Showing posts with label Đất đai. Show all posts
Showing posts with label Đất đai. Show all posts

Monday, May 11, 2015

Chiến tranh thương mại: Monsanto quay trở lại Việt Nam

Người Việt Nam nói: "Chúng ta lật sang trang mới nhưng không xé bỏ nó". Song có lẽ người Mỹ vẫn chưa thực sự hiểu điều này, bản thân người Mỹ vẫn luôn bị chia rẽ bởi cuộc chiến mà cho đến giờ họ vẫn không hiểu được tại sao họ đã thua nhục nhã ngay cả khi vượt trội về mọi mặt từ quân sự, công nghệ đến kinh tế. Nhưng giờ người Việt Nam đang chuẩn bị một cuộc chiến mới, thầm lặng nhưng cũng rất cam go, để xây dựng đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc. Cũng như trước kia, người Việt Nam không đơn độc khi nhận được sự ủng hộ của một số người Mỹ tiến bộ. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch bài viết "Trade Wars: Monsanto’s Return to Vietnam" của nữ giáo sư Desiree Hellegers.

Chiến tranh thương mại: Monsanto quay trở lại Việt Nam

Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong tuần qua, khi các nhà hoạt động tập trung ở Washington, D.C để tham gia hội thảo về “Việt Nam: Sức mạnh phản kháng,” ở thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam, một đoàn đại biểu do nhóm Hiến Chương 160 Cựu Chiến Binh vì Hòa Bình (VFP) đã lặng lẽ kết thúc chuyến đi kéo dài hai tuần. Chuyến đi được sắp xếp thời gian trùng với “Chiến Dịch Vạch Trần Hoàn Toàn” trên quy mô quốc gia của VFP. Sáng kiến của VFP, cũng giống như hội thảo ở D.C. vào cuối tuần, được tổ chức để chống lại chiến dịch của Bộ Quốc Phòng (DoD), được Luật Ủy Quyền Phòng Thủ Quốc Gia năm 2008 tài trợ, đưa ra các sự kiện tưởng niệm và mô tả lịch sử, trong đó có tài liệu trường học, để ghi nhớ kỷ niệm lần thứ 50 cuộc chiến tranh Việt Nam.

Nhằm chống lại âm mưu thúc ép ủy quyền theo dõi nhanh của chính quyền Obama để hoàn thành Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), chuyến đi của VPF 160 năm nay không chỉ đưa ra câu hỏi về các tác động tiếp diễn của chiến tranh đối với Việt Nam mà còn cả câu hỏi về việc triển khai hạt giống biến đổi gen (GMO) của Monsanto trên thị trường Việt Nam. Nội dung của TPP, sẽ là hiệp định thương mại lớn nhất trong lịch sử, tác động đến 40% kinh tế thế giới, vẫn nằm trong bí mật. Nhưng các đoạn bị tiết lộ cho thấy TPP sẽ gia tăng bất bình đẳng thu nhập ở cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ và lấn át luật pháp và chính sách bảo vệ môi trường và sức khỏe công cộng của địa phương cũng như quốc gia. Monsanto, một trong những nhà sản xuất lớn nhất của khoảng 20 triệu tấn chất độc màu da cam được rải xuống Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1971, là một trong số những doanh nghiệp chờ sẵn để thu hoạch những lợi nhuận dễ kiếm khi TPP được thông qua.

Sự nhiễm độc phổ biến do chất dioxin trong chất độc khai quang màu da cam, đất đai đầy rẫy bom mìn chưa nổ (UXO) – trong đó có mìn bộ binh và bom chùm – là những di sản của cái mà ở Việt Nam được coi là “Chiến tranh chống Mỹ.” Một trong những rắc rối bề ngoài của chiến dịch kỷ niệm 50 năm của Lầu Năm Góc là sự đeo bám kiểu Orwell vào cuộc chiến tranh công nghệ cao đã dìm rừng rậm và sông ngòi của Việt Nam vào chất độc khai quang trong thí nghiệm khoa học lạnh lùng lớn nhất lịch sử nhân loại. Trong số năm mục tiêu của NDAA có yêu cầu DoD tôn vinh lịch sử “sự tiến bộ về công nghệ, khoa học và y tế liên quan tới các nghiên cứu quân sự được thực hiện trong chiến tranh Việt Nam”.

Các lãnh đạo chuyến đi của VPF, trong đó có chủ tịch Suel Jones, phó chủ tịch Chuck Searcy, Don Blackburn, Chuck Palazzo và David Clark của Hiến Chương 160, đều đã từng tham gia chiến tranh Hoa Kỳ ở Việt Nam và mỗi lần quay lại, bị thôi thúc bởi hồi ức của họ về chiến tranh và khát vọng giúp đỡ các NGO Việt Nam mô tả những đau khổ mà chiến tranh gây ra. Với sự lãnh đạo của Hiến Chương 160 VFP từ cuối những năm 1960 đến đầu những năm 1970, các cựu chiến binh dự tính trước rằng trong điều kiện tốt nhất họ sẽ có 5 năm nữa để tổ chức các chuyến đi, cỗ máy gây quỹ ban đầu của họ đáp ứng được các chi phí quản lý giới hạn và hỗ trợ cho các tổ chức thành viên. 

Sau ngày chúng tôi tới Việt Nam, ngày 17 tháng 4, một vụ kiện tập thể đã được khởi sự ở Pháp theo yêu cầu của hàng triệu người Việt Nam chịu ảnh hưởng của chất độc màu da cam. Vụ kiện được đưa ra để chống lại Monsanto và 25 nhà chế tạo chất độc màu da cam chứa dioxin của Hoa Kỳ. Sau nhiều năm tranh cãi về luật pháp, kết luận 1984 đưa ra một khoản cứu trợ giới hạn cho các binh lính Hoa Kỳ bị ảnh hưởng sức khỏe do tác động liên quan tới chất độc màu da cam, từ ung thư tuyến tiền liệt, ung thư phổi, tới rối loạn sinh tủy, tiểu đường, Parkinson và đau tim. Nhưng những nỗ lực đòi bồi thường pháp lý và hỗ trợ tài chính cho khoảng 3 triệu người Việt Nam đang gánh chịu tác động của chất độc màu da cam đã thường xuyên thất bại. Hoa Kỳ không bao giờ thực hiện lời hứa của Nixon tại hội nghị Hòa Bình Paris 1973 về việc cung cấp cho Việt Nam 3 tỷ dollar để khôi phục, tương đương với hơn 16 tỷ dollar hiện nay. Viện trợ tương đối nhỏ nhoi của Hoa Kỳ cho đất nước vẫn chịu hậu quả chiến tranh này đến cùng với một ràng buộc: sức ép liên tục để kích hoạt nhiều dạng “điều chỉnh cơ cấu” mà TPP có vẻ như được thiết kế để gia tốc chúng.

Vào cùng ngày mà vụ kiện được khởi sự ở Pháp, chúng tôi gặp đại sứ Hoa Kỳ Ted Osius, đại sứ đầu tiên kể từ khi “bình thường hóa” quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam vào năm 1995 thừa nhận công khai các tác động kéo dài của chất độc màu da cam đối với người Việt Nam. Theo một số mô tả, hai thập kỷ cấm vận mà Hoa Kỳ áp đặt đối với Việt Nam sau chiến tranh cũng gây ra đau khổ tương đương với chiến tranh.

Osius nói với các đại biểu và các nhà báo rằng quan hệ chính trị đầy ý nghĩa giữa Hoa Kỳ và Việt Nam cần phải “đối mặt với quá khứ”. “Nếu chúng ta không đặt vấn đề chất độc màu da cam thì tôi không cho là chúng ta có tin cậy để đặt ra” các mối quan tâm chung khác, các vấn đề chủ chốt được ông kể tới là biến đổi khí hậu, sức khỏe toàn cầu, giáo dục và thương mại. Osius tán dương tinh thần của TPP và “lợi ích khổng lồ” mà nó sẽ mang lại cho công nhân Việt Nam, đồng thời gia tăng bảo vệ môi trường và đảm bảo an toàn thực phẩm. Mặc dù vậy, ông thừa nhận rằng bên cạnh những lợi ích mà Việt Nam gặt hái được từ tự do hóa thương mại trong những năm gần đây thì quốc gia này cũng phải chứng kiến sự nổi lên của tầng lớp tài phiệt mới. Ông cũng thừa nhận vai trò của TPP trong việc tư nhân hóa các cơ sở của nhà nước, trong các quy định của NAFTA và WTO thường được coi là các rào cản thương mại bất bình đẳng. Ông nói với chúng tôi, với TPP thì dĩ nhiên là “các cơ sở nhà nước không có hiệu quả” sẽ là đối tượng bị phá hủy. Khi tôi phản đối khẳng định của đại sứ Osius về lợi ích của TPP, được che dấu trong các văn bản bí mật, yêu cầu ông in ra và chia sẻ các bản sao của hiệp định thương mại với các đại biểu để chứng minh khẳng định của ông, thì ông từ chối một cách ngoại giao. Trên đường tới thăm Làng Hữu Nghị, một chương trình nằm ở ngoại ô Hà Nội, nuôi dưỡng các trẻ em và cựu chiến binh chịu ảnh hưởng của chất độc màu da cam, chúng tôi thấy một hình ảnh tương tự như ở Hoa Kỳ, các thành phố có khuynh hướng thu hút đầu tư toàn cầu bằng mọi giá. “Sự phát triển” ở Việt Nam, cũng như ở Hoa Kỳ, là quy mô phá hủy nhà cửa và di cư ngày càng lớn. Khắp các ngóc ngách của Hà Nội, giờ là nhà của một đại lý Rolls Royce và bốn đại lý Mercedes Benz, hàng hóa xa xỉ tràn ngập, cùng với các cuộc biểu tình lẻ tẻ. Sự căng thẳng giữa “phát triển” với quan điểm cách mạng và những hứa hẹn của Đảng Cộng Sản của Hồ Chí Minh, được thể hiện mạnh mẽ trong bộ phim của Doan Hong Le Ai sở hữu đất đai vào năm 2010. Bộ phim được giải thưởng đã mô tả cuộc đấu tranh giữa các nông dân nghèo phải di cư để nhường chỗ cho một sân golf xa xỉ, cùng với sự hợp lý hóa của lãnh đạo Đảng Cộng Sản địa phương (1). 

Ở mỗi thành phố dọc theo đường hành trình – từ Hà Nội tới Huế, tới A Lưới, Đà Nẵng, Nha Trang và thành phố Hồ Chí Minh – chúng tôi thấy bằng chứng của đau khổ tiếp diễn do chiến tranh gây ra. Ở mỗi thành phố, chúng tôi gặp gỡ các thành viên của Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam (VANN) cùng với các đại diện địa phương của Hội Nạn Nhân Chất Độc Màu Da Cam Việt Nam (VAVA), từ lâu đã đứng đầu các cuộc đấu tranh đòi bồi thường pháp lý và tài chính cho những người Việt Nam tàn tật do chất độc màu da cam gây ra. Một cuộc mít tinh với VAVN ở Hà Nội, chủ nhà của chúng tôi là tướng Phùng Khắc Đăng, đề cập vai trò của các doanh nghiệp Hoa Kỳ trong việc sản xuất chất độc màu da cam, thừa nhận một cách thận trọng rằng chất độc màu da cam có “những tác hại khủng khiếp không chỉ đối với người Việt Nam mà còn cả đối với binh lính và công dân Hoa Kỳ.” Trong buổi gặp mặt ở Đà Nẵng, đứng trước tượng bán thân của Hồ Chí Minh, một đại biểu của VAVA hồi tưởng “thấy máy bay tới và cây cỏ chết.”. Một đại biểu khác bổ sung thêm: “Nó phá hủy mọi thứ cùng với lá cây. Nó giết chúng tôi. Nó giết mọi người. Nó giết tất cả cây cối và động vật.” Nhưng sự tập trung, ông nhắc nhở chúng tôi – và bản thân – phải được đặt vào việc “làm sao tái thiết đất nước, làm sao phát triển đất nước.” Đề cập tới chiến tranh và việc Hoa Kỳ sử dụng chất độc màu da cam, ông nói, “Chúng ta lật sang trang, [nhưng] chúng ta không xé bỏ nó.”

“Chúng tôi cảm kích sự độ lượng của nhân dân Việt Nam,” phó chủ tịch Chuck Seary của VFP 160 đáp lại, “Nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng chúng tôi phải học những bài học của quá khứ.” Searcy muốn biết tại sao, sau những hậu quả bi thảm của chất độc màu da cam, chính quyền Việt Nam lại cho phép Monsanto quay trở lại, mở văn phòng và buôn bán ở Việt Nam, nơi mà công ty đang cung cấp hạt giống GMO, trong đó có ngũ cốc. Đáp lại, đại biểu của VAVA đề cập tới việc Việt Nam gia nhập WTO. “Khi chúng tôi đã ký kết WTO thì chúng tôi phải chấp nhận họ - họ phải có mặt ở đây,” ông nói.

Nếu WTO coi luật pháp địa phương và quốc gia về môi trường và sức khỏe là các rào cản thương mại không bình đẳng,” kinh nghiệm của Mexico sau khi thông qua Hiệp Định Tự Do Thương Mại Bắc Mỹ (NAFTA) có thể đóng vai trò như là một dấu hiệu cảnh báo về các tác động tương tự đối với Việt Nam. Sau khi thông qua NAFTA, ngũ cốc Hoa Kỳ giá rẻ tràn ngập Mexico, trong đó có các giống GMO của Monsanto. Sự thay đổi không chỉ rút ruột thị trường ngũ cốc của Mexico mà còn phát tán sự lây nhiễm của GMO vào các giống ngũ cốc bản địa. Ở Canada, như Naomi Klein đã ghi nhận, WTO và NAFTA đã được sử dụng để chống lại sự phát triển năng lượng tái tạo địa phương ở Ontario, trì hoãn fracking ở Quebec. Các phần được tiết lộ của TPP cho thấy hiệp định tự do thương mại chỉ gia tăng lợi nhuận và sự miễn trừng phạt của doanh nghiệp mà Monsanto cũng như các doanh nghiệp khác đã tận hưởng từ lâu.

Tác động tới sức khỏe của con người do việc sử dụng chất độc màu da cam có chứa dioxin gây ra trong chiến tranh Hoa Kỳ được thấy rất rõ ở tỉnh Quảng Trị, tại khu vực mà Hoa Kỳ coi là khu vực phi quân sự hay DMZ. Một trong số 28 “điểm nóng” trải khắp Việt Nam, nhiều trong số chúng là căn cứ của Hoa Kỳ, nơi mà chất độc màu da cam được vận chuyển và lưu giữ, Quảng Trị là tỉnh bị rải chất độc nghiêm trọng nhất. Khoảng 15.000 người ở Quảng Trị chịu tác động của chất độc màu da cam. Lần đầu tiên chúng tôi chứng kiến sự tàn phá gần như không tưởng mà chất độc màu da cam gây ra ở Việt Nam trong chuyến thăm một gia đình nhận hỗ trợ của VFP 160 và các tổ chức thành viên của dự án RENEW. Bốn trong số năm người con trưởng thành trong gia đình bị tàn tật nhiều loại. Chỉ có người thứ hai trong cặp trẻ được sinh giữa năm 1972 và năm 1985 có vẻ như thoát khỏi tác động của chất độc màu da cam cùng với con cái của họ. Mặc dù vậy, như người Việt Nam đang khám phá ra, tác động của chất độc màu da cam có thể tạm ngưng trong một thế hệ và chỉ xuất hiện ở thế hệ kế tiếp. Bốn người trưởng thành tàn tật không có khả năng đứng thẳng do hậu quả của một vấn đề sức khỏe bẩm sinh. Họ lo âu về cả bốn người, với những lời kể ngắt quãng là các dấu hiệu của dị tật gia tăng thường do chất độc màu da cam gây ra. Ở tỉnh Quảng Trị, chúng tôi thấy 1.300 gia đình có từ 3 đến 5 trẻ em gánh chịu các tác động gây suy yếu do nhiễm chất độc màu da cam. 

Nhưng chất độc màu da cam không phải là nguồn đau khổ duy nhất ở tỉnh Quảng Trị. Nếu Hoa Kỳ ném bom xuống Việt Nam nhiều hơn số đã ném trong Thế Chiến thứ II ở cả mặt trận Châu Âu và Thái Bình Dương cộng lại thì Quảng Trị là khu vực bị ném bom dữ dội nhất ở Việt Nam. Thống kê quy mô lắp chân tay giả trên tường Trung Tâm Nạn Nhân Bom Mìn tại Quảng Trị trong cho thấy mức độ công việc của dự án RENEW, đáp ứng nhu cầu của hơn 900 cá nhân được lắp chân tay giả sau khi bị thương bởi UXO, thứ trải rộng khoảng 80% diện tích của tỉnh. Hơn 1.100 nạn nhân khác đang chờ được lắp chân tay giả. Cũng ở trên tường của Trung Tâm là các bức tranh của trẻ em Quảng Trị học trong các chương trình ở trường học về nhận dạng bom mìn chưa nổ và báo với chính quyền địa phương. Hơn hai triệu chiến binh Việt Nam và thường dân bị giết hại trong chiến tranh Hoa Kỳ, nhưng hơn 60.000 người Việt Nam bị mìn bộ binh, bom chùm giết hại kể từ khi kết thúc chiến tranh đã vượt qua con số 58.000 lính Mỹ bị giết trong cuộc chiến. Hoa Kỳ vẫn là một trong số ít những quốc gia trên thế giới từ chối ký vào hiệp ước cấm mìn bộ binh và bom chùm của Liên Hiệp Quốc.

Ở Nha Trang, chúng tôi tới thăm một phụ nữ và em gái đang chăm sóc hai đứa con trưởng thành, không đứa nào có dấu hiệu nhiễm chất độc màu da cam cho đến khi tuổi thiếu niên. Người lớn nhất, giờ đã 40 tuổi, nằm rên rỉ trên một chiếc giường ngủ ở đằng sau nhà. Em gái 36 tuổi vãn đủ tính táo để nhận thức được tương lai của cô khi cô nhìn thấy những chi bị teo nhỏ và vặn vẹo của cô.

Ở thành phố Hồ Chí Minh, điểm dừng chân cuối cùng trong hành trình, chúng tôi viếng thăm Bệnh Viện Từ Dũ/Làng Hòa Bình, là nơi trú ngụ của khoảng 60 trẻ em bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam, cùng với một số ít người trưởng thành đã lớn lên tại cơ sở. Trên đường đi, một số trẻ hăng hái yêu cầu được ôm, trong khi những đứa khác, một số được ăn bằng ống thông qua mũi, nhìn chúng tôi như với những cái nhìn hoàn toàn vô hồn. Một đứa trẻ ở cuối phòng bắt đầu mò mẫm trước mặt. Giống như nhiều trẻ bị ảnh hưởng của chất độc màu da cam khác, cậu bị thiếu hẳn một mắt, một khoảng trống nằm ở chỗ con mắt. Ở một phòng khác, một đứa trẻ bị tràn dịch màng não không xác định về giới tính với đầu to như quả dưa hấu đang nằm bất động trong một cái cũi. Một bé gái khoảng 6-7 tuổi ngồi trên một cái ghế bên cạnh chiếc cũi, đang nâng niu bàn tay đứa trẻ. Cô bé liếc qua, dĩ nhiên là có một chút khó chịu bởi đám đông người quan sát Hoa Kỳ bao quanh, sau đó quay trở lại công việc vỗ về bạn của cô. 

Ngày tiếp theo, ngày 30 tháng 4, kỷ niệm ở Hoa Kỳ về “sự sụp đổ của Sài Gon,” chúng tôi sớm có mặt ở lễ hội “Ngày Giải Phóng” ở thành phố Hồ Chí Minh. Một dàn múa đông đảo của đoàn cựu chiến binh nam và nữ với đồng phục; các học sinh nữ xoay hoa hướng dương; một bức ảnh Hồ Chí Minh lớn cỡ chiếc bảng trên một chiếc xe diễu hành mầu hồng rực tỏa sáng như một vị thánh văn hóa đại chúng hiện đại thay vì nền màu xanh da trời. Hoàn toàn vắng mặt trong khung cảnh là gợi ý hay sự quan tâm hoặc sự tham gia từ các người dân bình thường của thành phố được đặt theo tên hình tượng cách mạng.

Buổi tiếp tân sau đó ở “Dinh Thống Nhất” được phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì, có sự tham dự của khoảng 100 người đại diện cho các tổ chức từ 40 nước và lãnh thổ trên thế giới. Người đầu tiên trong số các diễn giả là Hélène Luc. Như ông Phúc cho biết, Luc “đã giúp đỡ và hỗ trợ đoàn đại biểu Việt Nam” tại Hội Nghị Hòa Bình, khi là ủy viên của Hội Đồng Thành Phố Paris. Trong bình luận của bà, Luc đề cập tới Tuyên Ngôn Độc Lập mang tính lịch sử năm 1945 của Hồ Chí Minh, mô phỏng theo văn bản lập quốc của Hoa Kỳ. Bà ca ngợi sự can đảm và dũng cảm của đấu tranh cách mạng và của các nhà hoạt động đã chiếm giữ các đường phố khắp thế giới để kết thúc cuộc chiến. 

Phát biểu cuối cùng khi sân đã vãn người là Virginia Foote, chủ tịch của Hội Đồng Thương Mại Hoa Kỳ-Việt Nam và chủ tịch ban điều hành Trung Tâm Quốc Tế ở Washington D.C. “Là một người Mỹ - và tôi nghĩ tôi có thể nói với mọi người Mỹ trong phòng,” Foote nhấn mạnh, “chúng ta hứa tiếp tục công việc phát triển kinh tế của đất nước này” cũng như “về các vấn đề hậu quả của chiến tranh.”

Bà kể về việc tham gia khai lễ động thổ tại Trung Tâm Hành Động Mìn Bộ Binh ở Hà Nội chỉ vài ngày trước và về “khoản tiền mới đang đổ vào,” để “giúp đỡ và hỗ trợ Việt Nam.” “Đồng thời,” bà nói, “chúng ta vẫn tiếp tục với việc đàm phán khó khăn và hy vọng rằng chúng ta có thể hoàn thành trong năm nay … Chúng ta sẽ tiếp tục nỗ lực về TPP,” bà nói, trước khi phó thủ tương đưa ra một số bình luận mang tính nghi lễ để kết thúc buổi gặp mặt.

Vào ngày 30 tháng 4 ở Hoa Kỳ, với một là gió nhẹ, đại biểu Barbara Lee của California đưa ra Luật Cứu Trợ Các Nạn Nhân Chất Độc Màu Da Cam 2015. Đạo luật, được sự ủng hộ của Chiến dịch Trách Nhiệm và Cứu Trợ Nạn Nhân Chất Độc Màu Da Cam Việt Nam của Hoa Kỳ (http://www.vn-agentorange.org/), sẽ tài trợ cho việc làm giảm sự ô nhiễm của chất độc màu da cam trên khắp Việt Nam, tài trợ cho chăm sóc y tế và phục vụ trực tiếp cho các nạn nhân chất độc màu da cam của Việt Nam. Nó cũng mở rộng cứu trợ cho các cựu chiến binh Hoa Kỳ và cung cấp các hỗ trợ mới cho con cái của họ, vốn phải chịu đựng các vấn đề suy yếu sức khỏe liên quan đến chất độc màu da cam.

Giữa các sáng kiến mới để tìm kiếm công lý cho các nạn nhân của chất độc màu da cam và tiếp tục đàm phán về một hiệp định thương mại có tác động đáng kể tới tương lai của cả hai quốc gia, truyền thông do doanh nghiệp kiểm soát ở Hoa Kỳ chỉ sẵn lòng cung cấp các bữa ăn điện ảnh nghèo nàn với những thước phim mô tả dòng người miền Nam Việt Nam bất tận đổ xô về phía máy bay trực thăng và bám vào chúng từ mái nhà. Các đoạn được tiết lộ cho thấy, nếu được thông qua, TPP sẽ mở rộng sự miễn tố và lợi nhuận của các doanh nghiệp như Monsanto mà dường như từng mẩu nhỏ của ngày nay cũng giống như họ đã từng kiếm lợi từ sự khốn khổ của nông dân và người lao động nghèo ở cả hai nước trước kia. Trong khi đó, ở Việt Nam, công việc của VFP 160 và đối tác của họ đang tiếp tục, ở Làng Hòa Bình của thành phố Hồ Chí Minh có một bé gái phủ nhận là bị mất trí, mất khả năng hiểu biết hoặc quay lưng lại với những đau khổ bao quanh cô.

Desiree Hellegers is a board member of Portland Peace and Justice Works/Copwatch, an associate professor of English at Washington State University Vancouver, and the author of No Room of Her Own: Women’s Stories of Homelessness, Life Death and Resistance (Palgrave MacMillan).

Chú thích của người dịch:

(1) Có lẽ chỗ này tác giả nhầm lẫn do không hiểu rõ về hệ thống chính trị ở Việt Nam. Việc thu hồi đất đai và xây dựng thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương chứ không thuộc trách nhiệm của Đảng Cộng Sản.

Monday, March 30, 2015

Giải mã huyền thoại nông dân bị thương lái ép giá nông sản

Muốn giải mã huyền thoại nông dân bị thương lái ép giá nông sản thì điều trước hết phải được làm rõ là cách thức mà nông dân sản xuất ra nông sản. Phổ biến nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay là các hộ nông dân cá thể sản xuất hàng hóa dựa trên mảnh ruộng được chia và sức lao động của gia đình họ.

Giả sử một hộ nông dân có vốn ban đầu là 100 đồng và sức lao động bỏ ra là 50 đồng, do vậy giá trị hàng hóa mà hộ này sản xuất ra là 150 đồng. Người ta sẽ đặt ra câu hỏi nếu thu nhập thực chỉ có 50 đồng ngang với sức lao động bỏ ra thì nông dân sẽ giàu lên bằng cách nào? Câu trả lời là nhờ vào năng suất lao động. Giả sử với chi phí sản xuất đã nêu một hộ nông dân trung bình sản xuất được 50kg thóc, tức là giá thóc là 3 đồng/kg, khi đó hộ nông dân nào khéo léo và tiết kiệm hơn thu được sản lượng gấp đôi là 100 kg, với giá thóc 3 đồng/kg họ sẽ thu được 300 đồng, trừ đi chi phí sẽ lãi 200 đồng. Đó là quá trình diễn ra trong nền kinh tế tự nhiên hoặc nền sản xuất hàng hóa nhỏ.

Khi chuyển dịch sang nền sản xuất hàng hóa lớn, tức là sản lượng của hộ nông dân đã tăng lên rất cao, hộ nông dân không còn có thể tự tiêu thụ nông sản của mình nữa, thương nhân xuất hiện để thực hiện việc tiêu thụ nông sản cho nông dân. Để tiêu thụ số nông sản của hộ nông dân thì thương nhân sẽ phải bỏ ra một số vốn nhất định. Khoản vốn này chia làm hai phần, thứ nhất là vốn đầu tư cho cơ sở vật chất như kho bãi và phương tiện vận chuyển, thứ hai là tiền để thu mua nông sản. Trường hợp được dùng để minh họa sẽ là hộ nông dân sản xuất được 100 kg gạo với giá trị 150 đồng.

Giả sử ban đầu vốn đầu tư cho cơ sở vật chất là 0, chỉ có vốn để mua nông sản. Để thương nhân tồn tại thì nông dân phải chia một phần thu nhập cho thương nhân, và phương thức sản xuất tư bản đòi hỏi tỷ suất lợi nhuận của nông dân phải ngang bằng với tỷ suất lợi nhuận của thương nhân. Từ hai yếu tố đã nêu thì có thể tính được kết quả như sau.

Nông dân: 100c + 22,47v = 122,47 đồng
Thương nhân: 122,47c + 27,53v=150 đồng
Tỷ suất lợi nhuận của nông dân và thương nhân đều là 22,47%

Nếu như trước kia nông dân bán 100kg thóc với giá 1,5 đồng/kg thì khi thương nhân xuất hiện họ sẽ bán cho thương nhân với giá 1,2247 đồng/kg, sau đó thương nhân sẽ bán ra thị trường với giá 1,5 đồng/kg. Điều này là cần thiết vì thương nhân giúp cho nông dân tiết kiệm được chi phí cho việc bán hàng và không có thương nhân thì nông dân cũng không thể tự mình tiêu thụ nông sản được. Giá nông sản mà nông dân bán được và giá thị trường tách biệt nhau là điều tất yếu của nền sản xuất hàng hóa.

Song vấn đề là khi năng suất lao động của hộ nông dân càng cao, sản lượng nông sản càng lớn thì tình hình đó đòi hỏi thương nhân không chỉ có vốn để mua nông sản mà còn phải có kho bãi và phương tiện vận chuyển, tức là họ phải đầu tư cho cơ sở vật chất. Giả sử thương nhân cần phải đầu tư cho cơ sở vật chất là 30 đồng thì tình hình sẽ như sau.

Nông dân: 100c + 8,83v=108,83 đồng
Thương nhân: [30+108,83]c + 11,17v = 150 đồng
Tỷ suất lợi nhuận của nông dân và thương nhân đều là 8,83%

Khi xuất hiện phần tư bản cố định cần thiết của thương nhân thì phần thu nhập của nông dân sẽ giảm mạnh, giá bán nông sản của họ do vậy cũng sụt giảm từ 1,2247 đồng/kg xuống 1,0883 đồng/ kg.

Thực tế cho thấy số vốn đầu tư cho cơ sở vật chất phụ thuộc vào sản lượng nông sản của nông dân hơn là giá trị của nông sản đó. 100kg thóc cho dù có giá trị bao nhiêu thì cũng chỉ cần đến một diện tích kho bãi và số lượng phương tiện vận chuyển ít hơn nhiều so với 1000kg thóc có tổng giá trị tương ứng. Mặt khác xu hướng phát triển của nền kinh tế tư bản là tăng tích lũy tư bản khiến cho tư bản cố định của thương nhân sẽ càng ngày càng lớn, trong khi hộ nông dân không thể tăng quy mô vốn vượt quá mức độ sử dụng của hộ gia đình. Tức là giá trị thu nhập mà họ phải nhường cho thương nhân ngày càng lớn, bất kể năng suất lao động của họ tăng ra sao.

Quá trình này biểu hiện ra trên thị trường thành sự sụt giá ngày càng tăng của nông sản, nông dân chỉ nhìn thấy hiện tượng bề ngoài và gọi đó là hiện tượng thương lái ép giá. Khi được mùa, sản lượng tăng lên đột ngột thì rõ ràng là nhu cầu về kho bãi và phương tiện vận chuyển để thu mua hết sản lượng đó tăng lên. Nếu thương nhân không có vốn để đầu tư vào đó thì sẽ xảy ra tình hình nông sản bị ùn ứ và hư hỏng đi, nông dân sẽ mất một phần thu nhập của mình do nông sản không được chuyển hóa thành tiền. Hệ quả là nông dân phải giảm giá hơn nữa để thu hút tư bản đầu tư vào thương mại. Ngược lại khi mất mùa thì sản lượng nông sản thấp khiến cho một phần tư bản cố định của thương nhân trở thành thừa, thương nhân sẽ bị thua lỗ, họ phải buộc phải rút bớt vốn khỏi việc buôn bán nông sản. 

Tình hình kinh tế của nông dân trở nên bi kịch ở chỗ năng suất lao động của họ càng tăng thì họ càng phụ thuộc vào thương nhân và thu nhập càng thấp đi. Người ta có thể phản đối bằng cách lên án thương nhân gian lận, nhưng thương nhân sinh ra từ nhu cầu của nền sản xuất hàng hóa mà nông dân tham gia, sự gian lận chỉ là biểu hiện bề ngoài của những quy luật chi phối nền sản xuất đó. Trong phân tích trên đã chỉ ra ngay trong những điều kiện bình đẳng nhất với thương nhân thì nông dân cũng không thể tránh khỏi sự sụt giá của nông sản.

Dần dần quá trình tích tũy tư bản sẽ khiến nông dân phụ thuộc vào thương nhân, phụ thuộc vào vốn ứng trước của thương nhân và cuối cùng là trở thành người làm thuê cho thương nhân. Muốn thoát khỏi tình trạng đó trong điều kiện của nền sản xuất hàng hóa thì họ chỉ có một cách duy nhất là tư bản hóa phương thức sản xuất, tự biến bản thân thành nhà tư bản nông nghiệp, sử dụng lao động làm thuê, nhưng ở đâu ra lao động tự do trong một xã hội toàn những hộ nông dân nhỏ? Sự tích lũy trong xã hội đó vốn rất chậm chạp, chính tư bản thương nghiệp đã thúc đẩy nhanh quá trình phá sản của một số hộ nông dân, biến họ thành lao động tự do.

Không có cách nào bảo vệ nền sản xuất nhỏ của nông dân trước chính thứ mà nền sản xuất đó tạo ra, hay nói cách khác nông dân không thể mãi phồn vinh trên mảnh ruộng được chia của họ, nền sản xuất nhỏ bé phân tán ấy tất yếu đi đến phương thức sản xuất tư bản với sự phá sản của đa số nông dân và một số ít trở thành nhà tư bản nông nghiệp. Việc nông dân bị thương lái ép giá nông sản chỉ là hiện tượng bề ngoài, vốn xuất phát từ quan điểm của người nông dân sản xuất nhỏ, không hiểu được những quy luật chi phối bên trong của nền sản xuất nên họ chỉ có thể bám lấy hiện tượng bề mặt. Sự phát triển thể hiện ra đối với họ bao giờ cũng là những trò lừa gạt, vô đạo đức. Để chống lại sự tan rã không cách nào tránh khỏi ấy thì họ tìm cách lên án sự vô đạo đức của tầng lớp tư bản giàu có, hay đòi hỏi những chính sách vô vọng để cứu vãn nền sản xuất của họ.

Friday, March 13, 2015

Địa chính trị của các sản phẩm biến đổi gen

Sản phẩm biến đổi gen không chỉ là vấn đề khoa học mà còn là vấn đề địa chính trị. Đó là một luận điểm chủ chốt trong bài viết "The Geopolitics of GMOs" của tác giả Colin Todhunter. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch để biết thêm chi tiết.

Địa chính trị của các sản phẩm biến đổi gen

Sản phẩm biến đổi gen (GMOs) không cần thiết cho việc nuôi sống thế giới (xem ở đâyđây), nhưng hình ảnh được phổ biến rộng rãi là chúng dẫn đến gia tăng năng suất, không ảnh hưởng đến môi trường và không có tác động tiêu cực đối với sức khỏe của con người, liệu chúng ta có thông minh khi nắm chặt lấy chúng?
Ảnh minh họa: Sự độc hại của Monsanto
Nguồn: Internet
Sự thật là công nghệ GMO vẫn thuộc sở hữu và kiểm soát của một số nhất định các lợi ích đầy quyền lực. Trong tay họ, công nghệ này trước hết và cuối cùng phải là một công cụ cho quyền lực của doanh nghiệp, một công cụ để đảm bảo lợi nhuận. Sau nữa, chúng sẽ phục vụ cho các lợi ích địa chính trị toàn cầu của Hoa Kỳ. Từ lâu, nông nghiệp đã thực sự là trung tâm trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. 
“Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ hầu như dựa trên xuất khẩu nông nghiệp, không phải là xuất khẩu công nghiệp như mọi người vẫn nghĩ. Thông qua nông nghiệp và kiểm soát nguồn cung thực phẩm mà ngoại giao Hoa Kỳ có khả năng kiểm soát đa số các nước thuộc Thế Giới Thứ 3. Chiến lược cho vay địa chính trị của Ngân Hàng Thế Giới có khả năng biến một quốc gia thành khu vực thiếu lương thực thông qua việc thuyết phục quốc gia đó tăng nông sản hàng hóa – canh tác để xuất khẩu – thay vì nuôi sống bản thân với mùa màng thu hoạch được.” Giáo sư Michael Hudson.
Dự án cho Thế Kỷ Hoa Kỳ MớiHọc thuyết Wolfowitz cho thấy chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ là về quyền lực, kiểm soát và đảm bảo uy quyền tối cao toàn cầu bằng cứ giá nào. Một phần của kế hoạch là giành lấy sự thống trị toàn cầu dựa trên việc Hoa Kỳ kiểm soát nông nghiệp và chiếm đoạt chủ quyền lương thực cũng như an ninh lương thực của các quốc gia khác. 

Trong cuốn sách ‘Những hạt giống của sự phá hủy’, William Engdahl đã lần theo cách mà gia đình tỷ phú dầu lửa Rockefeller biến sự giàu có khổng lồ của họ thành sức mạnh chính trị, tìm cách bắt giữ nông nghiệp ở Hoa Kỳ và sau đó là toàn cầu thông qua “cách mạng xanh”. Cùng với các đập nước lớn, các yêu cầu về cơ sở hạ tầng tốn nước, kiểu hình nông nghiệp đó khiến nông dân phụ thuộc vào các sản phẩm dầu lửa do doanh nghiệp kiểm soát và khiến nông dân cũng như quốc gia mắc bẫy, phải phụ thuộc vào đồng dollar và nợ nần. GMOs phản ánh điều tương tự thông qua kịch bản và sự độc quyền gia tăng về hạt giống trong tay một nhóm nhỏ các doanh nghiệp chủ chốt Hoa Kỳ, như Monsanto, DuPont và Bayer.

Ở Ấn Độ, Monsanto đã kiếm được hàng triệu dollar từ nông nghiệp trong những năm gần đây thông qua các thành viên hoàng gia, nông dân bị ép buộc phải chi tiêu vượt quá khả năng của họ để mua hạt giống và các đầu vào hóa học. Một sự kết hợp nợ nần, tự do hóa kinh tế và dịch chuyển sang các nông sản hàng hóa GMO (bông) đã khiến cho hàng trăm nghìn nông dân bị túng quẫn, trong khi các doanh nghiệp thu được lợi nhuận khổng lồ. 

Hơn 270,000 nông dân ở Ấn Độ đã tự sát trong khoảng thời gian từ giữa đến cuối những năm 1990.

Ở Bắc Mỹ, câu chuyện cũng tương tự, nhiều nông dân và người dân bản địa bị buộc phải rời khỏi đất đai và bị đàn áp bằng bạo lực khi GMOs và canh tác trên quy mô công nghiệp chiếm chỗ. Chuyện đó cũng tương tự ở Châu Phi, nơi Monsanto và Quỹ Gates đang tìm cách chuyển đổi canh tác quy mô nhỏ sang mô hình do doanh nghiệp kiểm soát. Họ gọi đó là “đầu tư” vào nông nghiệp như thể đó là một hoạt động mang tính đạo đức.

Nông nghiệp là nền tảng của nhiều xã hội, mặc dù nó đang được cấu trúc lại theo lợi ích của các tập đoàn công nghệ nông nghiệp, bán lẻ và chế biến thực phẩm giàu có. Các nông trại nhỏ phải chịu sức ép khổng lồ và an ninh lương thực bị phá vỡ, chưa phải là hết bởi vì các nông trại nhỏ sản xuất hầu hết thực phẩm của thế giới. Bất kể là thông qua việc tước đoạt đất đai hay chuyển giao, sản xuất cho xuất khẩu (phi thực phẩm), đầu vào hóa học lớn hơn hay bản quyền hạt giống và việc chia sẻ hạt giống giữa những nông dân bị xóa bỏ, lợi nhuận được đảm bảo cho các doanh nghiệp công nghệ nông nghiệp và các nhà đầu tư có tổ chức vào đất đai. 

Sự tái cấu trúc nông nghiệp theo hình ảnh của kinh doanh nông nghiệp lớn tiếp diễn khắp toàn cầu bất chấp việc các nhà nghiên cứu cho rằng thâm dụng hóa chất, các mô hình tiêu tốn năng lượng khiến cho Anh Quốc chỉ còn lại 100 lần thu hoạch do sự suy thoái đất canh tác. Ở Punjab, mô hình ‘cách mạng xanh’ theo quy mô công nghiệp, nông nghiệp dưới sự kiểm soát của doanh nghiệp đã dẫn đến khủng hoảng dưới hình thức thiếu nước trầm trọng, gia tăng bệnh ung thư ở người và suy giảm năng suất. Đây là một cuộc khủng hoảng nông nghiệp toàn cầu. Sự thống trị gia tăng của mô hình do doanh nghiệp kiểm soát là không thể chịu đựng được.

Nhiều dạng nông nghiệp sinh thái hơn đã được nhắc đến, thông qua quản lý mùa màng thông minh và giảm sử dụng đầu vào hóa học, sẽ có khả năng không chỉ nuôi sống thế giới mà còn giảm tải cho môi trường tự nhiên. Rất nhiều báo cáo chính thống và các nghiên cứu khoa học đã cho rằng những chính sách đó sẽ thích hợp hơn, đặc biệt là đối với các quốc gia nghèo (xem ở đây, đâyđây).

Đôi khi mô hình hóa học công nghiệp cho thấy chúng đem lại vụ thu hoạch tốt hơn nhiều phương pháp truyền thống (một sự khái quát hóa và thường bị thổi phồng), song điều đó chỉ là lừa bịp. Vụ thu hoạch tốt hơn nhưng chỉ khi có đầu vào hóa học quy mô lớn từ các doanh nghiệp, thiệt hại khổng lồ đối với sức khỏe và môi trường, cũng như nhiều hơn các xung đột phát sinh từ vấn đề tài nguyên để chiếm đoạt dầu mỏ nhằm cung cấp cho mô hình đó. Giống như niềm tin sai lầm rằng ‘tăng trưởng’ kinh tế (GDP) được kích thích chỉ bởi vì có một mức dòng tiền mặt lớn hơn chảy vào nền kinh tế (và lợi nhuận doanh nghiệp được thúc đẩy), ý niệm về ‘năng suất’ nông nghiệp được cải thiện cũng bắt nguồn từ một nhóm các tiêu chí gần như vậy. 

Những khái niệm thống trị chống đỡ cho ‘tăng trưởng’ kinh tế, nông nghiệp hiện đại và ‘phát triển’ được dựa trên hàng loạt các giả định đánh lừa tư duy với sự ngạo mạn và khinh thường: hành tinh phải được cấu trúc theo cách tập trung vào đô thị, theo mô hình vị chủng tộc mà ở đó nông thôn bị nhìn từ trên xuống, tự nhiên phải bị thống trị, nông dân là vấn đề cần phải xóa bỏ khỏi đất đai, các phương thức truyền thống đang lùi bước và cần phải loại bỏ.
“Người dân bị coi là ‘nghèo’ khi họ ăn thực phẩm tự trồng thay vì thứ thực phẩm rác rưởi được các hãng nông nghiệp toàn cầu phân phối thương mại. Họ bị coi là nghèo khi họ sống trong các căn nhà tự xây dựng bằng các vật liệu thân thiện môi trường như tre và bùn hơn thay vì sống trong các căn nhà xây bằng than xỉ hoặc xi măng. Họ bị coi là nghèo khi họ mặc quần áo tự may từ sợi tự nhiên thay vì sợi nhân tạo.” Vandana Shiva
Các doanh nghiệp phương Tây đang triển khai việc loại bỏ thông qua các chính sách quyết định tại Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, IMF và Ngân Hàng Thế Giới (với sự trợ giúp của các quan chức và chính khách phục tùng) nhằm giảm dân số khu vực nông thôn và đưa dân cư tới sống ở thành phố, sau đó đấu tranh cho một phiên bản tiêu dùng kiểu ‘Giấc Mơ Mỹ’ hoàn toàn không thể chịu đựng được, không thể đáp ứng được, phá hủy môi trường, phát sinh xung đột. 

Cũng đáng chú ý (và đáng phiền) phải ghi nhận rằng các quốc gia ‘đang phát triển’ chiếm hơn 80% dân số thế giới nhưng chỉ tiêu thụ khoảng 1/3 năng lượng thế giới. Công dân Hoa Kỳ chiếm 5% dân số thế giới nhưng tiêu thụ 24% năng lượng của thế giới. Tính trung bình mỗi người Mỹ tiêu thụ năng lượng bằng hai người Nhật, 6 người Mexico, 13 người Trung Quốc, 31 người Ấn Độ, 128 người Bangladesh, 307 người Tanzania và 370 người Ethiopia.

Bất chấp sự phá hủy môi trường và xã hội gây ra, kết quả được coi là thành công chỉ bởi vì các lợi ích kinh doanh hưởng lợi cho thấy một sự tăng trưởng trong GDP. Chặt bỏ toàn bộ một khu rừng mà người dân sống hài hòa trong đó nhiều thế kỷ, bán gỗ xây dựng, bán thêm nhiều thuốc độc để phun cho đất canh tác hay bán dược phẩm để chữa lành những bệnh phát sinh từ mô hình sản xuất thực phẩm dựa vào hóa phẩm dầu mỏ sẽ thực sự gia tăng GDP, có phải không? Tất cả đều tốt cho kinh doanh. Điều gì tốt cho kinh doanh cũng tốt cho mọi người khác, đó là cách lời nói dối tiếp tục.

“Doanh nghiệp là thể chế thống trị được chế độ gia trưởng tư bản chủ nghĩa tạo ra dựa trên chủ nghĩa apartheid sinh thái. Họ phát triển dựa trên di sản thuyết nhị nguyên của Carte, đặt tự nhiên chống lại con người. Thuyết đó định nghĩa tự nhiên như một phụ nữ và thụ động chấp nhận sự chinh phục. Chủ nghĩa vị doanh nghiệp do vậy cũng là chủ nghĩa vị nam giới – một cấu trúc gia trưởng. Thuyết phổ biến sai lầm về việc con người chinh phục và sở hữu trái đất đã dẫn đến sự ngạo mạn kỹ thuật của địa lý ứng dụng, gen ứng dụng và năng lượng hạt nhân. Điều đó dẫn đến sự phẫn nộ mang tính đạo đức đối với việc sở hữu các dạng sống thông qua bản quyền, sở hữu nước thông quan tư hữu hóa, sở hữu không khí thông qua trao đổi khí các-bon. Điều đó dẫn đến việc tước đoạt đa dạng sinh thái phục vụ cho người nghèo.” Vandana Shiva
‘Cách mạng xanh’ và GMOs hiện giờ hoàn toàn không quan tâm đến việc nuôi sống thế giới, đảm bảo dinh dưỡng cần thiết trong bữa ăn thường ngày hay bảo vệ sức khỏe và an toàn môi trường. (Trên thực tế, Ấn Độ hiện giờ đang nhập khẩu thực phẩm mà họ đã từng sản xuất nhưng đã từ lâu không còn sản xuất; ở Châu Phi cũng vậy, các bữa ăn hàng ngày của địa phương đang trở nên kém đa dạng và kém lành mạnh hơn). Những khái niệm dựa trên tuyên truyền hay xuất phát từ tình cảm tốt đẹp đã được đưa ra để phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp.

Những đột phá về công nghệ sinh học đã luôn đóng vai trò hàng đầu trong việc cải tiến nông nghiệp, nhưng từ sau năm 1945 thì mô hình nông nghiệp do các doanh nghiệp quyền lực như Monsanto dẫn dắt, liên hệ chặt chẽ với lợi ích của Lầu Năm Góc và Phố Wall. Được thúc đẩy bởi lợi ích của bản thân đóng gói trong các PR mốt nhất về ‘nuôi dưỡng thế giới’ hay áp đặt thắt lưng buộc bụng để bảo vệ thịnh vượng, bản chất các ý đồ của phe đảng nhà nước-doanh nghiệp Hoa Kỳ không bao giờ là những điều mà họ tuyên bố trên truyền thông.

Ở Ấn Độ, Monsanto và Walmart đóng vai trò chủ chốt trong việc dựng lên Sáng Kiến Kiến Thức Nông Nghiệp. Monsanto hiện nay đang tài trợ cho nghiên cứu tại các thiết chế công, sự hiện diện và ảnh hưởng thỏa hiệp của họ trở nên rõ ràng trong các cơ quan quyết định độc lập và xây dựng chính sách. Monsanto là lực lượng dẫn dắt phía sau những gì có thể dẫn đến việc Hoa Kỳ tái cấu trúc và chinh phục Ấn Độ. IMF và Monsanto cũng hợp tác trong việc đảm bảo Ukraina phụ thuộc vào các mục tiêu địa chính trị của Hoa Kỳ thông qua việc chiếm đoạt đất đai và nông nghiệp. Các lợi ích giàu có chiếm giữ nông ngiệp (và các xã hội) là một hiện tượng toàn cầu.

Chỉ có những người hoàn toàn khờ khạo mới tin rằng trong tim các nhà đầu tư có tổ chức vào đất đai, các doanh nghiệp nông nghiệp lớn và những người hậu thuẫn cho họ ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ có lợi ích nhân bản. Ít nhất thì mục tiêu chung của họ là lợi nhuận. Sau nữa và tạo thuận lợi cho điều đó, nhu cầu đảm bảo sự thống trị toàn cầu của Hoa Kỳ là tối cao.

Khoa học về GMOs đang ngày càng trở nên bị chính trị hóa, sa lầy vào những lập luận chi tiết về phương pháp của họ, kết quả, kết luận, khoa học cho thấy cái gì và như tại sao. Mặc dù vậy, bức tranh lớn hơn thường xuyên có nguy cơ bị lướt qua. GMO không chỉ là về ‘khoa học’. Như trong chủ đề này, GMO và mô hình công nghiệp-hóa học được kết nối với chúng hoàn toàn là một thế lực địa chính trị được dẫn dắt bởi sức mạnh và lợi nhuận. 

Colin Todhunter is an extensively published independent writer and former social policy researcher based in the UK and India.

Friday, October 31, 2014

Trung Mỹ đói khát

Nạn đói do hạn hán đang hoành hành ở Trung Mỹ, bạn đọc hẳn đã biết, nhưng con người tạo ra nó như thế nào? Xin mời hãy tham khảo bản dịch bài viết "Starving Central America" của tác giả người Mỹ Nick Alexandrov.

Trung Mỹ đói khát

“Hạn hán đã giết chúng tôi”, một người Honduras trẻ, Olman Funez nói về mùa hè năm ngoái. Anh ta đề cập tới cái mà Ngân Hàng thế giới gọi là “một trong những đợt hạn hán dài nhất suốt nửa thế kỷ qua”. Một nông dân Guatemala 60 tuổi khẳng định rằng ông chưa từng thấy “thảm họa nào như vậy”. Carlos Rosman, một nông dân Guatemala nói với phóng viên rằng “Chả có gì ở đây hết. Chúng tôi ăn những gì có thể tìm thấy.”

Đó là những người trong só 2,8 triệu Trung Mỹ “đang đấu tranh để nuôi sống bản thân” trong khu vực “hàng lang khô hạn” – “một khu vực khô hạn nằm giữa Guatemala, El Salvador, Honduras và Nicaragua”, theo thông tin từ tổ chức Chương Trình Lương Thực Thế Giới của Liên Hiệp Quốc. Chính quyền Nicaragua mô tả đợt hạn hán là tồi tệ nhất trong 32 năm qua. Vào tuần trước tổ chức Chữ Thập Đỏ Quốc Tế và Trăng Lưỡi Liềm Quốc Tế “nói khoảng 571,710 người bị ảnh hưởng bởi hạn hán ở Honduras”, và “các hộ gia đình buộc phải bán tài sản và gia súc để mua thực phẩm cần thiết cho sống sót, trong khi những người khác đi tị nạn để tránh tác động của hạn hán”. Nhưng khủng hoảng lương thực ở Honduras và Nicaragua không phải là hiện tượng mới. Ở cả hai quốc gia này, chính sách của Hoa Kỳ đã gây ra nạn đói Trung Mỹ.

Những người Honduras khẳng định rằng khu vực Choluteca là một phần của “hành lang khô hạn”. Lãnh sự Hoa Kỳ ở Tegucigalpa đã viết vào năm 1904 về “sự đa dạng thực vật” của Choluteca, “từ các loại thông và sồi của thượng du cho đến cọ và dừa dọc theo bờ biển”. Vùng rừng giàu có đã bị tàn phá trong 70 năm sau đó, giảm từ 29% xuống 11% trong khu vực được thống kê vào những năm 1960 và 1970. Bãi chăn thả tăng diện tích bao phủ từ 47% lên 64% trong cùng kỳ. “Gia súc đang ăn hết rừng”, Billie R. DeWalt tường thuật trên Bản Tin Các Nhà Khoa Học Nguyên Tử ba thập kỷ trước đây. Nhà nhân loại học Jefferson Boyer đồng tình, cho biết là các trại chăn nuôi Choluteca “đơn giản chỉ thuê lao động để đốn và đốt cây cũng như bụi rậm, phát quang đất cho cỏ mọc”. 

Honduras “bị biến thành bãi chăn thả gia súc khổng lồ nhằm mục đích xuất khẩu”, DeWalt nói thêm – một sự phát triển phục vụ các mục đích của Washington. Robert G. Williams cho biết một ví dụ, “Liên Minh Tiến Bộ thúc đẩy xuất khẩu thịt bò Trung Mỹ” của Kennedy, và “Ngân Hàng Thế Giới, AID, và IADB” đều coi thịt bò “là con đường thực dụng và nhanh chóng dẫn đến tăng trưởng nhờ xuất khẩu”. DeWalt tiếp tục, thịt bò “không quan tâm tới khoảng 58% trẻ em Honduras dưới 5 tuổi bị ảnh hưởng bởi suy dinh dưỡng dễ thấy”, nhưng không khi nào không quan tâm hơn đến Hoa Kỳ - nguồn “nhu cầu nhập khẩu vô tận các sản phẩm từ gia súc” và “nhà nhập khẩu lớn nhất” “của xuất khẩu thịt bò Trung Mỹ”. Khi các công dân Mỹ nhồi nhét steaks và hamburger, “nguồn cung cấp thực phẩm ở các nước nghèo trở nên thiếu hụt, thất nghiệp gia tăng, và đất đai cũng như các tài nguyên khác bị suy giảm mạnh”. Người Honduras nghèo khổ do đó buộc “phải cạnh tranh với động vật để giành các tài nguyên có sẵn ở địa phương”.

Nhưng nhiều nông dân, vì lý do nào đó, không thể chấp nhận rằng họ bị đối xử như con vật nuôi để giết thịt. Họ đã phản ứng lại sự phá hủy có hệ thống đối với sinh kế của họ bằng cách thành lập các tổ chức tự bảo vệ. Các chủ đất đáp trả theo cách có thể tiên lượng. “Bị chủ bãi chăn thả giết hại là chuyện phổ biến trong những năm 1960 và đầu những năm 1970, và một số vụ thảm sát đã được công khai”, David Nibert kể. “Ví dụ, vào năm 1975, tại một bãi chăn thả lớn có tên là Los Horcones” - ở khu vực Olancho, một địa điểm mở rộng bãi chăn thả khác – “5 người đã bị thiêu chết trong một lò bánh mỳ, hai tu sĩ bị thiến và băm vằm, và hai phụ nữ bị ném xuống giếng rồi cái giếng bị cho nổ sập. Tất cả các nạn nhân đều có liên hệ với phong trào do nông dân tổ chức.

Lịch sử nông nghiệp Nicaragua cũng tương tự, theo nghĩa rộng. Khu vực León, giờ là một phần của “hành lang khô hạn” rất ấn tượng với thương nhân Anh Orlando W. Roberts, ông mô tả vào năm 1827 là “miền đất rừng đẹp như trong tranh”. Phó lãnh sự Hoa Kỳ Peter F. Stout viết vào băm 1859 rằng “khu vực màu mỡ của Leon” được “bao phủ bởi rừng rậm”, các chợ tràn ngập “dưa, cam, chanh cam, chanh, đu đủ”, nhiều “loại ăn được” đều sẵn có. Nhưng sau thế chiến thứ II “khu vực bao quanh León bị biến thành đám bụi khủng khiếp khi những chủ nông trại đốn hạ rừng và trục xuất các gia đình tá điền cũng như các cộng đồng thổ dân ra khỏi đất đai của họ”, Matilde Zimmerman kể lại, đánh dấu bước phát triển của cây bông. “Trong kỳ khô hạn mùa xuân, gió nóng thổi bụi đi khắp các ngóc ngách thành phố, và không khí ở León bốc mùi thuốc trừ sâu”.

Thuốc trừ sâu đã phá hủy nông nghiệp truyền thống ở Nicaragua, giỏ bánh mỳ của khu vực. “Sản lượng lương thực cho nhu cầu nội địa giảm xuống liên tục ở Nicaragua từ năm 1948 tới năm 1978 khi ngày càng nhiều đất hơn được chuyển sang canh tác để xuất khẩu các loại sản phẩm như bong, gia súc hay thịt bò”, Clifford L. Staten viết về thời kỳ Somoza. “Vào cuối những năm 1970, chỉ có 13% dân số làm nông nghiệp có mảnh đất đủ đáp ứng các nhu cầu căn bản hay tối thiểu về lương thực.” ông ta tiếp tục. Joseph Collins chỉ ra rằng các nhà sản xuất bong Nicaragua, biến đổi đất để phục vụ cho lợi ích của họ, “đã thành công trong việc biến đất nước của họ thành thủ đô thuốc trừ sâu của thế giới. Sữa mẹ ở Nicaragua chứa lượng DDT cao hơn 45 lần so với mức cho phép của bộ y tế”.

Douglas L. Murray cho biết rằng phần lớn viện trợ nông nghiệp của Washington được dùng để mua thuốc trừ sâu. “Ví dụ vào giữa những năm 1960, Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ (USAID) cho Nicaragua vay 9 tỷ dollar thông qua Chương Trình Lương Thực Cơ Bản để mua thuốc trừ sâu cho các nhà sản xuất ngũ cốc cơ bản”, kể từ khi tiền phục vụ cho “sản xuất bông Nicaragua thuần túy, cũng như tạo ra doanh thu bổ sung cho các công ty hóa chất Hoa Kỳ”. Vận may doanh nghiệp đó là một phần của sự bùng nổ về bông. Những thứ khác là “sự khó khăn và đau khổ của hàng trăm ngàn người” cũng như “sự suy giảm mức độ tiêu thụ caloric của trẻ em”, khi sự bành trướng của bông “thay thế không chỉ sản xuất các ngũ cốc cơ bản và sản phẩm nông nghiệp cần thiết mà còn trục xuất nhiều người đã có đời sống lịch sử trên vùng đất này”, Murray kết luận.

Sự chuyển đổi nông nghiệp mà Honduras và Nicaragua đã trải qua – và đặc biệt là sự tàn phá rừng mà họ kế thừa – có thể liên quan đến sự thiếu nước hiện nay tại khu vực. Nick Nuttall, môt quan chức tham gia Hiệp Ước Khung của Liên Hiệp Quốc về Biến Đổi Khí Hậu, cho biết “mối liên hệ giữa nạn phá rừng và hạn hán là rất rõ ràng”, trong khi các nhà nghiên cứu khác tin rằng “hạn hán, được khuyếch đại bởi nạn phá rừng, là yếu tố chủ yếu trong sự sụp đổ nhanh chóng của đế chế Maya vào khoảng năm 950 trước Công Nguyên”.

“Con người và hệ thống sinh thái” khắp thế giới hiện nay có thể chung số phận với người Maya, Tổ Chức Liên Chính Phủ của Liên Hiệp Quốc (IPCC) về biến đổi khí hậu đã lo sợ. Trong một bản dự thảo báo cáo bị lộ sẽ được công bố vào chủ nhật này, ngày 2 tháng 11, IPCC lập luận rằng “ngay cả khi thích nghi, sự ấm lên vào cuối thế kỷ 21 sẽ dẫn đến nguy cơ cao đến rất cao các tác động khốc liệt, rộng rãi, và không thể đảo ngược toàn cầu”. Do đó chúng ta phải quyết định: Hoặc là mùa hè khốc liệt ở Trung Mỹ cho chúng ta thấy trước tương lai hành tinh của chúng ta, hoặc là nó cho thấy một ác mộng mà chúng ta sẽ thoát khỏi trong tích tắc.