyền thông không chỉ tác động tới cái mà khán giả biết, mà còn là cách họ suy nghĩ và điều mà họ quan tâm. Truyền thông không đưa tin về bốn năm biến Syria thành đống hoang tàn, theo cách chi tiết. Truyền thông đã lãng quên Nepal, những dòng tít tuyệt vời nhất đã biến mất và các phân tích về khôi phục và xây dựng dường như quá khó để theo dõi. Người tị nạn chỉ hiện ra trên truyền thông khi họ đặt chân lên đất của thế giới thứ nhất. Truyền thông có có vai trò trong nhận thức phê phán về các cấu trúc kinh tế cũng như xã hội phía sau thảm kịch, nhưng trong thực tế, do chủ sở hữu của truyền thông và động cơ lợi nhuận, nó sẽ không làm vậy. Không chỉ là về bán hàng, truyền thông là sức mạnh phục vụ cho một phe.

Gói tin tức mà truyền thông giới thiệu – những thảm kịch mà chúng trình bày cũng như những thảm kịch mà chúng bỏ qua củng cố một sự bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng. Bất cứ đứa trẻ nào cũng biết, điều quan trọng là ai và cái gì phải được chú ý. Thảm kịch của nghèo đói và sự cô lập xã hội quy mô lớn bị truyền thông hạ thấp trong khi máy bay rơi và các vụ nổ súng chiếm vị trí trung tâm. Không phải là chúng phải như vậy mà thực ra là kém may mắn, những thảm kịch lớn nhất diễn là hàng ngày, chúng là dài hạn, tuần hoàn, chúng có nguyên nhân, nhưng đó là những con người sai lầm và thiếu những tiêu đề hấp dẫn, do vậy chúng bị kiểm duyệt bằng sự chung chung, cam chịu, im lặng. Điều đó có nghĩa là chúng được bình thường hóa và chấp nhận.

Các thảm kịch bị hạ thấp 

Những vụ thảm sát hàng triệu người mỗi năm cho tới các dịch bệnh có thể ngăn chặn được không được thừa nhận.

Sự xô đẩy tán loạn trong im lặng của những công nhân quá mệt mỏi bị trả lương thấp không được nhận thấy. Biến trí tuệ sâu sắc thành tư duy tầm thường, sự thể hiện chết cứng, bởi vì giáo dục cao đắt đỏ hơn truyền hình và điện thoại. Sự sáng tạo, nếu nó còn sống sót, được bán cho người đặt giá cao hơn.

Giới hạn với tình dục, giới tính và tồn tại. Có nghĩa là truy tố sự đa dạng và sản xuất có hệ thống ra sự cô độc.

Đầu độc hành tinh, cuộc sống trở thành bốc dầu hỏa và hận thù chờ bùng cháy.

Sự miễn tố của cảnh sát đối với tội sát nhân và sự miễn tố các quốc gia đối với bom đạn.

Ở trường học, lịch sử được dạy theo một chuỗi sự kiện, từ sự kiện này đến sự kiện khác, như là những anh hùng ngẫu nhiên và cá nhân, hơn là một quá trình. Đối với truyền thông ngày nay cũng vậy, Paris là một chuỗi sự kiện, không phải là một chủ đề phức tạp. Nếu có hành động nào xảy ra, điều đó sẽ đơn giản – trừng phạt kẻ thù, cho phép kẻ thù trở thành người dân, bỏ qua bối cảnh, câu hỏi và hậu quả. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã tràn ngập các mạng xã hội sau khi Paris được mổ xẻ bằng phân tích nguyên nhân-kết quả - hiện nay đa số bản tin của truyền thông thiếu sự toàn diện . Đâu là các lực lượng và quyền lực tham gia? Đâu là bạo lực xâm lược, cô lập toàn bộ người dân, chuyện đó có liên quan đến chuyện này không? Tạo sao một số vụ bạo lực đối với một số dạng người được chấp nhận, còn đối với những người khác thì không? Đó có phải là một thảm kịch tự sát không?

Tamara Pearson is a long time journalist based in Latin America, and author ofThe Butterfly Prison. Her writings can be found at her blog.

Saturday, October 24, 2015

Putin buộc Obama phải đầu hàng ở Syria

Nhà báo Mỹ Mike Whitney trong bài viết "Putin Forces Obama to Capitulate on Syria" đã chỉ ra rằng Hoa Kỳ tìm cách câu giờ để cứu lính đánh thuê đang bị không quân Nga và quân đồng minh Assad nghiền nát ở Syria. Mục tiêu chiến lược của Hoa Kỳ và đồng minh vẫn không thay đổi, đó là lật đổ tổng thống Assad và phá vỡ Syria thống nhất thành những mảnh lãnh thổ nhỏ. Hoa Kỳ đã từng từ chối những đề xuất đàm phán hòa bình của Nga ở Geneva thì giờ đây khi mất quyền kiểm soát trên chiến trường lại đang tìm cách trì hoãn thời gian bằng đàm phán Geneva. Người Nga sẽ không mắc bẫy. Hơn ba mươi năm trước đây, đất nước Việt Nam nhỏ bé đã cho cả thế giới thấy cần phải trả lời Hoa Kỳ ra sao về việc đàm phán hòa bình: Nghiền nát quân Mỹ và tay sai trên chiến trường rồi hãy nói chuyện hòa bình!

Putin buộc Obama phải đầu hàng ở Syria

Liên minh quân sự do Nga lãnh đạo đã đánh nhừ tử đám tay sai của Washington ở Syria, đó là lý do khiến John Kerry đang kêu gào “Hết Giờ”

Vào thứ hai, ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry kêu gọi một hội nghị thượng đỉnh khẩn cấp trong tuần để các lãnh đạo Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Saudi Arabia và Jordan có thể thảo luận về phương thức tránh khỏi một sự “phá hủy toàn diện” Syria. Theo Kerry, “Mọi người, trong đó có người Nga và Iran, đã nói rằng không có giải pháp quân sự, thế nên chúng ta cần phải nỗ lực tìm ra một giải pháp chính trị. Đây là thảm họa nhân đạo đang đe dọa sự toàn vẹn của một nhóm quốc gia trong khu vực,” Kerry nói thêm.

Dĩ nhiên, việc những kẻ khủng bố phá hủy các thành phố và làng mạc khắp đất nước, khiến một nửa dân số phải di cư và biến một quốc gia thống nhất và an ninh thành một xứ sở hỗn loạn vô chính phủ không bao giờ là một “thảm họa”. Mọi thứ chỉ trở thành một thảm họa khi Vladimir Putin phát động chiến dịch ném bom của Nga cùng với quân đội đồng minh trên mặt đất, khi họ bắt đầu xóa sổ hàng trăm chiến binh được Hoa Kỳ hậu thuẫn và chiếm lại những thành phố dọc theo hành lang phía tây. Giờ đây không quân Nga đang nghiền nát những kho đạn dược của jihadi, kho vũ khí và căn cứ của quân nổi loạn, quân đội Arab Syria (SAA) đang thắt chặt vòng vây quanh Aleppo, Hezbollah đang gây ra những thiệt hại nặng nề cho chiến binh Jabhat al Nusra cũng như đám ký sinh khác có liên kết với Al Quaida; Kerry cho rằng điều đó là thảm họa. Giờ đây, khi cục diện chiến tranh đã chuyển sang thuận lợi cho tổng thống Syria Bashar al Assad, Kerry muốn có “Hết Giờ”

Hãy nhớ rằng Putin đã làm việc không biết mệt mỏi suốt những tháng mùa hè để vận động các bên tham chiến (trong đó có cả phe đối lập chính trị chống lại Assad) cùng tham gia xem xét phương án ổn định Syria cũng như chống lại ISIS. Nhưng Washington không muốn tham gia bất cứ liên minh nào do Nga lãnh đạo. Sau khi mọi khả năng giải quyết xung đột thông qua sự đồng thuận đã bị từ chối, Putin quyết định trực tiếp can thiệp bằng cách đưa không quân Nga vào tham chiến chống lại các phần tử cực đoan Sunni cũng như những lực lượng chống chính quyền khác, những kẻ đang xé nát đất nước và dọn đường cho quân đội liên kết với Al Quaida chiếm thủ đô. Sự can thiệp của Putin đã ngăn chặn sự hiện diện của Caliphate [chính quyền Hồi Giáo do giáo chủ đứng đầu] khủng bố ở Damascus. Ông ấy đã chấm dứt chuỗi chiến tranh kéo dài bốn năm, cũng như giáng cho chiến lược thâm hiểm của Washington một đòn thôi sơn. Giờ đây ông ấy sẽ hoàn tất công việc. 

Putin không quá khờ khạo để mắc bẫy chiến thuật câu giờ của Kerry. Ông ấy sẽ hạ sát hoặc bắt giữ càng nhiều khủng bố càng tốt và ông ấy sẽ không để Chú Sam [Hoa Kỳ] can thiệp.

Những kẻ khủng bố này – có hơn 2.000 tên trong số chúng đến từ Chechnya – tạo thành mối đe dọa tiềm tàng đối với Nga, cũng giống như kế hoạch sử dụng đám Hồi Giáo cực đoan để thúc đẩy mục tiêu quốc tế của Hoa Kỳ. Putin đã tỏ ra nghiêm tức với mối nguy hiểm ấy. Ông ấy biết rằng nếu như chiến lược của Washington thành công, nó sẽ được sử dụng ở Iran và sau đó là chống lại Nga. Đó là lý do khiến ông ấy dồn tiền bạc và tài nguyên vào công việc này. Đó là lý do khiến tướng lĩnh của ông ấy đã xem xét toàn bộ chi tiết và xây dựng chiến lược vững chắc để chấm dứt sự huyên náo của đám tội phạm trẻ ranh cũng như khôi phục biên giới chủ quyền của Syria. Đó là lý do khiến ông ấy không bị đánh lừa bởi những kẻ ăn nói đường mật như Kerry. Putin sẽ xem xét tình hình trong một kết cục xấu. Ông ấy sẽ không ngừng lại vì bất cứ ai hay vì bất cứ điều gì. Thắng lợi ở Syria là vấn đề an ninh quốc gia, an ninh quốc gia của Nga.

Đây lại là Kerry: “Nếu Nga giúp Assad tìm ra con đường dẫn tới giải pháp chính trị cũng như chống lại Daesh (ISIS) và chủ nghĩa cực đoan thì đây có khả năng là một con đường thực sự khác biệt.”

Putin đã đề xuất các giải pháp ngay từ ban đầu nhưng Washington đã từ chối các giải pháp đó. Putin ủng hộ cái được gọi là đàm phán Geneva từ năm 2012. Trên thực tế, người sau này là ngoại trưởng Hillary Clinton đã phá hỏng toàn bộ tiến trình bằng cách đòi hỏi Assad không được tham gia vào chính quyền lâm thời. (Lưu ý: Hiện giờ Obama đã rút lại yêu cầu này) Nga coi đòi hỏi của bà ta là tương đương với thay đổi chế độ, khi mà Assad được quốc tế công nhận là người đứng đầu nhà nước và hoàn toàn có quyền tham gia vào chính quyền lâm thời. Sự phủ nhận của Hoa Kỳ đã phá hỏng các nỗ lực về “cuộc bầu cử tự do và công bằng đa đảng” dưới sự giám sát quốc tế và chấm dứt mọi cơ hội nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Washington đã không đánh đổi con đường của họ (“Assad phải ra đi”) để cứu sống hàng chục ngàn mạng thường dân, những người đã chết kể từ khi Clinton quay lưng lại với Geneva.

Sao giờ Kerry lại chìa ra cành ô liu? Sao giờ Washington lại quan tâm tới “sự phá hủy toàn diện” của Syria?

Tôi không ngạc nhiên về điều đó. Điều khiến Kerry lo lắng là những anh bạn côn đồ chuyên “chặt đầu” của ông ta sẽ bị vó ngựa Nga nghiền thành bột. Đấy là điều mà ông ta lo lắng. Hãy xem đoạn này trên RT:
“Tổng thống Syria Bashar Assad “không phải ra đi ngày mai hay ngày kia,” bộ ngoại giao Hoa Kỳ (người phát ngôn Mark Toner) đã tuyên bố. Washington cho phép Assad có thể tham gia quá trình chuyển tiếp, nhưng không được tham gia chính quyền kế tiếp của Syria…
“… đây không phải là sự áp đặt của Hoa Kỳ. Đây là cảm giác của nhiều chính quyền khắp thế giới và nói một cách trung thực là đa số người dân Syria,” Toner nói.
Khi được yêu cầu làm rõ “thời hạn” của quá trình chuyển tiếp mà bộ ngoại giao dự tính, Toner đã không đưa ra thời gian chính xác. 
“Tôi không để đặt ra một khung thời gian cho điều đó. Tôi không thể nói rằng hai tuần, hai tháng, sáu tháng,” ông ta nói, thêm vào rằng Hoa Kỳ đang tìm kiếm “một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột.”…
Sau đó, Toner thừa nhận rằng Hoa Kỳ vẫn đang trong “quá trình khởi động quá trình,” khẳng định rằng đây là “một vấn đề cấp bách” đã “kéo dài quá lâu.” (‘Assad doesn’t have to leave tomorrow, can be part of transitional process’ – Bộ ngoại giao Hoa Kỳ”, RT)

“Một quá trình để khởi động quá trình”?? Có ai đấy không?

Toner đọc vẹt quá nhanh, ông ta thậm chí không chắc là đang nói gì. Rõ ràng là chính quyền đang rất bối rối về những tình hình tại Syria, tha thiết muốn ngăn chặn việc những chiến binh jihadi do Hoa Kỳ hậu thuẫn bị tiêu diệt, do vậy họ cử Toner ra nói với truyền thông trước khi ông ta kịp hiểu những gì mình nói. Thật là khôi hài. Chính quyền đã không chỉ từ chối gặp đại biểu cấp cao của Nga ngay trong tuần trước (để bàn về phối hợp không kích ở Syria), mà lập trường nực cười “Assad phải ra đi” của họ hôm nay đã hoàn toàn bị đánh bại. Đó là sự đảo lộn, anh có nghĩ vậy không? Tôi ngạc nhiên khi họ không treo cờ trắng trên tòa nhà số 1600 đại lộ Pennsylvania [Nhà Trắng], trong khi ban nhạc hải quân chơi nhạc hiệu. 

Nhưng tôi không cho rằng sự nhục mạ mới nhất này sẽ làm hỏng kế hoạch của Washington nhằm phá hủy nhà nước Syria có chủ quyền và biến nó thành hàng triệu mảnh nhỏ vô dụng không thể de dọa đến hành lang tuyến đường ống dẫn dầu lớn, hay các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ, hoặc Valhalla phục quốc Do Thái của Israel. Bởi vì nó sẽ không như vậy. Kế hoạch đó vẫn đang đi đúng đường bất chấp những nỗ lực của Putin nhằm đẩy lùi các chiến binh và bảo vệ đường biên giới. Chiến lược phân chia Syria đã được chủ tịch Hội Đồng Quan Hệ Quốc Tế Richard Haass lặp lại mới đây thôi: 
“…. Hoa Kỳ và các quốc gia khác phải theo đuổi một chính sách nước đôi. Một mặt là sẽ tiếp tục cải thiện cân bằng quyền lực tại Syria. Điều này có nghĩa là giúp đỡ người Kurds và các bộ lạc Sunni nhiều hơn, cũng như tiếp tục không kích IS.
Nỗ lực này tạo ra các khu vực đối an toàn. Các khu vực nhỏ của Syria có thể là kết quả tốt nhất cho hiện tại cũng như tương lai gần. Hoa Kỳ cũng như bất cứ ai khác đều không có lợi ích quốc gia sống còn trong việc khôi phục chính quyền Syria, chính quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ quốc gia; điều quan trọng là thanh toán IS và các nhóm tương tự.
Mặt thứ hai là quá trình chính trị, trong đó Hoa Kỳ và các chính quyền khác vẫn mở cửa cho sự tham gia của Nga (và thậm chí là Iran). Mục tiêu là tước bỏ quyền lực của Assad và thiết lập một chính quyền kế nhiệm, mà tối thiểu là nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng Alawite của ông ta và lý tưởng là một số người Sunni.” (Testing Putin in Syria, Richard Haass, Project Syndicate)
Lật đổ Assad và phân chia đất nước. Phá hủy Syria một lần và mãi mãi. Đó là chiến lược mà Washington đang thực hiện. Kế hoạch này ban đầu được nhà phân tích Michael O’Hanlon của Brooking đề xuất, ông này mới đây đã nói: 
“…một Syria tương lai có thể là một nước liên bang với một số khu vực: một khu vực lớn của người Alawite (nhóm của Assad), trải dọc theo bờ biển Địa Trung Hải; một phần của người Kurd, nằm dọc theo hành lang phía bắc và đông bắc gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ; phần thứ ba chủ yếu là người Druse, ở tây nam; phần thứ tư chủ yếu là người Hồi Giáo Sunni; và khu vực trung tâm của các nhóm hỗn hợp trong dân số của quốc gia trải dài từ Damascus tới Aleppo…
Theo thoản thuận này, Assad sẽ hoàn toàn phải từ bỏ quyền lực ở Damascus… Một chính phủ trung ương yếu sẽ thay thế ông ta. Nhưng phần lớn quyền lực cũng như quân đội sẽ bị sáp nhập vào các khu vực tự trị riêng lẻ - và cùng với đó là nhiều chính quyền khu vực…
Hoa Kỳ và các nhà huấn luyện ngoại quốc cần triển khai bên trong Syria, tại nơi mà những người được tuyển mộ thực sự sinh sống – và phải ở lại, nếu họ muốn bảo vệ gia đình. (Syria’s one hope may be as dim as Bosnia’s once was, Michael O’ Hanlon, Reuters)
Một lần nữa, lập trường tương tự được lặp lại: Lật đổ Assad và phân chia đất nước. Dĩ nhiên là Hoa Kỳ phải huấn luyện “những người sẽ được tuyển mộ” để giám sát người bản địa và ngăn chặn việc thiết lập bất cứ liên minh hay quân đội nào có thể đe dọa những khát vọng đế quốc của Hoa Kỳ ở khu vực. Nhưng điều này đã lặng lẽ diễn ra. (Theo cách này, Hillary Clinton đã ủng hộ kế hoạch của O’Hanlon, nhấn mạnh tầm quan trọng của “các khu vực an toàn”, có thể được sử dụng để chứa chấp chiến binh Sunni và những kẻ thù khác của nhà nước.)

John “Wacko” McCain là người ủng hộ nhiệt thành nhất của kế hoạch phá vỡ Syria. Đây là phần mà ông ta nói về chủ đề này: 
“Chúng ta phải hành động ngay để bảo vệ thường dân và phe đối lập mà chúng ta ủng hộ ở Syria….chúng ta phải thiết lập các khu vực an toàn cho thường dân và phe đối lập ôn hòa chống lại tổng thống Bashar al-Assad và ISIS ở Syria. Các khu vực can toàn này phải được sự bảo vệ của không lực Hoa Kỳ và đồng minh cũng như bộ binh ngoại quốc. Chúng ta không nên loại trừ khả năng quân đội Hoa Kỳ có thể đóng một vai trò hạn chế trong lực lượng bộ binh đó…
“Chúng ta phải thực thi chính sách theo cách tác động tới tham vọng của Putin và chi phối hành vi của ông ta. Nếu như Nga tấn côn phe đối lập do chúng ta ủng hộ, chúng ta phải khiến cho Nga trả một cái giá đắt – ví dụ tấn công các cơ sở đầu não của Syria hay các mục tiêu quân sự. Nhưng chúng ta cũng không nên giới hạn các phản ứng với Syria. Chúng ta phải gia tăng sức ép với Nga ở mọi nơi. Chúng ta phải cung cấp vũ khí tự vệ và các viện trợ cần thiết cho quân đội Ukraina để họ có thể gây ra thiệt hại lớn cho quân đội Nga.” (The Reckless Guns of October, Daniel Lazare, Consortium News)
Chắc chắn rồi, hãy phát động Thế Chiến III nào. Tại sao không chứ?

Người đàn ông này nên vào nhà thương điên chứ không nên lảm nhảm ở phòng họp của quốc hội.

Toàn bộ thiết chế chính trị Hoa Kỳ ủng hộ việc lật đổ Assad và phân rã Syria. Việc Kerry đột nhiên kêu gọi đàm phán không thể hiện sự thay đổi căn bản trong chiến lược. Đây hầu như là một nỗ lực câu giờ cho lính đánh thuê của Hoa Kỳ, những kẻ đang suy sụp trong chiến dịch ném bom của Nga. Putin sẽ đủ khôn ngoan để phớt lờ lời kêu gọi của Kerry và tiếp tục tiến hành cuộc chiến chống khủng bố cho đến khi công việc được hoàn tất.

(Lưu ý: Khi bài báo này đang được in, tờ Turkish Daily Zaman đưa tin: “….Hoa Kỳ và một số quốc gia Châu Âu cũng như Vùng Vịnh….đã đồng ý về kế hoạch mà theo đó tổng thống đương nhiệm Bashar al-Assad của Syria sẽ tiếp tục nắm quyền trong sáu tháng tiếp theo của thời kỳ chuyển tiếp….Thổ Nhĩ Kỳ đã từ bỏ đòi hỏi [Assad phải từ chức] và đồng ý với thời kỳ chuyển tiếp có sự tham gia của Assad,” cựu bộ trưởng ngoại giao Yaşar Yakış trả lời tờ Today’s Zaman vào thứ ba….Nếu người dân Syria quyết định tiếp tục với Assad thì Thổ Nhĩ Kỳ cũng không thể phản đối.” (Report: Turkey agrees to Syria political transition involving Assad, Today’s Zaman)

Câu chuyện này vẫn chưa xuất hiện trên truyền thông đại chúng phương tây. Chính sách về Syria của Obama đã hoàn toàn sụp đổ.

MIKE WHITNEY lives in Washington state. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion (AK Press). Hopeless is also available in a Kindle edition. He can be reached at fergiewhitney@msn.com.