Showing posts with label Đức. Show all posts
Showing posts with label Đức. Show all posts

Thursday, October 23, 2014

Một huyền thoại chống Cộng Sản: Bức Tường Berlin

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài báo "The Berlin Wall: Another Cold War Myth" của tác giả nổi tiếng William Blum về sự thật phía sau Bức Tường Berlin. Tiêu đề do người dịch đặt.

Bức Tường Berlin: Một Huyền Thoại Chiến Tranh Lạnh Khác

Ngày 9 tháng 11 là dịp kỷ niệm lần thứ 25 ngày Bức Tường Berlin sụp đổ. Sự huyên náo cuồng nhiệt đã bắt đầu nhiều tháng trước ở Berlin. Ở Hoa Kỳ, chúng ta có thể tiên đoán rằng tất cả những sáo ngữ thời Chiến Tranh Lạnh về Thế Giới Tự Do đối đầu với Chuyên Chế Cộng Sản sẽ được được tuôn ra ào ạt và câu chuyện cổ tích ngây ngô về bức tường sẽ được nhắc lại: Vào năm 1961, cộng sản Đông Berlin đã dựng một bức tường để ngăn công dân bị đàn áp của họ khỏi trốn sang Tây Berlin và tự do. Tại sao? Bởi vì cộng sản không thích nhân dân tự do hay biết được “sự thật”. Còn lý do nào khác nữa không?

Đầu tiên, trước khi bức tường được dựng lên vào năm 1961 hàng ngàn người Đông Đức vẫn đi làm hàng ngày ở phía Tây và sau đó trở về nhà ở phía Đông vào buổi tối; nhiều người quay lại và tiếp tục mua sắm hay vì lý do khác. Rõ ràng là không có gì ở phía Đông chống lại ý muốn của họ. Tại sao bức tường được dựng lên? Có hai lý do chính:

1) Phía Tây làm phía Đông điêu đứng với một chiến dịch lớn tuyển dụng lao động chuyên môn và lành nghề, những người vốn được đào tạo bằng kinh phí của chính quyền cộng sản. Điều này dẫn tới khủng hoảng lao động và sản xuất nghiêm trọng ở phía Đông. Một trong những ghi nhận về điều đó, tờ New York đưa tin vào năm 1963: “Tây Berlin gánh chịu hậu quả kinh tế từ bức tường khi mất khoảng 60.000 lao động lành nghề, những người đi từ nhà của họ ở Đông Berlin đến làm công việc hàng ngày ở Tây Berlin.”

Cần phải ghi nhận rằng vào năm 1999, tờ USA Today đưa tin: “Khi Bức Tường Berlin sụp đổ [1989], người Đông Đức tưởng tượng về một cuộc sống tự do thừa thãi hàng tiêu dùng và khó khăn bị đẩy lùi. Mười năm sau, 51% nói rằng họ hạnh phúc hơn với chủ nghĩa cộng sản”. Các khảo sát trước đó hơn thậm chí còn cho thấy hơn 51% thể hiện cùng quan điểm, trong mười năm nhiều người trong còn nhớ cuộc sống ở Đông Đức với sự yếu mến đã qua đời; mặc dù vậy mười năm sau nữa, vào năm 2009, tờ Washington Post đã đưa tin: “Người Tây [Berlin] nói rằng họ chán ngấy với xu hướng đánh bóng các hoài niệm về thời cộng sản của những người đồng bào phía đông”. Đó là thời kỳ hậu thống nhất mà câu tục ngữ của nước Nga mới và Đông Âu được khai sinh: “Mọi thứ cộng sản nói về chủ nghĩa cộng sản là dối trá, nhưng mọi thứ họ nói về chủ nghĩa tư bản lại trở thành sự thật”. 

Cũng cần phải ghi nhận thêm rằng sự phân chia nước Đức thành hai quốc gia vào năm 1949 – đánh dấu 40 năm thù địch trong Chiến Tranh Lạnh – là quyết định của Hoa Kỳ, không phải là quyết định của Soviet.

2) Trong những năm 1950, những người hùng chiến tranh lạnh Hoa Kỳ ở Tây Đức đã thiết lập một chiến dịch phá hoại và lật đổ thô thiển chống lại Đông Đức, nhằm phá hoại bộ máy kinh tế và hành chính của nước này. CIA và các cơ quan tình báo khác của Hoa Kỳ cùng với quân đội đã tuyển mộ, trang bị, huấn luyện và tài trợ cho các nhóm hành động và cá nhân người Đức, cả Đông lẫn Tây, để thực hiện các hoạt động từ tội phạm vị thành niên cho tới khủng bố; bất cứ thứ gì gây khó khăn cho cuộc sống của người Đông Đức và làm suy yếu sự ủng hộ của họ đối với chính quyền; bất cứ thứ gì làm cho cộng sản có vẻ xấu xa. 

Đó là những âm mưu đáng chú ý. Hoa Kỳ và các tay sai của họ đã sử dụng chất nổ, phóng hỏa, cắt đường dây điện và những phương pháp khác để phá hoại các trạm điện, bến tàu, kênh, tòa nhà công cộng, trạm xăng, cầu…; họ làm chệch đường ray tàu hàng, gây thương tích nghiêm trọng cho công nhân; đốt cháy 12 toa của một tàu chở hàng và phá hủy nồi hơi của một tàu khác; sử dụng a xít để phá hoại máy móc của các nhà máy phục vụ cho đời sống; bỏ cát vào tua bin của một nhà máy, khiến nó ngừng hoạt động; phóng hỏa một nhà máy sản xuất ngói; kích động lãn công trong các nhà máy; đầu độc chết 7.000 con bò của một hợp tác xã sữa; bỏ xã phòng vào sữa bột cung cấp cho các trường học Đông Đức; bị bắt khi lưu trú, mang theo một lượng lớn chất độc cantharindin với kế hoạch sản xuất thuốc lá độc để giết hại các lãnh đạo Đông Đức; đặt bom bẩn để phá rối các cuộc họp chính trị; âm mưu phá hoại Liên Hoan Thanh Niên Thế Giới ở Đông Berlin bằng cách gửi các giấy mời bị tẩy xóa, lừa dối về chỗ ngủ và đi lại miễn phí, giả các thông báo về thay đổi chương trình… ; thực hiện các vụ tấn công người tham dự với chất nổ, bom cháy, và các thiết bị quấy nhiễu; tẩy xóa và phân phát một số lượng lớn các phiếu khẩu phần ăn gây rối loạn, thiếu hụt và oán giận, tẩy xóa các bản fax thông báo và hướng dẫn khác của chính quyền rồi gửi đi để ly gián tổ chức và vô hiệu hóa các ngành công nghiệp cũng như công đoàn… tất cả những chuyện như vậy và còn hơn nữa. 

Trung Tâm Học Giả Quốc Tế Woodrow Wilson, ở Washington DC, chiến binh chiến tranh lạnh bảo thủ, một trong số các nghiên cứu của họ, Văn Bản Nghiên Cứu Dự Án Lịch Sử Chiến Tranh Lạnh Quốc Tế (#58, trang 9) viết: “Biên giới mở ở Berlin đã đưa đến GDR [Đông Berlin] hàng loạt các hoạt động gián điệp cũng như lật đổ, và theo như hai tài liệu trong phụ lục cho thấy, việc đóng cửa đã giúp cho cộng sản an toàn hơn”.

Suốt những năm 1950, Đông Đức và Liên Bang Soviet thường xuyên đưa các bản kháng với nghị đồng minh trước kia của Soviet ở phía Tây và Liên Hiệp Quốc về hoạt động phá hoại và gián điệp nghiêm trọng cũng như kêu gọi đóng cửa các văn phòng ở Tây Berlin mà họ khẳng định là phải chịu trách nhiệm, họ cũng cung cấp tên và địa chỉ của những văn phòng đó. Các kháng nghị của họ đã bị lờ đi. Không còn cách nào khác, Đông Đức buộc phải đóng các lối vào từ phía Tây, dẫn đến bức tường tai tiếng. Mặc dù vậy, ngay cả khi bức tường đã được dựng lên thì vẫn thường có dòng người di cư hợp pháp tuy có giới hạn từ đông sang tây. Vào năm 1984, Đông Đức cho phép 40.000 người rời khỏi. Vào năm 1985, tạp chí Đông Đức khẳng định hơn 20.000 cựu công dân đã định cư ở phía Tây muốn quay trở về nhà sau khi thất vọng với hệ thống tư bản. Chính quyền Tây Đức nói rằng có 14.300 người Đông Đức đã trở về nhà trong 10 năm trước đó.

Chúng ta đừng quên rằng khi Đông Đức đã tẩy sạch phát xít, ở Tây Đức hơn một thập kỷ sau chiến tranh, các vị trí cao nhất trong chính quyền từ hành pháp, lập pháp cho tới tư pháp vẫn còn hàng sa số các “cựu” phát xít.

Cuối cùng, cần phải nhớ rằng miền đông Châu Âu trở thành cộng sản là do Hitler, với sự chấp thuận của phương Tây, đã dùng họ như là đường cao tốc tiến đến Liên Bang Soviet nhằm xóa sổ vĩnh viễn chủ nghĩa Bôn-sê-vích, và nước Nga trong thế chiến thứ I cũng như thứ II đã tổn thất 40 triệu người bởi phương Tây sử dụng con đường cao tốc này để xâm lược nước Nga. Không có gì ngạc nhiên khi sau thế chiến thứ II Soviet quyết định đóng cửa con đường cao tốc đó.

Một quan điểm bổ sung và rất thú vị về kỷ niệm Bức Tường Berlin, xin hãy xem bài báo “Humpty Dumpty and the Fall of Berlin’s Wall” của tác giả Victor Grossman. Grossman (tên khác là Steve Wechsler) trốn khỏi quân đội Hoa Kỳ ở Đức do những đe dọa thời kỳ MacCarthy, trở thành một nhà báo và nhà văn trong suốt những năm ông ở Cộng Hòa Dân Chủ (Đông) Đức. Ông hiện vẫn sống ở Berlin và gửi đi “Bản tin Berlin” về sự phát triển của Đức trên nền tảng sai lệch. Bạn có thể gửi đăng ký theo dõi vào địa chỉ email Wechsler_grossman@yahoo.de . Tiểu sử của ông: “Crossing the River: a Memoir of the American Left, the Cold War and Life in East Germany” được xuất bản bởi University of Massachusetts Press. Ông khẳng định là mình cá nhân duy nhất trên thế giới có bằng cử nhân của cả đại học Harvard và và đại học Karl Marx ở Leipzig.

Wednesday, October 8, 2014

Chăm sóc trẻ em dưới ba tuổi

Ở Việt Nam hiện nay bà mẹ chỉ được nghỉ 6 tháng sau khi sinh con, nhưng nhà trẻ công chỉ nhận trẻ em từ ba tuổi. Thế là nảy sinh ra vấn đề quan trọng, từ 6 tháng đến 3 tuổi trẻ em sẽ được chăm sóc ra sao khi mẹ phải đi làm. Thông thường nhất là trông cậy vào ông bà (nếu ông bà còn khỏe) hoặc nhà có điều kiện kinh tế thì thuê người giúp việc. Một lựa chọn khác là gửi nhà trẻ tư, nhưng nhà trẻ tư thì nhận chỉ nhận trẻ từ 1 tuổi, tức là cho đến khi trẻ tròn 1 tuổi thì gia đình vẫn phải tự xoay sở. 

Ở các nước Châu Âu như Đức thì bà mẹ được nghỉ làm ở nhà hưởng lương để chăm sóc con, cho đến khi trẻ đủ tuổi đi nhà trẻ. Còn ở Mỹ thì tình hình cũng như Việt Nam, tức là có một hệ thống đa dạng các nhà giữ trẻ công cũng như tư, và người giúp việc, để trông trẻ khi bố mẹ đi làm. Các ông bố bà mẹ ở Mỹ cũng như Việt Nam đều phải đối đầu với tình trạng khó kiếm nơi giữ trẻ và lo lắng về chất lượng của nơi giữ trẻ. Đối với trẻ dưới ba tuổi thì yếu tố hàng đầu là chăm sóc sức khỏe, nếu được chăm sóc sức khỏe tốt, đứa trẻ sẽ phát triển tốt và ít bệnh tật. Các cơ sở giữ trẻ tư nhân thì chủ yếu làm công việc trông trẻ chứ không đầu tư cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em, vì điều đó quá đắt đỏ. Ở Việt Nam thì gần đây báo chí hay đưa tin về các nhà ngục trẻ em, tức là các nhà giữ trẻ tư nhân nhưng thường đánh đập và hành hạ trẻ em. Bố mẹ của trẻ, đặc biệt là tầng lớp lao động có thu nhập thấp thì chỉ còn trông chờ vào may mắn, hy vọng con mình không rơi vào một trong những nhà ngục đó.

Trước đây khi Liên Bang Soviet chưa sụp đổ thì họ đã có cách giải quyết rất đáng chú ý đối với vấn đề này. Các cơ sở chăm sóc trẻ em dưới ba tuổi có thể do bất cứ đơn vị sản xuất nào như nhà máy, doanh nghiệp hay nông trại xây dựng ở gần nơi làm việc để các bà mẹ có thể cho con ăn, và thời gian cho con ăn vẫn được tính là giờ là việc. Các cơ sở này được Bộ Y Tế giám sát, có chức năng chủ yếu là chăm sóc sức khỏe cho trẻ em và được một bác sĩ điều hành. Trẻ em được dạo chơi, được nghe các bài hát dân gian do một cô điều dưỡng hát và được ăn đúng giờ ngủ đủ giấc. Giờ giữ trẻ tuân theo giờ làm việc của bà mẹ, có nghĩa là cơ sở sẽ trông trẻ cả ban đêm nếu bà mẹ phải làm ca đêm.

Điều mấu chốt ở đây là các cơ sở của chế độ Xô Viết được đặt dưới sự giám sát của Bộ Y Tế chứ không phải Bộ Giáo Dục, cho thấy cách đây nửa thế kỷ họ đã nhận thức rất đúng đắn về vấn đề trẻ em dưới ba tuổi. Thứ hai là giờ cho con ăn được tính là giờ làm việc, riêng điểm này thì họ tiến bộ hơn xã hội hiện nay rất xa. Điểm thứ ba là các cơ sở có thể được lập ra theo nhu cầu của từng đơn vị sử dụng lao động nên tránh được tình trạng thiếu nơi giữ trẻ như Việt Nam đang phải đối đầu. 

Nhân đọc sách cũ mà ghi lại vài ý vậy.

Friday, August 29, 2014

Những nguyên lý của trật tự thế giới đế quốc mới

Xin giới thiệu với bạn đọc bản dịch bài nghiên cứu "Principles of the Imperial New World Order" của giáo sư Edward S. Herman và David Peterson. Hai tác giả đã trình bày những nguyên lý cơ bản nhất của trật tự thế giới đế quốc mới mà trong đó Hoa Kỳ đóng vai trò trung tâm. Đây là một nghiên cứu đã xuất bản năm 2008 và tình hình thế giới hiện tại đang diễn ra theo đúng như những nguyên lý mà các tác giả đã trình bày.

Những nguyên lý của trật tự thế giới đế quốc mới

Chúng ta cần phải chấp nhận trong Trật tự Thế Giới Đế Quốc Mới (INWO), Liên Bang Soviet đã biến mất, Hoa Kỳ hiếu chiến và quân sự hóa cao độ đang thi triển sức mạnh khủng khiếp khắp toàn cầu, gây rối loạn và phá hủy phần lớn các khu vực trên toàn cầu trong các chiến dịch được viện dẫn lý do bảo vệ lợi ích của độc lập và ổn định, những nguyên lý sau khi được điều chỉnh đã trở nên rõ ràng. Phần lớn các nguyên lý là rất mới, nhưng cũng trơ trẽn hơn trong quá khứ khi chúng chuyển từ các quan hệ quyền lực thành sự khẳng định về quyền hay phủ nhận những quyền tương tự, những chuẩn mực kép tiếp tục được áp dụng rất nhiều trên thế giới. Ý nghĩa trong thế giới thực tế của những nguyên lý INWO do đó dựa trên ba nền tảng: (a) hoặc là Washington khẳng định các quyền cho bản thân (và trực tiếp hay ngụ ý cho các đồng minh thân cận, đối tác hay chư hầu); (b) hoặc là Washington phủ nhận các quyền của kẻ thù; và (c) hoặc là Washington không quan tâm theo bất cứ cách nào hay bất cứ ai khác. Như chúng ta trình bày tiếp theo, sự khẳng định dựa trên quyền lực hay phủ nhận các quyền được chấp nhận trong phạm vi từ các lãnh đạo đầy quyền lực của các quốc gia phương Tây, các ứng cử viên chính trị, và quan chức hàng đầu của Liên Hiệp Quốc, tới truyền thông chính thống, giới học giả có tiếng tăm. Họ đại diện cho sự thể chế hóa hệ thống quyền lực mà trong đó công lý không hoạt động và sự xuyên tạc ẩn mình sau đám mây mù của ngôn từ hùng biện và mị dân.

1. Quyền xâm lược: Hoa Kỳ đang tận hưởng quyền xâm lược hạng nhất và từ lâu đã trắng trợn vi phạm Hiến Chương Liên Hiệp Quốc vốn được dùng để ngăn chặn các “tội ác quốc tế cực kỳ nghiêm trọng” mà không bị bất cứ sự trừng phạt nhỏ nào (Việt Nam và toàn bộ Đông Dương, Panama, Nam Tư, Afghanistan, Iraq). Đối tác lớn nhất của họ là Israel cũng hành động tương tự (Lebannon vào năm 1982 và năm 2006, cùng với Syria, Algeria, và phần lãnh thổ Palestine bị chiếm đóng), và cũng không bị trừng phạt. Trong giới trí thức và chính trị của hai quốc gia này, các chủ đề nổi bật trong các cuộc xâm lược hoàn toàn rất thực dụng và liên quan tới hiệu quả, chi phí (đối với kẻ xâm lược), việc quản lý tồi có thể xảy ra. Nhưng quyền xâm lược không bao giờ bị đả phá, cho dù là trong những quốc gia đi xâm lược hay quốc tế. Luật lệ chỉ áp dụng vô điều kiện với những quốc gia khác.

Một tương phản rõ nét, trong trường hợp các vụ chiếm đóng lãnh thổ khác của các quốc gia thù địch với phương Tây và Hoa Kỳ, như Việt Nam chiếm đóng Cambodia năm 1979 hay Iraq chiếm đóng Kuwait năm 1990, các lãnh đạo phương Tây và các học giả đã bày tỏ sự căm phẫn dữ dội, và cả hai vụ chiếm đóng đã bị trừng phạt khốc liệt (cuộc xâm lược trả đũa của Trung Quốc đối với Việt Nam, Hoa Kỳ cấm vận Việt Nam, Khmer Đỏ nhận được ghế của Cambodia tại Liên Hiệp Quốc; Iraq bị cuộc chiến tranh quy mô lớn do Hoa Kỳ lãnh đạo với sự chấp thuận của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, đẩy lùi khỏi Kuwait, cuộc chiến đó đã phá hủy Iraq, dẫn đến 13 năm cấm vận, và trên hết, cuộc xâm lược của Mỹ vào tháng 3 năm 2003). Sự khác biệt cơ bản giữa năm 1979 và năm 1990, mặc dù vậy là việc Liên Bang Soviet đã phủ quyết dự thảo Nghị quyết yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Cambodia của Hội Đồng Bảo An vào năm 1979, thay cho bình luận của đại sứ Australia “Chúng ta không thể chấp nhận chính sách nội bộ của bất kỳ chính quyền nào [Cambodia], bất kể là đáng trách ra sao, có thể biện hộ cho việc một chính quyền khác [Việt Nam] tấn công họ bằng quân sự”, [1] trong khi trong cuộc thảo luận của Hội Đồng Bảo An sau khi Iraq xâm lược Kuwait không có thành viên nào trong nhóm 5 thành viên thường trực phủ quyết một nghị quyết kêu gọi Iraq rút quân hay áp đặt cấm vận đối với nước xâm lược. Sự khác biệt giữa năm 1979 với năm 1990 và những năm sau đó chính là sự tồn tại của Liên Bang Soviet với quyền lực thế giới. 

2. Quyền khủng bố (và quyền giết chóc trên quy mô lớn mà không bị coi là khủng bố): Quyền này đồng thời với quyền xâm lược, ranh giới giữa chủ nghĩa khủng bố và xâm lược rất mờ nhạt và thông thường chỉ đơn giản là vấn đề quy mô; trong cả hai trường hợp, việc Hoa Kỳ ném bom và giết chóc không được diễn tả bằng những từ ngữ gây ác cảm.

Cuộc tấn công “sốc và sợ hãi” ban đầu của Hoa Kỳ vào Iraq rõ ràng là nhằm khủng bố các thành viên quân sự và thường dân, và các cuộc tấn công của Hoa Kỳ vào Fallujah [2] cũng như các nơi khác rõ ràng là kế hoạch khủng bố. Các cuộc tấn công quân sự của Israel cũng tương tự như vậy. Vấn đề là theo thể thức chính trị của phương Tây Israel không bao giờ khủng bố mà chỉ “đáp lại” và “trả đũa” những kẻ khủng bố. Nghị quyết 951 của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc được đề xuất và thông qua ngày 5 tháng 3 với đa số tuyệt đối 404/405 khi Lực Lượng Phòng Thủ Israel tấn công man rợ vào các trại tị nạn của người Palestine ở dải Gaza, [3] tuyên bố “Các chiến dịch quân sự của chính quyền Israel ở dải Gaza chỉ nhằm vào lực lượng Hamas và các tổ chức khủng bố khác”, và bổ sung thêm “các thiệt hại dân sự ngoài ý muốn trong các chiến dịch quân sự phòng thủ nhằm vào các mục tiêu quân sự, mặc dù rất đáng tiếc, nhưng không tương đương về mặt đạo đức với chủ ý nhằm vào thường dân như Hamas và các nhóm khủng bố khác ở dải Gaza”.[4] Đó là lời biện minh rất thành thật cho nhà nước khủng bố Israel. Thứ nhất, các lãnh đạo Israel từ Abba Eban cho tới Ariel Sharon và thủ tướng Ehud Olmert hiện nay công khai thừa nhận mục tiêu khủng bố thường dân Palestine. Thứ hai, sự thật bị che dấu là số người Palestine bị Isreal giết hại “ngoài ý muốn” vượt xa số người Israel bị Hamas và người Palestine giết hại có chủ định (cụ thể, trước phong trào intifada thứ hai, tỷ lệ là 25:1; bắt đầu phong trào intifada thứ hai, là 4,6:1; từ tháng 11 hội nghị “hòa bình” ở Annapolis vừa qua, trở lại 21:1).[5] Thứ ba, sự giết chóc “ngoài ý muốn” của Israel trong thực tế là có chủ ý, quân đội Israel đã không ngần ngại sử dụng hỏa lực mạnh trong các khu vực đông dân cư ở Gaza và ở Lebanon mùa hè năm 2006, tại đó số thường dân thiệt mạng là rất lớn và có thể dự đoán được.[6]

3. Quyền thanh trừng sắc tộc: Phương Tây coi việc thanh trừng sắc tộc là đáng trách, và trút cả biển nước mắt cho các nạn nhân - nhưng chỉ khi thanh trừng sắc tộc do các đối tượng được định trước thực hiện hoặc có thể đổ tội cho họ, như người Serb ở Bosnia và Chính quyền Liên Bang Nam Tư của Milosevic những năm 1990 và chính quyền Hồi giáo Ở Sudan hiện nay. Sự thật là vụ thanh trừng sắc tộc của người Serb ở Bosnia diễn ra trong quá trình trả đũa lẫn nhau trong cuộc nội chiến, hai nhóm đối đầu (người Bosnia Hồi giáo và người Croatia) đã thanh trừng lẫn nhau. Milosevic không thanh trừng sắc tộc ở Kosovo để thay thế người Albania Kosovo bằng người định cư Serb; dân chúng bỏ chạy là hiện tượng đặc trưng của nội chiến và sau đó với bom của NATO cuộc chiến đã biến thành quy mô lớn.[7]

Tiếp tục với sự bịa đặt có tính suy diễn, tờ Cộng Hòa Mới (TNR) cho rằng “Rất nhiều điểm tương đồng giữa Dafur hiện nay và Kosovo năm 1999…Khi những kẻ nổi loạn tới Kosovo và Dafur, cả Belgrade và Khartoum đều quyết định chống lại du kích bằng cách nhắm vào thường dân vì du kích xuất hiện từ đó.”[8] Nhưng sự thật của TNR sai cả ở Dafur lẫn Kosovo; sự tương đồng duy nhất nằm trong những lựa chọn và toan tính của các quyền lực phương Tây đặt vào hai cuộc xung đột đó. Vào năm 2007, bản đánh giá của Chương Trình Môi Trường Liên Hiệp Quốc đã cho thấy “Môi trường suy thoái, cũng như sự biến đổi và bất ổn của khí hậu khu vực là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thiếu an ninh lương thực và xung đột ở Dafur…Khu vực bị bủa vây bởi các vấn đề kết hợp giữa tăng trưởng dân số, khai thác cạn kiệt tài nguyên và sự suy giảm rõ rệt lượng mưa trong dài hạn. Kết quả là phần lớn khu vực phía bắc và miền trung Dafur bị suy thoái trên quy mô rộng không thể cung cấp đủ các thứ thiết yếu cho cư dân nông thôn. [9] 

Mặt khác, trường hợp thật sự thanh trừng sắc tộc, và có liên quan toàn cầu vì gây ra sự oán hờn của người Arab và người Hồi giáo, là việc Isreal thường xuyên trục xuất người Palestine ra khỏi đất đai của họ trong vùng lãnh thổ bị chiếm đóng ở Bờ Tây và Đông Jerusalem để người Do Thái định cư. Phương Tây không bao giờ gọi trường hợp này là “thanh trừng sắc tộc”. Trái với sự thật được các lãnh đạo Israel thừa nhận công khai nhiều năm, mục tiêu của chính sách định cư là thay người Palestine bằng người Do thái, họ đã giết hại nhiều ngàn người trong quá trình định cư, phá hủy hơn 18’000 căn nhà của người Palestine kể từ cuộc xâm lược năm 1967. [10] và xua đuổi nhiều ngàn người phi Do Thái. John Dugard, báo cáo viên đặc trách của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền trong phần lãnh thổ bị chiếm đóng của Palestine, đã thường xuyên cảnh báo về các hoạt động của Israel nhằm “làm cho các thành phố Do Thái hơn” và qua đó tước đoạt thủ đô của quốc gia Palestine tương lai. “Ý đồ rõ ràng trong các sự thay đổi là ngăn chặn mọi khả năng biến Đông Jerusalem trở thành thủ đô của quốc gia Palestine”, Dugard giải thích. “Xây dựng bức tường, mở rộng các khu định cư và phi Palestine hóa Jerusalem đang đe dọa sự tồn tại của quốc gia Palestine”.[11] Mặc dù vậy, tiêu chuẩn kép và đạo đức giả của phương Tây là rất đáng kinh ngạc, các lãnh đạo và truyền thông phương Tây đã hậu thuẫn tích cực cho quá trình thanh trừng sắc tộc có hệ thống kéo dài hàng thập kỷ, và Israel đã được vinh danh khi nạn nhân của họ phát khùng.[12] Rất rõ ràng là Israel thanh trừng sắc tộc và ăn cắp đất đai thuộc về người Palestine, nhưng điều đó được phương Tây hợp lý hóa thành cơ sở cho “nhu cầu an ninh” của Israel-theo tiêu chuẩn kép mang tính phân biệt chủng tộc của phương Tây thì người Palestine không có “nhu cầu an ninh”, sự phản đối quá trình khủng bố và chiếm đoạt của Israel đã bị tảng lờ. Đây mới là “phép màu” thực sự của Israel. 

4. Quyền lật đổ: Những vụ lật đổ khắp thế giới diễn ra thường xuyên suốt thời kỳ sau thế chiến thứ hai, cho thấy cùng với quyền xâm lược Hoa Kỳ còn có quyền can dự và lật đổ bất cứ chính quyền nào mà họ muốn. Cuộc can thiệp phản cách mạng vào Hy Lạp (1947-1949), lật đổ chính phủ của Mohammad Mosadded ở Iran (1953) và Jacobo Arbenz Guzman ở Guatemala (1954) trong thập kỷ đầu tiên của thời hậu thế chiến là những ví dụ điển hình cho thấy Hoa Kỳ đã sử dụng quyền ấy mà chỉ bị rất ít ràng buộc.[13] Cuộc can thiệp “chống du kích” của Hoa Kỳ vào nội chiến ở Hy Lạp là bằng chứng “các chiến dịch hoàn toàn do Hoa Kỳ chỉ huy và sự hiện diện của cố vấn trong các chiến dịch đánh phá”, Michael McClintock viết, thủ đoạn “ được ưu tiên hàng đầu trong các chương trình chống phá cách mạng của Hoa Kỳ từ Việt Nam đến El Salvado”.[14] (Mặc dù McClintock kết thúc lịch sử với năm 1990, nhưng chúng ta có thể mở rộng ra để bao quát cả Colombia, Nam Tư, Afghanistan và Iraq). Nhiều người đã đề cập tới “cái nôi trong chiến lược chiến tranh lạnh của Hoa Kỳ” như một bản đánh giá quân sự đã nêu năm những 1960, cuộc can thiệp vào Hy Lạp trở thành tiêu chuẩn vàng của chiến lược phản cách mạng sau đó được đổi tên nhưng không loại bỏ trong thực tiễn bởi “học thuyết Petraeus” huyền thoại và Hướng dẫn Chiến trường Phản Cách mạng được cập nhật của Hoa Kỳ (2006-2007) đang được phô trương như là một phần của “phong trào” Hoa Kỳ ở Iraq. Mặc dù, sự thay đổi thuật ngữ phản ánh “kết thúc của chiến tranh lạnh” và tuyên bố về “cuộc chiến chống khủng bố”, trong đó “làn sóng những kẻ nổi loạn mới” được nuôi dưỡng không phải bằng lật đổ theo kiểu “chủ nghĩa cộng sản” kiểu cũ mà bởi “các quốc gia yếu đuối và sai lầm” và trên tất cả là bởi “các yếu tố phi nhà nước” hay “khủng bố”, nhưng chiến lược thực tế vẫn giữ nguyên. [15]

Nhưng chính sách lật đổ của Hoa Kỳ có nhiều dạng. Trong năm 1982 nghiên cứu Mạng Lưới Khủng Bố Thực Sự trong phần về “Quyền tự nhiên được lật đổ của Hoa Kỳ”, [16] một bảng thống kê đã chính bày 12 loại lật đổ khác nhau được Hoa Kỳ dàn dựng tại 8 quốc gia Mỹ Latin và vùng Caribbe từ năm 1950 đến năm 1980. Bao gồm rất nhiều dạng bạo lực chống lại nhân dân và người nghèo, rất nhiều dạng mua chuộc, “tuyên truyền dối trá”, và trợ cấp trên quy mô lớn cho các ứng cử viên đối lập và phong trào phản kháng như các phong trào sinh viên và phụ nữ. Điều đó được tổng kết muộn hơn trong định nghĩa của Philip Agee về quy trình lật đổ đa cấp độ tại Ecuador trong đầu những năm 1960. Những quy trình đó được áp dụng ở Brazil (1964) và Chile (1973), và vẫn tiếp tục được sử dụng cho tới ngày nay - chúng ta kinh ngạc vì những thứ tương tự giữa giai đoạn đầu thời đại vàng của lật đổ và những thứ đang diễn ra hiện nay trong các mối đe dọa như Iran và Tây Tạng (miền tây Trung Quốc). [17] Nhưng điều đó diễn ở bất cứ đâu mà các hoạt động đội lốt chống lại “chủ nghĩa cộng sản lật đổ”, hiện nay chúng là một phần của “khuyến khích dân chủ”, “ngoại giao biến đổi”, “bảo vệ nhân quyền” và những thứ tương tự.

5. Quyền áp đặt trừng phạt: Quyền lực bá chủ không chỉ có quyền xâm lược, quyền khủng bố, quyền lật đổ mà còn có quyền áp đặt trừng phạt nên các mục tiêu, khiến cho nhân dân phải chịu đựng đau khổ, lãnh đạo của họ bị mất uy tín, thường xuyên trong hợp tác quốc tế. Liên bang Soviet, Cuba của Castro, Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1994, Nicaragua dưới thời Sadinista, Iran kể từ khi Shah bị lật đổ năm 1979, Lybia, Iraq sau cuộc xâm lược Iraq năm 1990, Liên bang Nam Tư từ năm 1992 (và nước cộng hòa Serbia cho tới nay), và Afghanistan dưới thời Taliban, tất cả đều là đối tượng cho sự trừng phạt của Hoa Kỳ. Nhưng cũng cần phải nói thêm là Hoa Kỳ và hầu hết các đối tác không bao giờ là đối tượng bị trừng phạt, ngay cả khi phạm vào những tội thuộc loại Nuremberg như xâm lược hay các tội chiến tranh nghiêm trọng khác. Tiêu chuẩn kép rất hiển nhiên.

Điều thần kỳ khác của tiêu chuẩn kép, không chỉ Israel không bao giờ bị trừng phạt đối với các vi phạm bất tận Hiệp Ước Geneva thứ tư bảo vệ thường dân trong các lãnh thổ bị chiếm đóng quân sự và trả thù tập thể người Palestine ở dải Gaza, nhưng từ năm 2006, “cộng đồng quốc tế” đã tham gia cùng trục Hoa Kỳ-Israel áp đặt trừng phạt đối với các nạn nhân bị cố ý bần cùng hóa, bị đói khát, bị cướp đoạt theo mọi cách. Theo lời của 8 nhóm hoạt động nhân đạo Anh, việc Israel bao vây Gaza đã biến 1,5 triệu người thành “nhân dân bị cầm tù”, vô hiệu hóa kinh tế của họ, phá hủy các cơ sở vật chất, làm hư hại các dịch vụ cơ bản như y tế và giáo dục. Hiện nay, ít nhất 80% người Palestine ở Gaza phải “phụ thuộc vào trợ cấp nhân đạo” để sống hàng ngày. Các nhóm trên báo cáo: “Chính sách của Israel tác động tới dân cư…không phân biệt và tạo thành sự trả thù tập thể…vi phạm luật nhân đạo quốc tế”. [18] Mô tả cuộc sống của người Palestine ở dải Gaza khi “bị bao vây”, báo cáo viên chuyên trách của Liên Hiệp Quốc John Dugard cho biết họ “là đối tượng của cuộc trừng phạt quốc tế nghiêm khắc nhất trong lịch sử hiện đại..lần đầu tiên những người trong lãnh thổ chiếm đóng bị đối xử như vậy…Israel đã vi phạm các nghị quyết chủ chốt của Hội Đồng Bảo An và Đại Hội Đồng về thay đổi lãnh thổ bất hợp pháp và vi phạm nhân quyền cũng như không thực hiện theo ý kiến tư vấn của Tòa Công Lý Quốc Tế năm 2004, mặc dù vậy họ không bị trừng phạt…Cần phải nhắc lại là các quốc gia phương Tây đã từ chối áp đặt trừng phạt kinh tế đối với Nam Phi để kêu gọi họ xóa bỏ chế độ apartheid làm tổn thương người da màu ở Nam Phi. Không có sự ưu ái nào được mở rộng cho người Palestine hay nhân quyền của họ”. [19] Nhưng chúng ta có thể hiểu được sự ngạc nhiên của báo cáo viên chuyên trách khi nhớ rằng nguyên lý thực sự của INWO là không bị trừng phạt vì các tội ác nghiêm trọng và được thưởng vì các hành vi tốt. Quyền lực, quyền lực trên hết, đó là nguyên tắc thống trị.

6. Quyền chống xâm lược: Quan điểm nổi bật trong báo cáo của John Dugard là trong mắt phương Tây thì người Palestine ở dải Gaza không có quyền chống lại các hoạt động xâm lược của Israel, mặc dù các cuộc tấn công đó dẫn đến chiếm đóng bất hợp pháp và quá trình thanh trừng sắc tộc tàn khốc. Trong hệ tư tưởng phương Tây, người Palestine tấn công Israel, nếu không là “xâm lược” thì cũng là một dạng “khủng bố” không thể tha thứ, phản kháng bất hợp pháp, và họ đáng phải gánh chịu bất cứ thứ gì khốc liệt mà Israel sử dụng để trả thù tập thể ở Gaza. Trong một thông cáo công bố đầu tháng tư, Tổng thư ký Sáng Kiến Quốc Gia Palestine và nghị sĩ Quốc Hội Mustafa Al-Barghouthi ghi nhận rằng kể từ hội nghị Annapolis số lượng các cuộc tấn công tăng lên 300%, “riêng khu vực Bờ Tây là 46%”, các cuộc tấn công vào Bờ Tây cho thấy mục tiêu thật sự của Israel “không có liên quan gì đến các vụ tấn công bằng rocket của lực lượng kháng chiến Palestine vào dải Gaza”. Tính đến đầu tháng tư, Israel đã thả 788 tù nhân Palestine kể từ hội nghị Annapolis, nhưng họ lại bắt giam 2175 tù nhân mới; tăng thêm số lượng các điểm kiểm soát ở Bờ Tây, và tiếp tục xây dựng bức tường ngăn; điều quan trọng nhất là tiếp tục gia tăng số lượng các khu định cư Do Thái ở Bờ Tây. [20] John Duguard thậm chí đã so sánh các vụ đánh bom tự sát và bắn rocket Quassam của người Palestine với hoạt động kháng chiến chống phát xít Đức tại các quốc gia châu Âu thời thế chiến thứ II. “Ý thức cộng đồng…thúc đẩy”, Dugard lập luận, “đó là sự khác biệt giữa hành động khủng bố mất trí…và hành động trong chiến tranh giải phóng quốc gia chống lại chế độ thuộc địa, chế độ apartheid hay chiếm đóng quân sự…hậu quả đau thương không thể tránh khỏi của chế độ thuộc địa, chế độ apartheid hay chiếm đóng. Lịch sử luôn tái hiện những ví dụ chiếm đóng quân sự sẽ bị phản kháng bằng bạo lực…Điều đó là lý do khiến cho sự chiếm đóng cần phải nhanh chóng chấm dứt. Trước khi đó thì không thể hy vọng có hòa bình và bạo lực sẽ tiếp diễn”. [21] 

Các cuộc tấn công qua biên giới mà nước thực hiện không có quyền xâm lược - Việt Nam ở Cambodia, Iraq ở Kuwait - nạn nhân của những vụ tấn công bất hợp pháp có quyền kháng chiến và cộng đồng quốc tế đổ xô vào cứu trợ. Trái lại, những nước chống lại các cuộc tấn công từ các quốc gia có quyền xâm lược - Israel xâm lược Lebanon 1982 và 2006, Hoa Kỳ và liên minh tấn công và xâm lược Nam Tư, Afghanistan và Iraq suốt mười năm qua - không có quyền phản kháng, và sự phản kháng của họ được coi là “khủng bố”. Ngay cả khi chỉ hoạt động tại Lebanon, Hezbollah bị tuyên bố là tổ chức “khủng bố” được một nhà nước tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố hỗ trợ, đó là Iran. Trước cuộc xâm lược định cư vào tháng 8 năm 2006, lực lượng mũ nồi xanh của Liên Hiệp Quốc đã triển khai ở Lebanon nhanh hơn ở Israel, thậm chí ngay cả khi Israel đã xâm lược Lebanon; lý do của Liên Hiệp Quốc là triển khai để ngăn chặn lực lượng Hezbollah và bảo vệ biên giới phía bắc của nước xâm lược. [22] Tương tự, kháng chiến chống lại cuộc xâm lược-chiếm đóng Iraq của Hoa Kỳ được gọi là “phản loạn” trong các cuộc đối thoại ở thủ đô các nước phương Tây chủ chốt, nhưng không phải ở các nước đang bị quân đội xâm lược chiếm đóng. Trong lời khai trước Quốc Hội Hoa Kỳ vào đầu tháng tư, tướng David Petraeus định nghĩa “bản chất tự nhiên của các xung đột” tại Irag là “cạnh tranh giữa các sắc tộc và giữa các cộng đồng phe phái về quyền lực và tài nguyên”, các lực lượng cạnh tranh bao gồm “khủng bố, phản loạn, quân sự cực đoan, và các băng đảng tội phạm”, cái gọi là “Al Qaeda ở Iraq”, Syria, và các “nhóm đặc biệt” mà Bộ Chỉ Huy Trung Tâm Hoa Kỳ khẳng định là hoạt động theo lệnh của Iran [23] Bởi vì “bản chất tự nhiên của xung đột” loại trừ bất cứ nguyên nhân trực tiếp nào từ quốc gia có quân đội xâm lược Iraq, chiếm đóng lãnh thổ, và hiện giờ đã là sáu năm đàn áp dã man phong trào phản kháng chống lại sự chiếm đóng ấy, không có bất cứ sở chỉ huy nào coi đó là vấn đề. Cộng đồng quốc tế khẳng định quyền của kẻ xâm lược đặc biệt này là được phép đàn áp phong trào phản kháng với bất cứ công cụ nào. Quyền phá hủy một đất nước để bảo vệ nó là sự kết hợp giữa quyền xâm lược và phủ nhận quyền chống xâm lược.

7. Quyền tự vệ: Mục tiêu của kẻ thống trị không có quyền tự vệ. Khi nước Guatemala nhỏ bé vào năm 1953-1954 và Nicaragua vào những năm 1980, bị Hoa Kỳ đe dọa tấn công, yêu cầu vũ khí từ khối Soviet, đã khiến cộng đồng chính trị và truyền thông Hoa Kỳ phẫn nộ và hoảng loạn. Điều đó cho thấy các quốc gia bị đe dọa và việc tìm kiếm vũ khí của họ không phải là tự vệ hợp pháp, đó là sự đe dọa đối với người khổng lồ đáng thương và các quốc gia láng giềng của những nước kia. Tương tự, với Iran trong danh sách mới đây của Hoa Kỳ về những nước cần xử lý, mặc dù bị bao quanh bởi quân đội Hoa Kỳ thù địch và bị cả Hoa Kỳ và Israel đe dọa công khai, quyền tự vệ của họ bị bãi bỏ. Dưới sự thúc ép của Hoa Kỳ, Hội Đồng Bảo An đã thiết lập 3 vòng trừng phạt Iran về chương trình hạt nhân hợp pháp, và Iran rõ ràng là không thể chống lại vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và Israel với bất cứ vũ khí nào họ có - mặc dù đang bị đe dọa tấn công tức thì, không có bất cứ phân tích nghiêm chỉnh nào cho thấy Iran có vũ khí hạt nhân. Nói ngắn gọn, họ không có quyền tự vệ.

Hoa Kỳ và Israel có thể vũ trang tới tận chân răng và đe dọa gây chiến tranh để đảm bảo nhu cầu “an ninh” và thực hiện quyền tự vệ. Nhưng các mục tiêu của họ không được phép có những quyền hay nhu cầu hợp pháp. Như Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-Moon phát biểu trong cuộc họp khẩn cấp của Hội Đồng Bảo An và ngày 1 tháng 3: “Tôi lên án các vụ tấn công bằng rocket của người Palestine, và kêu gọi chấm dứt ngay lập tức các hành vi khủng bố này…Trong khi khẳng định quyền tự vệ của Israel, tôi lên án việc sử dụng vũ lực không kiềm chế và quá mức cần thiết khiến cho nhiều thường dân bao gồm cả trẻ em bị chết và bị thương. Tôi kêu gọi Israel hủy bỏ các cuộc tấn công đó.”[24] Ở đây chúng ta lưu ý là tuyên bố đó được đưa ra bốn ngày sau cuộc tấn công khủng khiếp của Lực Lượng Phòng Vệ Israel vào dải Gaza, để lại khoảng 120 xác chết người Palestine, 60 người bị giết chỉ trong một ngày, trong đó có 39 thường dân. [25] Ban Ki-Moon đề cập một cách hết sức thận trọng tới cuộc tấn công đẫm máu và bất hợp pháp của Israel vào dải Gaza với cụm từ bổ sung “khẳng định quyền tự vệ của Israel”. Đối với kẻ thống trị, đối tác ưa thích của kẻ thống trị chỉ tự vệ.

8. Quyền chế tạo vũ khí hạt nhân: Hoa Kỳ và các quyền lực lớn khác tận hưởng quyền sở hữu vũ khí hạt nhân, cũng như bất cứ quốc gia nào được Hoa Kỳ chấp nhận (tất nhiên là Israel, ngoài ra còn có Ấn Độ và Pakistan). Nhưng đối với các mục tiêu như Iran hay Bắc Triều Tiên, Hoa Kỳ phủ nhận quyền sở hữu vũ khí hạt nhân của họ; đặc biệt là trường hợp Iran, Hoa Kỳ thậm chí từ chối quyền hợp pháp của Iran theo Hiệp Ước Không Phổ Biến Vũ Khí Hạt Nhân (NPT) là được làm giàu Uranium cho “các mục tiêu hòa bình mà không bị bất cứ sự phân biệt đối xử nào”. [26] Thay vào đó, Hoa Kỳ sử dụng cáo buộc Iran không hợp tác toàn diện với Ủy Ban Quốc Tế Về Năng Lượng Nguyên Tử (IAEA) và quan trọng hơn, Iran không chịu từ bỏ các quyền của họ theo NPT, làm cơ sở cho việc xúc phạm, trừng phạt và cho kế hoạch tấn công lâu dài chống lại Iran cũng như cho khả năng “thay đổi chế độ”. Như Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế đã từng hỗ trợ cuộc xâm lược Afghanistan và Iraq của Hoa Kỳ, họ tiếp tục cùng với kẻ thống trị phủ nhận quyền hạt nhân hòa bình của Iran và nuôi dưỡng môi trường đạo đức cho các cuộc xâm lược khác của Hoa Kỳ và Israel. [27]

Israel tất nhiên là không bao giờ bị bất cứ trừng phạt nào, cho dù là từ chối tham gia NPT hay phát triển trái phép các vũ khí hạt nhân 40 năm trước đây.[28] Cho dù Hoa Kỳ từ chối nghĩa vụ NPT của họ để đàm phán “trong niềm tin chân thành vào các biện pháp hiệu quả nhằm chấm dứt cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân” và về “một hiệp ước giải trừ quân bị tổng thể và hoàn toàn” thì uy tín của họ cũng không ảnh hưởng, ngay cả trong việc kêu gọi các chính sách và sự trừng phạt các quốc gia khác vi phạm NPT ở mức độ thấp hơn.[29] Cũng giống như bất cứ thứ gì khác trong trật tự quốc tế, những quyền lực lớn hơn có cái quyền mà họ phủ nhận của những quyền lực nhỏ hơn, và họ làm vậy mà không hề bị coi là vi phạm các hiệp định hay luật lệ quốc tế.

9. Quyền coi nạn nhân thường dân của họ là xứng đáng với sự đồng cảm quốc tế: Cộng đồng thế giới kinh hoàng về vụ tấn công ngày 11.9 của Al Qaeda, cuộc tấn công đã giết hại gần 3000 người trong lãnh thổ Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một cuộc thảm sát nhỏ các công dân phương Tây, như vụ giết hại tám sinh viên tại học viện Do Thái Mercaz Harav ở Đông Jerusalem ngày 6 tháng 3, cũng được đưa tiêu đề trang nhất với sự căm phẫn cực độ. Từ “thảm sát” thường xuyên được dùng cho các sự kiện đó. Cuộc tấn công của một tay súng Palestine duy nhất vào các sinh viên trường dòng được ngài Ban Ki-Moon mô tả là “man rợ”, và theo các nói của George Bush là “tấn công dã man và độc ác vào thường dân vô tội đáng bị tất cả các quốc gia lên án”.[30] Trái lại, vụ trả thù bằng không lực sau ngày 11 tháng 9 của Hoa Kỳ đã giết hại hơn 3000 người Afghanistan, và chiến dịch “Hot Winter” kéo dài hai tuần (27.2-10.3) của Lực Lượng Phòng Vệ Israel đã giết hại 127 người Palestine ở dải Gaza, phần lớn trong số họ là thường dân không có vũ trang, bao gồm nhiều trẻ em, được xử lý rất nhẹ nhàng, không bị coi là “thảm sát” hay “dã man” và thường được xin lỗi là “thiệt hại ngoài ý muốn” và “nhầm lẫn đáng tiếc”. Thỉnh thoảng Israel bị chỉ trích vì “sử dụng vũ lực không kiềm chế và quá mức cần thiết” và nhắc nhở phải “kiềm chế tối đa”, nhưng họ không bao giờ bị lên án vì các vụ giết hại dã man và không phân biệt, các vụ giết hại được thực hiện với hệ thống mệnh lệnh rõ ràng và chắc chắn từ Văn Phòng Thủ Tướng tới các tướng lĩnh trong IDF cho tới các phi công điều khiển máy bay F-16 hay trực thăng Apache. “Có sự khác biệt rõ ràng giữa các vụ tấn công khủng bố bằng rocket nhằm vào dân thường và các hoạt động tự vệ”, người phát ngôn Ủy Ban An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ (NSA) Gordon Johndroe giải thích [31] - chỉ có rất ít đại diện của phương Tây không đếm xỉa đến sự khác biệt ấy, và chỉ khi sự nghiệp của họ bị nguy hiểm. Thậm chí trong trường hợp bi kịch hơn nhiều, ngoại trưởng Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Madaleine Albright năm 1996 thú nhận trên đài truyền hình Hoa Kỳ về cái chết của “nửa triệu” trẻ em Iraq, kết quả việc trừng phạt của Hoa Kỳ-Anh-Liên Hiệp Quốc, là “đáng giá”, không chỉ không bao giờ đưa ra lời xin lỗi về vụ “thảm sát”-lời thú nhận ấy cũng hiếm khi được ghi nhận ở phương Tây. [32]

Chúng ta đang bàn luận về sự khác biệt căn bản giữa nạn nhân “đáng giá” và không “không đáng giá”, giữa “con người” và “không phải con người”, sự khác biệt đã cho phép phương Tây giết hại và tước đoạt của hàng triệu người dã man, mọi đen, mọi vàng, mọi Hồi giáo, và những người không phải da trắng phương Tây suốt hàng thế kỷ mà không hề bị ảnh hưởng chút mảy may nào tới đạo đức. [33] Đã từ lâu việc coi họ là mọi đen là không thể chấp được (nhưng mọi Hồi giáo vẫn xuất hiện thường xuyên), song mọi thứ đều ổn thỏa khi ghi nhận rằng “chúng ta không đếm xác” và thú nhận rằng tấn công trực tiếp vào các cơ sở dân sự - dẫn nước vào biển, nơi có những con cá khủng bố đang bơi - là các sự việc có thể chấp nhận được trong hoạt động quân sự. Sự phân chia cổ xưa giữa Chúng Ta và Họ được tiến hành đầy tự tin - chủ yếu là bằng sự im lặng hay áp dụng tiêu chuẩn kép - điều đó được công chúng bình thường hóa và không cảnh báo. Do vậy, có tiếng nói quan ngại về các nạn nhân thường dân ở Darfur, Zimbabwe và Tây Tạng, cả ba trường hợp đều là các lãnh thổ quốc gia nằm trong tầm ngắm của phương Tây; [34] trong khi quan ngại đạo đức về nạn nhân thường dân bị can thiệp một cách có hệ thống để không đề cập tới người dân Afghanistan, Iraq, Công Gô, Columbia, và Palestine, những nước đang bị phương Tây và đối tác của họ lạm dụng. 

10. “Quyền được tồn tại” (và quyền yêu cầu các mục tiêu thừa nhận “quyền được tồn tại của nước khác): Quyền được tồn tại là công cụ chống đỡ cho chính sách từ chối định cư có thỏa thuận với người Palestine của Hoa Kỳ và Israel, dẫn đến cuộc xung đột bị kéo dài, hậu quả là biên giới không được phân định, và đất đai của người Palestine trở thành miếng mồi ngon cho sự xâm chiếm của Israel. Điều đó tạo cơ hội cho Israel và ân nhân của họ công nhận có điều kiện bất cứ tác nhân phi nhà nước nào mà họ chọn, như PLO, Hamas và Hezbollah và các quốc gia khu vực như Iran và Syria trước đó-bất cứ khi nào họ chọn, thì điều kiện là các bên đều phải công nhận “quyền được tồn tại của Israel”. Một phần trong các đàm phán là khẳng định sự tồn tại hữu hình của Israel có thể bị đe dọa nghiêm trọng, nhưng đó là điều ít bị từ chối nhất, bởi nó chỉ tạo ra mâu thuẫn nhỏ, điều dối trá của tuyên truyền nằm ở sự mập mờ: Israel có quyền tồn tại như một nhà nước Do Thái? Quyền được chấp nhận mà không đếm xỉa đến quyền được trở về tổ quốc của những người tị nạn phi Do Thái bị thanh trừng? Chúng ta tin rằng khái niệm tăm tối “quyền” chỉ là một cách để hạ thủ trước trong cuộc xung đột định cư giữa Israel và Palestine, khi mà Israel tiếp tục truất quyền của phần lớn mọi người bằng cách phủ nhận quyền được tồn tại của họ. Những vấn đề là không có gì đáng phải tranh cãi ở phương Tây, nơi quyền được tồn tại của Israel được khẳng định và nhu cầu làm việc đó là tự nguyện không cần bất cứ sự thúc đẩy nào, giống như một dạng kiểm tra về lòng trung thành, sự tuân thủ hay cơ chế kỷ luật. 

Kết quả của những quan sát này cho thấy sự thật là việc sử dụng cụm từ “quyền được tồn tại” hầu như chỉ được áp dụng cho Israel, không cho bất cứ quốc gia hay dân tộc nào khác trên thế giới. Để minh họa điều đó, chúng tôi tạo ra một loạt tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu của Factiva và Nexis để xem xét về cụm từ “quyền được tồn tại của Israel” trong 31 tháng từ 1.12.2005 đến 31.3.2008; sau đó chúng tôi lặp lại tìm kiếm tương tự, nhưng thay bằng tên của 28 quốc gia khác nhau vào vị trí từ “Israel”. (Ví dụ “quyền được tồn tại của Palestine”, “quyền được tồn tại của Pháp”, và tương tự.) Khi tìm kiếm trên phân loại toàn diện nhất, phân loại “Tất cả các nguồn”, chúng tôi tìm thấy 8689 mục đề cập đến cụm từ “quyền tồn tại của Israel” trong khi chỉ có 15 mục đề cập tới “quyền được tồn tại của Palestine” và 7 mục đề cập tới “quyền được tồn tại của dân tộc Palestine”. Sử dụng cơ sở dữ liệu Nexis để tìm kiếm nội dung trên tờ New York Times cũng cho kết quả một chiều tương tự: Trong khi có 120 mục đề cập tới “quyền được tồn tại của Israel”, thì không có bất cứ mục nào trong kho dữ liệu của tờ New York Times đề cập tới “quyền được tồn tại’ của bất cứ quốc gia nào trong số 28 quốc đã nêu.

Điều đó có nghĩa là quyền được tồn tại chỉ liên quan tới nhà nước được trang bị vũ khí hạt nhân và được Hoa Kỳ bảo vệ, đó là nhà nước Israel, không bất cứ quốc gia hay dân tộc hay chủng tộc nào khác? Mặt khác, quyền được tồn tại của Palestine là sự thật - thậm chí chúng ta có thể nói là vấn đề sống còn, cũng như Israel đã từ chối công nhận sự tồn tại của quốc gia Palestine suốt sáu thập kỷ qua, chỉ công nhận nhà nước Palestine với biên giới được phân định rõ ràng. Sự thiên lệch mang tính cấu trúc trong bằng chứng đã đạt đến chiều sâu. 

Kết luận: Quyền có dân chủ thực chất hay dân chủ trò hề?

Sự thống nhất các nguyên lý của Trật Tự Thế Giới Đế Quốc Mới cho thấy sự suy giảm trên toàn cầu của dân chủ thực chất, tầng lớp tinh hoa chính trị toàn cầu đã có thể làm cái mà họ muốn để phục vụ cho lợi ích của họ - bộ ba thần thánh của chương trình tân tự do, quân sự hóa và thực thi quyền lực - đang đối đầu phổ biến với bộ phận dân chúng bị cai trị. Một tuyên bố bi kịch trong chương trình đối thoại giữa phóng viên Martha Raddatz của ABC- TV New và phó tổng thống Dick Cheney. Phó tổng thống được hỏi nghĩ gì khi hai phần ba công chúng Hoa Kỳ cho rằng cuộc chiến Iraq là “không đáng để tấn công”, Cheney trả lời: “Thế à?” [35] Sự coi thường cái mà công chúng muốn và niềm tin phổ biến trong giới chính khách đang nắm quyền về sự lầm lẫn của công chúng - ngoại trừ công nhân, người tiêu dùng, và bộ phận mà phiếu bầu của họ chỉ được thu hoạch một lần mỗi kỳ bầu cử - là không thể rõ ràng hơn.

Tầng lớp tinh hoa coi thường sự đồng thuận tỏa ra khắp truyền thông Hoa Kỳ. Trong khảo sát ý kiến quan trọng được công bố hai ngày sau cuộc đối thoại Raddatz - Cheney (sự thật là cuộc đối thoại của họ nhằm nhấn mạnh kết quả khảo sát), 77% người trả lời Hoa Kỳ đồng ý với điều 21 của Tuyên Ngôn Phổ Quát về Nhân Quyền rằng “ý chí của nhân dân [phải] là cơ sở cho quyền lực của chính quyền”. Một tỷ lệ cao đặc biệt 94% người được hỏi cho rằng chính phủ Hoa Kỳ “phải chú ý tới ý kiến của dân chúng khi ra quyết định”. Nhưng khi được hỏi rằng Hoa Kỳ bị “một nhóm nhỏ có lợi ích lớn điểu hành vì lợi ích của bản thân” hay “điều hành vì lợi ích của mọi người”, 80% đã trả lời là “một nhóm nhỏ có lợi ích lớn”. [36] Do được thực hiện trong năm bầu cử tổng thống, và dội gáo nước lạnh vào ý nghĩ của người Mỹ rằng họ sở hữu đời sống chính trị, nên kết quả khảo sát đã không được truyền thông đưa tin, trái lại một khảo sát cũng tương tự của chính hãng đó tại sáu quốc gia trên thế giới hỏi ý kiến mọi người về Trung Quốc đã được đưa tin rộng rãi.[37]

Công chúng Hoa Kỳ thù địch với cuộc xâm lược-chiếm đóng Iraq ngay cả trước khi cuộc chiến nổ ra, [39] và vài năm sau các khảo sát cho thấy phần lớn công chúng Hoa Kỳ có sự khích lệ kịp thời, rút quân hoàn toàn, [40] và giảm vai trò của toàn cầu của Hoa Kỳ, đặc biệt là sự sẵn sàng sử dụng quân sự; [41] nhưng những điều đó hoàn toàn không có tác động tới chính sách của Hoa Kỳ, cả đảng Dân chủ cũng như đảng Cộng hòa đều không đáp ứng cái mà các cử tri muốn. Các khảo sát ở Iraq cho thấy phần lớn người dân muốn Hoa Kỳ rút quân, [42] nhưng một lần nữa lại không có tác động tới chính sách của Hoa Kỳ hay nhận được sự đáp ứng của các lãnh đạo được coi là của các quốc gia dân chủ tại châu Âu và nơi nào đó khác, họ không gây ra bất kỳ sức ép nào để bắt những kẻ xâm lược chiếm đóng phải kết thúc.

Đã từ lâu công chúng Hoa Kỳ rất muốn thấy một ngân sách quân sự nhỏ hơn, chi tiêu cho cơ sở hạ tầng lớn hơn và nhiều nỗ lực hơn cho các giải pháp ngoại giao cũng như tập thể trong các vấn đề quốc tế. Một khảo sát vào năm 2007 cho thấy 73% công dân Mỹ sẽ ủng hộ một hiệp ước phá hủy tất cả vũ khí hạt nhân, một ý kiến đối lập với chính sách dưới thời tổng thống Bush (mà đảng Dân chủ đã không đối lập một cách rõ ràng). [43] Để duy trì nguyên tắc bất chấp sự đồng thuận của tầng lớp bị thống trị mà giai cấp thống trị vẫn sử dụng, chính quyền Hoa Kỳ tiếp tục theo đuổi các vũ khí hạt nhân thế hệ tiếp theo, và làm bất cứ điều gì trong khả năng để ngăn chặn các yêu cầu giải trừ vũ trang của NPT ngay cả khi chúng xuất phát từ các diễn đàn đa phương. Trên phạm vi quốc tế cũng tương tự, ý kiến của công chúng dường như chỉ có tác động nhỏ tới những người làm chính sách, những người đã gia nhập vào cùng với những kẻ cai trị của Trật Tự Thế Giới Đế Quốc Mới. Một loạt các khảo sát trong phạm vi nước cộng hòa Séc suốt 16 tháng qua cho thấy một đa số thường xuyên (đôi khi đạt tới mức 75%) phản đối việc đặt bất cứ thành phần nào của chương trình phòng thủ tên lửa Hoa Kỳ trên lãnh thổ của họ [44]. Nhưng chính quyền Séc đã nhanh chóng chấp nhận, và thủ tướng Mirek Topolanek phản đối mọi lời kêu gọi trưng cầu dân ý về vấn đề này; theo lời của nhà phân tích Philip Coyle, “quan chức chính quyền Séc thậm chí đã nói rằng quyết định đặt các radar là quá quan trọng để đưa ra cho người bỏ phiếu”. [45] Kịch bản tương tự đã diễn ra ở Ba Lan với đa số người Ba Lan nhất quán phản đối sự tham gia của quốc gia vào chương trình phòng thủ tên lửa Hoa Kỳ, còn thủ tướng Donald Tusk cũng đã từ chối đưa ra trưng cầu dân ý về vấn đề này. “Sự thật nghiệt ngã”, Tusk giải thích, “sẽ không có các quyết định mang tính quân sự được chấp nhận bằng phổ thông đầu phiếu”. [46] Công chúng ở những nước lớn nhất châu Âu cũng phản đối chương trình phòng thủ tên lửa của Hoa Kỳ, với số nhiều ở Anh (44%) và Ý (49%), đa số rõ ràng ở Pháp (58%), Tây Ban Nha (61%), Đức (71%). [47] Trong mỗi trường hợp, lãnh đạo của các thành viên NATO ủng hộ chương trình – có thể nói là chống lại ý kiến của công chúng nước họ. Tương tự ở Canada, cuộc khảo sát ý kiến công chúng mới đây nhất cho thấy 59% không đồng ý với quyết định của Nghị viện mở gia hạn nhiệm vụ của họ tại Afghanistan thêm 3 năm. Khoảng 70-80% người Ba Lan phản đối chính quyền tham gia vào cuộc chiến của NATO ở Afghanistan; Tusk cũng phản đối mạnh mẽ sự can dự trước khi ông ta được bầu, nhưng đã chuyển sang ủng hộ khi đã chắc chắn thắng cử. Một cuộc khải sát ở Pháp cho thấy 68% phản đối quyết định của tổng thống Nicolas Sarkozy gửi thêm nhiều lính Pháp tới Afghanistan. [48]

Nói một cách ngắn gọn, sự củng cố các nguyên lý của Trật Tự Thế Giới Đế Quốc Mới dựa trên Hoa Kỳ và các đồng minh, đối tác cũng như tay sai của họ đang trở thành dân chủ giả tạo, tầng lớp tinh hoa cai trị tự do bất chấp công chúng của họ - kết quả là nhà nước thất bại. Điều này dựa trên sự bất công khủng khiếp và đang lớn dần lên một cách phổ biến, cả trong phạm vi một quốc gia cũng như giữa các quốc gia, tài phiệt hóa chính trị, xói mòn môi trường công cộng hợp hiến, người gác cửa cũng như dịch vụ vụ tuyên truyền của truyền thông ngày càng bị tập trung hóa, và công chúng do đó dễ dàng bị quản lý hơn bất chấp sự bất lợi của đám đông đang phải chịu đựng sự bất công và chính phủ ngày càng nguy hại hơn.

INWO không có vẻ là sẽ sớm biến mất bất cứ lúc nào, trừ khi nó tự tạo ra sự hủy diệt đối với bản thân. (Không có nghĩa là không thể, theo quỹ đạo của nó, khi “một ít thay đổi, và số đông nhận lấy sự tồi tệ”.) Nếu không, nó dường như sẽ không kết thúc cho tới khi phần lớn nhân loại ngưng lại để có thể quản lý, tổ chức tại nội địa cũng như quốc tế, và phản công.

Tài liệu tham khảo của tác giả:

[1] Elizabeth Becker, “Soviets Block U.N. Demand for Withdrawal From Cambodia,” Washington Post, January 16, 1979. Becker notes that “all nations but those from the Soviet Bloc agreed with the statement” made by the Australian Ambassador.

[2] See Ali al-Fadhily and Dahr Jamail, “Five Years On, Fallujah in Tatters,” Inter Press Service, April 14, 2008.

[3] See, e.g., “Abed Rabbo Street, East Jabaliya,” Narratives Under Siege (6), Palestinian Center for Human Rights, March 4, 2008; and Mohammed Omer, “What I saw in Jabaliya,” New Statesman, March 6, 2008.

[4] See House Resolution 951 (“Condemning the ongoing Palestinian rocket attacks on Israeli civilians”), March 5, 2008. And for a member-by-member breakdown of the roll call vote, see House Roll Call #93, March 5, 2008. The lone Representative to vote against HR 951 was the Texas Republican and former presidential candidate Ron Paul.

[5] According to the New York Times, “During the first 17 months of the first intifada [1987-],...roughly one Israeli died for every 25 Palestinians killed.” (James Bennet, “Mideast Balance Sheet,” March 12, 2002.) Data provided by B’Tselem shows that from the start of the second intifada on September 29, 2000 through March 31, 2008, the ratio of Palestinians killed by Israelis to Israelis killed by Palestinians is 4.6 - 1, while the same ratio spiked up to 21 - 1 during the recent four-month period between Dec. 1, 2007 and March 31, 2008. (See “Fatalities,” B’Tselem, Sept. 29, 2000 - March 31, 2008, basing our calculation on the first four categories of data represented there.) According to Hamas’ Mahmoud al-Zahar, “in 2007 alone the ratio of Palestinians to Israelis killed was 40 to 1....” (“No Peace Without Hamas,” Washington Post, April 17, 2008.) We believe that the very high level of Israeli military violence against the Gaza Palestinians since the staging of the “peace” conference at the U.S. Naval Academy in Annapolis, Maryland (Nov. 26-30, 2007), including large-scale attacks that appear to have been timed to coincide with the April 16-17 meetings in Cairo between former President Jimmy Carter and representatives of Hamas, shows the real meaning of Annapolis much better than the rhetoric that filled the air in late November.

[6] As York University Professor of International Law Michael Mandel argues convincingly:

Although “there is indeed a moral and legal difference between meaning to kill someone and killing someone accidentally,” we “can’t possibly judge the morality of collateral damage while leaving out the question of the war itself....It is the immorality and illegality of a war that makes collateral damage a crime. The real alternatives are to make war only when it is necessary and moral and legal, and not to make it when it is not. Then, if you take as much care as possible to avoid injury to non-combatants, nobody will have the right to criticize you when they are harmed, because their harm will be the responsibility of those who started the war...” (emphasis added). See How America Gets Away With Murder: Illegal Wars, Collateral Damage and Crimes Against Humanity (Ann Arbor, MI: Pluto Press, 2004), esp. “Collateral Damage,” pp. 46-56; here p. 49.

[7] Population flows in Kosovo prior to and during NATO’s 1999 bombing war correlated, not with a plan of ethnic cleansing and forced expulsion, but with strategic military factors, including the intensity of fighting, the operational presence of the KLA in the various theaters of combat, and the relative density of the national groups living in the areas being contested. Across Kosovo’s 29 municipalities, ethnic Albanians did not flee the territory uniformly. Nor were they alone—members of all ethnic groups fled areas where fighting took place. Municipalities in different parts of Kosovo where the KLA’s presence was thin saw relatively little fighting and therefore little refugee flow. This was particularly true prior to the start of NATO’s bombing war on March 24, 1999. See the report published by the OSCE, Kosovo/Kosova: As Seen, As Told. The human rights findings of the OSCE Kosovo Verification Mission October 1998 to June 1999, esp. Part III, Ch. 14, “Forced Expulsion,” pp. 146-162; and Part V, “The Municipalities,” pp. 226-585.

Also see the treatment of this matter in Noam Chomsky, A New Generation Draws the Line: Kosovo, East Timor and the Standards of the West (Verso, 2000), p. 114 ff. Chomsky summarized the work of former New York Times reporter David Binder, who “notes ‘a curiosity’ documented in the OSCE report: 46 percent of the Albanians left Kosovo during the bombing, along with 60 percent of the Serbians and Montenegrins. Thus, ‘proportionately more Serbs were displaced during the bombing, and they did not return to Kosovo’“ (p. 114).

Last, see the testimony of late British journalist Eve-Ann Prentice during the Defense’s phase of the trial of Slobodan Milosevic. Asked her opinion about the reasons why so many Kosovo Albanians fled the province during NATO’s bombing war, Prentice said, variously, “we were told many times that...ordinary civilian ethnic Albanians...had been told it was their patriotic duty to leave because the world was watching...and that anybody who failed to join this exodus was somehow not supporting the -- the Albanian cause....[T]hey had been told by KLA leaders that their patriotic duty was to join the exodus, was to leave Kosovo, to be seen to be leaving Kosovo.” (Testimony of Eve-Ann Prentice, Prosecutor v. Slobodan Milosevic (IT-02-54), February 3, 2006, pp. 47908 - 47909.)

[8] “Balkan Ghosts,” Editorial, New Republic, March 12, 2008.

[9] Achim Steiner et al., Sudan: Post-Conflict Environmental Assessment, UN Environment Program, 2007, esp. Ch. 3, Ch. 4, Ch. 5, and Ch. 15; here p. 329. This important report continues: “Although not a novel finding to those working in this field in Darfur, it is not commonly understood outside the region. Yet it has major implications for the prospects for peace, recovery and rural development in Darfur and the Sahel. Indeed, the situation in Darfur is uniquely difficult, but many of the same underlying factors exist in other parts of Sudan and in other countries of the Sahel belt. Darfur accordingly holds grim lessons for other countries at risk, and highlights the imperative for change towards a more sustainable approach to rural development” (p. 329). In published comments on the UN Environment Program’s findings, UN Secretary-General Ban Ki-moon noted that, “Almost invariably, we discuss Darfur in a convenient military and political shorthand—an ethnic conflict pitting Arab militias against black rebels and farmers.

Look to its roots, though, and you discover a more complex dynamic. Amid the diverse social and political causes, the Darfur conflict began as an ecological crisis, arising at least in part from climate change....It is no accident that the violence in Darfur erupted during the drought.” (“A Climate Culprit In Darfur,” Washington Post, June 16, 2007; also Julian Borger, “Darfur conflict heralds era of wars triggered by climate change, UN report warns,” The Guardian, June 23, 2007.) The contrast between these “underlying factors” and the Western chorus of denunciation of Khartoum for perpetrating “genocide” there could not be more stark. Also see David M. Cacarious Jr. et al., National Security and the Threat of Climate Change, CNA Corporation, April, 2007. This “blue-ribbon panel of retired admirals and generals” notes that “[s]truggles that appear to be tribal, sectarian, or nationalist in nature are often triggered by reduced water supplies or reductions in agricultural productivity.” It adds that the “situation in Darfur...had land resources at its root....Probably more than any other recent conflict, Darfur provides a case study of how existing marginal situations can be exacerbated beyond the tipping point by climate-related factors” (pp. 15-20).

Last, see the very important analysis by Mahmood Mamdani, “The Politics of Naming,” London Review of Books, March 8, 2007.

[10] See Jeff Halper et al., “18,000 Homes Destroyed by Israel since 1967,” Israeli Committee Against House Demolitions.

[11] John Dugard, Report of the Special Rapporteur of the Commission on Human Rights on the situation of human rights in the Palestinian territories occupied by Israel since 1967 (A/60/271), August 18, 2005, esp. the Summary and para. 51-57.

[12] See Gideon Levy, “With friends like these,” Haaretz , March 23, 2008.

[13] See, e.g., C.M. Woodhouse, New Ed., The Struggle for Greece 1941- 1949 (Chicago: Ivan R. Dee, 2003); Mark J. Gasiorowski and Malcolm Byrne, Eds., Mohammad Mosaddeq and the 1953 Coup in Iran (Syracuse: Syracuse University Press, 2004); and Stephen M. Streeter, Managing the Counterrevolution: The United States and Guatemala, 1954-1961 (Athens, OH: Ohio University Press, 2001).

[14] Michael McClintock, Instruments of Statecraft: U.S. Guerrilla Warfare, Counter-insurgency, and Counter-terrorism, 1940 - 1990 (New York: Pantheon Books, 1992), pp. 11-17. McClintock cites a New York Times article from December 7, 1947, about the ubiquity of the “enemy” (i.e., the Greek population), which bore the revealing title: “The Front in Greece is Everywhere” (n. 44, p. 466).

[15] David H. Petraeus and James N. Matthis, Counterinsurgency (U.S. Department of the Army, 2006), esp. Ch. 1, “Insurgency and Counterinsurgency,” pp. 1-21 - 1-24, where the terminological reorientation from the “Cold War” and counterinsurgency as countering “communism,” to the “War on Terror” and counterinsurgency as countering “terrorism,” is quite explicit.

[16] Edward S. Herman, The Real Terror Network: Terrorism in Fact and Propaganda (Boston: South End Press, 1982). See esp. “The U.S. Natural Right To Subvert,” pp. 132 - 137; and Table 3-5, “Forms of Subversion Engaged in by the United States in Eight Countries in Latin America and the Caribbean, 1950 - 1980,” p. 134.

[17] On possible U.S. Government sponsorship of terrorism-by-proxy inside Iran, see Borzou Daragahi, “Iran says U.S. aids rebels at its borders,” Los Angeles Times, April 15, 2008. And on the sudden prominence of protests around Tibet, see Michel Chossudovsky, “China and America: The Tibet Human Rights PsyOp,” Centre for Research on Globalization, April 13, 2008.

[18] See The Gaza Strip: A Humanitarian Implosion (March, 2008), a collaborative assessment by the U.K.-based Oxfam, Christian Aid, and six other organizations. Also see The Gaza Strip -- One Big Prison, B’Tselem, May, 2007.

[19] John Dugard, Report of the Special Rapporteur on the Situation of Human Rights in the Palestinian Territories Occupied Since 1967 (A/HRC/2/5), September 5, 2006, para. 70.

[20] “Barghouthi: Israeli violations and assaults increased since Annapolis,” Palestinian Information Center, April 5, 2008.—Here we see the irrelevance of the February 27 Qassam rocket strikes on Sderot that killed Roni Yichia to Israel’s overall policy objectives on the West Bank as well as the Gaza. On the West Bank, what Israel seeks is the completion of the separation wall and the expansion of Jewish settlements; how far the settlements will expand, and by how many in number, remain the only unanswered questions. Clearly, it is not the Qassam rocket strikes on southern Israel in late February that explain the increase in violent and repressive activity on the West Bank since the Annapolis conference was held in the final week of November. Also see David Rose, “The Gaza Bombshell,” Vanity Fair, April, 2008.

[21] John Dugard, Human Rights Situation in Palestine (A/HRC/7/17), UN Human Rights Council, January 21, 2008, para. 4.

[22] UN Security Council Resolution 1701 (S/RES/1701), August 11, 2006; “Security Council votes unanimously for an end to hostilities in the Middle East,” UN News Center, August 11, 2006.

[23] See General David H. Petraeus, “Report to Congress on the Situation in Iraq,” September 10-11, 2007.,” April 8-9, 2008, p. 2. (Also see the accompanying charts.). For an earlier example of the “Petraeus Doctrine” and its redefinition of counterinsurgency as “counter-terrorism,” see the General’s “Report to Congress on the Situation in Iraq.

[24] “Secretary-General’s statement to the Security Council on the situation in the Middle East,” March 1, 2008

[25] “Security Council, Secretary-General, alarmed by deadly violence in Middle East,” UN News Center, March 2, 2008.

[26] See Article IV.1, Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons, March 5, 1970 (as posted to the website of the IAEA).

[27] See, e.g., Edward S. Herman and David Peterson, “The U.S. Aggression Process and Its Collaborators: From Guatemala (1950-1954) to Iran (2002-),” Electric Politics, November 26, 2007; and Siddharth Varadarajan, “The UN is escalating the Iran nuclear crisis,” The Hindu, March 5, 2008.

[28] See Avner Cohen, Ed., “Israel Crosses the Threshold,” National Security Archive Electronic Briefing Book No. 189, April 28, 2006.

[29] See Article VI, Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons.

[30] “Statement attributable to the Spokesperson for the Secretary-General on today’s attack in Jerusalem,” March 6, 2008; “President Bush Condemns Terrorist Attack in Israel,” White House Office of the Press Secretary, March 6, 2008.

[31] Helene Cooper, “Gaza Pitfalls in Every Path,” New York Times, March 3, 2008.

[32] Madeleine Albright to Lesley Stahl, “Punishing Saddam,” 60 Minutes, CBS TV, May 12, 1996. Their exchange went exactly as follows: Stahl: “We have heard that a half a million children have died. I mean, that’s more children than died when--wh--in--in Hiroshima. And--and, you know, is the price worth it?” Albright: “I think this is a very hard choice, but the price--we think the price is worth it.”

[33] See John Ellis, The Social History of the Machine Gun (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1986).

[34] For brief discussions these designer crises, see Roger Howard, “Where anti Arab prejudice and oil make the difference Gideon Levy, “Palestinians versus Tibetans--a double standard,” Haaretz”How come Zimbabwe and Tibet get all the attention?” The Guardian, April 17, 2008. , April 13, 2008; and Seumas Milne,,” The Guardian, May 16, 2007; Dan Glaister, “Not on our watch -- how Hollywood made America care about Darfur,” The Guardian, May 19, 2007;

[35] “Where Things Stand Milestone,” World News with Charles Gibson, ABC TV News, March 19, 2008. The topics under discussion were the U.S. war in Iraq, and American public opinion. The exchange between ABC News correspondent Martha Raddatz and Vice President Dick Cheney went exactly as follows:

Raddatz: “Let me go back to the Americans. Two-thirds of Americans say it’s not worth fighting. And they’re looking at the value gain versus the cost in American lives, certainly and Iraqi lives.” Cheney: “So?” Raddatz: “So? You’re not - you don’t you care what the American people think?” Cheney: “No, I think you cannot be blown off course by the fluctuations in the public opinion polls.”

[36] Steven Kull et al., American Public Says Government Leaders Should Pay Attention To Polls, World Public Opinion.org - Program on International Policy Attitudes, March 21, 2008.

[37] See David Peterson, “Worthy vs. Unworthy Opinion Surveys,” Z.Com, March 28, 2008.

[38] Marshall M. Bouton et al., American Public Opinion and Foreign Policy, Chicago Council on Foreign Relations - Program on International Policy Attitudes, 2002. Based on interviews conducted between June 1 and June 30, 2002, this careful study reported: “When asked in general terms, a strong majority of 75% favor using U.S. troops to overthrow Saddam Hussein’s government, with only 21% opposed. But in responses on another question that differentiates among alternative approaches, it becomes clear that multilateralism is essential to this support. Only 20% say the United States should invade Iraq ‘even if we have to go it alone’. Fully 65% say the United States should only invade Iraq ‘with UN approval and the support of its allies’, while 13% say that the United States should not invade Iraq in any case” (p. 27). Also see Figure 3 - 10, “Attitudes on Using Force in Iraq” (p. 27). Although conducted nine months prior to the March 2003 war, and at the start rather than the finish of a prolonged propaganda campaign that witnessed perhaps the most well-organized and sustained series of lies around a single topic in U.S. history, here we note the crucial difference that giving people an alternative can make to how they respond.

[39] See America’s Image Further Erodes, Pew Global Attitudes Project, March 18, 2003. Based on surveys in nine different countries. In only one country did a majority express support for the looming war: The United States (59%). In the other eight countries, the majorities expressing opposition were: Britain (51%), France (75%), Germany (69%), Italy (81%), Poland (73%), Russia (87%), Spain (81%), Turkey (86%).

[40] See, e.g., Economic Pessimism Grows, Gas Prices Pinch, Pew Center for the People and the Press, September 15, 2005, which reported the “most notable shift in public opinion about the situation in Iraq over the summer is increasing support for the idea of setting a timetable for troop withdrawal, from 49% in July to 57% today.” We believe a strong argument can be made that a majority of the U.S. public concluded early on that a prompt and complete U.S. withdrawal from Iraq would be the best course for their government to take. This can be seen in responses to questions that asked whether they believed the war had made the United States more safe or less safe, whether they believed launching the war was the right decision or the wrong decision, and the like. The U.S. government’s lies about the threat posed by Iraq’s weapons of mass destruction programs and Iraq’s ties to Al Qaeda and the events of 9/11 may have sunk their roots deeply into the captive American mind. But this is a much different matter than what Americans at the same time believed that their government should do about it.

[41] See Steven Kull et al., World Publics Reject U.S. Role as the World Leader, Chicago Council on Global Affairs - World Public Opinion.org, April 17, 2007, passim.

[42] See, e.g., Public Opinion in Iraq: First Poll Following Abu Ghraib Revelations, Coalition Provisional Authority, May 14-23, 2004. The CPA did everything it could to suppress the results of this early poll, and the results were barely reported in the United States. But they presented a “stark picture of anti American sentiment,” Associated Press reported, with “more than half of Iraqis” expressing the belief that “they would be safer if U.S. troops simply left.” (John Solomon, “U.S. poll of Iraqis finds widespread anger at prison abuse, worry about safety,” June 15, 2004.)

[43] See Steven Kull et al., American and Russian Publics Strongly Support Steps to Reduce and Eliminate Nuclear Weapons, World Public Opinion.org - Program on International Policy Attitudes, November 9, 2007, pp. 16-18.

[44] “U.S. missile shield politicized, poll says,” Agence France Presse, February 27, 2008.

[45] Philip E. Coyle, “Missile Defense and the Czech Republic,” The Defense Monitor, March / April, 2008, p. 6.2.

[46] “Poland’s PM rules out referendum on U.S. missile shield,” Poland Business Newswire, February 27, 2008.

[47] See John C. Freed, “Poll finds a broad desire to cooperate with Russia,” International Herald Tribune, March 28, 2008. Also see “Adherence to an American Anti-Missile Defence Project in Eastern Europe,” Harris Interactive Poll, p. 6.

[48] John W. Warnock, “Democracy and the Politics of War,” April 6, 2008 (as posted to the Act-Up-Saskatchewan website).

Thursday, May 22, 2014

Phương Tây khuếch trương cuộc bầu cử trước mũi súng ở Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "West promotes election held at gunpoint in Ukraine" của Bill Van Auken, bình luận những tin tức mới nhất về cuộc khủng hoảng ở Ukraina.

Chỉ vài ngày trước cuộc bầu cử tổng thống và lãnh đạo thành phố được chính quyền cánh hữu “lâm thời” do phương Tây hậu thuẫn tổ chức ở Ukraina, bộ quốc phòng thông báo vào ngày thứ tư rằng cái được gọi là “các chiến dịch chống khủng bố” nhằm vào những dân cư bất đồng chính kiến ở miền đông và nam đất nước sẽ được triển khai với toàn bộ sức mạnh.

“Pha chủ động trong các chiến dịch chống khủng bố đang được tiếp tục,” người phát ngôn bộ quốc phòng Vladislav Seleznyov nói vào thứ tư. “Cư dân ở khu vực miền đông Ukraina có thể chứng kiến điều đó. Hiện nay, quân lính và lực lượng tham gia vào chiến dịch chống khủng bố đang được luân chuyển theo kế hoạch” 

Washington và đồng minh châu Âu đang khuếch trương cuộc bầu cử vào chủ nhật, coi đó là biện pháp hợp pháp hóa cuộc đảo chính lật đổ chính quyền dân cử của phát xít mới được phương Tây hậu thuẫn, cũng như thiết lập một chính quyền bất hợp pháp có các lãnh đạo được quan chức Hoa Kỳ lựa chọn.

Ý tưởng về một cuộc bầu cử hợp pháp có thể được tổ chức, trong khi quân đội đưa xe tăng, pháo binh và trực thăng chiến đấu tới đàn áp phe đối lập chính trị trên phần lớn lãnh thổ đất nước, là lố bịch. Sự lừa dối đang được dàn xếp, với sự hỗ trợ vô điều kiện của Hoa Kỳ, chỉ hai tuần sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 11 tháng 5 về sự tự trị ở khu vực Donetsk và Luhansk mà bộ ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố là bất hợp pháp. Cuộc khủng hoảng Ukraina cung cấp một cửa sổ độc đáo cho thấy sự yếm thế và đạo đức giả trong chính sách đối ngoại của đế quốc Hoa Kỳ.

Washington đã gia tăng sự can thiệp, gửi tàu tuần tiễu có mang tên lửa hành trình của hải quân Hoa Kỳ Vella Gulf tới Biển Đen để tham gia bầu cử. Trong khi đó, phó tổng thống Joe Biden bày tỏ một sự đe dọa khác đối với Nga, long trọng tuyên bố trong chuyến viếng thăm Romania rằng nếu Moscow “phá hoại ngầm” cuộc bầu cử vào chủ nhật, Hoa Kỳ sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế cứng rắn hơn và gia tăng sự mở rộng về phía đông của NATO.

Kể từ khi chính phủ Ukraina khởi sự các chiến dịch “chống khủng bố”, đưa quân đội và các đơn vị vệ binh quốc gia kết hợp với quân phát xít mới Right Sector tới chống lại miền đông và miền nam Ukraina, ít nhất 127 người đã bị giết hại, theo ước lượng của Liên Hiệp Quốc.

Một trong những dấu hiệu rõ ràng của bầu không khí mà các cuộc bầu cử được tổ chức vào cuối tháng tới là khi ứng cử viên tổng thống Oleg Tsarev, cựu phó chủ tịch đảng Các khu vực của tổng thống bị lật đổ Yanukovych và là một người ủng hộ liên bang hóa, bị đám đông cực hữu tấn công trong một buổi truyền hình ở Kiev. Do bị đánh đập đến mức phải vào viện trong tình trạng nguy kịch, ông ta đã rút ứng cử và kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử.

Sự tàn bạo tương tự và thậm chí tồi tệ hơn do các thành phần phát xít gây ra trở thành cột trụ cho chính phủ chống lại tất cả các nhóm có khuynh hướng tả, bao gồm cả nhóm “Borotba” (“Đấu tranh”) và Đảng cộng sản Ukraina (KPU), có các thành viên bị giết hại, đánh đập, bắt giữ và phải đối mặt với các âm mưu ám sát.

Lần đầu tiên kể từ khi Liên bang Soviet tan rã năm 1991, cuộc bầu cử được tổ chức trong các điều kiện không có ứng cử viên nào đại diện cho các khu vực đa số nói tiếng Nga ở miền đông và miền nam Ukraina tham gia. 

Trong khi đó, chính phủ Kiev liên tục đàn áp truyền thông Nga ở Ukraina, bắt giữ, bỏ tù, thẩm vấn và trục xuất tất các các phóng viên bị tình nghi là không phục tùng ranh giới tuyền truyền do Washington đặt ra. (Xem: Chính phủ Ukraina bỏ tù các nhà báo làm việc cho truyền thông Nga).

Tiếp theo sự đàn áp đó, chính phủ Kiev, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và Đức, thông qua đề xuất đàm phán “bàn tròn” nhằm xoa dịu sự căng thẳng giữa chính phủ và các khu vực miền đông và miền nam. Trong các cuộc đối thoại này, các chính khách tham gia có quan hệ với những nhà tư bản tài phiệt đang thống trị đất nước, đã loại bỏ một cách có hệ thống các đại diện cho dân chúng đang biểu tình và bị tấn công.

Nghị viện Ukraina, Verkhovna Rada, với phiếu đa số phiếu chấp thuận vào ngày thứ tư thông qua một “bản ghi nhớ về hòa bình và hòa giải”, thứ chỉ là sản phẩm của một hoạt động “bàn tròn”. Giải pháp kêu gọi triệu hồi quân đội Ukraina đang bao vây các khu vực miền đông và miền nam về doanh trại và kết thúc bạo lực của mọi phe phái. Việc Ukraina tham gia các liên minh quốc tế như Liên minh châu Âu hay NATO cũng bị quy định là phải được chấp thuận bằng một cuộc trưng cầu dân ý.

Một điều khoản ân xá cho những người chiếm đóng các tòa nhà công sở ở miền đông và nam Ukraina đã bị loại khỏi phiên bản chính thức của bản ghi nhớ.

Giải pháp rõ ràng là muốn đánh lạc hướng khỏi các điều kiện thực tế trên thực địa mà bộ quốc phòng đã giải thích thẳng thừng và do đó không đem lại cho cuộc bầu cử một chút đáng tin cậy nào. Chúng dường như muốn xoa dịu chính quyền của tổng thống Vladimir Putin ở Moscow, những người đặt ra dấu hỏi cho sự hợp pháp của cuộc bầu cử.

Cũng có những dấu hiệu cho thấy mức độ mà chính phủ Nga sẽ hành động, sự ra hiệu đã có một số hiệu quả. Thứ trưởng bộ ngoại giao Nga Grigory Karasin nói vào thứ tư rằng bản ghi nhớ đã tạo thành “sự hiện thực hóa bước đầu công khai và rõ ràng, mặc dù muộn, một bước tiến của Thỏa ước Geneva 2014”.

Những thỏa ước này, được thiết lập giữa đại diện Hoa Kỳ, Nga, Liên minh châu Âu và chính phủ Kiev, kêu gọi tất cả các bên “giảm căng thẳng” bằng cách kết thúc bạo lực, tước vũ khí “các nhóm vũ trang bất hợp pháp”, chấm dứt chiếm đóng các tòa nhà công sở và mở rộng ân xá cho người biểu tình. Chính quyền Kiev, được Washington hậu thuẫn, giải thích hiệp định này hoàn toàn theo kiểu một phía, bỏ qua các nhóm vũ trang bất hợp pháp như phát xít Right Sectos, một trong những kẻ hỗ trợ chủ chốt của họ, cũng như sự chiếm đóng ở Kiev và miền Tây Ukraina, trong khi từ chối ân xá cho những người biểu tình ở miền đông.

Chính quyền Putin coi bản ghi nhớ là đáng tin cậy – trái ngược với mâu thuẫn rõ ràng giữa bản ghi nhớ và hoạt động của chính phủ Kiev trên thực địa – đã đồng thuận với một thông báo từ Moscow rằng tất cả quân đội Nga đã được rút khỏi khu vực gần biên giới Ukraina. Các quan chức Ukraina xác nhận vào thứ tư là không có quân đội Nga trong phạm vi 10 cây số quanh biên giới.

Hoạt động của chính quyền Nga gắn chặt với lợi ích của nhóm tư bản tài phiệt bán tội phạm, đóng vai trò là các khối cử tri chủ chốt của chính phủ Putin. Mặt khác, sự khát khao xoa dịu căng thẳng về Ukraina gắn liền với quan ngại của tầng lớp thống trị rằng xung đột với phương Tây – nơi các ngân hàng đang giữ tài sản của phần lớn trong số họ – và các biện trừng phạt gia tăng đe dọa tới lợi ích của họ. 

Sự quan ngại này được thể hiện trong tuần này ở diễn đàn kinh tế St. Peterburg, nơi 32 nhà tỷ phú Nga xuất hiện, nhưng các giám đốc tài chính và doanh nghiệp Hoa Kỳ tránh xa dưới sức ép của chính quyền Obama.

Moscow cũng mong muốn xoa dịu lo ngại của phía Bắc Kinh về sự sáp nhập Crimea và khả năng vẽ lại đường biên giới cũng như tác động của chúng đối với vấn đề của họ trong xung đột về Tân Cương và Tây Tạng.

Putin cùng với chủ tịch Tập Cận Bình quan sát việc ký kết hợp đồng khí đốt trong 30 năm trị giá 400 tỷ dollar vào thứ tư. Trong khi hợp đồng đã được đàm phán trong thập kỷ trước, sự đối đầu hiện nay với phương Tây về Ukraina dường như tạo ra sự thúc đẩy cho việc đạt được thỏa thuận mặc dù giá cả là khá viển vông.

Khi cuộc bầu cử ở Ukraina đang tới gần, chính quyền Putin vẫn tin rằng nó sẽ trao quyền lực cho những tư bản tài phiệt tha hóa, những người mà Moscow có thể hợp tác. 

Người dẫn đầu trong tất cả các khảo sát ở Ukraina là Petro Poroshenko, người Ukraina được gọi là “vua sô cô la”, người tích lũy được khối tài sản cá nhân khoảng 1,3 tỷ dolla bằng cách cướp đoạt các nhà máy thuộc sở hữu nhà nước sau khi Liên bang Soviet tan rã và khôi phục chủ nghĩa tư bản. Khảo sát mới nhất cho thấy ông ta được 53,2% số người tham gia ủng hộ, so với khoảng 10% của đối thủ cạnh tranh chính, cựu thủ tướng Yulia V. Tymoshenko, người được gọi là “nữ hoàng khí đốt”, người đã bị bỏ tù vì tội tham nhũng và chỉ được thả sau cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn ở Kiev 

Poroshenko, người giàu có thứ bảy ở Ukraina, có quan hệ mật thiết với toàn bộ giới tư bản tài phiệt, một trong những cộng sự gần gũi của ông ta là Dmytro Firtash, người khổng lồ khí đốt Ukraina, có quan hệ với các bố già tội phạm Nga và hiện đang ở Áo chờ dẫn độ sang Hoa Kỳ về tội gian lận và hối lộ. 

Trong khi được chào đón như một tư bản tài phiệt đã hậu thuẫn cho biểu tình bạo lực ở Maidan dẫn đến cuộc đảo chính tháng hai, Poroshenko không chỉ là bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ thân phương Tây của tổng thống Viktor Yushchenko mà còn là bộ trưởng bộ phát triển kinh tế và thương mại dưới chính quyền của tổng thống bị lật đổ Yanukovych.

Friday, May 16, 2014

Bất chấp đàm phán bàn tròn, chính phủ Ukraina mở rộng sự đàn áp

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "Despite round table talks, Ukrainian regime escalates crackdown" của Johannes Stern, cập nhật những diễn biến mới nhất về cuộc khủng hoảng tại Ukraina.

Hoa Kỳ và Châu Âu đã cho thấy sự ủng hộ của họ đối với các chiến dịch “chống khủng bố” của chính phủ Kiev nhằm dồn ép người biểu tình thân Nga ở miền đông Ukraina, thậm chí ngay cả khi Kremlin đã tuyên bố ủng hộ cái được gọi là đàm phán “bàn tròn” vào thứ tư ở Kiev và giữ khoảng cách với người biểu tình.

Vào thứ năm, tổng thống tạm quyền Oleksandr Turchynov khoe khoang rằng quân đội Ukraina đã phá hủy doanh trại của các chiến binh thân Nga trong các chiến dịch qua đem. Ông ta khẳng định quân đội của chính phủ đã tấn công một căn cứ cở thành phố miền đông Slavyansk và một căn cứ khác gần Kramatorsk – thành phố công nghiệp ở phía bắc tỉnh Donetsk, nơi mà cái được gọi là “chiến dịch chống khủng bố” của Kiev đã bắt đầu một tháng trước đây. Bộ trưởng quốc phòng ở Kiev thông báo rằng quân đội đã bắt giữ ba tù binh, khẳng định không có thương vong.

Chính phủ Kiev ngày càng dựa nhiều hơn vào lực lượng phát xít, đóng vai trò mũi nhọn trong cuộc đảo chính ngày 22 tháng hai chống lại tổng thống dân cử Victor Yanukovych, để tiếp tục các chiến dịch quân sự ở miền đông.

Vào thứ năm, tờ Guardian của Anh xuất bản một bài báo dài với tiêu đề “Sự lo ngại về nội chiến ở Ukraina gia tăng khi các đơn vị tình nguyện cầm vũ khí”, tường thuật về “các đơn vị phi chính quy xuất hiện trong những nỗ lực của Kiev giành lại quyền kiểm soát khu vực Donetsk và Luhansk từ tay các chiến binh thân Nga. Họ được các nhà cầm quyền Ukraina công nhận là bán hợp pháp, hoan nghênh mọi sự trợ giúp đối với cuộc chiến của họ ở miền đông”.

Nguy cơ của một cuộc nội chiến toàn diện ở Ukraina không phải là kết quả của “âm mưu Nga”, như truyền thông và các chính phủ phương Tây khẳng định. Các quyền lực đế quốc và những gã ngốc ở Kiev đã có chính sách dối trá kích động sắc tộc và căng thẳng văn hóa để gây bất ổn Ukraina và tạo lợi thế về lợi ích địa chiến lược chống lại Nga.

Một bức điện tín ngoại giao cách đây sáu năm được người sau này là đại sứ Hoa Kỳ tại Nga William Burns viết và được Wikileaks công bố mới đây, giống như một bản thiết kế cho sự kiện hiện tại.

“Sự mở rộng của NATO, đặc biệt là tới Ukraina, được coi là vấn đề ‘nhạy cảm và đau đầu’ đối với Nga, nhưng những sự cân nhắc chính sách chiến lược cũng làm nền tảng cho sự đối đầu dữ dội với việc Georgia và Ukraina gia nhập NATO. Ở Ukraina, điều đó bao gồm sự lo ngại rằng vấn đề đó có thể chia quốc gia làm hai phần, dẫn đến bạo lực, hay thậm chí như một số khẳng định là cả nội chiến, khiến quân đội Nga phải quyết định can thiệp hoặc không,” Burns viết.

Như bức điện tín đã cho thấy rõ, Hoa Kỳ và đồng minh NATO, bao gồm cả Đức, đã biết rằng thiết lập một chính phủ thân châu Âu và NATO ở Kiev sẽ kích động sự đối đầu ở trong cả nội bộ Ukraina lẫn từ phía Nga. Phản ứng này – diễn ra dưới dạng những người ly khai nổi loạn ở miền đông, và sự sáp nhập của Crimea vào Liên bang Nga – giờ đây được sử dụng làm cái cớ để biện minh cho sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc vào Nga.

Khi đàm phán “bàn tròn” đang diễn ra, trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ Victoria Nuland, trong phát biểu tại hội nghị an ninh ở Bratislava, đe dọa rằng “nếu cuộc bầu cử ngày 25 tháng năm không diễn ra, nếu Nga tiếp tục gây bất ổn… sẽ có sự trừng phạt kinh tế tiếp theo, nghiêm trọng hơn đối với Nga ... Và chúng ta tin tưởng rằng những gì chúng ta đã làm đang bắt đầu gây nhức nhối.”

Chủ tịch Hội đồng châu Âu Herman Van Rompuy thông báo tại một cuộc họp báo chung với thủ tướng Georgia Irakly Garibashvili rằng Georgia và Moldova sẽ ký thoản thuận gia nhập Liên minh châu Âu vào ngày 27 tháng sáu. Châu Âu liên minh trực tiếp với hai quốc gia thuộc liên bang Soviet cũ có biên giới chung với Nga – một trong số đó, Georgia, đã tấn công quân đội Nga năm 2008, dẫn đến một cuộc chiến tranh ngắn với Nga – làm nổi bật tính chất thiếu thận trọng trong các hoạt động gây hấn của chủ nghĩa đế quốc nhằm bao vây và cô lập hoàn toàn Nga.

Vào thứ năm, Washington thông báo rằng NATO có kế hoạch thiết lập căn cứ quân sự lâu dài ở Ba Lan. “Hoa Kỳ nhận biết mong muốn của Ba Lan về việc triển khai căn cứ quân sự tại quốc gia, và tôi nghĩ rằng rất đáng để cân nhắc về sáng kiến này,” đại sứ Hoa Kỳ ở Ba Lan Stephen Mull nói.

“Không chỉ Hoa Kỳ, mà toàn bộ liên minh. Đây là một chủ đề quan trọng cần được thảo luận, điều đó sẽ diễn ra ở nước Anh vào tháng mười hai. Nếu Nga thay đổi một cách cực đoan môi trường an ninh ở khu vực này của châu Âu, thì sẽ cần phải có những trả đũa cụ thể từ NATO,” ông ta đe dọa.

Mull cũng tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ duy trì lực lượng bổ sung được gửi tới Ba Lan những tuần qua ít nhất là cho tới hết năm 2014. Suốt những tuần qua, Hoa Kỳ triển khai 12 chiến đấu cơ phản lực F-16 và khoảng 450 lính tới Ba Lan, một phần trong sự gia tăng quy mô của quân đội NATO ở Đông Âu.

Các biện pháp đó đã phơi bày sự gian trá của cái được gọi là đàm phán “bàn tròn” dưới sự đỡ đầu của Tổ chức Anh ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE). Họ đã khởi xướng việc ngăn chặn sự nổi loạn ở miền đông và thúc đẩy cuộc bầu cử tổng thống vào ngày 25 tháng năm, thứ được coi là chìa khóa đem lại cái mã dân chủ hợp hiến cho chính quyền bất hợp pháp tay sai của phương Tây ở Kiev.

Mặc dù vậy, vòng đầu tiên kéo dài chỉ ba giờ đồng hồ. Tham dự đàm phán có các nhà lãnh đạo của chính phủ đảo chính, các tư bản tài phiệt, cựu tổng thống Ukraina Leonid Kravchuk và Leonid Kuchma, các lãnh đạo địa phương, thủ lĩnh tôn giáo, các nhân vật đứng đầu OSCE, đại sứ Hoa Kỳ và Đức tại Ukraina.

Cuộc đàm phán bao gồm cả việc lặp lại sự đe dọa đối với Nga và người biểu tình chống chính phủ ở miền đông. Mặc dù vậy, họ cũng bị nỗi sợ hãi dẫn dắt, sự đối đầu với chính phủ Kiev có thể vượt ra ngoài tầm kiểm soát và trở thành một cuộc nội chiến toàn diện hoặc khuấy động một sự bùng nổ xã hội trên toàn quốc gia.

Các quan chức miền đông Ukraina được tham dự đàm phán đã cảnh báo rằng có sự đối đầu quy mô lớn đối với chính phủ Kiev ở miền đông. Sergei Taruta, một nhà tư bản tài phiệt tỷ phú được chính quyền Kiev bổ nhiệm chức thị trưởng Donetsk nói: “Đa số dân chúng ở Donbass [miền đất có Donetsk] đứng về phía Ukraina thống nhất, nhưng đồng thời cũng chống lại chính quyền hiện nay ở Kiev.”

Phó thủ tướng Ukraina Volodymyr Groysman kêu gọi tất cả các bên tham gia “đối mặt với thách thức mà chúng ta có hôm nay,” cảnh báo rằng “không ai cho chúng ta cơ hội thứ hai. Chúng ta sẽ phải giành lấy niềm tin của dân chúng ở miền đông cũng như miền tây, nếu không chúng ta sẽ gánh chịu một số phận bi thảm.”

Những mối lo ngại đó được chính quyền Putin chia sẻ, chính phủ ấy cũng đại diện cho tầng lớp tinh hoa của tư bản tài phiệt - ở Nga cũng như ở Ukraina – là những kẻ đã tích lũy được một lượng của cải khổng lồ nhờ việc cướp bóc tài sản quốc gia, sau khi chế độ quan liêu Stalin làm tan rã Liên bang Soviet và tái thiết lập chủ nghĩa tư bản. 

Trong khi các quyền lực phương Tây và chính phủ Kiev sử dụng lá chắn “đàm phán bàn tròn” để chuẩn bị cho các biện pháp cứng rắn hơn thì Moscow lại đang tìm kiếm một thỏa thuận với các quyền lực đế quốc và chính phủ Kiev.

“Nếu có ai nổi lên như là người lãnh đạo với sự ủng hộ của đa số người Ukraina, tất nhiên đối thoại với người đó sẽ dễ dàng hơn những người tự phong,” ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov tuyên bố. Cảnh báo rằng Ukraina “đang ở gần một cuộc nội chiến”, ông ta khẳng định Nga sẽ ủng hộ cuộc bầu cử đã được lên kế hoạch và mở rộng vòng tay với ứng cử viên tổng thống được phương Tây ủng hộ cũng như nhà tư bản tài phiệt tỷ phú Petro Poroshenko, ông tuyên bố: “Chúng tôi có thể làm việc với bất cứ ai.”

Bất chấp sự liều lĩnh của Moscow nhằm đạt được một thỏa thuận, sức ép quân sự tiếp tục được gia tăng giữa các quyền lực chủ chốt của thế giới. Hạm đội Thái Bình Dương của Nga khởi hành từ Vladivostok vào thứ tư, tới Thượng Hải để hội quân với một hạm đội nhỏ gồm sáu tàu chiến Trung Quốc trong cuộc tập trận chung Nga - Trung lần thứ ba trên biển Nam Trung Hoa – đã trở thành tiêu điểm trong sự đối đầu căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Thursday, May 1, 2014

Một số hình ảnh kỷ niệm ngày lễ Lao Động trên thế giới

 1. Người biểu tình ở Bangladesh

2. Người biểu tình ở Campuchia

 3. Người biểu tình ở Đức

 4. Người biểu tình ở Indonesia

5. Người biểu tình ở Italia 

 6. Người biểu tình ở Philippine

7. Người biểu tình ở Singapore

8. Người biểu tình ở Thái Lan 

9. Người biểu tình ở Tây Ban Nha 

10. Người biểu tình ở Thổ Nhĩ Kỳ

Nguồn: Ảnh được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau trên mạng Internet.