Showing posts with label Cảnh sát. Show all posts
Showing posts with label Cảnh sát. Show all posts

Friday, November 28, 2014

Lại thêm một vụ bắn người tàn bạo mới của cảnh sát Hoa Kỳ


Vào tuần trước, cảnh sát Cleveland đã bắn gục một cậu bé 12 tuổi có tên là Tamir Rice (sau đó cậu bé chết ở bệnh viện). Có ai đó gọi điện báo cảnh sát là cậu bé cầm một khẩu súng (có lẽ là giả) ở sân chơi. Hãy nhìn cái cách cảnh sát bắn hạ cậu bé, họ lao xe ô tô tới gần và bắn chết cậu bé ngay tức thì, không hề có thương thuyết hay cảnh báo.

Theo báo cáo mới đây của FBI vào năm 2013 đã có 461 người Mỹ bị cảnh sát "giết hại có lý do chính đáng", trung bình mỗi năm có hơn 400 người Mỹ bị cảnh sát "giết hại có lý do chính đáng". Trung bình mỗi ngày có hơn một thường dân bị cảnh sát Mỹ hạ sát. Cảnh sát Đức vào năm 2011 giết chết 6 người, còn cảnh sát Anh chỉ giết chết 2 người. 

Đã đến lúc người Mỹ nên đặt câu hỏi: Ai sẽ bảo vệ thường dân trước họng súng của cảnh sát?

Wednesday, November 19, 2014

Mười hành động phi pháp của cảnh sát Hoa Kỳ khi ngăn chặn biểu tình

Từ khi xảy ra vụ cảnh sát bắn chết thanh niên da màu Michael Brown, người dân Mỹ đã bày tỏ sự quan ngại sâu sắc về việc cảnh sát lạm sát dân thường. Các cuộc biểu tình ôn hòa của người dân đã bị cảnh sát ngăn cản. Bạn đọc blog muốn biết các chiến thuật cảnh sát Mỹ thường dùng để giải tán đoàn biểu tình thì xin mời theo dõi bản dịch bài viết "Ten Illegal Police Actions to Watch for in Ferguson" của tác giả Bill Quigley, một giáo sư luật người Mỹ. Tiêu đề do người dịch đặt.

Muời hành động phi pháp của cảnh sát được chờ đón ở Ferguson

Khi phán quyết về Michael Brown được công bố, người dân có thể dự đoán cảnh sát sẽ dùng ít nhất 10 biện pháp bất hợp pháp để ngăn cản người dân thực hiện các quyền hợp hiến của họ. Cảnh sát Ferguson xuất hiện trên truyền hình nhiều hơn ở nơi khác, nên người dân có thể thấy hành động của họ khủng khiếp ra sao. Nhưng các chiến thuật cảnh sát bất hợp pháp của họ không may mắn là cũng được các lực lượng thực thi pháp luật khác sử dụng khá phổ biến trong các cuộc biểu tình lớn trên khắp nước Mỹ.

Tu Chính Án Thứ Nhất của Hiến Pháp Mỹ hứa hẹn rằng chính phủ sẽ không ngăn cản quyền tự do ngôn luận hay ngăn cản quyền được tụ tập ôn hòa hoặc kiến nghị của người dân đối với chính quyền trong việc sửa chữa các bất công. 

Đây là những gì họ sẽ làm, hãy chứng kiến từng hành động bất hợp pháp khi đám đông lớn lên.

Thứ nhất. Cố gắng ngăn cản người dân biểu tình. Mọi cảnh sát đều nói rằng họ để cho người dân biểu tình. Họ luôn cho phép biểu tình trong chốc lát. Sau đó cảnh sát sẽ thấy mệt mỏi và hết kiên nhẫn, họ cố gắng ngăn cản người dân tiếp tục biểu tình. Chính quyền sẽ nói người dân chỉ có thể biểu tình trong một thời gian nhất định, hay trên một con phố cụ thể, hoặc chỉ khi họ tiếp tục di chuyển, hay không ở đó, không ở đây, không phải bây giờ, không lâu hơn nữa. Những hành động đó của cảnh sát không được Hiến Pháp Mỹ cho phép. Người dân có quyền biểu tình, chính quyền nên để họ yên.

Thứ hai. Những kẻ khiêu khích. Cảnh sát dường như sắp đặt sẵn hàng tá các sĩ quan, da trắng và da đen, đàn ông và phụ nữ, bên trong nhiều nhóm biểu tình. Những sĩ quan này sẽ do thám bất hợp pháp những người biểu tình ôn hòa và thường xuyên có các hành động bất hợp pháp cũng như kích động người dân có các hành động bất hợp pháp. Họ thậm chí cũng bị bắt giữ nhưng thần kỳ là không bao giờ bị tống giam. Nhiều người khác trong nhóm sẽ được trả tiền để báo tin về nhóm với chính quyền. Nực cười là khi các cảnh sát chìm bị phát hiện thì họ luôn khẳng định là họ có quyền hợp hiến ở đó và cố gắng sử dụng hiến pháp mà họ xâm phạm làm lá chắn!

Thứ ba. Các đội bắt cóc. Cảnh sát sẽ quyết định ai là người họ không thích hay ai là người mà họ cho là lãnh đạo. Sau đó họ sẽ sử dụng một nhóm nhỏ vũ trang hạng nặng để xông vào đám đông ôn hòa và tóm lấy người đó, kéo người đó ra và bắt giữ người đó.

Thứ tư. Bắt giữ trái phép. Cảnh sát sẽ bắt giữ bất cứ ai họ chọn, bất cứ khi nào họ muốn và sẽ tạo ra các câu chuyện để biện minh cho việc bắt giữ. Nếu người dân đập vỡ của kính hay làm đau người khác, việc bắt giữ là hợp pháp. Mặc dù vậy, cảnh sát sẽ bắt giữ trước tiên và phân loại xem ai là người sẽ bị bắt giữ sau đó. Cảnh sát ở Ferguson đã bắt giữ trái phép cả những người quan sát hợp pháp, một giáo sư luật, và các lãnh đạo tôn giáo. 

Thứ năm. Hăm dọa. Như họ đã cho thấy nhiều lần ở Ferguson và khắp đất nước, khi người biểu tình nóng giận, cảnh sát sẽ xuất hiện trong trang phục chống bạo động, mặc đồ kiểu như ninja rùa (những khẩu súng to lòe loẹt, khiên nhựa, dùi cui lớn, nẹp ống đồng, mặt nạ hơi ngạt, dây khóa tay) và hành động như những chiến binh quân đội đang bảo vệ người dân khỏi sự xâm lược của ISIS.

Thứ sáu. Dồn ép hay bao vây. Cảnh sát sẽ bao quanh một nhóm và nhốt họ lại, không để họ di chuyển. Họ sẽ bắt giam tất cả hoặc buộc mọi người phải di chuyển theo một hướng. Hành động này, như cảnh sát biết rất rõ, luôn gom cả những người vô tội đi ngang qua cũng như người biểu tình. NYPD làm điều đó với hàng trăm người trên cầu Brooklyn và nhiều người biểu tình khác. Đôi khi họ dùng lưới nhựa màu cam hay lưới ngăn tuyết, đôi khi chỉ với rất nhiều cảnh sát.

Thứ bảy. Đột kích vào các nhà thờ, tổ chức hay gia đình hỗ trợ. Cảnh sát thường xuyên đột kích bất hợp pháp theo kiểu hạ thủ trước các nơi mà các tình nguyện viên ngủ, nấu nướng hay đỗ xe. Họ nói nối địa phương và cáo buộc người biểu tình liên quan tới các tổ chức bạo lực.

Thứ tám. Xe tải phát âm thanh gây đau tai. Cảnh sát cũng sẽ sử dụng xe tải phát âm thanh gây đau tai với LRAD (Thiết Bị Truyền Âm Cự Ly Dài). Đầu tiên được sử dụng ở Iraq, giờ được sử dụng chống lại những người biểu tình ôn hòa ở Mỹ. Chiếc xe tải phát ra âm thanh đủ lớn để gây đau tai. Chưa bao giờ được bất kỳ tòa án nào chấp nhận, hành động gây đau đớn có chủ tâm này là một biểu hiện của việc quân sự hóa cảnh sát. Cảnh sát cũng sử dụng MRAs Xe Chống Phục Kích Bằng Mìn – xe tải mang giáp nặng trông giống như xe tăng nhưng chạy bằng bánh chứ không phải bằng xích. Đây là một phần của sự hăm dọa.

Thứ chín. Bắt giữ các phóng viên. Khi cảnh sát cảm thấy hơi nóng của quan điểm công chúng, họ sẽ ép buộc các nhà báo tránh xa người biểu tình. Những ai vẫn khăng khăng tham gia vào hoạt động được hiến pháp bảo vệ và ghi hình sự kiện sẽ bị bắt giữ.

Thứ mười. Vũ khí hóa học và các vũ khí khác. Khi cảnh sát thực sự vô vọng và lo ngại, họ sẽ tìm cách giải tán toàn bộ đám đông với bình xịt hạt tiêu, hơi cay và các vũ khí hóa học khác, đạn gỗ hay đạn cao su. Nếu chuyện này xảy ra, cảnh sát thực sự mất kiểm soát và nguy hiểm nhất.

Hàng tá và hàng tá các lực lượng cảnh sát khác sẽ vây quanh người biểu tình ở Ferguson khi phán quyết về Michael Brown được công bố. Nhân viên FBI, An Ninh Nội Địa, Cảnh Sát Tư Pháp, Cảnh Sát Bang, Cảnh Sát Trưởng Hạt và cảnh sát thành phố địa phương từ hàng tá các thành phố nhỏ ở St. Louis và phụ cận sẽ có mặt tại hiện trường. Dĩ nhiên đây là lúc mà quyền biểu tình hợp hiến của người dân thực sự được bảo vệ. Chúng ta chỉ có thể hy vọng. Nhưng đồng thời, hãy chứng kiến các chiến thuật thông dụng của cảnh sát. 

Bill Quigley is a law professor at Loyola University New Orleans

Friday, October 31, 2014

Hành quyết dân thường theo kiểu cảnh sát Mỹ



Vào thứ hai, Liên Minh Tự Do Dân Sự Hoa Kỳ (ACLU) công bố một đoạn băng video do camera của cảnh sát thu được về vụ giết hại Milton Hall, một người đàn ông vô gia cư 49 tuổi bị bệnh tâm thần vào tháng 7 năm 2012, do các sĩ quan cảnh sát ở Saginaw, Michigan gây ra. Mark Fancher, một luật sư của ACLU Michigan đã gọi vụ giết hại Hall là sản phẩm của "đội hành quyết".

ACLU công bố đoạn video trong lời khai làm chứng tại buổi giải trình về bạo lực của cảnh sát ở Hoa Kỳ của Ủy Ban Liên Mỹ về Nhân Quyền trực thuộc Tổ Chức Các Nhà Nước Châu Mỹ.

Đoạn video cho thấy 8 sĩ quan cảnh sát với vũ khí vây xung quanh Hall tại một bãi đậu xe ở ngoại ô. Một sĩ quan liên tục đe dọa Hall với con chó nghiệp vụ gầm gừ, khiến Hall phải chìa con dao bỏ túi nhỏ ra để phòng vệ. Hall cho thấy trạng thái phòng vệ rõ ràng và không hề tiến lại gần bất cứ sĩ quan cảnh sát nào trong phạm vi ba mét [chú thích của người dịch: Luật Mỹ quy định đó là khoảng cách an toàn để bảo vệ sĩ quan cảnh sát].

Đoạn video cho thấy cảnh sát khai hỏa theo kiểu đội hành quyết, họ bắn hơn 45 phát đạn trong khoảng thời gian vài giây, Hall bị trúng 14 phát đạn, và họ tiếp tục bắn ngay cả khi Hall đã ngã xuống mặt đất. Sau đó, một sĩ quan lật người Hall, còng tay lại, dùng giày dẫm vào lưng Hall.

Bất chấp sự thật mà đoạn băng video đã cung cấp cũng như sự làm chứng của một số người đi ngang qua, không có bất cứ sĩ quan nào bị kết án. Vào tháng một, Bộ Tư Pháp đã thông báo rằng họ không để đưa ra cáo buộc đối với những người giết hại Hall, tuyên bố rằng "sự kiện bi kịch không cho thấy bằng chứng đầy đủ về sự sai phạm có chủ ý đến mức phải truy tố hình sự liên bang".


Wednesday, October 22, 2014

Hoa Kỳ: Cảnh sát bảo vệ hay xâm lược cộng đồng?

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Ferguson Killing Exposes the Reality Of Militarized, Racist Policing directed against African Americans" của hai tác giả Kevin Zeese and Margaret Flowers bình luận về chính sách quân sự hóa cảnh sát ở Hoa Kỳ sau sự kiện ở thành phố Ferguson. Tiêu đề bài viết do người dịch đặt.

Vụ giết người ở Ferguson cho thấy hiện thực phân biệt chủng tộc và quân sự hóa cảnh sát trực tiếp chống lại người Mỹ gốc Phi

Vụ giết hại Michael Brown do một sĩ quan cảnh sát, người được xác định vào thứ sáu là Darren Wilson, và cuộc bạo động trong đó cảnh sát vũ trang và bạo lực được sử dụng để đối phó với người biểu tình ôn hòa cũng như phóng viên cho thấy những thứ đã được tích tụ trong suốt nhiều năm. Nhiều người đã viết về quân sự hóa cảnh sát và tác động bất thường của nó đối với người da màu, nhưng giờ đây nhiều người Mỹ hơn đã được chứng kiến sự thật đó và không thể thoát khỏi nó.

Michael Brown là một trong số bốn người da đen không có vũ trang bị cảnh sát giết hại vào những tháng trước. Vào ngày 17 tháng 7, Eric Garner bị giết bằng một đòn khóa bất hợp pháp ở New York. Vào ngày 5 tháng 8, John Crawford bị bắn tại một cửa hàng ở Beavercreek, OH. Ngay sau cái chết của Brown, vào ngày 9 tháng 8, Ezell Ford, một thanh niên bị bệnh thần kinh đã bị bắn ở Los Angeles. Đó là bốn trong số rất nhiều trường hợp, theo một nghiên cứu mới đây, cứ mỗi 28 giờ lại có một người da đen bị cảnh sát, nhân viên an ninh hay dân phòng giết hại. Cả quốc gia đang chứng kiến những thảm kịch này; hiện thực đã được cưỡng bức áp đặt cho chúng ta. 

Phản ứng của công chúng trước sự kiện đã phổ biến nhanh chóng. Vào tối thứ năm biểu tình được tổ chức từ bờ này đến bờ kia đại dương thể hiện tình ái hữu với người dân Ferguson và sự đau buồn trước cái chết của Michael Brown cũng như những cái chết do cảnh sát gây ra trên khắp cả nước. Lời kêu gọi phi quân sự hóa cảnh sát của Tổng Chưởng Lý và các quan chức dân cử đang được thúc đẩy. Bộ Tư Pháp (DOJ) đã công bố một cuộc đánh giá rộng rãi về các hoạt động cảnh sát dẫn đến thiệt hại nhân mạng. Người dân đang kêu gọi gây sức ép buộc DOJ phải hành động, xin hãy xem: Yêu cầu Bộ Tư Pháp chấm dứt cảnh sát phân biệt chủng tộc và quân sự hóa.

Đây là thời điểm đáng chú ý và là cơ hội để thúc đẩy việc thay đổi ngành cảnh sát. Hàng trăm ngàn người Mỹ theo dõi sự kiện bộc lộ ở Ferguson. Công chúng thấy cảnh sát bắn hơi cay vào cộng đồng trong đám tang, bắn đạn cao su và dùng loa công suất lớn để giải tán họ. Công chúng thấy cảnh sát theo kiểu quân đội lùa họ vào các khu dân cư để tiếp tục bắn hơi cay và đạn cao su. Công chúng thấy các phóng viên bị ngược đãi và bị bắt giữ khi đội SWAT chiếm nhà hàng McDonald, nơi họ đang tường thuật tin tức và các phóng viên khác bị tấn công bằng hơi cay, sau đó cảnh sát tước các trang thiết bị của nhà báo.

Những sự kiện này khiến cho các trang tin tức tường thuật về hoạt động của cảnh sát cấp tập hơn. Trả lời về vụ bắt giữ một trong số các phóng viên của họ, Ryan Grim viết trên tuyên bố chính thức của Huffington Post về việc bắt giữ nhà báo nêu một điểm chính yếu: “Quân sự hóa cảnh sát là một trong những sự phát triển tự mãn và thiếu được chú ý nhất trong thời đại chúng ta.” Cảnh sát Ferguson đã tỏ ra xuất sắc trong việc thu hút sự chú ý của quốc gia đối với hiện thực cảnh sát của thế kỷ 21 và nhu cầu thay đổi cấp thiết đối với phương hướng của nó.

Hùng biện về “cuộc chiến” chống ma túy cũng như “cuộc chiến” chống tội phạm từ lâu không còn là hùng biện. Trong một số thập kỷ qua, lực lượng cảnh sát ở Hoa Kỳ, cả cảnh sát ở các thị trấn nhỏ, đã được chính phủ liên bang quân sự hóa. Quân sự hóa là một phần của sự leo thang đàn áp bất đồng chính kiến; và mục tiêu của hoạt động cảnh sát cực đoan là các cộng đồng da màu. Các thực tiễn như “chặn và khám xét” và “lái xe khi da đen”, cũng như hoạt động cảnh sát nhắm vào người Arab và người Hồi giáo, đã cho thấy sự phân biệt chủng tộc là một chính sách có chủ ý về cảnh sát trên khắp đất nước.

Phần lớn điều đó diễn ra tại các sở cảnh sát trong bí mật và không minh bạch hay có sự tranh luận công khai. Liệu công chúng có muốn lực lượng cảnh sát quân sự hóa khi họ có tiếng nói trong việc ra quyết định? Thiếu vắng quy trình dân chủ, Hoa Kỳ dường như đã tạo ra đội quân thường trực xâm phạm các nền tảng của của Hiến Pháp Hoa Kỳ. Cảnh sát quân sự hóa áp dụng luật lệ không công bằng, vi phạm các luật bảo vệ quyền bình đẳng cũng như hủy hoại hệ thống tư pháp khi cảnh sát vừa là quan toà vừa là người thi hành.

Chúng ta rơi vào tình trạng này ra sao? 

Cảnh sát phân biệt chủng tộc không hề mới. Như Victor E. Kappeler chỉ ra, “cảnh sát St. Louis đã được thành lập để bảo vệ các cư dân trước dân bản địa tại thành phố biên giới” và “vào năm 1704, thuộc địa của Carolina đã thàng lập đơn vị tuần tra nô lệ đầu tiên của quốc gia”. Những đơn vị tuần tra đã phát triển thành các đơn vị cảnh sát. Mục tiêu của cảnh sát ban đầu là kiểm soát nô lệ và bảo vệ lợi ích tài sản của chủ nô. Di sản phân biệt chủng tộc đó còn tiếp tục tới ngày nay. 

Ferguson không phải là bất thường khi đề cập tới sự bất bình đẳng chủng tộc trong hoạt động cảnh sát, sự căng thẳng giữa cảnh sát và cộng đồng người Mỹ gốc Phi đã tích tụ nhiều năm. Một cộng đồng có 2/3 là người Mỹ gốc phi, nhưng chỉ có 3/53 sĩ quan cảnh sát là người da màu. Theo báo cáo hàng năm của Tổng Chưởng Lý Missouri về hoạt động cảnh sát, mặc dù chiếm 63% dân số Ferguson nhưng người da màu chiếm tới 86% các vụ bị chặn xe. Người da màu bị khám xét gần gấp đôi và bị bắt gấp hai lần so với người da trắng mặc dù người da trắng mang hàng lậu thường xuyên hơn. So với các thống kê tồi tệ đó thì tình trạng ở Missouri còn tồi tệ hơn. Tổ chức NAACP cáo buộc St. Louis về sự phân biệt chủng tộc trong việc chặn xe. Một cư dân nói với tờ Washington Post: “Mọi người trong thành phố này là nạn nhân của DWB [lái xe khi là da đen]”.

Quân sự hóa cảnh sát đang là hiện tượng rõ nét hơn. Peter Kraska của Đại Học Miền Đông Kentucky đã viết về hiện tượng này từ đầu những năm 1990. Ông ấy ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng của các đơn vị cảnh sát bán quân sự (PPU, đội SWAT không chính thức) được mô phỏng theo các đơn vị đặc nhiệm trong quân đội. PPU đã không tồn tại ở bất cứ đâu cho đến năm 1971, khi Los Angeles dưới sự lãnh đạo của cảnh sát trưởng Daryl Gates, tổ chức đơn vị đầu tiên và sử dụng nó để đột kích các ngôi nhà với xe bọc thép trang bị cọc lao. Vào năm 2000, có 30.000 đội cảnh sát SWAT; báo cáo của Kraska cho biết cuối những năm 1990, 89% sở cảnh sát thành phố hơn 50.000 dân có PPU, hầu hết tăng gấp đôi số lượng so với giữa những năm 80; và ở các thị trấn nhỏ giữa 25.000 và 50.000 dân, 80% sở cảnh sát có PPU tăng gấp bốn lần so với 20% vào giữa những năm 80.

Kraska cho biết đội SWAT đã thực hiện 45.000 nhiệm vụ trong năm 2007 so với 3.000 vào đầu những năm 80. Ông chỉ ra nhiệm vụ thông thường nhất là thực hiện lệnh khám xét ma túy, chiếm 80% số lần, nhưng họ cũng được gia tăng sử dụng trong tuần tra khu dân cư. Những con số này phù hợp với báo cáo mới đây của ACLU.

Một trong những nhà sử học quan trọng khác về sự gia tăng quân sự hóa trong cảnh sát là Radley Balko, tác giả của cuốn sách Rise of the Warrior Cop: The Militarization of America’s Police Forces. Ông cho biết “việc sử dụng đội SWAT gia tăng 1.500% trong hai thập kỷ qua” và viết trên tờ ABA Journal vào năm 2013 rằng “đội SWAT đột kích đầy bạo lực vào nhà tư nhân hơn 100 lần mỗi ngày.” Việc họ dùng lựu đạn choáng gây ra tổn thương cho trẻ em và một bé gái bẩy tuổi bị bắn chết lúc đang ngủ khi đội SWAT đột kích nhầm nhà. Có rất nhiều ví dụ tương tự như vậy. 

Colin Jenkins đã chỉ ra trong bài Coming Home to Roost: American Militarism, War Culture, and Police Brutality, rằng đó là quá trình diễn ra dần dần. Chưa bao giờ có tranh luận về việc quân sự hóa cảnh sát, thay vào đó là hàng loạt các quyết định về phong trào biểu tình những năm 60, cuộc chiến chống ma túy và hoạt động cảnh sát sau ngày 11 tháng 9. Xu hướng trở nên đặc biệt đáng chú ý vào những năm 1980, khi cuộc chiến chống ma túy dưới thời Reagan tạo ra ngoại lệ đối với Luật Posse Comitatus, một luật về thời kỳ tái cấu trúc buộc quân đội đứng ngoài việc hành pháp nội địa. Đó là khi đội SWAT bắt đầu được sử dụng để thực hiện lệnh khám xét ma túy. Kỷ nguyên hậu 9 tháng 11 đã mang lại cho cảnh sát quyền lực lớn hơn với Luật Yêu Nước và có vẻ như là nguồn lực không giới hạn để chống khủng bố. Dĩ nhiên quân sự hóa cảnh sát hiếm khi được sử dụng chống khủng bố nội địa bởi thực sự là không có nhiều khủng bố ở Mỹ.

Jenkins chỉ ra hàng tỷ dollar thiết bị quân sự đã chảy vào các sở cảnh sát trên khắp đất nước: “Họ có mọi thứ từ áo giáp, vũ khí hỏa lực mạnh cho tới xe bọc thép, thậm chí cả máy bay không người lái”. Ông hỏi tại sao, chỉ ra rằng đó không phải bởi vì sự an toàn, ghi nhận là có 50 thiệt mạng hàng năm trong số 900.000 sĩ quan cảnh sát trên cả nước. Có nghĩa là chỉ có 1 trong số 18.000 cảnh sát bị giết mỗi năm (sự kỳ quặc là bị chết bởi sét đánh trong đời bạn có tỷ lệ là 1/3.000). Ông lên án văn hóa chiến tranh Mỹ và tin rằng cảnh sát trở thành quân sự bởi họ chuyển từ phòng thủ sang tấn công vào những nơi họ đối đầu và đàn áp nhân dân, hơn là bảo vệ và phục vụ cộng đồng.

Vấn đề có thể bị làm tồi tệ thêm bởi những chương trình như của Phòng Thương Mại, ‘Thuê Những Người Hùng Của Chúng Ta’, nhằm tuyển mộ những lính đương nhiệm và cựu binh vào các sở cảnh sát. DOJ có một chương trình được gọi là ‘COPS’ xét tuyển nhanh các thành viên của quân đội tham gia vào hoạt động cảnh sát. Sở Cảnh sát San Antonio kiêu hãnh về các thành viên quân đội chuyển đổi dễ dàng vào công việc cảnh sát. Dĩ nhiên là đơn giản bởi vì họ đang sử dụng cùng một trang thiết bị và kỹ thuật. Điều đó dấy lên sự lo ngại về tác động của hoạt động cảnh sát trong môi trường quân sự hóa đối với những cựu binh đã trải qua Rối Loạn Căng Thẳng Hậu Chấn Thương. Đó là vấn đề về sử dụng steroid trong cảnh sát, có tác động tâm lý, được gọi là “điên khùng roid.”

Huấn luyện quân sự cho sĩ quan cảnh sát có thể tạo ra việc các chiến thuật hung hãn được thi hành đối với cộng đồng. Báo cáo của ACLU cho biết Vệ Binh Quốc Gia đang huấn luyện cảnh sát, và đó cũng là chương trình huấn luyện do Lực Lượng Phòng Vệ Israel tổ chức.

Newsweek tường thuật trang thiết bị quân sự là do sự phình ra của quân đội Hoa Kỳ. Ngân sách của họ chiếm hơn nửa chi tiêu khả biến và vào năm 1990 Quốc hội bổ sung vào Luật Ủy Quyền Phòng Vệ Quốc Gia một điều khoản, mục 1033, cho phép Bộ Quốc Phòng (DoD) chuyển giao các trang thiết bị quân sự không còn cần thiết sang các đơn vị liên bang và bang để hỗ trợ cuộc chiến chống ma túy.

ACLU cho biết 4,3 tỷ dollar trang thiết bị đã được chuyển giao theo điều khoản này. Chương trình bao gồm 17.000 đơn vị hành pháp của tất cả các bang và lãnh thổ. Chương trình được mở rộng từ 1 triệu dollar năm 1990 lên 450 triệu dollar vào năm 2013. Sự lãng phí trong ngân sách của DoD được tiết lộ qua sự thật là 36% số trang thiết bị được chuyển giao chưa từng được quân đội sử dụng.

ACLU nghiên cứu tại 20 bang với 800 đội SWAT trong năm 2011-2012. Họ thấy rằng “tổng số 15.054 vật phẩm đồng phục chiến đấu hoặc trang bị bảo vệ cá nhân được cấp cho 63 đơn vị hồi đáp… và khoảng 500 đơn vị hành pháp nhận được loại xe chống mìn phục kích, được chế tạo để chống lại bom xuyên giáp trên mặt đường”. Đội SWAT sử dụng chủ yếu (79% số lần) trong việc khám xét ma túy, báo cáo cũng kết luận rằng quân sự hóa cảnh sát tác động chủ yếu tới người da màu. Khi cảnh sát có các trang thiết bị dạng này, không có gì ngạc nhiên là họ sử dụng chúng và các hoạt động của họ có tính quân sự hơn.

Rất quan trọng khi nhấn mạnh rằng chúng ta rơi vào tình trạng này mà không có tranh luận công khai. Trong thực tế các nỗ lực thu thập thông tin về quân sự hóa cảnh sát và đội SWAT thường xuyên bị ngăn chặn. Ở Massachusetts, nhóm Privacy SOS của ACLU cố gắng thu thập thông tin thông qua yêu cầu ghi nhận thông tin công khai. Họ được cho biết là đội SWAT được miễn trừ bởi vì đó là thực thể cá nhân, Hội Đồng Thực Thi Pháp Luật, không phải là đối tượng của luật ghi nhận thông tin công khai. Họ sẽ không cung cấp các thông tin cơ bản như số vụ đột kích mà họ thực hiện. 

Rất nhiều hoạt động thực thi pháp luận bán quân sự được thực hiện với các lực lượng liên ngành, thiếu sự minh bạch. Nhóm Privacy SOS cho biết công việc được hoàn thành thông qua Khu Vực Buôn Bán Ma Túy Cường Độ Cao New England (NEHIDTA). Khi được yêu cầu về tài liệu, họ từ chối với lý do rằng “HIDTA không phải thực thể hợp pháp có thể cung cấp bất cứ thông tin gì. Hơn nữa HIDTA là sự phối hợp của nhiều đơn vị chức năng bộ và ngành. Mọi thông tin truyền qua HIDTA được coi là tài sản duy nhất của đơn vị ban đầu, và không phải là là tài sản của HIDTA”. Nhóm Privacy SOS chỉ ra rằng việc quân sự hóa cảnh sát đã được thực hiện song song với liên bang hóa cảnh sát địa phương và cả hai đều không gặp phải bất cứ cuộc tranh luận công khai nào. Cảnh sát tự trị, hơn là bị cai trị bởi nhân dân theo bất cứ cách dân chủ nào.

Một khu vực khác nơi cảnh sát bị quân sự hóa được sử dụng để đàn áp bất đồng chính trị. Trong các cuộc cắm trại chiếm đóng, cảnh sát quân sự hóa được sử dụng rất hung hãn trên khắp cả nước để cưỡng bức dỡ bỏ trại. Một lần nữa, điều này xảy ra diễn ra thông qua liên bang hóa cảnh sát địa phượng trong Lực Lượng Thực Thi Hỗn Hợp với các đơn vị liên bang như FBI hay An Ninh Nội Địa. Nó không chỉ tác động tới Chiếm đóng mà quân đội đã được cả Đại Hội Đảng Dân Chủ cũng như Đảng Cộng Hòa vào năm 2012 kêu gọi một lần nữa hợp tác với cảnh sát địa phương dưới sự bảo trợ của Lực Lượng Thực Thi Hỗn Hợp trong phạm vi Tư Lệnh Quân Sự Miền Bắc. 

Cần điều gì để chấm dứt quân sự hóa hoạt động cảnh sát? 

Một khảo sát của Reason Rupe vào tháng 12 năm 2013 cho thấy 58% người Mỹ đồng ý rằng cảnh sát đã đi quá xa khi họ sử dụng các trang thiết bị quân sự. Giờ đây khi mọi người khám phá ra sự lạm dụng sở Ferguson, con số đó sẽ tăng lên. Chúng ta có thể thấy sự gia tăng của phe đối lập đối với việc quân sự hóa cảnh sát và phân biệt chủng tộc trong cuộc biểu tình từ bờ này đến bờ kia đại dương diễn ra tuần này.

Các cựu chiến binh đang lên tiếng. Paul Szoldra một lính thủy nghỉ hưu đã từng phục vụ ở Afghanistan, biết tại sao bạn cần bộ đồ rằn ri trong hoạt động quân sự, nhưng không phải là trong hoạt động cảnh sát và kết luận “dường như các sĩ quan cảnh sát đã cởi bỏ bộ đồng phục xanh để mặc đồng phục và trang bị quân sự, đang mang theo tâm trạng đó cùng với nó”. Ông viết, thông điệp mà người lính mặc đồng phục ở Afghanistan là: “’Chúng tôi là quân đội, và chúng tôi đang kiểm soát’. Nhiều người Afghanistan nhìn chúng tôi như những kẻ chiếm đóng”. Đâu là thông điệp mà cảnh sát Hoa Kỳ đang chuyển tới cộng đồng mà họ phải “bảo vệ và phục vụ”?

Andrew Exum, cựu sĩ quan bộ binh tóm tắt tình hình trong một tweet: “Quân sự hóa lực lượng hành pháp là trái ngược với hoạt động cảnh sát nội địa và cần phải chấm dứt”. Chúng ta kỳ vọng đây là lúc ý kiến của công chúng phát tán nhanh chóng tại Hoa Kỳ. Điều gì cần phải làm để điều chỉnh, để phi quân sự hóa và mang lại nhận thức thông thường đối với hoạt động cảnh sát?

Những lời kêu gọi phi quân sự hóa hoạt động cảnh sát đang gia tăng kể từ khi các sự kiện nổ ra ở Ferguson của Tổng Chưởng Lý Holder và thượng nghị sĩ Cộng Hòa Henry Johnson (D-GA) đã gửi một lá thư “Các đồng nghiệp kính mến” mời các nghị sĩ cùng tham gia với ông hạn chế trang bị quân sự cho các sở cảnh sát. Ông viết: 

“Chúng ta phải tỏ ra quan ngại về việc chúng ta cung cấp một số lượng không hạn định trang thiết bị quân sự  cho cảnh sát địa phương và khuyến khích sử dụng chúng nhằm thực thi các hoạt động hành pháp thông thường. Đó là lý do tại sao tôi sẽ sớm triển khai chương trình cải tổ “Chấm Dứt Quân Sự Hóa Hoạt Động Hành Pháp”. Dự luật của tôi sẽ giải thực hiện hai điều. (1) Giới hạn kiểu trang thiết bị có thể chuyển giao. (2) Yêu cầu các bang xác nhận rằng họ có thể thống kê toàn bộ các trang thiết bị. 

Chúng ta vui lòng thấy Bộ Tư Pháp cuối cùng cũng thông báo một cuộc đánh giá rộng rãi về hoạt động cảnh sát. Mặc dù trong nhiệm kỳ của tổng thống Obama thường xuyên có các vụ giết hại người Mỹ gốc Phi. Cuối cùng thì DOJ thông báo họ sẽ đánh giá các hoạt động cảnh sát dẫn đến lạm dụng. Trong phạm vi điều tra có việc sử dụng lực lượng sát thương, hành xử của cảnh sát với người bị bệnh thần kinh và các công nghệ mới được cảnh sát sử dụng. Người dân có thể thoải mái liên lạc với Bộ Tư Pháp về những quan ngại (địa chỉ email của họ là AskDOJ@usdoj.gov.). Vì một hoạt động dân chủ, người dân cần tham gia, hợp tác và biểu lộ quan điểm. 

Một số đang chống lại các vụ sát hại mang tính phân biệt chủng tộc của cảnh sát trên vũ đài quốc tế. Ron Davis, bố mẹ của một thanh niên da màu bị sát hại khác, đang giận dữ về những kẻ thủ ác không bị trừng phạt trên cả nước. Ông ấy sử dụng cuộc họp thứ 85 của Ủy Ban Xóa Bỏ Phân Biệt Chủng Tộc ở Geneva, Thụy Sĩ để gây sức ép buộc Washington phải chấm dứt việc “tội phạm hóa chủng tộc” ở Hoa Kỳ. Trong cuộc họp, Hoa Kỳ bị buộc phải trả lời các câu hỏi về vấn đề nỗ lực thực hiện trách nhiệm của Hoa Kỳ.

Chúng tôi đã viết một bài báo cho Green Shadow Cabinet về trách nhiệm lành mạnh đối với một dịch bệnh như nạn giết hại thanh niên da màu. Thay vì quân sự hóa cảnh sát gia tăng căng thẳng trong các cộng đồng bị tổn thương, cảnh sát và các cơ quan chính quyền khác nên ủng hộ các cuộc biểu tình hòa bình; điều đó sẽ gia tăng sự minh bạch về chi tiết và điều tra đối với các sự kiện cũng như các nhân viên xã hội và chuyên gia tâm lý học nên sẵn sàng hỗ trợ cho các thành viên cộng đồng.

Chúng tôi đồng tình với khuyến nghị của tổ chức ACLU, mà chúng tôi tóm tắt như sau:

Các cải tổ ngành cảnh sát phải theo hệ thống, đây không phải là một vài trái táo thối mà là vấn đề về hoạt động cảnh sát cấp độ quốc gia. Chính phủ liên bang có quyền lực để đảm bảo các trang thiết bị quân sự không được sử dụng trong hoạt động cảnh sát thông thường, như khám xét ma túy hay tuần tra đường phố, chỉ giới hạn trong những tình huống thực sự nguy hiểm, như cố thủ, tình huống con tin hay có kẻ bắn chủ động. Chính quyền liên bang nắm giữ nguồn cung và kiểm soát trang thiết bị quân sự do đó họ có thể có tạo ra ảnh hưởng lớn bằng cách cắt giảm hay thậm chí ngừng chuyển giao trang thiết bị quân sự cho các bang.

Nhà nước và chính quyền địa phương phải giới hạn việc sử dụng các đội SWAT cho các tình huống đặc biệt. Các tiêu chuẩn cần được thiết lập rõ ràng để các quyết định chủ quan của cảnh sát không dẫn đến việc dùng sai đội SWAT. 

Đội SWAT không bao giờ được triển khai đơn nhất dựa trên cơ sở là khả năng hiện diện ma túy. Sự hiện diện của ma túy không thể đánh đồng với bạo lực và nhiều vụ lạm dụng của đội SWAT đã dẫn đến giả định sai lầm đó. Đội SWAT chỉ thích hợp nếu tình huống được chỉ ra rằng cảnh sát thông thường sẽ không thể thực hiện lệnh một cách an toàn.

Khi đội SWAT được sử dụng thì cần phải có tỷ lệ thích hợp. Một đội SWAT hoàn chỉnh là 20 sĩ quan và trong nhiều trường hợp triển khai một phần là thích hợp hơn cũng như không gây leo thang căng thẳn hay gây nguy hiểm đối với công dân. 

Các chương trình huấn luyện thúc đẩy tinh thần “chiến binh” cần được hạn chế.

Cần có sự minh bạch để công chúng biết được cách cảnh sát bảo vệ cộng đồng của họ và có cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết định. Một ánh sánh mạnh cần soi tỏ những chính sách này, hành động và trang thiết bị, cần phải đặt dưới sự giám sát của công chúng. Điều này đòi hỏi thu thập dữ liệu về trang thiết bị nhận được, chúng ở đâu và được sử dụng ra sao. Ngay hiện giờ không có lưu trữ thường xuyên được thực hiện.

Cuối cùng chúng tôi thúc giục các cá nhân sĩ quan cảnh sát, những người thừa nhận rằng quân sự hóa hoạt động cảnh sát là hủy hoại khả năng khiến họ trở thành một phần của cộng đồng, để phục vụ công dân và bảo vệ họ, hãy lên tiếng. Chúng tôi đã chứng kiến tác động của hoạt động cảnh sát thông minh khi thống đốc Nixon giao trọng trách cho Tuần Tra Đường Cao Tốc Bang và đại úy Ron Johnson tham gia đoàn tuần hành và bỏ mũ sắt. Tất nhiên một nỗ lực lớn hơn để phi quân sự hóa cảnh sát sẽ khởi đầu với các sĩ quan cảnh sát về hưu, nhưng điều quan trọng đối với đa số cảnh sát im lặng, những người chứng kiến vấn đề của việc quân sự hóa, là nói ra. Hãy để đồng nghiệp của bạn biết rằng cảnh sát là một phần của cộng đồng, không phải kẻ chiếm đóng cộng đồng.

Thursday, September 18, 2014

Bình luận ngắn về hai bài viết của Đoan Trang

Đầu tiên là bài "Lại chuyện chụp ảnh công an":

1. Chị này khoe chụp ảnh với một anh cảnh sát cao to đẹp trai, rất thân thiện đứng ở tượng Con Trâu gần phố Wall. Có lẽ chị cựu nhà báo này không biết rằng cơ quan cảnh sát Hoa Kỳ có Cục Quan Hệ Công Chúng chuyên nghiệp chứ không phải là nghiệp dư như Ban Báo Chí như ở Bộ Công An của Việt Nam. Anh cảnh sát cao to đẹp trai đầy thân thiện đứng ở cái góc phố đông khách du lịch qua lại ấy chính là một phần trong chiến dịch quan hệ công chúng của cảnh sát Hoa Kỳ, công việc của anh ta là đứng đó, chỉ đường và cười tươi khi chụp ảnh chung với du khách. Mỗi ngày sẽ có hàng trăm lượt người ghé qua, hỏi đường rồi chụp ảnh và phát tán các bức ảnh về sự thân thiện của cảnh sát Hoa Kỳ. Đấy PR chuyên nghiệp nó là như vậy.

2. Anh cảnh sát Việt Nam từ chối chụp ảnh với người lạ là hợp lý thôi. Thứ nhất là anh cảnh sát Việt Nam đang đứng chốt làm nhiệm vụ, không phải làm PR như anh cảnh sát Mỹ, chụp ảnh với khách du lịch không phải là công việc của anh ta, làm việc riêng trong khi thành nhiệm vụ có thể bị kỷ luật. Thứ hai nữa là tình trạng phóng viên báo chí hay dân thường gài bẫy rồi chụp ảnh công an hiện giờ khá phổ biến nên anh công an cảnh giác cũng không thừa. Nói dại, anh công an chụp ảnh với nữ Việt Kiều xong hôm sau trên facebook lại có tin công an dê gái giữa phố Hà Nội thì anh công an kia chắc chắn là viết giải trình mệt nghỉ.

3. Thế nên việc so sánh giữa Mỹ và Việt Nam nhất là so sánh giữa một cảnh sát đang làm PR với một cảnh sát làm nhiệm vụ thông thường thì quả thật khập khiễng. 

4. Chị này viết:  tất cả các vụ cảnh sát lạm quyền ở Mỹ đều được điều tra độc lập và bị đưa ra xét xử, trừng phạt thích đáng bởi tòa án (đương nhiên là độc lập). Cảnh sát Mỹ mà vớ vẩn, dân kiện cho thì vỡ mặt. Và trên thực tế là trong các vụ dân kiện cảnh sát từ trước tới nay, cảnh sát Mỹ thua rất nhiều, te tua vì thua kiện, đã thế còn bị báo chí-truyền thông cho lên thớt mà “băm” tơi tả. Thực ra chị tô vẽ công lý ở Hoa Kỳ hơi quá đáng, người Mỹ mà đọc được có khi người ta cũng ngượng. Cảnh sát Mỹ đối xử bạo lực với thường dân thậm chí lạm sát là chuyện xảy ra như cơm bữa và họ cũng không mấy khi bị trừng phạt thích đáng như chị nói đâu, có thể tham khảo ở đây và ở đây. Hiện nay chính quyền Mỹ hoàn toàn không thu thập số liệu thống kê về tình trạng bạo lực của cảnh sát, nên chị cũng chả có cách nào mà so sánh với Việt Nam đâu. Cảnh sát Hoa Kỳ cũng ghét nhất là việc bị quay phim hay chụp ảnh khi đang làm việc, họ sẵn sàng vô hiệu hóa người nào làm việc đó ngay lập tức. Hiện giờ Mỹ vẫn chưa có luật về vấn đề này. Khuyên chị là chụp ảnh với anh cảnh sát đứng góc phố ở New York thì được nhưng nếu thấy cảnh sát đang tóm cổ một ai đó thì chị chớ có dại vác máy ảnh ra mà làm nhà báo độc lập, ăn đòn mềm xương ngay đấy mà cũng không có tòa án nào bảo vệ chị được đâu.


1. Đầu bài sử dụng thuật ngữ kiểu quân sự nhằm ám chỉ sự liên hệ nào đó với chính quyền hay quân đội, một tiểu xảo của giới báo chí nhằm tác động tới tâm lý người đọc, nhất là khi không có bằng chứng cụ thể.

2. Thật ngạc nhiên khi một người yêu nước chống Tàu cuồng nhiệt như chị Đoan Trang lại không nhận thấy rằng trang Tin Khmer Krom chuyên đưa các tin tức kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan và đòi Việt Nam phải trả lại miền Nam Việt Nam cho Campuchia. Trung Quốc đưa dàn khoan vào vùng biển Việt Nam thì các chị nhảy tưng tưng, còn đám dân tộc cực đoan Campuchia đòi lấy một nửa lãnh thổ Việt Nam thì các chị im lặng. Yêu nước kiểu gì mà lạ vậy? 

3. Việc dùng nút "báo cáo lạm dụng" của facebook để triệt hạ đối thủ vốn ban đầu là mánh của các chiến sĩ dân chủ cùng phe với chị Đoan Trang chuyên dùng để chặn họng những người bất đồng ý kiến. Ban đầu có nhiều người yếu thế, họ đành chịu, nhưng sau đó họ tập hợp nhau lại và phản công khiến các nhà dân chủ lãnh hậu quả ê chề. Trong khi không có bằng chứng nào chứng minh chính quyền đứng sau việc phong tỏa các tài khoản facebook của nhà dân chủ thì việc các nhà dân chủ hè nhau báo cáo lạm dụng để triệt hạ những người nói trái ý họ lại rất rõ ràng.

4. Nhưng sự việc không chỉ dừng ở chỗ các nhà dân chủ đàn áp những người trái ý, bị phản đòn và kêu la ầm ĩ. Sự việc đã được đẩy lên cao trào khi chính các nhà dân chủ lợi dụng việc đó để khóa mõm các nhóm dân chủ mà họ không ưa, tức là họ tấn công triệt hạ lẫn nhau. Mặt khác một số các nhà dân chủ do đã viết quá nhiều thứ bậy bạ lên facebook nên cũng nhân dịp này xóa luôn tài khoản facebook đi và hô hoán lên là bị tấn công, thật là một công đôi việc, vừa thủ tiêu được bằng chứng về sự ngu xuẩn của bản thân vừa bảo toàn được danh tiếng với giới dân chủ. Các nhà dân chủ tuyên bố thắng lợi giòn giã, làm thất bại các âm mưu phong tỏa tài khoản facebook, thật nực cười là chính việc bị/được phong tỏa cũng là thắng lợi của nhiều người trong số họ.

5. Các nhà dân chủ hoàn toàn không chứng minh được với Facebook là chiến dịch báo cáo lạm dụng do chính quyền Việt Nam tổ chức nhưng Facebook thì biết rất rõ rằng họ thường xuyên bị cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ (NSA) đột nhập. Người sáng lập Facebook đã phải kêu lên rằng công việc của các kỹ sư công nghệ thông tin ở Facebook là đối đầu với những tên tin tặc chứ không phải suốt ngày tìm cách chống lại các vụ đột nhập của NSA. Thế nên trước khi lo lắng đến việc các nhà dân chủ bị đàn áp trên facebook thì hãy nhớ rằng bất cứ khi nào thông tin cá nhân của họ cũng có thể nằm trên bàn của NSA và được dùng để chống lại chủ nghĩa khủng bố.

Kết luận: Thế là chấm hết cho một cây viết đã từng khá nổi tiếng ở Việt Nam.

Thursday, August 28, 2014

Đoạn ghi âm làm sáng tỏ vụ giết hại Micheal Brown ở thành phố Ferguson

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Audio recording sheds light on the murder of Michael Brown" của tác giả Niles Williamson, bình luận về vụ giết hại thanh niên da màu Michael Brown ở thành phố Ferguson, vụ việc đã dẫn đến bạo loạn ở thành phố này suốt thời gian vừa qua.

CNN công bố một đoạn ghi âm vào thứ hai cho thấy viên sĩ quan cảnh sát Darren Wilson tạm ngừng giữa hai loạt súng khi giết hại chàng thanh niên 18 tuổi Michael Brown ở Ferguson, Missouri vào ngày 9 tháng 8.

Âm thanh về vụ nổ súng được một cư dân Ferguson vô tình ghi âm lại khi ông ta chat video trong căn hộ của mình gần nơi diễn ra vụ nổ súng.

Đoạn ghi âm cho thấy rằng Brown bị quan cảnh sát Darren Wilson bắn ít nhất mười phát súng. Ít nhất có sáu phát súng được nghe thấy liên tiếp rất nhanh, tiếp theo là một khoảng tạm ngừng ngắn, và sau đó là bốn phát súng nữa.

“Tôi đã rất lo lắng về khoảng tạm ngưng… không phải vì số phát súng, mà là vì cách mà họ bắn. Có sự phù hợp rõ ràng với cách mà vụ đó kết thúc”, luật sư của nạn nhân Lopa Blumenthal nói trên CNN. 

Một khám nghiệm độc lập thi thể của Brown do chuyên gia pháp y đã nghỉ hưu của New York, bác sĩ Michael Baden và nhà nghiên cứu bệnh học của tòa án Shawn Parcells vào ngày 17 tháng 8 xác nhận rằng Brown đã bị bắn ít nhất sáu phát.

Bốn viên đạn mà Darren Wilson bắn ra đã găm vào tay phải và vai của Brown, còn hai viên khác găm vào đầu. Một viên đạn gây ra vết thương trên cẳng tay cho thấy Brown đã bị bắn khi bỏ chạy khỏi cảnh sát hoặc giơ tay lên đầu trong tư thế “đừng bắn”, như nhân chứng đã xác nhận.

Bác sĩ Baden nói rằng chỉ có viên đạn cuối cùng, được bắn thẳng vào đỉnh đầu Brown, là “tử thương”. Cần biết là Brown cao 1m96, viên đạn gây ra thương tích trên đỉnh đầu cho thấy Brown bị Wilson bắn phát kết liễu khi đã cúi xuống hoặc đang quỳ gối, theo kiểu xử tử.

Một hội thẩm đoàn đã được triệu tập để xem xét các bằng chứng của vụ án và quyết định xem có đưa ra cáo trạng chống lại Wilson hay không. Dự định sẽ kéo dài ít nhất hai tháng để mười hai hội thẩm có thể đưa ra quyết định về cáo trạng. Nếu hội thẩm đoàn quyết định rằng bằng chứng đã được đưa ra chứng minh một vụ án hình sự thì ủy viên công tố liên bang có thể đưa ra cáo trạng giết người, ngộ sát, hay một tội tấn công nhẹ hơn đối với Wilson. 

Thống đốc Dân Chủ Missouri Jay Nixon hoài nghi về khả năng đưa ra cáo trạng đối với Wilson trong cuộc phỏng vấn với CNN vào ngày chủ nhật. “Mọi thứ đều có thể xảy ra”, ông ta trả lời khi được hỏi về phạm vi các kết quả có thể xảy ra, bao gồm cả khả năng không có cáo trạng nào được đưa ra.

Nixon cũng bảo vệ ủy viên công tố Robert McCulloch, người đã thất bại trọng việc thuyết phục hội thẩm đoàn đưa ra cáo trạng đối với hai sĩ quan đã giết chết hai người Mỹ gốc Phi không có vũ khí khi hoạt động bí mật trong vụ án nổi tiếng “Jack in the Box” mười bốn năm trước đây. “Ông ấy đã được mọi người bầu chọn. Và anh biết đấy, anh không muốn có định kiến về điều đó”, Nixon nói.

“Tôi không nghĩ là ông ta thuyết phục được”, luật sư Chris Chestnut nói, luật sư của gia đình Jonathan Ferrell, một người đàn ông da màu không vũ khí bị một sĩ quan cảnh sát da trắng giết chết vào năm ngoái ở Bắc Carolina.

“Hội thẩm đoàn được giao – hay hạn chế - các bằng chứng được đưa ra, và tôi không hài lòng khi họ đưa tất cả các bằng chứng ra trước hội thẩm đoàn”.

Bộ Tư Pháp cũng đã bắt đầu điều tra quyền công dân liên bang đối với vụ giết hại Brown. Để đạt được cáo trạng liên bang thì chính quyền phải chứng minh rằng Wilson hành động với sự thù địch mang tính chủng tộc chống lại Brown, dựa vào đó để tước quyền công dân của Wilson.

Đó là khả năng nhỏ nhoi còn lại về cáo trạng liên bang và phiên tòa liên quan tới việc xâm phạm quyền công dân của Michael Brown. Nhưng theo tổ chức Transactional Records Access Clearinghouse tại trường đại học Syracuse thì hơn ba phần tư các đề xuất về xâm phạm quyền công dân liên bang kết thúc mà không có hoạt động xét xử nào vào năm ngoái.

Thursday, May 8, 2014

Tại sao chúng ta phải trả tiền để bị theo dõi và cướp bóc

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Why are we paying to be spied on and robbed" được đăng trên tạp chi Coldtype số 85 tháng 5 năm 2014, của tác giả John W. Whitehead, một luật sư hiến pháp và tác giả sách Hoa Kỳ. Qua số liệu và những dẫn chứng cụ thể, tác giả đã đưa ra một cái nhìn sâu sắc về những bất hợp lý hệ thống chính trị Hoa Kỳ hiện nay.

“Buộc một người phải trả tiền cho sự xâm phạm tới quyền tự do của anh ta thực sự là hành động sát muối vào vết thương”. Benjamin Tucker, luật sư của chủ nghĩa cá nhân vô chính phủ Hoa Kỳ thế kỷ 19.

Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ muốn chi 400,000 USD cho một tượng lạc đà bằng sợi thủy tinh để trang trí đại sứ quán mới ở Pakistan. Họ cũng đã chi 630,000 USD để tăng số “like” và người hâm mộ trên trang Facebook và trang Twitter. Đại sứ Hoa Kỳ tại NATO cần 700,000 USD cho việc tạo phong cảnh và làm vườn, Quỹ Khoa Học Quốc Gia chi 700,000 USD vào các tác phẩm kịch về biến đổi khí hậu, và nhân viên của thượng viện cần 1,9 tỷ USD để đào tạo phong cách sống. Các nhà nghiên cứu của đại học Yale cần 384,000 USD cho việc nghiên cứu dương vật hình xoắn ốc của vịt.

Tôi thề rằng những điều tôi kể không phải là chuyện cá tháng tư. Chúng là các khoản mà người đóng thuế Hoa Kỳ phải chi trả, tiền thuế đang tiếp tục bị phung phí, bị chi tiêu cho những thứ không cấp thiết để làm đầy túi của doanh nghiệp và nuôi dưỡng sự hối lộ chính trị (như trạm dừng xe bus giá 1 triệu USD, với ghế dài được sưởi ấm và vỉa hè, nhưng chỉ chứa được 15 người và là nơi trú tạm khi có mưa, tuyết hay nắng).

Điểm nhấn: bất chấp sự thật là chúng ta có 46 triệu người Mỹ sống ở ngưỡng hay dưới ngưỡng nghèo khổ, 16 triệu trẻ em sống trong các gia đình không an ninh lương thực, và ít nhất 900,000 cựu chiến binh sống nhờ vào phiếu thực phẩm, một số lượng tiền khổng lồ vẫn tiếp tục được chi trả cho kỳ nghỉ của tổng thống (16 triệu USD cho các chuyến đi tới châu Phi và Hawaii), gian lận làm ngoài giờ tại Bộ An Ninh Nội Địa (gần 9 triệu USD chi trả cho làm ngoài giờ, và đó chỉ là 6 trong số các văn phòng của bộ), và sản xuất phim Hollywood (10 triệu USD được Vệ Binh Quốc Gia chi cho phim Siêu Nhân để thu hút sự chú ý đối với Vệ Binh Quốc Gia).

Đó là chưa kể tới những khoản tiền khổng lồ chi cho các cuộc chiến ở khắp nơi trên thế giới.

Chi phí chiến tranh

Kể từ năm 2001, mỗi giờ người Mỹ tiêu tốn 10,5 triệu USD cho các cuộc chiếm đóng quân sự ở nước ngoài, bao gồm cả Iraq và Afghanistian. 

Cần tới 2,2 triệu USD mỗi giờ để duy trì kho dự trữ hạt nhân của Hoa Kỳ, và 35,000 USD được chi ra mỗi giờ để sản xuất và duy trì kho tên lửa Tomahawk. Và sau đó cần tính tới khoản tiền mà chính quyền Hoa Kỳ chi ra để hỗ trợ kho vũ khí của các quốc gia khác, việc đó tốn 1,61 triệu USD mỗi giờ. 

Tiếp theo là quyết định mới nhất của Tòa Án Tối Cao trong vụ McCutcheon kiện FEC, theo quyết định đó thì quyền của giai cấp giàu có được tòa án công nhận trong khi quyền của giai cấp lao động bị đặt xuống hàng thứ cấp so với doanh nghiệp và chính quyền. Dưới chiêu bài bảo vệ quyền tự do ngôn luận, với kết quả bỏ phiếu 5-4, tòa án đã bãi bỏ giới hạn số lượng ứng cử viên mà mỗi cá nhân có thể hỗ trợ bằng các chiến dịch quyên góp.

Để làm điều đó các quan tòa vận dụng kết quả phiên tòa năm 2010 Liên Minh Công Dân kiện FEC, họ không chỉ tháo xiềng cho quyền tự do ngôn luận của doanh nghiệp mà còn mở đường cho doanh nghiệp đầu tư tiền bạc không giới hạn vào các ứng cử viên, đặc biệt là ứng cử viên tổng thống.

Họ đã biến hòm phiếu thành hòm đấu giá, những người được bầu vào các chức vụ công cộng sẽ bán mình cho những ai có thể đầu tư cho chiến dịch tranh cử của họ - cụ thể là, những người vận động hành lang, doanh nghiệp và những người quyên góp giàu có. (Một lần nữa, hiện trạng vẫn sẽ được giữ nguyên. Theo một nghiên cứu năm 2013 của đại học Trinity, thượng nghị sĩ Hoa Kỳ không đại diện cho nguyện vọng và quyền lợi của cử tri thuộc tầng lớp thấp. Hơn nữa, lá phiếu của họ liên minh với cử tri thuộc tầng lớp trên. Thượng nghị sĩ của cả đảng Cộng Hòa lẫn đảng Dân Chủ đều bỏ qua lợi ích của cử tri thuộc tầng lớp thấp, bản thân họ là những triệu phú.)

Khi tất cả đã được nói và làm, cái mà chúng ta chứng kiến là sự đảo lộn nguyên tắc của chính quyền, họ giải thích Hiến pháp theo cách có lợi cho doanh nghiệp, cơ quan chính quyền và người giàu có, và sử dụng các biện pháp thứ cấp cho người Mỹ bình thường. Ví dụ, trái với khẳng định của Tòa Án Tối Cao về “quyền tự do ngôn luận” cho doanh nghiệp và những người quyên góp giàu có trong vụ McCutcheon và Liên Minh Công Dân, quyền tương tự của những người dân thường có khuynh hướng bị phủ nhận khi đụng chạm tới lợi ích của chính quyền, như phán quyết năm 2012 trong vụ Reichle kiện Howard, Tòa Án Tối Cao đã chấp thuận các biện pháp bảo vệ miễn trừ đối với nhân viên tình báo để chống lại quyền tự do ngôn luận của người Mỹ, và bạn có thể nhận thấy sự bất cân xứng rõ ràng.

Mới đây, như tôi đã chỉ ra trong cuốn sách của tôi “Một chính phủ của chó sói: Nhà nước cảnh sát Hoa Kỳ trỗi dậy”, tiêu chuẩn kép về hiến pháp đang diễn ra trong mọi mặt của cuộc sống, không chỉ trong phạm vi luật về các chiến dịch tài chính.

Các nhà vận động hành lang được phép tiếp xúc mật thiết với các quan chức được bầu của chúng ta, trong khi người Mỹ đứng biểu tình yên lặng ở gần một tòa nhà công sở thì bị cấm; các nhân viên cảnh sát được miễn trừ khi bắn thường dân không có vũ khí, trong khi một người dân Mỹ định tự vệ sẽ bị trừng phạt nặng, cuộc đột kích tư gia của đội SWAT chỉ được coi là một sai lầm; các nhân viên chính phủ được toàn quyền tiếp cận truyền thông và hoạt động của người Mỹ, trong khi chính quyền được phép hoạt động bí mật, với nghe trộm, ngân sách bí mật và chương trình nghị sự bí mật. 

Đế chế doanh nghiệp quân sự hóa

Điều này khác xa với mục tiêu đặt ra cho các hoạt động của chính thể đại diện. Thực tế là rất lâu kể từ khi chúng ta đòi hỏi được trở thành chủ nhân cuộc sống của mình. Hơn nữa, giờ đây chúng ta là đối tượng của đế chế doanh nghiệp quân sự hóa, trong đó phần lớn dân chúng làm việc cật lực để đem lại lợi nhuận cho một nhúm nhỏ đặc quyền đặc lợi.

Sát muối vào vết thương không chỉ là tiền thuế bị lạm dụng, cũng như những người được gọi là đại diện của chúng ta mua sắm và thanh toán cho tầng lớp tinh hoa tiền bạc, mà chính quyền còn dùng những đồng tiền mà chúng ta phải kiếm bằng mồ hôi, máu và nước mắt để theo dõi, bỏ tù và gài bẫy chúng ta, với công cụ là cảnh sát vũ trang, camera giám sát, nhà tù tư nhân, đầu đọc bằng lái xe, máy bay không người lái, và công nghệ theo dõi điện thoại di động.

Bạn đọc được tất cả những hành động bất chính ấy trên báo chí hàng ngày; đó là cách đồng dollar của bạn được sử dụng. Tiền của bạn cho phép nhân viên chính quyền theo dõi thư điện tử, các cuộc gọi điện thoại, tin nhắn, sự đi lại của bạn. Tiền của bạn cho phép những cảnh sát không bị kiểm soát xông vào nhà của những người vô tội, xét hỏi hay khám xét người đi xe máy ở ngay bên lề đường. Tiền bạc của bạn khiến cho những người Mỹ vô tội trên khắp đất nước bị tuyên án về những hoạt động vô hại như nuôi gà tại nhà, trồng rau trong vườn, hay sống không sử dụng tiện nghi đô thị.

Ai trả tiền?

Lần tới khi bạn nhìn thấy những tin tức khiến bạn sôi máu, cho dù là cảnh sát bắt giam ai đó quay phim nơi họ nơi công cộng, cho dù là một đứa trẻ bị đuổi khỏi trường học vì bắn một mũi tên tưởng tượng, cho dù là một chủ nhà bị đe dọa phải nộp phạt vì đào một cái ao ở sân sau, thì hãy nhớ rằng tiền của bạn đã được trả cho những sự bất công đó.

Vậy bạn sẽ làm gì? Có lần trong lịch sử tổ tiên của chúng ta nói “thế là quá đủ” và không đóng thuế cho chính phủ mà họ coi là bất hợp pháp. Họ đứng lên và từ chối ủng hộ cái hệ thống đang chậm rãi bóp nghẹt mọi nỗ lực tự điều hành, và rũ bỏ trách nhiệm về tội ác chống lại nhân dân. Sự phản kháng của họ đã gieo những hạt mầm cho cuộc cách mạng sau đó.

Trong hơn hai trăm năm kể từ khi chúng ta thành lập chính quyền của mình, chúng ta đã để các chủ ngân hàng, những kẻ phản bội và hàng sa số quan chức tha hóa làm vẩn đục môi trường và đánh cắp sự tin cậy tới mức chúng ta cần phải quay về điểm xuất phát. Một lần nữa, chúng ta đứng trước một chính phủ chuyên chế với những kẻ cai trị độc đoán chỉ làm những gì họ muốn. Một lần nữa chúng ta đứng trước hệ thống tư pháp khẳng định chúng ta không có bất cứ quyền gì với một chính phủ luôn yêu cầu nhân dân phải tuân thủ sự độc đoán. Một lần nữa, chúng ta phải quyết định hoặc là chúng ta tiếp tục bước đi hoặc là sải bước và quay sang với tự do.

Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không đáp ứng nhu cầu tiền bạc thái quá của chính phủ liên bang? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không xếp hàng bỏ những đồng dollar xương máu vào hòm thu gom, mà không hỏi xem chúng sẽ được chi tiêu ra sao? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu thay vì lặng lẽ gửi séc, mong chờ một phần ít ỏi được trả lại, chúng ta tự tính toán và cắt giảm phần chi từ tiền thuế cho những chương trình mà chúng ta không ủng hộ?

Nếu chúng ta không có quyền quyết định về việc những đồng tiền xương máu của mình được chi tiêu ra sao, thì chúng ta chẳng có quyền gì hết. Nếu họ có thể lấy đi từ bạn cái mà họ muốn, khi mà họ muốn và sau đó dùng cho bất cứ thứ gì họ muốn, thì bạn chẳng thể phàn nàn gì hơn một người nông nô trên mảnh đất mà anh ta nghĩ là của mình. Đó là tình cảnh của thời thuộc địa, và tình cảnh đó đang xuất hiện một lần nữa.

Saturday, April 26, 2014

Quyền tự do ngôn luận ở Mỹ: Bị bắt giam vì quay phim cảnh sát

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài viết "Light, Camera, Arrest" của tác giả John W. Whitehead đăng trên tạp chí Coldtype số 84, tháng 4 năm 2014. Bài viết cho biết về tình trạng cảnh sát xâm phạm quyền tự do ngôn luận của người dân Mỹ, và hiện nay người dân Mỹ chưa có cách nào để xử lý tình trạng đó một cách hiệu quả. Tiêu đề bài viết là do người dịch đặt.

Một lần nữa, chính quyền Hoa Kỳ lại cố trở thành cảnh sát của thế giới khi họ biến các nhân viên hành pháp thành cảnh sát. Chúng ta có chiến hạm tuần tiễu trên mặt Biển Đen, chiến đấu cơ phản lực tuần tra trên bầu trời Baltic, và các tàu khu trục mang tên lửa hành trình đang lùng sục chiếc máy bay mất tích của hãng hàng không Malaysia trên biển Nam Trung Hoa. Nhưng bất cứ khi nào, ở Hoa Kỳ các quyền hợp hiến của chúng ta bị xóa bỏ không thương tiếc, các chủ nhà bị đe dọa đuổi ra khỏi nhà vì sống theo kiểu không sử dụng các tiện nghi đô thị, phụ nữ lớn tuổi bị bỏ tù vì cho quạ ăn, và công dân mang điện thoại di dộng bị bắt vì đe dọa quay phim các hoạt động của cảnh sát.

Robin Speronis đang bị đe dọa đuổi khỏi nhà ở Florida, vì sống theo kiểu không sử dụng các tiện nghi đô thị như nước và điện. Thành phố chính thức khẳng định là các cư dân ở Cape Coral đã chọn cách sống vi phạm luật duy trì tài sản quốc gia và quy định của thành phố. Mary Musselman, cũng là công dân Florida, bị giam giữ không có lệnh của tòa vì đã “cho động vật hoang dã ăn”. Musselman đã 81 tuổi, bị quản thúc sau khi bị phạt vì cho gấu ăn ở gần nhà. Brandy Berning ở Florida bị giam một đêm trong tù vì ghi âm lại cuộc đối thoại giữa cô với nhân viên cảnh sát chặn xe của cô.

Xin chào mừng đến với sự nực cười được luật pháp và trật tự của Hoa Kỳ tạo ra hiện nay, tôi đã từng chỉ ra trong cuốn sách của mình, “Chính phủ của chó sói: Sự trỗi dậy của nhà nước cảnh sát Hoa Kỳ”, là mức độ tội phạm thấp, hoạt động cảnh sát được quân sự hóa gia tăng, và người Mỹ bị trừng phạt vì sống theo kiểu không sử dụng tiện nghi đô thị, cho động vật hoang dã ăn, tổ chức nghiên cứu kinh thánh ở sân sau, trồng rau ở sân trước, thu gom nước mưa, và quay phim cảnh sát.

Những chuyện tiếp theo sẽ khiến bạn ngạc nhiên. Giống như một sự mỉa mai: Chính quyền khẳng định họ có thể giám sát chúng ta dưới bất kỳ hình thức nào - nghe điện thoại, đọc trộm email và tin nhắn, theo dõi việc đi lại của chúng ta, chụp ảnh bằng lái xe, thậm chí xâm nhập vào thông tin sinh học của chúng ta trong ngân hàng DNA - nhưng nếu chúng ta định chống lại, dù chỉ là một chút ít thôi, chúng ta sẽ bị cảnh sát điều tra, bắt giam và phạt vì vi phạm những tội lặt vặt (thường là không đáng kể), và buộc phải khôi phục tình trạng ban đầu.

George Thompson ở Boston bị bắt sau khi anh ta sử dụng điện thoại di động quay phim một viên cảnh sát mà anh ta nói là “mất kiểm soát”. Sinh viên đại học Texas Abie Kyle Ikhinmwi bị bắt giữ sau khi cô dùng điện thoại di động quay lại một vụ bẫy tốc độ của cảnh sát. Thiếu niên ở bang Kansas Addison Mikelson bị bắt vì quay phim một chiếc xe tuần tra phóng nhanh và không bật đèn xin nhan khi rẽ.

Leon Rosby đang quay phim vụ đối đầu với cảnh sát vào tháng 6 năm 2013, một tay cầm điện thoại và tay kia giữ con chó, ba sĩ quan tiến đến chỗ anh ta. Cảm thấy có vấn đề, Rosby đặt con chó Rottweiler 2 tuổi tên là Max vào xe ô tô. Tờ LA Times đưa tin: “Khi các sĩ quan còng tay Rosby, con chó thoát qua cửa sổ mở, sủa và lao vào các sĩ quan. Một sĩ quan cố nắm lấy dây xích chó, sau đó chĩa súng và bắn bốn phát, giết chết Max. Video ghi lại sự cố được lan truyền trên YouTube, dẫn đến sự phẫn nộ của công chúng và thu hút người biểu tình tới trụ sở của Sở Cảnh Sát”. Rosby chuẩn bị hồ sơ vụ kiện nhân quyền chống lại thành phố và 3 sĩ quan cảnh sát. 

Và người đàn ông Baltimore bị cảnh sát đe dọa sau khi họ biết anh ta quay phim họ trong khi bắt giữ. Trạm CBS địa phương tường thuật về vụ đối đầu như sau:

“Tôi được phép làm vậy”, người đàn ông nói với viên sĩ quan.

“Đi khỏi đây ngay”, viên sĩ quan trả lời.

“Anh không có quyền”, viên sĩ quan nói.

Nhưng người đàn ông không ngừng quay phim và tiếp tục tiến đến.

“Anh có thấy cảnh sát hiện diện ở đây không? Anh có thấy chúng tôi không? Chúng tôi không [văng tục] đi dạo. Anh có hiểu không? Đừng có khing thường chúng tôi và đừng có không thèm nghe lời của chúng tôi”, sĩ quan nói. “Giờ thì đi đi và ngậm miệng lại [văng tục] hoặc anh sẽ vào tù, anh có hiểu không?”

Sau khi quay đi, viên sĩ quan quay lại chỗ người đàn ông lần thứ ba, cố tóm lấy anh ta.

“Tôi cho rằng tôi có quyền tự do ngôn luận”, người đàn ông nói.

“Anh không có, Anh vừa đánh mất nó rồi”, viên sĩ quan trả lời.

Và đó là bản tóm tắt lại những gì diễn ra khi các viên chức hành pháp - không chỉ cảnh sát, mà mọi nhân viên của chính quyền được giao nhiệm vụ thi hành pháp luật, từ tổng thống trở xuống - được phép bỏ qua luật lệ khi thuận tiện. Tại những nơi mà tiêu chuẩn kép được sử dụng thì chỉ có công dân mới phải tuân thủ pháp luật, những viên chức hành pháp thì không, “khế ước xã hội” mà John Locke hình dung là nền tảng của xã hội đã đổ vỡ. Chúng ta cho phép quan chức chính quyền hoạt động ngoài pháp luật càng nhiều thì luật pháp càng nhanh chóng trở thành công cụ để trả thù chúng ta, hơn là ràng buộc và kiểm soát chính quyền như mục tiêu ban đầu.

Điều này đưa tôi quay trở lại với vấn đề người Mỹ bị bắt vì quay phim cảnh sát. Cho đến nay, điều đó chủ yếu diễn ra với những nhà báo và phóng viên ảnh, những người cố gắng ghi lại các cuộc biểu tình chính trị và sự quấy rầy của cảnh sát. Mặc dù vậy, với ưu thế của điện thoại di động về thu âm và ghi hình, các cá nhân đe dọa ghi hình cảnh sát trong những hành động đáng ngờ hoặc lạm quyền tại nơi công cộng đang ngày càng trở thành đối tượng phải chịu sự đối xử thô bạo vì những tư liệu đó. Những video đó khi được phổ biến rộng rãi, có thể trở thành công cụ đầy sức mạnh để buộc cảnh sát phải hành động cẩn trọng và buộc họ phải tôn trọng những quyền mà họ phải bảo vệ.

Tất nhiên, các nhân viên cảnh sát và liên minh của họ tìm cách cấm những video đó. Cảnh sát Massachusett đã viện dẫn một luật giám sát bang cho phép trừng phạt các hành vi quay video của công nhân như là tội ác. Do luật giám sát bang yêu cầu sự đồng thuận của “hai phía”, nên phần lớn các kiểu quay phim công khai có thể coi là bất hợp pháp. Luật tương tự cũng xuất hiện ở California, Florida, Illinois, Michigan và Pennsylvania. Luật được ban hành để bảo vệ các công dân khỏi bị giám sát theo cách xâm phạm vào đời tư, nhưng cảnh sát lại khai thác chúng để ngăn cản quyền tự do ngôn luận nhằm ngụy trang hình ảnh của họ trước công chúng. Cảnh sát cho rằng quy định đó cho phép họ ngăn cản một cách hợp pháp việc quay phim của các công dân như Jeffrey Manzelli, một nhà báo đã ghi lại hình ảnh cảnh sát đe dọa người biểu tình tại mít-ting và đã bị bắt và phạt theo luật đã nêu trên. 

Do phải mang gánh nặng chi phí kiện tụng trong những vụ cảnh sát khủng bố công dân vì không muốn các hành động của họ bị ghi hình nên một số thành phố đã cố gắng áp dụng các chính sách bảo vệ các công dân ghi hình cảnh sát. Ở Troy, N. Y. viên chức cảnh sát thành phố phải đối mặt với án phạt tiền và ngồi tù nếu họ ngăn cản người dân chụp hình hoặc quay phim họ một cách hợp pháp. Nếu được áp dụng, sắc lệnh của Troy, có mức phạt tối đa 5,000 USD và án tù tới 15 ngày đối với các viên chức vi phạm, sẽ là luật đầu tiên của quốc gia này về việc cấm cảnh sát ngăn cản công dân quay phim hay chụp ảnh hoạt động của họ. Sau khi phải thanh toán 200,000 USD thì sở cảnh sát Indianapolis sẽ sớm phải nhắc nhở các viên chức của họ rằng công dân có quyền quay phim các nhân viên cảnh sát đang làm nhiệm vụ. Đó là trường hợp một công dân Indianapolis 66 tuổi bị quật ngã xuống đất, bắt giữ và phạt vì chống lại việc bắt giữ, gây rối trật tự và say rượu nơi công cộng (ông ấy được chứng minh không có tội này) sau khi sử dụng điện thoại di động ghi hình cảnh sát bắt giữ một thanh niên trên đường ô tô trong khu ông ấy ở.

Hiện nay đang có phong trào yêu cầu cảnh sát phải mang theo camera theo dõi của công sở để ghi lại những gì các viên chức cảnh sát nhìn thấy 

Tòa án ủng hộ quyền của những nhân chứng quay phim, mặc dù chính quyền muốn đặt những hành động đó ra ngoài pháp luật. Vào năm 2012, Tòa Tối Cao Hoa Kỳ từ chối xét xử vụ kháng án về luật nghe trộm của Illinois, luật đó trừng phạt việc quay phim các nhân viên hành pháp như tội ác cấp độ một [chú thích: ví dụ như tội giết người, hãm hiếp] với mức án có thể lên đến 15 năm tù.

Năm 2013, Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đưa ra báo cáo về vụ án Mannie Garcia v. hạt Montgomery, Md., tuyên bố rằng các cá nhân không chỉ có quyền quay phim các viên chức khi thi thành công vụ theo Tu Chính Án Thứ Nhất, mà theo Tu Chính Án Thứ Tư và Thứ Mười Bốn họ còn có quyền không bị bắt giữ mà không có lệnh của tòa án. Trường hợp của Garcia là một nhà báo bị bắt giữ và phạt tội gây rối trật tự vì quay phim cảnh sát bắt giữ hai người đàn ông. Theo hồ sơ vụ kiện, cảnh sát “ấn Garcia vào xe cảnh sát, còng tay anh ta, làm anh ta ngã ra sàn bằng cách đá văng chân của anh ta, chế nhạo anh ta và đe dọa sẽ bắt giữ vợ anh ta nếu cô ấy tới nhặt camera, thu giữ thẻ nhớ và không bao giờ trả lại.”

Vấn đề như tòa thượng thẩm Hoa Kỳ khu vực số 7 khẳng định vụ trong Payne v. Pauley là “nhân viên cảnh sát phải bị trừng phạt nặng hơn các thường dân và phải kiềm chế khi va chạm với công chúng” và “không được đưa ra bất kỳ sự đe dọa hay từ ngữ hoặc cử chỉ lăng mạ, hay ám hiệu gây rối nào”

Sự phức tạp mà chúng ta phải đối mặt là viên chức cảnh sát ngày càng chỉ bị trừng phạt nhẹ, ít kiềm chế hơn trong va chạm với công chúng, và sử dụng mọi loại từ ngữ, cử chỉ hay ám hiệu đe dọa. Trong thế giới lý tưởng, cảnh sát được coi là những đầy tớ của công chúng, họ là đối tượng bị ghi hình và giám sát khi thi hành công vụ. Nhưng thực tế hoàn toàn khác với thế giới lý tưởng. Vậy chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải tiếp tục bảo vệ quyền của mình, ghi hình cảnh sát khi có cơ hội, và nhắc nhở một cách lịch sự bất cứ viên chức đối đầu nào rằng họ là đầy tớ của công chúng, và hành vi của họ là đối tượng kiểm tra của công chúng. Nếu họ không đồng ý và ngăn cản chúng ta quay phim, chúng ta có thể viện dẫn Hiến Pháp Hoa Kỳ, thứ mà họ đã thề sẽ tuân thủ, thứ bảo vệ quyền được quay phim các sự kiện liên quan đến lợi ích công cộng. Và nếu họ tiếp tục chống lại bằng cách dọa tống người ta vào tù vì họ không thích sự minh bạch và trách nhiệm, họ có thể trả lời trước tòa án.

Mục tiêu là đi đến trạng thái mà chúng ta có thể giám sát quan chức chính quyền, thay vì bỏ qua. Như quan tòa Louis D. Brandeis đã nhận xét, “Ánh sáng mặt trời là có thể nói là chất tẩy uế tốt nhất; ánh sáng điện là nhân viên cảnh sát hiệu quả nhất.”

Monday, April 14, 2014

Cảnh sát giết thường dân thì sao?

Chuyện cảnh sát lạm quyền giết người diễn ra không chỉ ở Việt Nam. Ngay cả ở Hoa Kỳ, xứ sở tự xưng là tự do dân chủ và công bằng nhất thế giới cũng vậy. Nếu như ở Việt Nam nạn nhân bị đánh bằng dùi cui thì ở Hoa Kỳ họ bị bắn bằng súng. Tất nhiên ở đâu thì nạn nhân cũng chết còn cảnh sát thì không sao cả, hoặc là chỉ nhận một mức án rất nhẹ.

Tháng trước, cảnh sát ở Albuquerque bang New Mexico đã bắn chết James Boyd, một người vô gia cư cắm trại dưới chân đồi bên ngoài thành phố. Vụ giết người của cảnh sát đã được quay video và đưa lên Youtube. Hơn một triệu người đã xem video đó. Nhiều cảnh sát mặc áo chiến đấu, đội mũ quân sự và mang súng trường tấn công có kính ngắm, bao vây một người vô gia cư đơn độc. Họ bắn lựu đạn gây lóa vào anh chàng khốn khổ đó, xua chó cắn anh ta, sau đó bắn tám phát đạn vào lưng anh ta, tiếp tục nã một phát đạn phá mảnh vào thân hình bất động của anh ta, rồi lại xua chó cắn.

Đó không phải là vụ duy nhất ở thành phố ấy. Từ năm 2010 tới nay chỉ riêng ở Albuquerque đã xảy ra 23 vụ cảnh sát bắn chết người.

Đó cũng không phải là vụ duy nhất ở Hoa Kỳ. Chỉ một ngày sau đó, cảnh sát Albuquerque bắn chết một người đàn ông khác. Alfre Lionel Redwine, 30 tuổi bị bắn chết bên ngoài một khu tổ hợp căn hộ. Ngay hôm sau ngày Redwine bị bắn chết, cảnh sát ở Spokane, Washington bắn chết một người đàn ông 30 tuổi khác tên là Steven C. Cordery khi anh ta rời khỏi nhà theo lệnh của cảnh sát. Ngày 14 tháng 1, cảnh sát bắn vào phía sau Manuel Orosco Longoria lúc anh ta giơ tay lên đầu khi bị chặn xe ở Phoenix, Arizona. Vào ngày 14 tháng 1, cảnh sát đánh chết Luis Rodriguez, 44 tuổi ở Moore, Oklahoma sau khi anh ta bị kêu gọi chịu trách nhiệm về việc đánh vợ và con gái.

Dường như cảnh sát Hoa Kỳ đang ngày càng trở lên bạo lực hơn. Năm 2011, cảnh sát địa phương Los Angeles bắn chết 54 người, nhiều hơn năm 2010 tới 70%. Từ năm 2008 đến 2013, số người bị cảnh sát Massachuset bắn tăng lên hàng năm. Năm 2012, cảnh sát New York bắn chết 16 người. Các đồng nghiệp ở Philadenphia vượt xa New York với việc hạ sát 52 mạng. 

Trong một thập kỷ qua, có tới 5000 người Mỹ bị cảnh sát giết hại, gấp 8 lần số người chết bởi khủng bố. Cảnh sát Hoa Kỳ giết hại nhiều thường dân hơn cả khủng bố, đó có lẽ không phải là chuyện đùa. Các cảnh sát giết người ở Hoa Kỳ hầu như không bị truy tố, những cảnh sát gây ra các vụ giết người hầu hết chỉ bị tạm nghỉ việc có lương để điều tra. Năm ngoái, cảnh sát Los Angeles khi truy đuổi can phạm đã nhầm một chiếc xe đưa báo của hai bà già là mục tiêu, họ đã không kiểm tra mục tiêu mà bắn vào đó hơn 100 viên đạn. Sở cảnh sát Los Angeles phải bồi thường 4,7 triệu USD, nhưng các nhân viên cảnh sát chỉ bị đưa đi đào tạo lại sau đó được tái bổ nhiệm. Vài tháng sau đó, viên cảnh sát Chicago tên là Gilardo Sierra, sau khi gặp vấn đề về nổ súng sáu tháng trước được tiếp tục tuần tra, đã bắn 16 phát đạn vào một người dân không có vũ trang. Cho đến nay Sierra vẫn được tự do. Viên cảnh sát bắn chết một thiếu niên13 tuổi cầm súng đồ chơi ở Santa Rosa chỉ bị tạm nghỉ điều tra hai tháng, sau đó đã quay trở lại làm việc.

Cảnh sát ở nhiều bang của Hoa Kỳ ưa chuộng trò giết người vô gia cư theo kiểu "bắn gà tây". Chính quyền các bang thường lờ chuyện đó đi vì giam giữ và tái hòa nhập cộng đồng những người vô gia cư rất tốn kém. 17,000 sở cảnh sát không hề công bố thông tin về việc sử dụng bạo lực và chính quyền liên bang cũng không quan tâm thu thập thông tin đó một cách nghiêm túc. Mặt khác, chính quyền lại rất sốt sắng thu thập thông tin về bạo lực của công dân, để lấy cớ gia tăng ngân sách cho an ninh.

Kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, các phương pháp trấn áp bằng bạo lực vốn chỉ được sử dụng ở Afghanistan, Iraq, Lybia đã được áp dụng ở Hoa Kỳ. Cảnh sát đang được quân sự hóa, 500 xe bọc thép chiến đấu bị loại khỏi Trung Đông đã được chuyển giao cho cảnh sát. Xe bọc thép được gắn súng máy bắn đạn cỡ 50, súng phóng lựu tự động, đã được trang bị cho các đội SWAT ở các đô thị. Chắc chắn những vũ khí nguy hiểm đó không dùng để làm cảnh.

Cho đến nay nguyên nhân của tình trạng việc cảnh sát bắn chết thường dân ngày một phổ biến ở Hoa Kỳ vẫn chưa được nghiên cứu chi tiết. Song có một số ý kiến đề cập tới các nguyên nhân sau:

- Hàng ngũ cảnh sát thu hút những kẻ đầu gấu, những kẻ có vấn đề về xã hội và tâm lý.

- Cảnh sát không phải chịu trách nhiệm về việc mà họ làm.

- Cảnh sát được chính quyền liên bang quân sự hóa, được trang bị vũ khí quân sự, và được huấn luyện phải coi công chúng là kẻ thù.

- Chính sách chống khủng bố của chính quyền Bush/Cheney/Obama coi mọi người Mỹ là nghi phạm.

- Chính sách phân biệt chủng tộc, tôn giáo của Hoa Kỳ khiến cảnh sát có cơ hội lạm quyền.

- Sự bất lực của các chính quyền địa phương trước nạn nghèo khổ ngày càng gia tăng, dẫn đến bất ổn xã hội, do đó cảnh sát được trao quá nhiều quyền lực mà không bị kiểm soát.

Còn rất nhiều nguyên nhân nữa có thể đề cập, nhưng nói chung là chưa có nguyên nhân nào thật sự thuyết phục. 

Đó là ở Hoa Kỳ, còn ở Việt Nam thì nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng công an đánh chết thường dân? Khó có thể trả lời được. Có một điều chắc chắn là ngành công an hiện nay không phải thu thập và công bố thông tin về tình trạng bạo lực của công an, cũng như không phải đưa ra kế hoạch bất cứ kế hoạch nào để giảm thiểu tình trạng đó. Một số người tự xưng là dân chủ luôn dựa vào những trường hợp cụ thể để lên án ngành công an và đả kích chính quyền, đó không phải là đấu tranh, đó là phá hoại. Muốn thay đổi tình hình thì thay vì tập trung vào những vụ án cụ thể, người dân cần phải yêu cầu chính quyền thu thập, công bố thông tin và đấu tranh cho một chính sách bài trừ bạo lực của công an. Chỉ khi nào người dân biết phải yêu cầu chính sách thay cho một bản án, lúc đó mới có thể hy vọng về một tương lai tốt đẹp.

Tuesday, March 11, 2014

Mỹ đã hỗ trợ phát xít, khủng bố và các trùm ma túy tại 35 quốc gia trên thế giới

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "35 Countries Where The U.S. Has Supported Facists, Drug Lords and Terrorists"  của nhà báo nổi tiếng Nicolas J. S. Davies chuyên viết về chiến tranh, quân sự và luật quốc tế. Bài viết cung cấp cái nhìn ngắn gọn và khái quát về sự hỗ trợ của Mỹ cho các chế độ phát xít, khủng bố và các trùm buôn lậu ma túy trên khắp thế giới. Tuy vậy, cũng còn rất nhiều quốc gia khác chưa được đưa vào danh sách này, như: Angola, Australia, Bolivia, Brunei, Canada, Congo, Diego Garcia, Dominican Republic, Fiji, Grenada, Hawaii, Jamaica, Venezuela, Việt Nam. Việc Mỹ tuyển dụng các thành phần phát xít tại các quốc gia bại trận như Italia, Đức, Nhật Bản sau thế chiến thứ II để đàn áp phong trào cộng sản cũng không được tác giả trình bày. 

Đảng cực hữu Svoboda và đám phát xít mới đầy bạo lực có vũ trang được Mỹ hậu thuẫn đã mở đường cho cuộc đảo chính do phương Tây giật dây. Các sự kiện ở Ukraina đang cho chúng ta thấy sự thật ẩn phía sau những luận điệu tuyên truyền của Mỹ về cuộc chiến chống khủng bố, phát xít và ma túy. Sự thật xấu xí phía sau tấm gương là chính phủ Mỹ đã có truyền thống kéo dài và liên tục hợp tác với phát xít, các chế độ độc tài, các trùm ma túy và tài trợ cho khủng bố ở khắp các khu vực trên thế giới mặc dù họ luôn lảng tránh trả lời câu hỏi tàn nhẫn ấy. Các chư hầu và tay sai của Mỹ đã can dự vào những tội ác khủng khiếp nhất mà loài người từng biết đến, từ giết chóc và tra tấn cho đến đảo chính và diệt chủng. Dòng sông máu từ các vụ tàn sát và phá hoại chảy theo dấu chân của Lầu Năm Góc và Nhà Trắng. Nhà sử học Gabriel Kolko vào năm 1988 đã chỉ ra, "Quan niệm về tay sai lương thiện là mâu thuẫn. Washington đã thất bại trong việc tạo ra điều đó ở bất cứ nơi nào trên thế giới kể từ năm 1945". Dưới đây là trình bày ngắn theo thứ tự từ A tới Z về lịch sử của sai lầm đó.

1. Afghanistan

Trong những năm 1980, Mỹ đã hợp tác với Pakistan và Arab để lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa Afghanistan. Họ đã cung cấp tài chính, huấn luyện và vũ trang cho lực lượng quân sự của các thủ lĩnh bộ tộc bảo thủ. Những tiến bộ của quốc gia này trong giáo dục, bảo vệ quyền của phụ nữ và cải cách đất đai đe dọa quyền lực của các thủ lĩnh bộ tộc. Sau khi Mikhail Gorbachev rút quân đội Liên Xô vào năm 1989, những thủ lĩnh quân sự được Mỹ chống lưng đã chia quốc gia thành nhiều mảnh và gia tăng sản lượng thuốc phiện từ 2000 tấn lên 3400 tấn mỗi năm. Chính quyền Taliban giảm được sản lượng thuốc phiện xuống 95% trong khoảng thời gian 1999-2001, nhưng vào năm 2001 Mỹ đã xâm lược quốc gia này để khôi phục quyền lực của các thủ lĩnh quân sự và trùm ma túy. Afghanistan đang đứng thứ 175/177 trên thế giới về nạn tham nhũng, 175/186 về phát triển con người, và từ năm 2004 sản xuất 5300 tấn thuốc phiện mỗi năm. Người anh em của tổng thống Karzai, Ahmed Wali Karzai, là trùm ma túy được CIA hậu thuẫn. Sau suộc tấn công lớn của Mỹ vào tỉnh Kandahar năm 2011, đại tá Abdul Razziq được phong chức cảnh sát trưởng tỉnh này, việc gia tăng các hoạt động buôn lậu heroin đã đem lại cho ông ta 60 triệu USD mỗi năm tại cái nơi nghèo nhất thế giới.


2. Albania


Giữa năm 1949 và 1953, Mỹ và Anh âm mưu lật đổ chính quyền Albania, quốc gia cộng sản nhỏ nhất và dễ bị tổn thương nhất ở Đông Âu. Những kẻ lưu vong được tuyển dụng và huấn luyện để gửi về Albania đóng vai phe đối lập và chuẩn bị cho nổi dậy vũ trang. Rất nhiều trong số những kẻ lưu vong tham gia vào kế hoạch đó là tay sai của phát xít Đức và Italy trong thế chiến thứ II. Trong đó có cựu bộ trưởng nội vụ Xhafer Deva, kẻ đã giám sát quá trình đưa "Người Do thái, Cộng sản, yêu nước và các cá nhân đáng lưu ý khác" đến trại tập trung Auschwitz. Các tài liệu được giải mật của Mỹ cho biết Deva chỉ là một trong số 743 tội phạm chiến được Mỹ tuyển dụng sau chiến tranh.

3. Argentina

Tài liệu được Mỹ giải mật năm 2003 về cuộc trao đổi chi tiết giữa bộ trưởng ngoại giao Mỹ Henry Kissinger và ngoại trưởng Argentina đô đốc hải quân Guzzetti vào tháng 10 năm 1976, ngay sau khi chính quyền quân sự nắm quyền ở Argentina, cho biết Kissinger chấp nhận "cuộc chiến bẩn thỉu" của chính quyền quân sự, cuộc chiến đã giết hại 30'000 người mà phần lớn là trẻ tuổi, đánh cắp 400 trẻ em khỏi các gia đình mà bố mẹ của chúng đã bị giết hại. Kissinger nói với Guzzetti, "Hãy nhìn xem, về cơ bản là chúng tôi muốn anh thành công...càng nhanh thì càng tốt". Đại sứ Mỹ tại Buenos Aires báo cáo rằng Guzzetti "quay về với trạng thái hân hoan, hài lòng rằng không có vấn đề nào với chính phủ Mỹ về chuyện đó" ("Daniel Gandolfo", "Presente!" 

4. Brazil

Năm 1964, tướng Castelo Branco đảo chính lập lên chính quyền độc tài quân sự tàn bạo kéo dài suốt 20 năm. Tùy viên quân sự Mỹ Walter Vernon, sau này là phó giám đốc CIA và đại sứ tại Liên Hiệp Quốc, vốn đã quen biết Castelo Branco ở Italia từ thế chiến thứ II. Do là nhân viên bí mật của CIA nên các tin tức Walter thu thập được từ Brazil không bao giờ được giải mật, nhưng CIA đã cung cấp mọi sự hỗ trợ cần thiết để đảm bảo vụ đảo chính thành công, bao gồm tài trợ cho các nhóm sinh viên và lao động đối lập trong biểu tình đường phố, giống như ở Ukraina và Venezuela hiện nay. Lực lượng lính thủy đánh bộ đã chờ sẵn để đổ bộ vào Sao Paolo trong trường hợp cần thiết. Giống như các nạn nhân khác trong những cuộc đảo chính được Mỹ hậu thuẫn ở châu Mỹ Latin, tổng thống dân cử Joao Goulart là một chủ đất giàu có, không phải là cộng sản, nhưng nỗ lực của ông ta nhằm duy trì vị thế trung lập trong chiến tranh lạnh là không thể chấp nhận được đối với Washington, cũng giống như trường hợp tổng tống thống Yanukovich từ chối chuyển giao Ukraina cho phương Tây 50 năm sau đó.
  
5. Cambodia

Khi tổng thống Nixon ra lệnh ném bom bí mật và bất hợp pháp Cambodia vào năm 1969, các phi công Mỹ đã được yêu cầu làm sai lệch các báo cáo để che dấu tội ác. Họ đã giết hại ít nhất là nửa triệu người Cambodia, ném một khối lượng bom lớn hơn cả khối lượng bom ném xuống Nhật Bản và Đức cộng lại trong thế chiến thứ II. Khi Khmer đỏ giành được chính quyền năm 1973, CIA báo cáo rằng "tuyên truyền có hiệu quả nhất đối với người tị nạn là các vụ ném bom của máy bay B-52". Sau khi Khmer đỏ giết hại ít nhất 2 triệu người và bị quân đội Việt Nam đánh bại năm 1979, tổ chức Cứu Trợ Khẩn Cấp Cambodia của Mỹ, dựa vào đại sứ quán Mỹ tại Bangkok, đã nuôi dưỡng và hỗ trợ Khmer đỏ để tiếp tục chống lại chính phủ mới của Cambodia do Việt Nam hậu thuẫn. Dưới sức ép của Mỹ, Chương Trình Lương Thực Thế Giới đã cung cấp lương thực cho 20.000 đến 40.000 lính Khmer đỏ. Suốt một thập kỷ sau đó, cơ quan tình báo quân đội Mỹ đã giúp Khmer đỏ do thám qua vệ tinh, đồng thời các lực lượng đặc nhiệm của Mỹ và Anh hướng dẫn Khmer đỏ đặt hàng triệu quả mìn bộ binh khắp miền Tây Cambodia, thứ đó đã giết hại và làm bị thương hàng trăm người mỗi năm.

6. Chile

Khi Salvador Allende trở thành tổng thống vào năm 1970, tổng thống Nixon thề sẽ "bắt nền kinh tế Chile phải than khóc". Mỹ, vốn là đối tác thương mại lớn nhất của Chile, đã cắt giảm buôn bán tạo ra tình trạng khan hiếm và hỗn loạn kinh tế. CIA và bộ ngoại giao đã thực hiện chiến dịch tuyên truyền phá hoại ở Chile trong suốt một thập kỷ, tài trợ cho các chính khách bảo thủ, các đảng phái, các công đoàn, các nhóm sinh viên và tất cả các dạng truyền thông, trong khi mở rộng mối quan hệ với quân đội. Sau khi tướng Pinoche lên nắm quyền, CIA tiếp tục trả lương cho các sĩ quan người Chile và hợp tác chặt chẽ với cơ quan tình báo Chile DINA trong việc chính phủ quân sự giết hại giết hại hàng ngàn người và bỏ tù cũng như tra tấn hàng chục ngàn người khác. Chưa hết, nhóm "Các chàng trai Chicago", bao gồm hơn 100 sinh viên Chile được gửi tới đại học Chicago theo một chương trình của bộ ngoại giao để nghiên cứu kinh tế dưới sự hướng dẫn của học giả nổi tiếng Milton Friedman, tiến hành một chương trình tư nhân hóa cực đoan với các chính sách tự do mới và phi kiểm soát, khiến cho nền kinh tế của Chile phải tiếp tục than khóc trong suốt 16 năm của chế độ độc tài quân sự Pinochet.

7. China

Cuối năm 1945, 100.000 lính Mỹ sát cánh cùng với quân đội Quốc Dân đảng của Trung Quốc (và Nhật Bản) trong khu vực do những người cộng sản kiểm soát ở miền Bắc Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng là thành phần tha hóa nhất trong số những đồng minh của Mỹ. Các cố vấn Mỹ đã thường xuyên cảnh báo rằng hàng cứu trợ của Mỹ bị Tưởng và các sĩ quan thân tín lấy trộm, một số hàng ăn cắp thậm chí còn bị bán cho Nhật Bản, nhưng Mỹ vẫn tiếp tục hỗ trợ Tưởng suốt cuộc chiến cho tới khi Tưởng bị người cộng sản đánh bại và khi ông ta cai trị Đài Loan. Chính sách bên miệng hố chiến tranh của bộ trưởng ngoại giao Dulles để bảo vệ Tưởng lần thứ hai đã khiến cho Mỹ bị đẩy đến miệng hố chiến tranh hạt nhân với Trung Quốc để giữ hai hòn đảo nhỏ Matsu và Qemoy ngoài khơi Trung Quốc vào năm 1955 và 1958.

8. Colombia

Khi đặc nhiệm Mỹ và Cơ quan Bài trừ Ma túy giúp Colombia theo dõi và hạ sát trùm ma túy Pablo Escobar, họ đã hợp tác với một nhóm trật tự được gọi là Los Pepes. Vào năm 1997, Diego Murillo-Bejarano và các lãnh đạo khác của Los Pepes đã lập ra tổ chức lực lượng phòng vệ thống nhất Colombia (AUC), tổ chức này chịu trách nhiệm về 75% số thường dân chết tại Colombia trong 10 năm tiếp đó.

9. Cuba

Mỹ đã hỗ trợ cho chế độ độc tài Batista, chế độ tạo ra tình trạng khủng khiếp khiến Cách mạng Cuba nổ ra, giết hại khoảng 20'000 người. Cựu đại sứ Mỹ Erl Smith khai tại Quốc hội rằng, "nước Mỹ có ảnh hưởng rất lớn tại Cuba, đại sứ Mỹ là người quan trọng thứ hai ở Cuba, đôi khi quan trọng hơn cả tổng thống Cuba". Sau cách mạng, CIA tiến hành chiến dịch khủng bố quy mô chống lại Cuba, đào tạo các phẩn tử lưu vong người Cuba tại Florida, Trung Mỹ và nước Cộng hòa Dominica để ám sát và phá hoại ở Cuba. Các chiến dịch chống Cuba được CIA hậu thuẫn bao gồm cả âm mưu chiếm đóng Vịnh Con Lợn, khiến 100 người Cuba lưu vong và 4 người Mỹ bị giết; nhiều âm mưu ám sát Fidel Castro và ám sát thành công các quan chức khác; vụ đặt bom năm 1960 (3 người Mỹ bị giết và 2 bị bắt) và các vụ đánh bom khủng bố nhằm vào khách du lịch năm 1997; vụ đánh bom tàu của Pháp tại cảng Havana (ít nhất 75 người chết); vụ tấn công sinh học bằng virus bệnh cúm khiến nửa triệu con lợn chết; và vụ đánh bom máy bay Cuba (78 người chết) của Luis Posada Carriles và Orlando Bosch, hai kẻ này vẫn tự do tại Mỹ bất chấp việc Mỹ tiến hành cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố. Bosch đã được tổng thống Bush ân xá.

10. El Salvador

Cuộc nội chiến nổ ra ở El Salvador năm 1980 là cuộc nổi dậy chống lại chính phủ cai trị bằng bạo lực. Ít nhất 70'000 người đã bị giết và hàng ngàn người bị mất tích. Ủy ban Sự thật của Liên Hiệp Quốc điều tra sau cuộc chiến cho biết 95% người chết là do bị quân đội của chính quyền và các biệt đội tử thần giết hại, chỉ có 5% là do du kích FLMN. Quân đội của chính quyền chịu trách nhiệm về các vụ thảm sát được CIA, đặc nhiệm Mỹ cũng như các trường quân sự Mỹ thiết lập, đào tạo, trang bị và giám sát. Ủy ban Sự thật của Liên Hiệp Quốc đã phát hiện ra các đơn vị có những tội ác tồi tệ nhất, như Atlacatl Battalion, thủ phạm của vụ thảm sát tai tiếng El Mozote, được giám sát chặt chẽ chẽ bởi cố vấn Mỹ. Vai trò của Mỹ trong chiến dịch khủng bố quy mô quốc gia được các quan chức quân sự cấp cao Mỹ tổng kết thành mô hình "chống phản loạn" cho Colombia và những nơi khác khi mà cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ đem đến bạo lực và hỗn loạn khắp thế giới.

11. France

Tại Pháp, Italia, Hy Lạp, Đông Dương, Indonesia, Triều Tiên và Philippine vào cuối thế chiến thứ II, quân đồng minh nhận thấy lực lượng kháng chiến cộng sản đã giành được quyền kiểm soát các khu vực lớn, thậm chí là toàn bộ quốc gia khi quân đội Đức và Nhật Bản đầu hàng. Tại Marseille, công đoàn cộng sản CGT kiểm soát các bến tàu gây ra trở ngại đối với thương mại với Mỹ và kế hoạch Marshall. OSS đã hợp tác với mafia Mỹ-Sicilly và gangster đảo Cors trong thời kỳ chiến tranh. Sau khi OSS sáp nhập vào CIA, họ giúp băng đảng gangster đảo Cors nắm lấy quyền lực ở Marseille, nhằm bẻ gẫy các cuộc đình công tại bến cảng cũng như sự kiểm soát của CGT. CIA đã bảo vệ gangster đảo Cors khi chúng thiết lập các phòng điều chế heroin và chuyển heroin đến New York, nơi mà mafia Mỹ-Sicily cũng hoạt động dưới sự che chở của CIA. Nguồn cung bị gián đoạn do chiến tranh và Cách mạng Trung Quốc đã giảm số lượng người nghiện heroin ở Mỹ xuống 20.000 năm 1945 và nghiện ma túy gần như đã biến mất, nhưng mối quan hệ tai tiếng của CIA với Pháp đã tạo ra một làn sóng nghiện ngập mới, tội phạm có tổ chức và bạo lực liên quan đến buôn bán ma túy ở New York và các thành phố khác ở Mỹ.

12. Ghana

Hiện nay dường như không có lãnh đạo quốc gia giàu cảm hứng nào ở Châu Phi, đó có thể là sai lầm của Mỹ. Vào năm 1950 và 1960, đã từng có một ngôi sao sáng ở Ghana: Kwame Nkrumah. Ông là thủ tướng dưới thời người Anh cai trị từ năm 1952 đến 1960, khi Ghana độc lập thì ông trở thành tổng thống. Đó là một người xã hội chủ nghĩa, quốc gia liên Phi, chống đế quốc, vào năm 1965 ông viết một cuốn sách lấy tên là "Chủ nghĩa thực dân mới: Giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc". Nkrumah bị CIA lật đổ trong cuộc đảo chính năm 1966. CIA đã phủ nhận mọi liên quan nhưng báo chí Anh đưa tin có 40 sĩ quan CIA hoạt động tại đại sứ quán Mỹ "cung cấp hào phóng cho các kẻ thù bí mật của tổng thống Nkrumah" và công việc của họ "đã được thưởng công đầy đủ". Cựu sĩ quan CIA John Stockwell tiết lộ thêm về vai trò quyết định của CIA trong vụ đảo chính với cuốn sách "In Search of Enemies".

13. Greece

Khi quân đội Anh đặt chân lên Hy Lạp vào tháng 10 năm 1944 thì ELAS-EAM, tổ chức yêu nước cánh tả được Đảng Cộng sản lập trong thời kỳ chiếm đóng của Italia và Đức, đã kiểm soát quốc gia. ELAS-EAM chào đón quân đội Anh, nhưng người Anh từ chối hợp tác với họ và thiết lập chính phủ bao gồm những phần tử bảo hoàng và tay sai của phát xít. Khi ELAS-EAM tổ chức một cuộc biểu tình lớn ở Athen, cảnh sát đã bắn vào đoàn biểu tình và giết chết 28 người. Người Anh tuyển dụng các thành viên của các đơn vị an ninh được phát xít huấn luyện để hạ sát và bắt giữ các thành viên của ELAS, những người một lần nữa phải cầm vũ khí để kháng chiến. Năm 1947, cuộc nội chiến leo thang, người Anh phá sản đã yêu cầu người Mỹ thay thế họ ở Hy Lạp. Vai trò của Mỹ trong việc hỗ trợ chính quyền phát xít ở Hy Lạp được mô tả trong "Học thuyết Truman", được nhiều sử gia coi là khởi đầu của chiến tranh lạnh. Các chiến binh ELAS-EAM buông vũ khí năm 1949 sau khi Nam Tư ngừng hỗ trợ, 100'000 người đã bị xử tử, lưu đày hay bỏ tù. Thủ tướng độc lập Georgios Panpadreou bị lật đổ trong cuộc đảo chính được CIA hậu thuẫn năm 1967, dẫn đến chế độ cai trị quân sự kéo dài hơn 7 năm. Con trai ông ta Andreas là người "xã hội chủ nghĩa" đầu tiên được bầu làm tổng thống năm 1981, nhưng rất nhiều thành viên của ELAS-EAM bị bỏ tù những năm 1940 không bao giờ được trả tự do và đã chết trong tù.

14. Guatemala

Sau chiến dịch lật đổ một chính quyền nước ngoài đầu tiên ở Iran 1953, CIA tiến hành chiến dịch khác để lật đổ chính quyền dân cử độc lập của Jacobo Arbenz ở Guatemala năm 1954. CIA đã tuyển dụng và đào tạo một đơn vị lính đánh thuê nhỏ dưới sự chỉ huy của một người Guatemala lưu vong tên là Castillo Armas để chiếm đóng Guatemala, với 30 máy bay Mỹ không mang phù hiệu để hỗ trợ đường không. Đại sứ Mỹ Peurifoy chuẩn bị danh sách những người Guatemala cần xử tử, Armas được chỉ định làm tổng thống. Triều đại khủng bố sau đó đã dẫn đến cuộc nội chiến kéo dài 40 năm, có ít nhất 200'000 người đã bị giết, phần lớn là thường dân. Đỉnh điểm của cuộc chiến là chiến dịch diệt chủng ở Ixil của tổng thống Rios Montt, ông ta bị tuyên án tù chung thân vào năm 2013 vì vụ diệt chủng đó nhưng sau đó Tòa án Tối Cao Guatemala đã vô hiệu hóa bản án về mặt kỹ thuật. Phiên tòa mới sẽ được mở lại vào năm 2015. Tài liệu giải mật của CIA cho thấy chính quyền Reagan đã được cảnh báo về các hoạt động diệt chủng của lực lượng quân sự Guatemala khi chấp thuận viện trợ quân sự năm 1981, bao gồm các xe quân sự, linh kiện máy bay trực thăng và cố vấn quân sự. Các tài liệu chi tiết của CIA về vụ thảm sát cũng như phá hủy các làng mạc, đã kết luận: "Báo cáo cho thấy quân đội tin rằng toàn thể người dân da đỏ ở Ixil ủng hộ quân du kích của người nghèo (EGP) đã tạo ra tình huống khiến quân đội không thể phân biệt được chiến binh và dân thường".

15. Haiti

Trong suốt hai trăm năm sau cuộc nổi loạn của nô lệ khai sinh ra quốc gia Haiti và đánh bại quân đội của Napoleon, những người dân phải chịu đựng cay đắng của Haiti cuối cùng cũng được lựa chọn chính quyền thật sự dân chủ được lãnh đạo bởi cha cố Jean Bertrand Aristide vào năm 1991. Nhưng chỉ sau tám tháng tại nhiệm, tổng thống Aristide đã bị lật đổ trong cuộc đảo chính quân sự được Mỹ hậu thuẫn, và tình báo bộ quốc phòng Mỹ (DIA) tuyển dụng lực lượng bán quân sự mang tên FRAPH để phá hoại phong trào Lavalas của Aristide ở Haiti. CIA trả lương cho thủ lĩnh FRAPH Emmanuel "Toto" Constant và vận chuyển vũ khí cho họ từ Florida. Khi tổng thống Clinton gửi lực lượng chiếm đóng tới để khôi phục lại quyền lực cho Aristide năm 1994, các thành viên FRAPH được quân đội Mỹ trả lương đã từ chối thi hành mệnh lệnh của Washington, CIA đã tiếp tục duy trì FRAPH như là lực lượng tội phạm để phá hoại Aristide và Lavalas. Sau khi Aristide được bầu làm tổng thống lần thứ hai năm 2000, một lực lượng gồm 200 đặc nhiệm Mỹ, 600 cựu thành viên FRAPH và những thành phần khác đã có mặt ở nước Cộng Hòa Dominica để chuẩn bị cho cuộc đảo chính lần thứ hai. Năm 2004, họ tiến hành chiến dịch tấn công gây bất ổn tại Haiti, tạo ra cớ để quân đội Mỹ tiến vào Haiti và hạ bệ Aristide.

16. Honduras

Vào năm 2009, đảo chính ở Honduras dẫn đến hàng loạt các vụ đàn áp và các biệt đội tử thần sát hại các chính khách đối lập, các nhà tổ chức công đoàn và nhà báo. Trong thời kì đảo chính, quan chức Mỹ phủ nhận mọi liên quan và sử dụng các xảo thuật từ ngữ để tránh cắt giảm viện trợ quân sự theo như yêu cầu của luật. Nhưng hai đường dây Wikileaks cho thấy đại sứ quán Mỹ là kẻ môi giới quyền lực chính trong việc dàn xếp kết quả vụ đảo chính và thiết lập chính quyền mới, cái chính quyền mà hiện giờ đang đàn áp và giết hại dân chúng.

17. Indonesia

Năm 1965 tướng Suharto giành lấy quyền lực từ tổng thống Sukarno dựa vào một cuộc đảo chính thất bại và một vụ thảm sát bừa bãi khiến ít nhất nửa triệu người đã bị giết. Các nhà ngoại giao Mỹ sau đó cung cấp một danh sách 5'000 đảng viên Đảng Cộng sản cần thủ tiêu. Quan chức chính trị Robert Marten đã nói: "Đó thực sự là sự hỗ trợ quan trọng đối với quân đội. Họ có thể đã giết rất nhiều người, tay tôi có thể đã dính nhiều máu, nhưng không phải mọi thứ đều tệ. Đây là lúc người ta phải nỗ lực trong thời điểm quyết định".

18. Iran

Iran có thể là trường hợp đáng lưu ý nhất trong các vụ đảo chính của CIA vì đã tạo ra các vấn để bất tận trong dài hạn đối với Mỹ. Năm 1953, CIA và cơ quan tình báo Anh MI6 lật đổ chính quyền dân cử của Mohammed Mossadegh. Iran quốc hữu hóa công nghiệp dầu mỏ bằng bỏ phiếu công khai tại Quốc hội, chấm dứt sự độc quyền khai thác dầu của Anh tại Iran. Người Anh chỉ trả cho Iran 16% lượng dầu như là tiền thuê mỏ. Suốt hai năm Iran phải chống lại việc người Anh phong tỏa đường biển và cấm vận kinh tế quốc tế. Sau khi tổng thống Eisenhower lên nắm quyền năm 1953, CIA đồng ý với yêu cầu can thiệp của Anh. Một số hoạt động đảo chính ban đầu thất bại khiến Shah và gia đình phải trốn sang Italy, CIA chi hàng triệu USD để mua chuộc các quan chức và trả cho gangster để gây bạo loạn trên đường phố Tehran. Mossadegh cuối cùng cũng bị lật đổ và Shah trở về nắm quyền, đó là chính quyền tay sai khát máu nhất cho phương Tây cho tới cuộc cách mạng Iran năm 1979.

19. Israel

Trước đây Mỹ sử dụng sức mạnh quân sự và quân sự, hệ thống tuyên truyền và vị trí thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để vi phạm các luật lệ quốc tế mà không bị trừng phạt, thì nay họ sử dụng những công cụ đó để bảo vệ Israel khỏi bị truy tố vì các tội ác quốc tế. Từ năm 1966, Mỹ đã sử dụng quyền phủ quyết 83 lần, nhiều hơn bốn thành viên thường trực khác cộng lại, 42 trong số đó là cho các nghị quyết liên quan đến Israel và/hay Palestine. Ngay tuần trước, tổ chức Ân xá Quốc tế công bố một báo cáo cho thấy: "Quân đội Israel đã tỏ ra tàn nhẫn đối với đời sống con người qua việc giết hại nhiều thường dân Palestine, bao gồm cả trẻ em, trong khu vực Bờ Tây bị chiếm đóng suốt ba năm qua mà hoàn toàn không bị trừng phạt". Richard Falk, báo cáo viên chuyên trách của Liên Hiệp Quốc về Quyền Con Người trong các lãnh thổ bị chiếm đóng đã chỉ trích năm 2008 cuộc tấn công vào Gaza là "vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế", thêm vào đó các quốc gia như Mỹ đã "cung cấp vũ khí và hỗ trợ tình trạng thiết quân luật đồng lõa với tội ác". Luật Leahy buộc Mỹ phải cắt giảm viện trợ quân sự cho các lực lượng vi phạm nhân quyền, nhưng luật không bao giờ được thi hành để chống lại Israel. Chính quyền Israel tiếp tục xây dựng các khu tái định cư trên lãnh thổ bị chiếm đóng, điều đó vi phạm Hiệp Định Geneva thứ 4, trái với nghị quyết của Hội Đồng Bảo An vốn yêu cầu từ bỏ các lãnh thổ bị chiếm đóng. Nhưng Israel vẫn nằm ngoài vòng luật pháp, được bảo vệ bởi đồng minh Mỹ đầy quyền lực.

20. Iraq

Vào năm 1958, sau khi vương triều phong kiến do Anh hậu thuẫn bị tướng Abdul Qasim lật đổ, CIA đã thuê người thanh niên Iraq 22 tuổi có tên Saddam Hussein để ám sát vị tổng thống mới. Hussein và băng nhóm thất bại và phải trốn sang Lebanon, bị thương ở chân do một người cùng nhóm. CIA thuê cho ông ta một căn hộ ở Beirut và sau đó chuyển ông ta tới Cairo làm việc cho cơ quan tình báo Ai Cập. Ông ta thường xuyên đến đại sứ quán Mỹ. Qasim bị giết trong cuộc đảo chính của những người theo đảng Baath do CIA hậu thuẫn, giống như ở Guatemala và Indonesia, CIA đưa cho chính phủ mới danh sách gồm ít nhất 4'000 đảng viên Cộng sản cần thủ tiêu. Nhưng khi đã nắm được quyền lực thì chính phủ cách mạng của đảng Baath không làm tay sai cho phương Tây, họ quốc hữu hóa ngành công nghiệp dầu mỏ của Iraq, áp dụng chính sách ngoại giao Arab, xây dựng hệ thống giáo dục và y tế tốt nhất trong thế giới Arab. Năm 1979, Hussein trở thành tổng thống, đàn áp các đối thủ chính trị và tiến hành chiến tranh chống Iran. Tình báo quốc phòng Mỹ DIA cung cấp do thám vệ tinh để dẫn đường cho vũ khí hóa học mà phương Tây giúp Hussein chế tạo, Donald Rumsfeld và các quan chức Mỹ khác đã chào đón Hussein như là đồng minh chống lại Iran. Chỉ sau khi Iraq xâm lược Kuwait và Hussein trở thành kẻ thù thì hệ thống tuyên truyền của Mỹ mới gọi ông ta là "Hittler mới". Sau màn kịch Mỹ xâm lược Iraq vào năm 2003, CIA đã tuyển mộ 27 lữ đoàn "Cảnh sát đặc nhiệm", kết hợp lực lượng an ninh tàn bạo nhất của Hussein với nhóm vũ trang Badr do người Iran huấn luyện thành các biệt đội tử thần, giết hại hàng chục ngàn người mà phần lớn là đàn ông và con trai người Arab Hồi giáo dòng Sunni tại Baghdad và những nơi khác trong triều đại khủng bố vẫn còn tồn tại tới ngày nay.

21. Korea

Khi quân đội Mỹ tiến vào Triều Tiên năm 1945, họ được các quan chức của nước Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên (KPR) chào đón, chính quyền được xây dựng bởi lực lượng kháng chiến đã tước vũ khí của quân Nhật đầu hàng, họ đã thiết lập luật lệ cũng như trật tự trên toàn lãnh thổ Triều Tiên. Tướng Hodge đã lật đổ họ và đặt nửa phần phía Nam của Triều Tiên dưới sự chiếm đóng của quân đội Mỹ. Ngược lại với Mỹ, quân đội Nga công nhận KPR, dẫn đến sự chia cắt lâu dài của Triều Tiên. Mỹ đưa phần tử lưu vong Triều Tiên Syngman Rhee lên làm tổng thống của Nam Triều Tiên vào năm 1948. Rhee trở thành nhà độc tài trong cuộc thánh chiến chống cộng sản, bắt giữ và tra tấn những người bị tình nghi là cộng sản, đàn áp đẫm máu các vụ nổi loạn, giết hại 100'000 người và định chiếm Bắc Triều Tiên. Ông ta là người phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh Triều Tiên và quyết định xâm lược Bắc Triều Tiên khi đã chiếm giữ Nam Triều Tiên. Cuối cùng ông ta đã bị buộc phải từ chức sau những cuộc biểu tình lớn của sinh viên năm 1960.

22. Laos

CIA bắt đầu cung cấp không vận cho quân đội Pháp ở Lào năm 1950, và tiếp tục can dự suốt 25 năm. CIA tổ chức ít nhất 3 cuộc đảo chính trong khoảng thời gian 1958-1960 để loại những người cánh tả Pathet ra khỏi chính quyền Lào. CIA đã hợp tác với các trùm ma túy cánh hữu người Lào như tướng Phoumi Nosavan, vận chuyển ma túy giữa Myamar, Lào và Việt Nam, và bảo vệ thế độc quyền buôn bán ma túy của ông ta tại Lào. Vào năm 1962, CIA tuyển dụng đội quân lính đánh thuê bí mật gồm 30'000 cựu binh của chiến tranh du kích từ Thái Lan, Triều Tiên, Việt Nam và Philippine để chống lại quân Pathet Lào. Rất nhiều lính Mỹ tại Việt Nam dính vào heroin, CIA dùng các chuyến bay của hãng hàng không Air America để vận chuyển ma túy từ lãnh thổ Hmong tại Cánh đồng Chum tới các phòng chế xuất heroin của tướng Vàng Pao tại Long Tieng và Vientian, rồi từ đó chuyển tiếp tới Việt Nam. Khi CIA thua quân Pathet Lào, Mỹ đã ném 2 triệu tấn bom xuống Lào, tương đương với mức độ ném bom Cambodia.

23. Libya

Cuộc chiến của NATO với Lybia được tổng thống Obama tóm tắt là phương pháp tiến hành chiến tranh "che dấu, yên lặng, không truyền thông". Chiến dịch ném bom của NATO được Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đánh giá một cách sai lệch là hữu hiệu để bảo vệ thường dân, và vai trò giấu mặt của đặc nhiệm phương Tây cũng như nước ngoài khác trên chiến trường đã hoàn toàn được che đậy, ngay cả khi đặc nhiệm Qatar (bao gồm các cựu binh đánh thuê ISI của Pakistan) tổ chức cuộc tấn công quyết định vào trụ sở Bab Al-Aziziya ở Tripoli. NATO đã thực hiện 7'700 cuộc không kích, 30'000 đến 100'000 người đã bị giết hại, các thành phố trung thành bị ném bom san phẳng và các bộ tộc bị thanh trừng, đất nước chìm trong hỗn loạn khi các đội quân Hồi giáo được phương Tây huấn luyện và trang bị vũ khí chiếm lấy lãnh thổ và các cơ sở dầu mỏ. Lực lượng vũ trang Misrata, do đặc nhiệm phương Tây huấn luyện và trang bị, là đội quân mạnh nhất và tàn bạo nhất. Khi tôi viết những dòng này, người biểu tình đã chiếm đóng tòa nhà Quốc hội ở Tripoli 4 hay 5 lần trong tháng, hai đại biểu dân cử đã bị bắn và bị thương khi chạy trốn.

24. Mexico

Con số người chết trong cuộc chiến ma túy ở Mexico đã vượt qua 100'000. Băng đảng ma túy tàn bạo nhất là Los Zetas. Quan chức Mỹ gọi tổ chức Zetas là "băng đảng nguy hiểm nhất, có ưu thế công nghệ nhất tại Mexico". Băng đảng Zetas được hình thành từ lực lượng an ninh do đặc nhiệm Mỹ huấn luyện tại các trường quân sự Mỹ ở Fort Benning, Georgia, và Fort Bragg, Bắc Carolina. 

25. Myanmar

Sau cuộc cách mạng Trung Quốc, các tướng Quốc Dân đảng chạy sang Myanmar và trở thành các trùm ma túy, dưới sự bảo trợ của quân đội Thái Lan, được Đài Loan cung cấp tài chính và được CIA hỗ trợ vận chuyển đường không. Sản lượng ma túy của Myanmar đã tăng từ 18 tấn năm 1958 lên 600 tấn năm 1970. CIA duy trì các lực lượng này để chống lại cộng sản Trung Quốc nhưng họ cũng đã biến vùng "tam giác vàng" thành nơi sản xuất ma túy lớn nhất thế giới. Phần lớn ma túy được vận chuyển bằng thú thồ hàng tới Thái Lan, từ đó CIA chuyển ma túy đến các xưởng chế xuất heroin ở Hong Kong và Malaysia. Việc buôn bán thay đổi vào khoảng năm 1970 khi đối tác của CIA là tướng Vàng Pao thiết lập các xưởng chế xuất mới ở Lào để cung cấp heroin cho lính Mỹ tại Việt Nam.

26. Nicaragua

Anastasio Somosa cai trị Nicargua như là tài sản riêng của ông ta trong suốt 43 năm với sự hỗ trợ vô điều kiện của Mỹ, ngay cả khi lực lượng Vệ Binh Quốc gia thực hiện các tội ác ngoài sức tưởng tượng từ thảm sát và tra tấn tới cướp bóc và cưỡng hiếp mà hoàn toàn không bị trừng phạt. Sau khi nhà độc tài bị cuộc cách mạng Sandinista lật đổ năm 1979, CIA đã tuyển dụng, huấn luyện và hỗ trợ cho lính đánh thuê "Contra" xâm lược Nicaragua đồng thời thực hiện các vụ khủng bố gây bất ổn. Năm 1986 Tòa án Quốc tế đã tuyên bố Mỹ có tội trong việc tấn công Nicaragua vì đã triển khai lực lượng Contra và phá hoại các cảng biển của Nicaragua. Tòa án yêu cầu Mỹ chấm dứt tấn công và bồi thường chiến tranh cho Nicaragua, nhưng người Mỹ không bao giờ thực hiện. Mỹ tuyên bố rằng không bị ràng buộc bởi các phán quyết của Tòa án Quốc tế, họ ngồi xổm lên luật pháp quốc tế.

27.Pakistan; 28.Saudi Arabia; 29. Turkey

Sau khi đọc những bài trước đây của tôi tại AlterNet về thất bại của cuộc chiến chống khủng bổ, cựu chuyên gia CIA và chống khủng bố của bộ ngoại giao Larry Johnson đã nói với tôi: "Vấn đề chính trong đánh giá nguy cơ khủng bố là xác định được nguồn tài trợ chính phủ". Khác với cách đây 20 năm, các trùm khủng bố lớn nhất hiện nay là Pakistan, Arab Saudi và Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù là lực lượng cánh hữu/tân bảo thủ nhưng Iran không hoạt động, can dự hay tạo điều kiện cho khủng bố. Trong 12 năm qua, tổng cộng viện trợ quân sự của Mỹ cho Pakistan là 18,6 tỷ USD.  Mỹ đã đàm phán hợp đồng cung cấp vũ khí lớn nhất trong lịch sử với Arab Saudi. Còn Thổ Nhĩ Kỳ là thành viên dài hạn của NATO. Ba quốc gia đồng minh của Mỹ này là nhà tài trợ chính cho khủng bố trên khắp thế giới. 

30. Panama

Các quan chức cơ quan bài trừ ma túy Mỹ muốn bắt giữ Manuel Noriega năm 1971, khi ông ta đang là giám đốc cơ quan tình báo quân đội Panama. Họ đã đưa ra đủ bằng chứng về tội buôn bán ma túy của ông ta, nhưng đó là đặc vụ dài hạn và người cấp tin của CIA, cũng giống như các đặc vụ buôn ma túy khác của CIA từ Marseille tới Macao, không ai có thể động tới ông ta. Mặc dù bị sa thải tạm thời trong nhiệm kỳ của tổng thống Carter song ông ta vẫn nhận được ít nhất 100'000 USD mỗi năm từ ngân khố của Mỹ. Khi Noriega trở thành người cai trị Panama, giá trị của ông ta đối với CIA được nâng lên, qua báo cáo các cuộc họp với Fidel Castro và Daniel Ortega của Nicaragua, giúp Mỹ che giấu các cuộc chiến ở Trung Mỹ. Noriega dường như đã chấm dứt buôn bán ma túy vào khoảng năm 1985, trước khi Mỹ buộc tội ông ta năm 1988. Cáo buộc ấy là cái cớ để Mỹ xâm lược Panama năm 1989, mà mục đích chính của Mỹ là kiểm soát hoàn toàn Panama, cái giá phải trả là ít nhất 2000 người chết.

31. The Philippines

Kể từ khi Mỹ tiến hành cái được gọi là cuộc chiến chống khủng bố năm 2001, một lực lượng bao gồm 500 đơn vị đặc nhiệm hỗn hợp đã triển khai hoạt động ở miền Nam Philippine. Hiện nay với sự "dịch chuyển sang châu Á" dưới thời Obama, Mỹ đã tăng viện trợ quân sự cho Philippine, từ 12 triệu USD năm 2011 lên 50 triệu USD mỗi năm. Nhưng các nhà hoạt động nhân quyền Philippine cáo buộc rằng sự gia tăng viện trợ ấy đi cùng với sự gia tăng hoạt động của các biệt đội tử thần chống lại thường dân. Trong 3 năm qua đã có ít nhất 158 người bị các biệt đội tử thần sát hại.

32. Syria

Khi tổng thống Obama chấp thuận gửi vũ khí và thiết bị quân sự từ Libya cho "Quân đội Syria tự do" đóng ở Thổ Nhĩ Kỳ bằng các máy bay NATO không mang phù hiệu cuối năm 2011, ông ta đã tính toán rằng Mỹ và đồng minh có thể lặp lại thành công như việc lật đổ chính phủ Lybia. Tất cả các bên liên quan đều hiểu rằng Syria sẽ chìm trong một cuộc chiến đẫm máu kéo dài, cho dù họ có chơi kiểu gì thì kết quả vẫn sẽ như vậy, ngay cả khi 55% người Syria khi được hỏi đã trả lời là sẽ tiếp tục ủng hộ tổng thống Assad. Vài tháng sau, các nhà lãnh đạo phương Tây thay thế kế hoạch hòa bình của Kofi Annan bằng kế hoạch mà họ gọi là B "Những người bạn của Syria". Đó không phải là kế hoạch hòa bình mà là một sự mở rộng quy mô, cam kết hỗ trợ, tiền và vũ khí cho lực lượng jihad ở Syria để chắc chắn là họ từ bỏ kế hoạch hòa bình của Annan và tiếp tục chiến đấu. Sự thay đổi ấy đã đè nặng lên số phận của hàng triệu người Syria. Suốt hai năm qua, Qatar đã chi 3 tỷ USD vào mua sắm vũ khí, Arabia Saudi nhập vũ khí từ Croatia và phương Tây, đặc nhiệm hoàng gia Arab đã huấn luyện hàng ngàn phần tử cực đoan jihad, hiện giờ liên minh với al-Qaeda. Năm 2012 Hiệp định Geneva II đã cố gắng khôi phục kế hoạch hòa bình của Annan, song phương Tây yêu cầu sự thay đổi chính trị, có nghĩa là tổng thống Assad phải ngay lập tức từ chức, điều đó cho thấy các lãnh đạo phương Tây vẫn đánh giá chính phủ cao hơn hòa bình. Nói theo cách của Phyllis Bennis là Mỹ và đồng minh sẽ tiếp tục chiến đấu tới người Syria cuối cùng.

33. Uruguay

Các quan chức ngoại giao của Mỹ cộng tác với những người sẵn sàng kiếm tiền từ việc đồng lõa với tội ác của Mỹ trên khắp thế giới. Ở Uruguay năm 1970, khi lãnh đạo ngành cảnh sát Alejandro Otero từ chối cho Mỹ huấn luyện các sĩ quan cảnh sát cách tra tấn thì đã bị mất chức. Quan chức Mỹ bị cáo buộc trong vụ đó là Dan Mitrione, người này hợp tác với Văn Phòng An Toàn Công Cộng, một ban của Tổ chức Phát triển Quốc tế của Mỹ. Các bài huấn luyện của Mitrione được báo cáo là bao gồm tra tấn những người vô gia cư đến chết bằng dùi cui điện để dạy cho học viên biết cách làm việc.

34. Yugoslavia

NATO ném bom Nam Tư năm 1999 là tội ác chiến tranh tồi tệ vi phạm điều 2.4 Hiến Chương Liệp Hiệp Quốc. Khi ngoại trưởng Anh Robin Cook nói với ngoại trưởng Mỹ Albright rằng Anh gặp "vấn đề với luật sư" về vụ tấn công, bà ấy đã trả lời là Anh nên "kiếm luật sư mới", James Rubin phó ngoại trưởng của Albright đã tường thuật lại câu chuyện. Lực lượng địa phương tham gia vào cuộc chiến của NATO chống lại Nam Tư là Quân đội Giải phóng Kosovo (KLA), do Hashim Thaci lãnh đạo. Báo cáo năm 201 của Hội đồng Châu Âu và cuốn sách của Carla Del Ponte, cựu công tố của Tòa án Quốc tế tối cao về vụ Nam Tư, đã đưa ra cáo buộc cho thấy Thaci điều hành tổ chức tội phạm có tên là Drenica trong thời kỳ NATO chiếm đóng, tổ chức Drenica đã đưa 400 người Serb bị bắt giữ tới Albania để giết và lấy nội tạng đem bán. Hashim Thaci hiện giờ là thủ tướng trong Hội đồng Bảo trợ Kosovo của NATO.

35. Zaire

Patrice Lumumba, chủ tịch đương nhiệm của phong trào Liên Phi Quốc gia Congo, đã tham gia vào quá trình giành độc lập của Congo và trở thành thủ tướng dân cử đầu tiên của Congo năm 1960. Ông ấy bị lật đổ trong cuộc đảo chính được CIA hậu thuẫn của Joseph-Desire Mobutu, vốn là chỉ huy quân đội. Mobutu giao Lumumba cho phe ly khai và lính đánh thuê được Bỉ hậu thuẫn. Lumumba đã chiến đấu ở tỉnh Katanga và bị bắn trong một vụ đọ súng với lính đánh thuê Bỉ. Mobutu xóa bỏ bầu cử và tự phong mình làm tổng thống năm 1965, cai trị với chế độ độc tài trong suốt 30 năm. Mobutu giết hại các đối thủ chính trị bằng cách treo cổ công khai, tra tấn tới chết và biển thủ khoảng 5 tỷ USD mặc dù Zaire, cái tên được Mobutu thay cho Congo, là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới. Nhưng Mỹ tiếp tục ủng hộ Mobutu, ngay cả khi tổng thống Carter công khai giữ khoảng cách, Zaire vẫn nhận được 50% tổng số viện trợ quân sự của Mỹ cho khu vực châu Phi cận Sahara. Khi Quốc hội bỏ phiếu cắt giảm viện trợ quân sự thì Carter và giới doanh nghiệp lại tìm cách khôi phục lại. Chỉ cho tới những năm 1990 thì viện trợ của Mỹ mới bắt đầu giảm đi, cho tới khi Mobutu bị Laurent Kabila lật đổ năm 1997 và chết sau đó.

***
Đại tá Blair là giám đốc khu vực của trường quân sự Mỹ (SOA) từ năm 1986 đến năm 1989. Ông mô tả các chương trình huấn luyện đã được thấy ở SOA như sau: "Lý thuyết được giảng dạy là nếu học viên muốn có thông tin thì phải lạm dụng vũ lực, bắt giữ trái phép, đe dọa các thành viên trong gia đình và giết hại. Nếu học học viên không thể thu được thông tin cần thiết, hay không thể buộc ai đó ngậm miệng hoặc chấm dứt việc họ đang làm, thì phải ám sát họ-học viên phải ám sát họ với một trong số các biệt đội tử thần".


Câu trả lời tiêu chuẩn của các quan chức Mỹ đối với những tội ác có hệ thống mà tôi đã mô tả là những điều đó có thể xảy ra tại những thời điểm cụ thể trong quá khứ song không phản ánh trong dài hạn hay tiếp diễn trong chính sách của Mỹ. Trường quân sự Mỹ bị chuyển ra khỏi khu vực kênh đào Panama tới Fort Benning, Georgia, và được thay thế bằng Viện Hợp tác An ninh Western Hemisphere (WHINSEC) năm 2001. Nhưng Joe Blair có thể nói thêm điều gì đó về tổ chức ấy. Ông khai tại phiên điều trần của những người phản đối SOA năm 2002: "Hầu như không có sự thay đổi đáng kể ngoài tên gọi. Họ vẫn dạy các khóa học như tôi đã từng dạy và chỉ thay đổi tên khóa học, còn giáo trình vẫn như cũ".


Một khối lượng lớn đau khổ của loài người có thể tránh được cũng như nhiều vấn đề toàn cầu có thể giải quyết được nếu như Mỹ có thể đóng góp thiết thực vào nhân quyền và thi hành luật lệ, thay vì áp đặt một cách ích kỷ và đầy toan tính cho đối thủ nhưng không bao giờ đặt ra cho bản thân và đồng minh.