Đã có nhiều nhà kinh tế học ở nhiều phái khác nhau phê phán khái niệm nền tảng homo economicus [con người kinh tế] của kinh tế học hiện đại, song có lẽ Guglielmo Carchedi là người triệt để nhất vì ông dựa trên phép biện chứng, ông chỉ ra nền tảng của homo economicus là tính phi thời gian và do vậy không có vận động. Mặt khác, homo economicus chỉ là con người lý tưởng của xã hội tư bản. Do đó, toàn bộ khoa kinh tế học hiện đại bắt đầu bằng giả định là chủ nghĩa tư bản tồn tại vĩnh viễn, bất chấp mọi sự biến đổi nội tại. Khoa kinh tế học cho thấy mang tính tôn giáo hơn là khoa học. Đây là bản dịch phần 6 "The alien rationality of homo economicus" trong chương II của cuốn "Behind the Crisis: Marx’s Dialectics of Value and Knowledge" của Guglielmo Carchedi. Tiêu đề do người dịch đặt.
Sự hợp lý phi lý của homo economicus
Các phần phía trên đã chứng minh rằng lý thuyết của Marx không thể dung hòa với một khái niệm mang tính thống kê về thực tại mà trong đó thời gian bị bỏ qua và sự cân bằng thống trị. Trong rất nhiều khẳng định, kinh tế chính thống đã cho thấy là được xây dựng dựa trên khái niệm này, lập luận phía trên đã trình bày về sự không thể dung hòa giữa kinh tế chính trị Marxist và kinh tế học chính thống. Nhưng có phải cả hai phương pháp tiếp cận trái ngược cùng tự mâu thuẫn trong các khái niệm của chúng? Tất nhiên, kinh tế học chính thống tuyên bố rằng không có mâu thuẫn nội tại. Đặc trưng cần phải xem xét trong trường hợp này là homo economicus [con người kinh tế], kiến thức sơ đẳng của mọi sinh viên kinh tế học. Phần này sẽ cho thấy sự hợp lý của homo economicus và qua đó là lý thuyết kinh tế học chính thống thất bại trong kiểm định logic hình thức, phương thức duy lý duy nhất mà kinh tế học chính thống biết đến, chứ không phải lý thuyết của Marx.
Theo lý thuyết kinh tế học chính thống, mà chủ nghĩa tân cổ điển là một kết quả, nếu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa được tự do hoạt động, không có cản trở, có khuynh hướng tự nhiên hướng tới cân bằng. Khuynh hướng này dựa trên homo economicus, sự tồn tại hợp lý par excellence [đặc biệt]. Sự hợp lý này được minh họa bằng đường cung và đường cầu: nếu cầu về một hàng hóa tăng lên, giá của hàng hóa tăng và vice versa [ngược lại]; nếu cung của một hàng hóa tăng, giá của hàng hóa giảm và vice versa. Hệ quả là hai đường có độ dốc khác nhau, một đi lên và một đi xuống. Do đó, chúng có thể giao nhau, tạo thành giá cân bằng, có nghĩa là mức giá mà tại đó cung và cầu khớp với nhau. Đây là alpha và omega trong sự hợp lý của homo economicus.
Lập luận lý thuyết này có thể phê phán trên nhiều phương diện. Mặc dù vậy, sự phê phán phải chính xác. Ví dụ, có thể nói rằng sự hợp lý này là ích kỷ vì các cá nhân tối đa hóa lợi ích của họ độc lập với người khác, như thể họ là những đơn tử mà đối với chúng xã hội không tồn tại. Điều này khá chính xác. Homo economicus là kẻ ích kỷ bởi vì anh ta tham lam và bóc lột, những đặc tính giả định sự tồn tại của người khác cũng như lợi ích của anh ta đối với những người đó. Chúng ta hãy lấy ví dụ về hành vi phía sau đường cầu. Nếu nhu cầu về hàng hóa tăng lên, có nghĩa là nếu những những người không có hàng hóa ấy rất cần nó, những người có hàng hóa sở hữu lợi dụng tình hình (nhu cầu lớn hơn) và tăng giá hàng hóa. Homo economicus tối đa hóa không độc lập, mà với chi phí của những người khác. Anh ta là kẻ ích kỷ vì anh ta bóc lột nhu cầu của người khác. Khách quan phản ánh trong thực tế là các đại diện kinh tế có thể (và thực hiện) hành động khác, tức là vị tha. Nhưng các nhà kinh tế học chính thống có thể dễ dàng phủ nhận phê phán này bằng cách gộp vị tha vào ích kỷ: nếu một cá thể tối đa hóa sự thỏa mãn của họ bằng cách hành động vị tha, họ không từ bỏ sự hợp lý ích kỷ. Mặc dù vậy, bất chấp lợi thế rõ ràng về mặt tư tưởng đối với tư bản trong việc gộp vị tha vào ích kỷ, có hai lý do để phủ nhận sự lựa chọn này. Thứ nhất nếu con người vừa ích kỷ vừa vị tha, nếu họ tối đa hóa lợi ích của họ bằng cách hành động theo cả vị tha và ích kỷ và nếu sự tối đa hóa là hợp lý thì họ sẽ luôn luôn hợp lý, bất kể họ có làm gì. Thứ hai, một hành vi vị tha sẽ xung đột với các lập luận lý thuyết lớn hơn. Một hành vi vị tha sẽ làm giảm (hơn là làm tăng) giá nếu nhu cầu (cầu) tăng để tạo điều kiện cho việc thỏa mãn những người có nhu cầu lớn hơn. Nhưng một hành vi như vậy giả định rằng đường cầu có thể có cả đi lên và đi xuống, sẽ không có bất cứ sự đảm bảo nào về việc đường cung và đường cầu sẽ giao nhau. Trong trường hợp này, toàn bộ cấu trúc tân cổ điển, bao gồm cả khái niệm cân bằng, sẽ sụp đổ như ngôi nhà xếp bằng quân bài. Vị tha là mâu thuẫn với lý thuyết tân cổ điển: Chúng loại trừ lẫn nhau.
Do vậy, sự ích kỷ là hành vi duy nhất phù hợp với lý thuyết tân cổ điển. Đâu là bằng chứng thực nghiệm cho thấy con người thực sự hành động giống như homo economicus? Bất chấp một số ngoại lệ - một số người có lòng tốt – có thể bỏ qua, quy mô của hành vi sai lệch là rất lớn. Có một số lượng lớn hàng hóa, như hàng hóa xa xỉ và hàng hóa tài chính, mà nhu cầu về chúng tăng lên khi giá tăng và giảm xuống khi giá giảm. Khi loại thứ nhất có thể tương đối không quan trọng về mặt định lượng thì đối với loại thứ hai cũng có thể nói tương tự. Ngay trong những năm 1990, thị trường tài chính lớn hơn xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ năm mươi lần. Một ví dụ khác trong số rất nhiều ví dụ, vào đầu những năm 1990, một trăm quỹ hưu trí lớn nhất của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Châu Âu quản lý một phần ba tổng thu nhập của thế giới. Không tồi cho một ngoại lệ! Nhưng chưa phải là hết. Hành vi của cầu chịu ảnh hưởng rất mạnh của chu kỳ kinh tế. Ví dụ, vào giai đoạn tăng trưởng, các nhà tư bản tăng mua sắm tư liệu sản xuất và sức lao động ngay cả khi giá của chúng tăng. Trong giai đoạn suy thoái, họ giảm nhu cầu ngay cả khi giá giảm. Điều tương tự cũng diễn ra với hàng hóa tiêu dùng. Theo đó mọi hàng hóa, từ hàng tiêu dùng cho đến hàng hóa vốn, từ hàng hóa tài chính cho đến xa xỉ, đều có thể biến động theo giả định về homo economicus hoặc không. Do vậy, một phần lớn của thực tiễn là phi lý đối với homo economicus và không thể giải thích theo các khái niệm lý thuyết được xây dựng dựa trên nó. Hơn nữa, độ dốc của đường cầu là không xác định và khái niệm cân bằng (trong trao đổi) là không tồn tại.
Nhưng vẫn còn nữa. Độ dốc của đường cầu và sự hợp lý của homo economicus cũng không thể kiểm tra bằng thực nghiệm. Nếu tôi muốn biết sự thay đổi nhu cầu của một cá nhân về một hàng hóa do giá cả thay đổi, tôi phải giả định điều kiện ceteris paribus [các mặt khác không đổi], có nghĩa là cá nhân này có cùng một quan tâm (sở thích) đối với hàng hóa này sau khi cũng như trước khi sự thay đổi xảy ra. Hay nói cách khác, đường bàn quan của tôi phải không thay đổi theo thời gian hay tôi sẽ không thể kiểm nghiệm xem nhu cầu của tôi có thay đổi và thay đổi ra sao do giá cả thay đổi. Nhưng chúng ta không thể chắc chắn điều đó trong trường hợp này, giả thuyết chỉ có thể kiểm nghiệm nếu chúng ta giả định một thực tiễn không thay đổi, có nghĩa là phi thời gian. Marshall đã nhận ra điều đó: “Chúng ta không thể giả định thời gian cho bất cứ thay đổi nào trong đặc trưng về sở thích của con người”. Nếu lý thuyết phải kiểm định được, nó sẽ không phù hợp do nó phải loại bỏ thời gian. Nếu thời gian được đưa vào phân tích, lý thuyết không thể kiểm định được. Theo khái niệm của phương pháp kiểu Popper – mà kinh tế học chính thống gắn bó trung thành – lý thuyết này là thuần túy siêu hình. Hơn nữa, hệ quả theo khái niệm về nội dung giai cấp của một lý thuyết dựa trên giả định sự vắng mặt của thời gian (và do đó là cân bằng) đã được làm rõ ở phía trên.
Nhưng vẫn còn nữa. Homo economicus không chỉ ích kỷ và tham lam, anh ta còn ngạo mạn nữa. Anh khẳng định rằng sự hợp lý của anh ta không gì hơn là sự thể hiện bản chất của con người. Giả thuyết cho rằng bản chất con người là ích kỷ dựa trên một xoay sở tư tưởng khéo léo. Điều này dễ thấy hơn nếu xem xét lý thuyết cận biên. Lý thuyết này dựa trên khái niệm về độ thỏa dụng biên giảm dần, có nghĩa là sự thỏa mãn của người tiêu dùng được tạo ra dựa trên một đơn vị tăng thêm của một hàng hóa nhất định. Trong tình trạng cân bằng, tỷ lệ giữa độ thỏa dụng biên và giá cả phải bằng nhau đối với mọi hàng hóa. Sau đó, nếu độ thỏa dụng biên của một hàng hóa tăng thì nhu cầu về hàng hóa đó tăng lên. Nhưng đồng thời tỷ lệ giữa độ thỏa dụng biên và giá cả cũng tăng lên. Để tái lập cân bằng, giá cả của hàng hóa đó cũng phải tăng lên. Điều tương tự diễn ra trong trường hợp độ thỏa dụng biên giảm. Ba đặc trưng xuất hiện. Thứ nhất, nhu cầu phụ thuộc vào độ thỏa dụng được tạo ra từ việc tiêu thụ thêm một đơn vị hàng hóa, có nghĩa là nhu cầu giảm bởi vì sự thỏa mãn tăng lên (ngay cả khi sự thỏa mãn tăng lên với một nhịp độ giảm xuống). Thứ hai, một sự so sánh giữa các độ thỏa dụng giả định rằng chúng liên quan tới giá cả, có nghĩa là giá cả không cho thấy sức mua mà chỉ đơn giản là yếu tố để làm cho sự so sánh khả thi. Thứ ba, dựa trên sự so sánh giữa các tỷ lệ mà cả đường cầu (có nghĩa là bản chất ích kỷ và hợp lý của đại diện kinh tế) và cân bằng được thiết lập.
Lý thuyết này có thể phê phán trên nhiều góc độ. Ở đây, nó đủ để thể hiện nội dung giai cấp. Nếu nhu cầu giảm với sự thỏa mãn gia tăng, sự vận động của nhu cầu bị quyết định về mặt sinh học hơn là xã hội. Đặc trưng của sinh lý học là sự ích kỷ vốn có trong đường cầu đã được tạo thành. Nhưng “sự giải thích” về nhu cầu kiểu này đã mang nội dung giai cấp – nó phản ánh quan điểm của một thiểu số không gặp vấn đề gì về sức mua (những người mà giới hạn cho sự tiêu dùng của họ chỉ là sự thỏa mãn) hơn là quan điểm của giai cấp lao động và không phản ánh quan điểm của đại đa số dân chúng thế giới, những người không đủ sức mua (ngay cả khi nội hàm của “không đủ” tùy thuộc vào tình hình cụ thể). Đối với họ, nếu giá cả hàng hóa mà họ cần tăng lên, nhu cầu của họ có thể giảm xuống nhưng sự giảm xuống là do sức mua (giá trị) giảm xuống, bởi ra thu nhập giới hạn và thường xuyên không đủ của họ. Trong trường hợp này, cả đường cầu (hành vi của dân chúng) và lý thuyết của nó (phản ánh sự hợp lý của con người) đều mang nội dung xã hội và giai cấp. Lý thuyết cận biên áp đặt quan điểm của người siêu giàu, và do đó là tư bản lên phần còn lại của dân chúng thế giới. Sức mạnh của hệ tư tưởng này là nó nói lời dối trá dường như phù hợp với kinh nghiệm hàng ngày.
Hệ quả đi rất xa. Hành vi “hợp lý” (có nghĩa là bóc lột và ích kỷ) của homo economicus (như đã mô tả trong hàm cầu) được quyết định bởi xã hội tư bản và nó hoạt động phục vụ cho việc tái sản xuất xã hội này. Không có gì hợp lý về hành vi này ngoại trừ dưới chủ nghĩa tư bản, con người phải học cách và có nghĩa vụ trở nên ích kỷ. Theo quan điểm của Marx, bản chất con người không ích kỷ (như phê phán giả định về sự ích kỷ hợp lý của homo economicus đã cho thấy) cũng không vị tha. Con người có khuynh hướng thực hiện tối đa tiềm năng của họ, thứ có thể thực hiện chỉ trong phạm vi một xã hội cụ thể do quan hệ sở hữu và quan hệ sản xuất quyết định (xem Chương 1, Phần 2.2 phía trên). Hệ quả là họ chỉ có thể tiến tới sự phát triển hoàn toàn của bản thân theo cách cùng nhau hoặc với chi phí của người khác. Đây là sự lựa chọn và là sự khác biệt giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Khái niệm về chủ nghĩa xã hội mà trong đó sự khan hiếm trở nên ít gay gắt hay thậm chí là được giải quyết không cho thấy sự khác biệt thật sự vốn có trong sự thay đổi này. Lý do khiến sự thay đổi này khả thi là con người được tạo thành bởi những quan hệ xã hội mâu thuẫn mà họ được sinh ra trong đó và thông qua đó họ phát triển (một số không loại trừ mà còn đòi hỏi cá tính của họ như là một cá nhân cụ thể, như đã trình bày ở Chương 1, Phần 3 phía trên). Dưới chủ nghĩa tư bản, sự ích kỷ là chức năng để tái sản xuất hệ thống, sự vị tha (theo nghĩa hợp tác, đoàn kết và bình đẳng) là chức năng để thay thế nó. Trong xã hội này, một người có thể ích kỷ hay vị tha (ở nhiều cấp độ khác nhau) chỉ đơn giản là bởi vì những quan hệ xã hội mà cá nhân được sinh ra và lớn lên trong đó chứa đựng mâu thuẫn, bởi vì hệ thống – được dựa trên các quan hệ xã hội mâu thuẫn – tạo ra các điều kiện để tái sản xuất ra nó cũng như thay thế nó.
Sự phù hợp quy luật của hệ thống tư bản là dựa trên bản chất được cho là bóc lột và ích kỷ của con người, do vậy hệ thống ích kỷ và bóc lột này được coi là phù hợp nhất, và do vậy là hợp lý nhất, được biện minh bằng những khái niệm rất bản chất. Bất cứ hệ thống nào khác, như chủ nghĩa cộng sản dựa trên hợp tác, đoàn kết và bình đẳng, đều trở nên phi lý bởi vì nó mâu thuẫn với giả định về bản chất con người. Nhưng nếu ai thừa nhận rằng homo economicus là con quái vật của hệ thống tư bản chủ nghĩa và anh ta phản ánh bản chất của hệ thống này, sự phù hợp quy luật của anh ta sẽ bị loại bỏ. Homo economicus không gì hơn là một cấu trúc mang tính hệ tư tưởng. Ngay cả trong những sự lựa chọn dường như vô hại, như việc sử dụng khái niệm Latin, cũng mang tính hệ tư tưởng vì nó có khuynh hướng tin rằng giai đoạn cuối cùng trong sự tiến hóa của con người không phải là homo sapiens mà là homo economicus.
Chủ nghĩa tư bản có thể được bảo vệ trên các phương diện khác. Ví dụ như Milton Friedman cho rằng kinh tế học chính thống có thể được bảo vệ bằng sức mạnh dự đoán hơn là tính hiện thực của nó. Đây không chỉ là sự thừa nhận tính thiếu thực tế (và do đó là sự bất lực) của lý thuyết, mà còn là mục đích tự thân của phương pháp. Trên thực tế, sức mạnh dự báo của homo economicus là bằng không. Như đã thấy phía trên, homo economicus dự báo hành vi của các đại diện kinh tế trong những trường hợp mà họ hành động như vậy và thất bại trong việc dự báo hành vi trong tất cả các trường hợp khác. Giai đoạn sau này rất nhiều và thực sự là quan trọng khiến chúng có thể là quy luật thay vì là ngoại lệ. Nhưng đó không phải là điểm chính yếu. Điều quan trọng là ngay cả khi dự báo chính xác (ví dụ giá cả tăng lên sau khi nhu cầu tăng), homo economicus cũng không có giải thích chính xác về điều đó bởi vì giải thích được dựa trên bản chất ích kỷ phi lịch sử của con người. Nếu sự giải thích là không đầy đủ, diễn biến là ngẫu nhiên. Điều đó tương đồng với cái được gọi là những ngoại lệ.
Về quan hệ giữa tính hiện thực của giả định và giá trị của một lý thuyết, chúng ta đã thấy ở Chương 1, Phần 7 rằng điểm quan trọng là phương pháp trừu tượng hóa. Theo nghĩa này, mọi lý thuyết được xây dựng dựa trên các giả định không có thật, bởi vì chúng đơn giản hóa hiện thực một cách cực đoan. Hệ quả là tính hiện thực hay phi hiện thực của lý thuyết phụ thuộc và loại giả định mà chúng dựa trên đó. Có hai loại giả định, cả hai khác nhau và đối lập nhau do chúng được tạo ra từ hai phương pháp trừu tượng hóa khác nhau và đối lập nhau. Đây là kiểu lập giả định cho phép chúng ta xây dựng một lý thuyết thực tế do các giả định phản ánh điểm kết thúc của một quá trình trừu tượng hóa đặc trưng bản chất và quyết định của các thành phần của hiện thực mà người ta muốn phân tích. Đây là quá trình quy nạp của Marx đã được thảo luận trong Chương 1 Phần 7. Các khái niệm đạt được thông qua quá trình này có thể nói là một sự chiết xuất từ hiện thực, bao gồm các mặt cụ thể và chi tiết hơn của hiện thực. Quá trình diễn dịch (thảo luận ở Chương 1 Phần 7) khởi đầu với những khái niệm đó và đi ngược trở lại, từ cao hơn đến thấp hơn và các cấp thấp hơn nữa của trừu tượng hóa. Phương pháp này cho phép đạt được các quan điểm hiện thực và hiện thực (cụ thể) hơn nữa thực tiễn – cái mà Marx gọi là “sự cụ thể trong tư duy”. Nếu trên phương diện khác, người ta bắt đầu từ các giả định phi thực tế do thực tế đã bị loại bỏ một cách không điều chỉnh khỏi các giả định ấy, lý thuyết dựa trên các giả định ấy không thể không bị tách biệt khỏi thực tế với một khoảng cách không thể vượt qua. Đây là trường hợp của của homo economicus, sự tồn tại về mặt lý thuyết (khả năng kiểm nghiệm của nó) phụ thuộc vào sự vắng mặt của thời gian. Một khi thời gian được đưa vào phân tích thì homo economicus không có lý do để tồn tại nữa bởi vì sự tồn tại và khả năng kiểm nghiệm của nó phụ thuộc vào sự vắng mặt của thời gian. Mọi lý thuyết, không chỉ tân cổ điển, có cơ sở là homo economicus, đều mang đặc trưng (bất kể là chúng có nhận ra điều đó hay không) dựa trên giả định căn bản rằng thời gian không tồn tại. Nhưng khi giả định đó được tạo ra, nó không thể bị vứt bỏ và người ta bị cầm tù trong một mô hình hay khái niệm về thực tế là bất cứ cái gì nhưng không phải hiện thực. Kết luận căn bản trong hoàn cảnh này là sự vắng mặt của thời gian và do đó là sự thay đổi, xã hội cũng như kinh tế trong trạng thái cân bằng. Sự cân bằng và phi thời gian do đó giả định lẫn nhau.