Showing posts with label Đảng phái. Show all posts
Showing posts with label Đảng phái. Show all posts

Sunday, May 25, 2014

Đả đảo "Dân chủ" phương Tây!

Xin chú ý, bài viết này có thể gây sốc với những tín đồ của dân chủ theo kiểu phương Tây. Tác giả Andre Vltchek trong bài viết "Down with Western 'Democracy'!" đã công kích dữ dội nền dân chủ theo kiểu phương Tây, phủ nhận và đòi hỏi phải thay thế nó bằng một nền dân chủ thực sự. Xin mời bạn đọc theo dõi bản dịch.

Một bóng ma đang ám ảnh thế giới châu Âu và phương Tây – ngay lúc này, bóng ma của chủ nghĩa phát xít. Nó đến lặng lẽ, không phô trương ầm ĩ cũng như diễu hành, không giơ cao tay và hét to. Nhưng nó đến, hay quay lại, như thể luôn luôn hiện diện trong nền văn hóa đã từng biến toàn bộ hành tinh của chúng ta thành nô lệ cách đây một thế kỷ.

Vào thời phát xít Đức, phản kháng lại đế chế phát xít cũng được gọi bằng cái tên khó chịu: khủng bố. Người yêu hòa bình và du kích quân, chiến binh kháng chiến – tất cả họ đều luôn bị những gã phát xít mù quáng gọi là kẻ khủng bố

Theo logic của Đế quốc, giết hại hàng triệu đàn ông, đàn bà và trẻ em ở mọi ngóc ngách của thế giới bên ngoài được khẳng định là hợp pháp và yêu nước, nhưng chống lại một người của mẫu quốc là dấu hiệu của chủ nghĩa cực đoan.

Phát xít Đức và Ý coi luật lệ của họ là “dân chủ”, và Đế quốc cũng làm vậy. Đế quốc Anh và Pháp đã giết hại hàng triệu người trên khắp thế giới, nhưng luôn khuếch trương bản thân là “dân chủ”.

Và giờ đây, một lần nữa, chúng ta chứng kiến sự tấn công dữ dội khủng khiếp của bộ máy đế quốc chính trị kinh doanh phương Tây, gây bất ổn hay trực tiếp phá hủy hoàn toàn các quốc gia, lật đổ các chính quyền và ném bom tiễn các quốc gia “khủng bố” quay về thời đồ đá.

Tất cả những điều đó được thực hiện nhân danh dân chủ, nhân danh tự do.

Một con quái vật không được bầu chọn, như đã làm nhiều thế kỷ nay, đang chơi đùa với thế giới, tra tấn một số này, cướp bóc một số khác, hay cả hai.

Phương Tây, trong hành động đỉnh cao của sự kiêu ngạo, có vẻ đã lẫn lộn bản thân với ý niệm của Chúa. Họ đã quyết định rằng có đầy đủ quyền để đẽo gọt hành tinh, để trừng phạt và tưởng thưởng, để phá hủy và xây dựng lại theo ước muốn của họ

Làn sóng khủng bố kinh hoàng này không phải che đậy để chống lại hành tinh của chúng ta, mà được biện minh bằng thứ giáo điều vô nghĩa nhưng được bảo vệ đầy cuồng nhiệt, biểu tượng là một chiếc hộp (thường được làm từ giấy hay gỗ), và hàng sa số người nhét một mẩu giấy vào miệng phía trên chiếc hộp đó.

Đó là bàn thờ của nền tảng hệ tư tưởng phương Tây. Đó là sự ngu dốt tối cao không thể bị hoài nghi, khi nó đảm bảm trạng thái nguyên thủy cho tầng lớp cai trị và lợi ích kinh doanh, một sự ngu xuẩn biện minh cho mọi tội ác, mọi dối trá và mọi điên rồ.

Đây là bàn thờ thiêng liêng được gọi là Dân chủ, nhại lại trực tiếp từ khái niệm biểu tượng trong nguồn gốc là ngôn ngữ Hy Lạp.

***

Trong cuốn sách mới nhất của chúng tôi, “Về chủ nghĩa khủng bố phương Tây – từ Hiroshima tới chiến tranh của máy bay không người lái”, Noam Chomsky bình luận về quá trình “dân chủ” ở thế giới phương Tây:

“Hiện giờ mục tiêu của bầu cử là chôn vùi nền dân chủ. Chúng được ngành công nghiệp quan hệ công chúng điều khiển và họ hoàn toàn không nỗ lực tạo ra những cử tri được thông tin, những người có sự lựa chọn sáng suốt. Họ cố gắng đánh lừa nhân dân để có những lựa chọn phi lý. Những kỹ thuật tương tự được sử dụng để chôn vùi thị trường cũng được sử dụng để chôn vùi nền dân chủ. Một trong những ngành công nghiệp chủ chốt của đất nước và hoạt động căn bản của chúng là vô hình.”

Nhưng từ ngữ “thiêng liêng” đó, một khái niệm tôn giáo, đỉnh cao của sự mị dân của phương Tây, thực sự muốn biểu hiện cái gì? Chúng ta nghe thấy nó ở mọi nơi. Chúng ta đã hy sinh hàng triệu sinh mạng (tất nhiên không phải là của chúng ta, ít nhất là chưa phải, nhưng hoàn toàn là sinh mạng của người khác) nhân danh nó.

Dân chủ!

Tất cả đều là những khẩu hiệu và tuyên truyền trang trọng! Năm ngoái tôi đi thăm Bình Nhưỡng, nhưng tôi phải khẳng định rằng Bắc Triều Tiên không giống như trong khẩu hiệu của các nhà tuyên truyền phương Tây.

“Với danh nghĩa tự do và dân chủ!” Hàng trăm triệu tấn bom rơi từ trên trời xuống đất Lào, Campuchia, Việt Nam… các thân xác bị bom na-pam đốt cháy, bị các vụ nổ ngoạn mục xé làm nhiều mảnh

“Bảo vệ dân chủ!” Trẻ em bị cưỡng hiếp trước mặt cha mẹ chúng ở Trung Mỹ, đàn ông và đàn bà bị các biệt đội tử thần được huấn luyện tại các căn cứ quân sự ở Hoa Kỳ dùng súng máy hạ sát.

“Khai hóa văn minh thế giới và mở rộng dân chủ!” Đó luôn là khẩu hiệu của châu Âu, “việc cần làm” của họ, và một cách để cho người khác thấy nền văn minh vĩ đại của họ. Chặt tay người Công-gô, giết hại khoảng mười triệu người, và nhiều hơn nữa ở Namibia, Đông Phi, Tây Phi và Algier, đầu độc người Trung Đông bằng khí độc (“Tôi rất ủng hộ việc sử dụng khí độc đối với các bộ tộc không văn minh”, mượn từ vựng đặc sắc của (ngài) Winston Churchill). 

Vậy cái gì là thật? Ai là quý bà xa lạ với chiếc rìu trong tay và mặt bị che – quý bà có tên là Dân chủ?

***

Thật ra rất đơn giản. Khái niệm nguyên gốc từ Hy Lạp là δημοκρατία (dēmokratía) “sự cai trị của nhân dân”. Sau đó và hiện nay, dường như bị biến thành điều ngược lại ἀριστοκρατία (aristokratia), có nghĩa là “sự cai trị của tầng lớp quý tộc”. 

“Sự cai trị của nhân dân” … Chúng ta hãy cùng xem xét một vài ví dụ về “sự cai trị của nhân dân”.

Nhân dân nói, họ cai trị, họ bỏ phiếu “dân chủ” ở Chile, tạo ra chính phủ ôn hòa và xã hội chủ nghĩa của “Nhân Dân Thống Nhất” Salvador Allende.

Chắc chắn rồi, hệ thống giáo dục của Chile sáng chói, hệ thống chính trị và xã hội tuyệt diệu, truyền cảm hứng không chỉ cho nhiều nước Mỹ Latin, mà còn tới tận châu Âu Địa Trung Hải.

Điều đó không thể dung thứ, bởi vì như chúng ta đều biết, chỉ có người da trắng châu Âu và Bắc Mỹ được phép hỗ trợ thế giới với những bản thiết kế cho mọi xã hội, mọi nơi trên hành tinh. “Chile phải gào thét” đã được quyết định, nền kinh tế của họ bị tàn phá và chính quyền “Nhân Dân Thống Nhất” bị tước quyền lực.

Henry Kissinger, rõ ràng thuộc về một chủng tộc cao hơn và quốc gia có cấp bậc cao hơn, đã đưa ra một thông điệp thẳng thắn và theo cách rất “trung thực”, hoàn toàn xác định Hoa Kỳ đứng về phía dân chủ toàn cầu: “Tôi không hiểu là tại sao chúng tôi phải đứng yên và nhìn một đất nước đi theo con đường cộng sản do sự thiếu trách nhiệm của người dân.” 

Và thế là Chile bị tàn phá. Hàng ngàn người bị sát hại và “thằng con hoang của chúng ta” được trao quyền lực. Tướng Pinochet không được bầu: ông ta ném bom phủ Tổng thống ở Santiago, ông ta tra tấn dã man những người đàn ông và đàn bà đã được nhân dân Chile bầu chọn, và ông ta làm “mất tích” hàng ngàn người.

Nhưng chuyện đó là tốt, vì dân chủ, theo cái nhìn của Washington, London hay Paris, không có gì nhiều hơn và không có gì ít hơn cái mà người da trắng cần để kiểm soát hành tinh này, mà không bị phản đối và tốt nhất là không bao giờ bị phê phán.

Tất nhiên Chile không phải là nơi duy nhất mà “dân chủ” được “định nghĩa lại”. Và cũng không phải là kịch bản tàn bạo nhất, mặc dù đã quá đủ tàn bạo. Nhưng đó là “trường hợp” thật sự mang tính biểu tượng, bởi vì tuyệt đối không thể tranh cãi: một quốc gia bậc trung, được giáo dục cực tốt, bỏ phiếu trong cuộc bầu cử minh bạch, nhưng chính quyền của họ bị sát hại, tra tấn và lưu đày, chỉ đơn giản bởi vì nó quá dân chủ và can dự quá nhiều vào việc nâng cao đời sống nhân dân.

Có hàng sa số các ví dụ về sự giận dữ công khai từ phương Bắc, đối với “sự cai trị của nhân dân” ở Mỹ Latin. Trong nhiều thế kỷ, có vô số các vị dụ. Tất cả các quốc gia “phía bắc biên giới” của Tây Hemisphere đều trở thành nạn nhân.

Sau cùng, học thuyết Monrose tự áp đặt đã tạo cho Bắc Mỹ “những quyền không thể hoài nghi” để can thiệp và “điều chỉnh” mọi phong trào dân chủ “thiếu trách nhiệm” do các chủng tộc thấp kém hơn sống ở Trung và Nam Mỹ cũng như quần đảo Caribbe tạo ra.

Có nhiều kịch bản khác nhau về tài khéo léo thật sự, trong việc làm cách nào để tra tấn các quốc gia dám xây dựng những căn nhà tử tế cho nhân dân, hoặc sớm có bằng chứng về sự lặp lại cũng như dự đoán được.

Hoa Kỳ không chỉ tài trợ cho các vụ đảo chính cực kỳ đẫm máu (giống như ở Guatemala năm 1954) hay chỉ đơn giảm chiếm đóng các quốc gia để lật đổ chính quyền dân cử. Sự biện minh cho những can thiệp đó rất đa dạng: điều đó được thực hiện để “khôi phục trật tự”, “khôi phục tự do và dân chủ”, hay ngăn chặn sự trỗi dậy của “Cuba khác”.

Từ nước cộng hòa Dominica năm 1965 đến Grenada năm 1983, các đất nước được “bảo vệ khỏi bản thân họ” qua việc nhập khẩu (theo mệnh lệnh chủ yếu của tầng lớp thống trị Phản Kháng Bắc Mỹ với sự tự tôn bệnh hoạn) các biệt đội tử thần chuyên thi hành các vụ tra tấn, cưỡng hiếp và xử tử bất hợp pháp. Người dân bị giết hại do những quyết định dân chủ của họ bị coi là “thiếu trách nhiệm” và do đó không thể chấp nhận được.

Trong khi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc công khai trong tất cả cách thức mà Đế quốc kiểm soát thuộc địa, “sự đúng đắn chính trị” được nhập khẩu khéo léo, giảm một cách có hiệu quả tới mức gần tối thiểu các phê phán nghiêm túc của xã hội bị buộc phải chấp nhận

Ở Indonesia, khoảng từ 1 đến 3 triệu người đã bị sát hại trong năm 1965/66, trong cuộc đảo chính do Hoa Kỳ tài trợ, bởi vì có “một mối nguy hiểm lớn” khi người dân cai trị và quyết định bỏ phiếu thiếu trách nhiệm, đưa Đảng Cộng Sản Indonesia lên nắm quyền, vào lúc đó là Đảng Cộng Sản lớn thứ ba trên thế giới. 

Tổng thống được bầu chọn dân chủ của Công-gô, Patrice Lumumba đã bị sát hại năm 1961, trong một nỗ lực phối hợp giữa Hoa Kỳ và châu Âu, chỉ đơn giản là vì ông ấy quyết định sử dụng phần lớn tài nguyên quốc gia để nuôi dưỡng nhân-p0- dân; và bởi vì ông ta không e ngại phê phán công khai và mạnh mẽ chủ nghĩa thực dân cũng như đế quốc phương Tây.

Đông Timor bị mất một phần ba dân số chỉ đơn giản vì nhân dân, sau khi giành được độc lập từ tay Bồ Đào Nha, không ngần ngại bỏ phiếu trao quyền lực cho phe cánh tả FRETILIN. “Chúng ta không dung thứ cho một Cuba khác ngay cận kề bờ biển của chúng ta”, nhà độc tài phát xít Indonesia Suharto phản đối, và Hoa Kỳ cũng như Úc hết sức tán đồng.Việc quân đội Indonesia tra tấn và sát hại người dân Đông Timor bị coi là không thích hợp và thậm chí không được đưa tin trên truyền thông đại chúng.

Tất nhiên, nhân dân Iran cũng không thể đáng tin cậy với “dân chủ”. Iran là một trong những nền văn hóa lâu đời và vĩ đại nhất trên trái đất, nhưng nhân dân muốn sử dụng doanh thu từ dầu mỏ để cải thiện đời sống, chứ không phải để nuôi dưỡng những gã đa quốc gia. Điều đó luôn bị các nhà cầm quyền phương Tây coi là tội ác - một tội ác đáng bị trừng phạt bằng cái chết.

Nhân dân Iran quyết định cai trị; họ bỏ phiếu, họ nói rằng họ muốn quốc hữu hóa toàn bộ ngành công nghiệp dầu mỏ. Mohammad Mosaddeq, thủ tướng được bầu chọn dân chủ của Iran từ năm 1951 đến 1953, đã sẵn sàng thực thi cái mà nhân dân yêu cầu. Nhưng chính phủ của ông ấy bị lật đổ trong một cuộc đảo chính do cơ quan tình báo Anh MI6 và tình báo Bắc Mỹ CIA phối hợp dàn xếp, và tiếp theo đó là chế độ độc tài sát nhân tay sai của phương Tây – Reza Pahlavi. Giống như ở Mỹ Latin và Indonesia, thay cho các dự án trường học, bệnh viện và nhà ở, nhân dân nhận được các biệt đội tử thần, phòng tra tấn và nỗi sợ hãi. Đó có phải là thứ họ muốn? Đó có phải là cái mà họ bỏ phiếu lựa chọn?

Có hàng tá các quốc gia trên khắp thế giới đã được phương Tây “bảo vệ” khỏi “công dân và cử tri thiếu trách nhiệm. Brazil mới đây “cử hành” lễ kỷ niệm lần thứ 50 cuộc đảo chính quân sự do Hoa Kỳ hậu thuẫn, cuộc đảo chính mở đầu cho chế độ độc tài quân sự khủng khiếp suốt 20 năm. Hoa Kỳ ủng hộ hai cuộc đảo chính ở Iraq, vào năm 1963 và 1968 đã đưa Saddam Hussein và đảng Baath của ông ta lên nắm quyền. Danh sách là vô tận. Đây chỉ là một số ví dụ ngẫu nhiên.

Trong các sự kiện gần đây, phương Tây đã lật đổ, hay âm mưu lật đổ, hầu như bất kỳ chính quyền được bầu cử dân chủ nào, trên tất cả các lục địa, định phục vụ nhân dân, bằng cách cung cấp cho nhân dân một cuộc sống và các dịch vụ xã hội với tiêu chuẩn tử tế. Đó là điểm qua thành tích và một số sự chịu đựng!

Có thể nào phương Tây chỉ tôn trọng “Dân chủ” khi “nhân dân bị cưỡng bức phải cai trị” chống lại lợi ích của bản thân? Và khi họ “bảo vệ” những gì họ được tầng lớp cai trị địa phương ra lệnh bảo vệ để đáp ứng lợi ích của Bắc Mỹ và châu Âu?… và cũng như khi họ bảo vệ lợi ích của các công ty đa quốc gia và chính quyền phương Tây phụ thuộc vào những công ty đó? 

***

Có thể làm gì? Nếu một đất nước quá yếu để bảo vệ bản thân bằng biện pháp quân sự, chống lại một số kẻ xâm lược hùng mạnh phương Tây, họ có thể tiếp cận bất kỳ thể chế dân chủ quốc tế nào với hy vọng được bảo vệ?

Không thể hình dung được!

Một ví dụ rõ ràng là Nicaragua, bị Hoa Kỳ xâm lược, không có lý do nào khác ngoài lý do trở thành cộng sản. Chính phủ của họ đã đến tòa án. 

Vụ án được gọi là: Nước cộng hòa Nicaragua kiện Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ

Đó là vụ án năm 1986 tại Tòa án Tư pháp Quốc tế (ICJ) mà ICJ đã ủng hộ Nicaragua và chống lại Hoa Kỳ cũng như yêu cầu bồi thường cho Nicaragua.

Bản án rất dài, bao gồm 291 điểm. Trong số đó có cả điều Hoa Kỳ đã can dự vào việc “sử dụng vũ lực bất hợp pháp”. Các vi phạm được khẳng định bao gồm tấn công cơ sở hạ tầng của Nicaragua và tàu biển, đánh mìn các cảng biển của Nicaragua, chiếm đóng không gian của Nicaragua, và huấn luyện, vũ trang, trang bị, cung cấp tài chính, cung cấp lực lượng (tổ chức “Contras”) cũng như tìm cách lật đổ chính quyền Sadinista của Nicaragua.

Bản án đã được tuyên, và đã được Liên Hiệp Quốc bỏ phiếu cũng như ra nghị quyết. Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc năm 1986 kêu gọi thi hành toàn bộ và ngay lập tức bản án. Chỉ có Thái Lan, Pháp và Anh bỏ phiếu trắng. Hoa Kỳ biểu lộ sự giận dữ đối với tòa án, và phủ quyết toàn bộ nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.

Họ tiếp tục chiến dịch khủng bố chống lại Nicaragua. Cuối cùng, đất nước bị tàn phá và kiệt sức bỏ phiếu vào năm 1990. Sớm thấy rõ rằng đó không phải là bỏ phiếu cho hay chống chính quyền Sadinista, mà là chịu đựng bạo lực của phương Bắc hay đơn giản là chấp nhận bại trận buồn thảm. Chính phủ Sadinista thất bại. Họ thất bại bởi vì cử tri bị súng của Bắc Mỹ dí vào đầu. 

Đó là cách “dân chủ” hoạt động

Tôi đưa tin về cuộc bầu cử của Nicaragua năm 1996 và đại đa số cử tri nói với tôi rằng họ sẽ bỏ phiếu cho ứng cử viên cánh hữu (Aleman), chỉ bởi vì Hoa Kỳ đe dọa tung ra một làn sóng khủng bố khác nếu chính quyền Sadinista quay trở lại nắm quyền, rất dân chủ.

Sadinista hiện đã quay lại. Nhưng chỉ bởi vì phần lớn Mỹ Latin đã thay đổi, và có sự thống nhất cũng như quyết tâm chiến đấu khi cần thiết.

***

Trong khi người châu Âu rõ ràng kiếm lợi từ chủ nghĩa thực dân kiểu mới và cướp bóc khắp thế giới, thật nực cười khi khẳng định rằng bản thân họ đang được “tận hưởng thành quả của nền dân chủ”

Trong cuốn tiểu thuyết sáng chói “Đang nhìn”, do Jose Saramago viết, một tác giả được giải Nobel văn học, khoảng 83% cử tri của một quốc gia không xác định (gần giống như quê hương Bồ Đào Nha của Saramago), quyết định bỏ phiếu trắng, thể hiện sự tức giận đối với với hệ thống lựa chọn đại diện của phương Tây.

Quốc gia này, tự hào bản thân là “một nước dân chủ”, phản hồi bằng cách tung ra một trận khủng bố điên cuồng đối với công dân. Hiển nhiên là nhân dân chỉ được phép lựa chọn dân chủ khi kết quả phục vụ cho lợi ích của chính phủ. 

Ursula K Le Guin, đánh giá tiểu thuyết trên tờ báo The Guardian, vào ngày 15 tháng 4 năm 2006, khẳng định: 

Bỏ phiếu trắng là một dấu hiệu không quen thuộc với phần lớn người Anh và Mỹ, những người chưa từng sống dưới các chính quyền mà việc bỏ phiếu của họ là vô nghĩa. Trong nền dân chủ chức năng, một người có thể coi việc không bỏ phiếu là một cách phản đối lười biếng có khả năng đặt quyền lực vào tay đảng phái khác (như khi số lượng người Lao động bỏ phiếu thấp dẫn đến Margaret Thatcher được tái cử, và người Dân chủ thờ ơ đảm bảo cả hai sự thắng cử cho George W. Bush). Rất khó để khẳng định rằng bản thân việc bỏ phiếu không phải là một hành động quyền lực, và tôi không hiểu việc mà các cử tri không bỏ phiếu của Saramago làm.

Bà ấy không phải hiểu. Thậm chí ngay ở châu Âu, khủng bố được tung ra trong nhiều dịp để đối phó với những ai quyết định bỏ phiếu “sai”

Có lẽ ví dụ tàn bạo nhất là trong thời hậu chiến tranh thế giới thứ II, khi các đảng cộng sản tiến đến chiến thắng ngoạn mục ở Pháp, Ý, Tây Đức. Những “hành vi thiếu trách nhiệm” tất nhiên là phải bị ngăn chặn. Cả lực lượng tình báo Hoa Kỳ và Anh đã thực hiện một nỗ lực khủng khiếp để “bảo vệ dân chủ” ở châu Âu, triển khai lực lượng phát xít để bẻ gãy, đe dọa, thậm chí sát hại các thành viên của đảng phái và phong trào tiến bộ .

Những cán bộ phát xít sau đó được phép, thậm chí khuyến khích, rời châu Âu tới Nam Mỹ, một số mang theo chiến lợi phẩm lớn từ các nạn nhân bị sát hại trong các trại tập trung. Các chiến lợi phẩm này có cả cả răng vàng.

Sau này, vào những năm 1990, tôi nói chuyện với một vài người trong số họ, và cả với con cái họ, ở Asuncion, thủ đô của Paraguay. Họ tự hào về hành động của họ, không ăn năn hối lỗi, cũng như tự hào là phát xít vậy.

Rất nhiều kẻ phát xít châu Âu sau đó tham gia tích cực vào chiến dịch Condor, họ được phát xít Paraguay cũng như nhà độc tài thân phương Tây Alfredo Strössner ủng hộ nồng nhiệt. Ngài Strössner là bạn thân thiết và là người chứa chấp rất nhiều tội phạm chiến tranh trong thế chiến thứ hai, bao gồm cả những người như Dr. Josef Mengele, bác sĩ phát xít được gọi là “Thần Chết”, người đã thực hiện các thí nghiệm về gen trên trẻ em trong chiến tranh thế giới thứ II.

Vậy là sau khi phá hủy “quá trình dân chủ thiếu trách nhiệm” ở châu Âu (Đế chế phương Tây thời hậu chiến), nhiều kẻ phát xít châu Âu hiện giờ đang phục vụ trung thành chủ nhân mới, được yêu cầu tiếp tục với những gì mà họ làm tốt nhất. Do đó, họ đã giúp ám sát khoảng 60,000 nam, nữ cũng như con cái của các thành viên cánh tả Nam Mỹ, những người có tội là xây dựng xã hội bình đẳng và công bằng tại quê hương. Nhiều kẻ phát xít tham gia trực tiếp vào chiến dịch Condor, dưới sự điều phối trực tiếp của Hoa Kỳ và châu Âu.

Như Naomi Kleisn viết trong cuốn sách của bà, Học thuyết Sốc: 

“Chiến dịch Cóndor, được gọi là kế hoạch Cóndor (tiếng Bồ Đào Nha : Operação Condor) là một chiến dịch đàn áp chính trị và khủng bố có liên quan tới các chiến dịch tình báo và ám sát các đối thủ, chính thức được các chế độ độc tài cánh hữu vùng nón phía Nam của Nam Mỹ triển khai vào năm 1975. Chương trình nhằm mục đích diệt trừ ảnh hưởng cũng như lý tưởng chủ nghĩa cộng sản hay Soviet, và để đàn áp các phong trào đối lập đang hoạt động hay tiềm tàng chống lại các chính quyền can dự.”

Ở Chile, phát xít Đức xắn tay áo và làm việc trực tiếp: bằng cách thẩm vấn, thủ tiêu, và tra tấn dã man các thành viên của chính quyền được bầu chọn dân chủ cũng như những người ủng hộ họ. Chúng thực hiện hàng sa số các thí nghiệm y khoa trên con người, tại một nơi được gọi là Colonia Dirnidad, dưới thời độc tài Augusto Pinochet, người có quyền lực được Dr. Kissinger với lối nói khuôn sáo của ông ta tạo ra và duy trì. 

Nhưng quay trở lại châu Âu: ở Hy Lạp sau thế chiến thứ II, cả Hoa Kỳ và Anh đều dính líu sâu đến cuộc nội chiến giữa người cộng sản và lực lượng cực hữu.

Vào năm 1967, chỉ một tháng trước cuộc bầu cử mà cánh tả Hy Lạp được dự đoán thắng lợi một cách dân chủ (kịch bản Indonesia năm 1965), Hoa Kỳ và các “đại tá Hy Lạp” tiến hành đảo chính, dẫn đến chế độ độc tài dã man kéo dài 7 năm. 

Những gì xảy ra ở Nam Tư, khoảng 30 năm sau đó, cũng rất rõ ràng. Một quốc gia cộng sản thành công không được phép sống sót, và nhất là ở châu Âu. Khi bom rơi xuống Belgrade, rất nhiều người tò mò và có tư duy phê phán đã không còn bất cứ ảo tưởng nào đối với chính phủ phương Tây cũng như “các nguyên tắc dân chủ”, đã nhanh chóng rời bỏ họ.

Nhưng sau này, đa số người châu Âu đã bị nhồi sọ, một trong số những người được cung cấp thông tin tồi và cứng đầu nhất (trong tư duy của họ) trên trái đất trái đất

Châu Âu và cử tri… Đám đông thường xuyên phàn nàn, muốn nhiều và nhiều tiền hơn nữa, và đưa ra kết quả bầu cử tương tự, rất dễ dự đoán theo chu kỳ bốn, năm hay sáu năm một lần. Họ sống và bỏ phiếu máy móc. Họ hoàn toàn đánh mất khả năng hình dung về một thế giới khác, chiến đấu cho các nguyên tắc nhân đạo, hay thậm chí mơ ước.

Châu Âu trở thành một nơi cực kỳ rùng rợn, một bảo tàng trong điều kiện tốt nhất, và một nghĩa trang ảo tưởng của nhân loại trong điều kiện tồi tệ nhất 

***

Như Noam Chomsky đã chỉ ra:

Người Mỹ có thể được khuyến khích bầu cử, nhưng không tham gia có ý nghĩa hơn vào đấu trường chính trị. Có lẽ bầu cử là phương pháp cô lập dân chúng. Một chiến dịch tuyên truyền khổng lồ được sắp đặt để hướng người dân vào những hành vi ngông cuồng được cá nhân hóa bốn năm một lần và nghĩ rằng, “Đó là chính trị”. Nhưng không phải. Đó chỉ là một phần nhỏ của chính trị. Dân chúng đã được loại bỏ cẩn thận khỏi các hoạt động chính trị, và không phải ngẫu nhiên. Một khối lượng công việc khổng lồ để đảm bảo cho sự tước quyền công dân đó. Trong những năm 1960, sự can dự bột phát của dân chúng vào dân chủ đã làm lực lượng bảo thủ khiếp sợ, họ đã sắp đặt một chiến dịch chống đối ác liệt. Các cuộc biểu tình cánh tả cũng như hữu diễn ra ngày nay là nhằm đưa dân chủ về cái hố của nó. 

Arundhati Roy, bình luận trong cuốn sách “Có cuộc sống sau dân chủ không?”

Câu hỏi ở đây thật sự là chúng ta làm gì cho dân chủ? Chúng ta biến nó thành cái gì? Điều gì xảy ra khi dân chủ được sử dụng hết? Khi nào dân chủ bị làm cho trống rỗng và không còn ý nghĩa? Điều gì xảy ra khi mỗi thể chế của nó di căn thành thứ gì đó nguy hiểm? Điều gì xảy ra hiện nay khi mà dân chủ và Thị trường Tự do được kết hợp trong một cơ quan cướp bóc đơn lẻ với trí tưởng tượng nhỏ bé và thui chột hầu như chỉ tập trung hoàn toàn vào ý tưởng tối đa hóa lợi nhuận? Có khả năng đảo ngược được quá trình này không? Có điều gì đó có thể làm biến đổi trở lại thành cái đã quen thuộc không?

***

Sau tất cả sự tàn bạo đó, cũng như sự giận dữ của nhân dân khắp thế giới, phương Tây giờ đây đang dạy dỗ hành tinh về dân chủ. Họ dạy cho người châu Á và châu Phi, nhân dân Trung Đông và Cận Lục Địa, về cách thức làm cho đất nước "dân chủ" hơn. Điều đó thật khó tin, một trong những điều khôi hài nhất trên trái đất, nhưng đang diễn ra, và mọi người phải yên lặng về nó.

Những người lắng nghe mà không cười phá lên đều được trả tiền xứng đáng. 

Đây là buổi hội thảo; thậm chí các dự án viện trợ nước ngoài cũng liên quan đến “sự cai trị tốt”, được Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ tài trợ. Châu Âu đang tích cực hơn trong lĩnh vực này. Giống như mafia Ý, gửi một thông điệp ngầm nhưng không lầm lẫn đến thế giới: “Mày hãy làm như chúng tao nói, nếu không chúng tao bẻ gẫy chân mày… Nhưng nếu bạn vâng lời, hãy đến chỗ chúng tôi và chúng tôi sẽ dạy cho bạn cách trở thành sĩ quan hậu cần tốt cho Cosa Nostra! Và chúng tôi sẽ cho bạn một ít mỳ ống với rượu vang khi bạn học.”

Bởi vì có rất nhiều tiền, nên được gọi là “tài trợ”… thành viên của tầng lớp thống trị, giới học giả, truyền thông và tổ chức phi chính phủ, từ các quốc gia đã bị phương Tây cướp bóc – những quốc gia như Indonesia, Philippines, Cộng hòa dân chủ Công-gô, Honduras, hay Colombia – gửi các đoàn quân nhân dân đến để tự nguyện được nhồi sọ, (xin lỗi, để được “khai sáng”), để học về dân chủ từ những sát thủ vĩ đại nhất của “quyền lực nhân dân” thực sự; từ phương Tây.

Tấn công nền dân chủ là một công việc kinh doanh khổng lồ. Bưng bít là một phần của công việc kinh doanh. Học cách ngồi yên và không can thiệp chống lại các lực lượng ngoại bang phá hủy nền dân chủ ở quốc gia của bạn, trong khi giả vờ “tham dự và tích cực”, thực tế là việc kinh doanh tốt nhất, tốt hơn là xây dựng những chiếc cầu hay giáo dục trẻ em (theo quan điểm của những kẻ hám lợi).

Một lần tại một trường đại học Indonesia nơi tôi được mời đến nói chuyện, một sinh viên hỏi tôi “đâu là con đường tiến lên”, để làm cho đất nước của cậu dân chủ hơn? Tôi trả lời, nhìn vào một số thành viên của hội đồng giáo sư:

“Yêu cầu giáo viên của bạn ngừng đi đến châu Âu trong các chuyến đi được tài trợ toàn phần. Yêu cầu họ phải được huấn luyện cách tẩy não bạn. Đừng tự mình đến đó để nghiên cứu. Hãy đi đến đó để nhìn, để hiểu và để học hỏi, nhưng đừng nghiên cứu… Châu Âu đã cướp bóc mọi thứ của bạn. Họ tiếp tục cướp bóc đất nước của bạn. Bạn nghĩ sẽ học cái gì ở đó? Bạn thực sự nghĩ rằng họ sẽ dạy bạn cách cứu vớt đất nước của bạn?”

Các sinh viên bật cười. Các giáo sư nổi giận. Tôi không bao giờ được mời lại. Tôi chắc chắn rằng các giáo sư biết chính xác tôi muốn nói gì. Sinh viên thì không. Họ nghĩ rằng tôi chỉ kể một câu chuyện đùa. Nhưng tôi không định đùa. 

***

Khi tôi viết những chữ này, chính quyền quân sự Thái Lan đã tiếp quản đất nước. Phương Tây im lặng: quân đội Thái là đồng minh cực kỳ thân cận. Nền dân chủ đang hoạt động…

Và khi tôi viết những chữ này, chính phủ phát xít ở Kiev đang săn đuổi, bắt cóc và “làm mất tích” người dân ở miền đông và nam Ukraina. Bằng một số sự bóp méo logic điên cuồng, truyền thông phương Tây được sắp xếp để lên án Nga. Và chỉ có một số ít người bò lăn ra sàn nhà mà cười.

Khi tôi viết những chữ này, một phần lớn của châu Phi chìm trong lửa, bị Hoa Kỳ, Anh, Pháp và các quyền lực thực dân khác phá hủy hoàn toàn.

Các quốc gia tay sai như Philippine hiện giờ được trả tiền để gây xung đột với Trung Quốc.

Chủ nghĩa mạo hiểm tân phát xít Nhật Bản được Hoa Kỳ ủng hộ toàn phần có thể dễ dàng gây ra chiến tranh thế giới thứ III. Cũng như phương Tây có thể tham lam và thực hành phát xít ở Ukraina.

Dân chủ! Quyền lực của nhân dân!

Nếu phương Tây chịu ở yên ở nơi mà nó thuộc về, ở châu Âu và Bắc Mỹ, sau thế chiến II, thế giới sẽ khó có những vấn đề như hiện tại. Những người như Lumumba, Allende, Sukarno, Mosaddeq, sẽ dẫn dắt quốc gia và lục địa của họ. Họ sẽ đối thoại với người dân của mình, tương tác với dân chúng. Họ sẽ xây dựng “nền dân chủ” theo kiểu của họ.

Nhưng tất cả những điều đến từ Hội nghị Bandung năm 1955, từ ý tưởng của phong trào không liên kết, đã bị tàn phá và dìm trong máu. Hy vọng chân thật của nhân dân thế giới bị cắt thành nhiều mảnh, bị đái vào, và sau đó bị ném xuống rãnh.

Nhưng không còn thời gian để phí phạm cho phân tích, cũng như khóc than cho những gì đã mất. Đã đến lúc hành động!

Hoa Kỳ và Châu Âu đã tra tấn thế giới, hàng thập kỷ và hàng thế kỷ. Họ đã tra tấn nhân danh nền dân chủ… nhưng tất cả chỉ là lời dối trá trắng trợn. Thế giới bị tra tấn bởi lòng tham, bởi phân biệt chủng tộc. Hãy nhìn lại lịch sử. Châu Âu và Hoa Kỳ ngừng gọi người dân là “mọi đen”, nhưng họ không hề tôn trong người dân hơn. Và họ sẵn sàng, giống như trước đó, hy sinh hàng triệu sinh mạng con người.

Chúng ta hãy cùng chấm dứt sùng bái cái hộp của họ, cũng như những mẩu giấy vô nghĩa mà họ muốn chúng ta bỏ vào đó. Không có quyền lực của nhân dân trong đó. Hãy nhìn vào bản thân Hoa Kỳ - dân chủ của chúng ta ở đâu? Một chính phủ độc đảng bị kiểm soát hoàn toàn bởi những kẻ theo trào lưu thị trường chính thống. Hãy nhìn vào báo chí, và tuyên truyền…

Sự cai trị của nhân dân bởi nhân dân, dân chủ thật sự, là có thể đạt tới. Nhân dân chúng ta đã bị trật đường, về mặt trí tuệ, nên chúng ta không suy tư về cách làm ra sao, trong nhiều thập kỷ.

Giờ đây chúng ta, nhiều trong số chúng ta, biết rằng cái gì sai, nhưng chúng ta vẫn chưa chắc chắn cái gì đúng.

Chúng ta hãy suy nghĩ và hãy tìm kiếm, hãy thử nghiệm. Và hãy loại bỏ chủ nghĩa phát xít của họ trước hết. Hãy để họ bỏ mẩu giấy của họ vào bất cứ chỗ nào họ muốn! Hãy để họ giả vờ không phải là nô lệ của một vài kẻ bán rong và kẻ lừa đảo. Hãy để họ làm bất cứ điều gì họ muốn – đó, nơi họ mà thuộc về.

Dân chủ nhiều hơn một chiếc hộp, nhiều hơn một đám đông đảng phái chính trị. Dân chủ là khi người dân thực sự lựa chọn, quyết định và xây dựng một xã hội mà họ mơ ước. Dân chủ là không phải sợ hãi na-pam và bom sẽ hủy diệt ước mơ của chúng ta. Dân chủ là khi người dân cất tiếng nói và tiếng nói đó phát triển quốc gia của họ. Dân chủ là khi hàng triệu bàn tay hợp sức và từ liên minh rực rỡ ấy, những con tàu mới bắt đầu chạy, những trường học mới bắt đầu dạy học, và những bệnh viện mới bắt đầu chữa bệnh. Tất cả bởi nhân nhân, vì nhân dân! Tất cả được tạo ra bởi những con người tự hào và tự do như là quà tặng cho tất cả - cho đất nước của họ.

Đúng vậy, hãy để những tên chủ nô bỏ mẩu giấy của họ vào hộp, hay bất cứ chỗ nào khác. Họ có thể gọi đó là dân chủ. Chúng ta hãy gọi dân chủ theo cách khác – sự cai trị của nhân dân, một sự đánh đổi vĩ đại của lý tưởng, của hy vọng và mơ ước. Chúng ta hãy giành lấy sự kiểm soát cuộc sống của mình và đất nước của chúng ta sẽ được gọi là “dân chủ”!

Friday, May 23, 2014

Chính phủ Obama xác nhận quyền lực chiến tranh không giới hạn mà không cần sự cho phép của Quốc Hội

Chính quyền Hoa Kỳ đã vứt bỏ chiếc lá nho - sự chấp thuận của Quốc hội, để trần truồng bước vào các cuộc chiến tranh bất tận, điều đáng chú ý là họ viện dẫn mục II Hiến pháp Hoa Kỳ để biện minh cho việc tiến hành chiến tranh không có bất cứ giới hạn nào, cũng như giết hại người dân Mỹ ở bất cứ đâu trên thế giới mà không cần xét xử. Xin mời bạn đọc bản dịch bài viết "Obama administration asserts unlimited war powers without Congressional authorization" của Joseph Kishore để biết thêm chi tiết.

Trong phiên điều trần trước Quốc hội vào thứ tư, các quan chức hàng đầu của chính quyền Obama đã xác nhận rằng tổng thống có quyền lực chiến tranh không giới hạn mà thậm chí không cần đến chiếc lá nho – sự ủy quyền của Quốc hội.

Phát biểu trước ủy ban quan hệ đối ngoại của thượng viện, các quan chức chính quyền – phó chủ tịch cố vấn pháp luật của bộ ngoại giao Mary McLeod và luật sư trưởng của bộ quốc phòng Stephen Preston – tuyên bố rằng các vụ tấn công của máy bay không người lái, triển khai quân lính cũng như các chiến dịch chiến tranh khác của chính quyền Obama không bị ràng buộc bởi Sự ủy quyền về Sử dụng Lực lượng Quân sự năm 2001 (AUMF).

Hơn một thập kỷ qua, AUMF đã trở thành sự che đậy cho tất cả những hoạt động bất hợp pháp và vi hiến của các chính quyền Bush và Obama – xâm lược quân sự, giam giữ không giới hạn (gồm cả ở Guatanamo Bay), tra tấn và ám sát bằng máy bay không người lái. Quốc hội đang cân nhắc chỉnh sửa hoặc chấm dứt AUMF trong một nỗ lực chuyển giao những hoạt động này sang một nền tảng cố định hơn.

Trong diễn biến tra vấn của các thượng nghị sĩ về tương lai của AUMF, McLeod và Preston khẳng định rằng, theo quan điểm của chính phủ, trong thực tế không AUMF không tạo thành bất cứ quyền lực bổ sung nào cho phía hành pháp ngoài những quyền đã tồn tại trong mục II của Hiến pháp Hoa Kỳ - một sự khẳng định về quyền lực hành pháp không giới hạn.

Preston đã khai, “Tôi không nhận thấy bất cứ nhóm khủng bố ngoại quốc nào thể hiện một mối đe dọa đối với đất nước này mà tổng thống thiếu thẩm quyền để chống lại đơn giản bởi vì điều đó không được quy định bởi AUMF. Nếu một nhóm thể hiện một mối đe dọa, tổng thống có thẩm quyền tiến hành chống lại mối đe dọa đó.”

Khi thượng nghị sĩ cộng hòa Bob Corker hỏi tổng thống có thể tiếp tục “tiến hành các hoạt động chống khủng bố mà ông ấy đang tiến hành hiện nay” hay không trong trường hợp AUMF bị hủy bỏ, McLeod trả lời, “Có, tôi tin rằng ông ấy có thể.”

“Hoa Kỳ có thẩm quyền nhằm vào các cá nhân, bao gồm cả người Mỹ, những người tạo thành mối đe dọa tiềm tàng tấn công đất nước của chúng ta,” McLeod bổ sung (bổ sung nhấn mạnh).

Trong ngôn ngữ của các luật sư chính quyền, “tiềm tàng” đã bị định nghĩa lại để diễn tả những điều kiện vô nghĩa này. McLeod không nói việc giết hại người Mỹ có thể diễn ra trong phạm vi Hoa Kỳ hay không. 

Một báo cáo trên tờ Rolling Stone về buổi điều trần ghi nhận: “Khi thượng nghị sĩ Tim Kaine (D-Virginia) hỏi ‘cái gì mà [tổng thống] không thể làm nếu không có AUMF’, Preston không đưa ra câu trả lời ngay tức thì. Sau đó Kaine hỏi nếu Hoa Kỳ có thể tiếp tục giam giữ tù nhân tại vịnh Guantanamo không khi AUMF bị hủy bỏ. Preston lảng tránh; McLeod bổ sung rằng Hoa Kỳ có thể tiếp tục giam giữ tù nhân ‘đến chừng nào mà chúng ta còn có xung đột vũ trang với Al Qaeda.’”

“Tôi nghĩ có thể nói thẳng rằng có hay không có AUMF, để gia hạn sự ủy quyền sử dụng lực lượng quân đội chống lại Al Qaeda, và Taliban, cùng những lực lượng liên kết khác mà chúng ta có xung đột vũ trang … tổng thống có thẩm quyền về mặt hiến pháp để hành động,” Preston nói.

Khi được hỏi phía hành pháp có đơn phương tấn công bất cứ quốc gia nào bị coi là “chứa chấp” khủng bố, mà không cần sự chấp thuận của Quốc hội, hay không, McLeod trả lời, “Chúng tôi phải nghĩ xem các cá nhân trong quốc gia đó hay trong chính phủ của quốc gia đó có tạo thành một nguy cơ tiềm tàng hay không.” Điều đó cho thấy, phía hành pháp sẽ có sự cân nhắc nội bộ và quyết định xem có nên bắt đầu một cuộc chiến dựa vào định nghĩa của họ về “sự tiềm tàng”.

McLeod bổ sung rằng trong quan điểm của chính phủ thì họ có thẩm quyền bắt đầu cuộc chiến chống lại Syria mà không cần sự cho phép của Quốc hội dựa vào những khẳng định không chắc chắn về việc sử dụng vũ khí hóa học (trong một cuộc nội chiến) hồi năm ngoái. Trong cuộc nội chiến của Syria, chính là Hoa Kỳ chứ không phải chính phủ Syria đã liên minh trực tiếp với Al Qaeda và các “lực lượng liên kết” của họ.

Buổi điều trần vào ngày thứ tư là một phần trong cuộc tranh luận nội bộ của giới chính trị về việc đánh giá một cuộc chiến thường trực. Điều trần trước ủy ban hoạt động vũ trang của thượng viện cách đây khoảng một năm, trợ lý bộ trưởng quốc phòng Michael Sheehan đã lập luận rằng UMF tạo cho chính quyền một quyền lực chiến tranh hầu như không giới hạn ở bất cứ đâu trên thế giới, bao gồm cả trong phạm vi Hoa Kỳ. Ông ta bổ sung thêm rằng thẩm quyền chiến tranh sẽ tiếp tục vô điều kiện “ít nhất là 10 đến 20 năm”.

Do đó, theo Sheehan vào lúc ấy, tiến hành các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái hay các cuộc chiến khởi sự trong tương lại không bị ràng buộc bởi sự ủy quyền thêm nữa của Quốc hội, chừng nào mà các chiến dịch quân sự có thể kết nối theo cách nào đó với Al Qaeda hay các “lực lượng liên kết” của họ - một cụm từ không xuất hiện trong AUMF. Sheehan đặc biệt dẫn chứng vụ đánh bom Boston Marathon mới đây để mở rộng “chiến trường” tới Hoa Kỳ.

Sau đó trong cùng tháng, Obama đã đọc một diễn văn tại học viện quốc phòng, đề cập tới việc phòng thủ với sự ám sát bằng máy bay không người lái. Lần đầu tiên, Obama công khai thừa nhận rằng ông ta đã ra lệnh giết Anwar al-Awlaki, một công dân Hoa Kỳ. Khi tuyên bố rằng “Hoa Kỳ đang ở ngã tư đường,” Obama nói rằng chính phủ của ông ta dự định “lôi kéo Quốc hội” về AUMF để “xác định xem chúng ta có thể tiếp tục chiến đấu chống khủng bố mà không phải giữ Hoa Kỳ trong trạng thái thời chiến thường trực như thế nào.”

Lời khai của McLeod và Preston làm rõ rằng chính quyền trong thực tế tìm kiếm một cơ chế để ủng hộ chiến tranh thường trực, ám sát bằng máy bay không người lái, cũng như các hoạt động cộng tác bất hợp pháp trong phạm vi các quyền lực hợp hiến của tổng thống.

Cơ sở pháp lý này cho hàng sa số những chế độ độc tài tổng thống đã trở thành nền tảng trong những bản ghi nhớ được tạo ra bởi cả chính quyền Bush và Obama. Phó tổng thống dưới thời Bush Dick Cheney và các luật sư của ông ta trong một nỗ lực đặc biệt lập luận rằng AUMF về cơ bản là thừa, một thủ tục, và khả năng tra tấn cũng như giết hại là từ mục II của Hiến pháp.

Các lập luận pháp lý giả tạo đã được tiếp tục và mở rộng dưới thời Obama, đặc biệt là khi chúng liên quan tới sự ám sát phi pháp. Vào thứ tư, thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu 52-43 để mở đường cho việc chấp thuận bổ nhiệm của Obama đối với vị trí tại Tòa thượng thẩm khu vực số 1, David Barron. Barron là tác giả của bản ghi nhớ vẫn còn bí mật được tạo ra để biện minh cho vụ giết hại al-Awalaki và các công dân Hoa Kỳ khác mà không thông qua xét xử. 

Cuộc bỏ phiếu vào thứ tư hầu như theo đảng phái, với đảng Dân chủ bỏ phiếu thuận và đảng Cộng hòa bỏ phiếu chống. Bởi vì sự thay đổi quy định của thượng viện vào năm ngoái, bỏ phiếu thủ tục để chấp thuận chỉ đòi hỏi một đa số đơn giản, không phải là đa số tuyệt đối với 60 phiếu.

Nhằm tạo điều kiện cho việc chấp nhận, chính quyền tuyên bố vào thứ ba rằng họ sẽ ngừng các nỗ lực ngăn chặn giải mật theo lệnh của tòa án một trong số những bản ghi nhớ mà Barron tạo ra trong thời kỳ tại nhiệm ở văn phòng pháp lý của bộ tư pháp từ năm 2009 đến năm 2010. Sự giải mật này, Nhà Trắng đã tuyên bố, sẽ diễn ra tại một số thời điểm không xác định trong tương lai.

Lời hứa của chính quyền là đủ để làm hài lòng sự chỉ trích trong nội bộ đảng dân chủ. Thỏa hiệp cơ bản của họ với đòi hỏi quyền hành pháp không giới hạn của Nhà Trắng được thượng nghị sĩ Ron Wyden tổng kết, ông ta đã tuyên bố sau khi bỏ phiếu cho đề cử Barron được đi tiếp: “Tôi tin rằng mọi người Mỹ có quyền được biết nếu chính quyền của họ tin rằng có quyền giết hại họ.”

Cuộc bỏ phiếu xác nhận hoàn toàn cho Barron sẽ diễn ra hôm nay.

Thursday, May 22, 2014

Phương Tây khuếch trương cuộc bầu cử trước mũi súng ở Ukraina

Xin giới thiệu với bạn đọc blog bản dịch bài viết "West promotes election held at gunpoint in Ukraine" của Bill Van Auken, bình luận những tin tức mới nhất về cuộc khủng hoảng ở Ukraina.

Chỉ vài ngày trước cuộc bầu cử tổng thống và lãnh đạo thành phố được chính quyền cánh hữu “lâm thời” do phương Tây hậu thuẫn tổ chức ở Ukraina, bộ quốc phòng thông báo vào ngày thứ tư rằng cái được gọi là “các chiến dịch chống khủng bố” nhằm vào những dân cư bất đồng chính kiến ở miền đông và nam đất nước sẽ được triển khai với toàn bộ sức mạnh.

“Pha chủ động trong các chiến dịch chống khủng bố đang được tiếp tục,” người phát ngôn bộ quốc phòng Vladislav Seleznyov nói vào thứ tư. “Cư dân ở khu vực miền đông Ukraina có thể chứng kiến điều đó. Hiện nay, quân lính và lực lượng tham gia vào chiến dịch chống khủng bố đang được luân chuyển theo kế hoạch” 

Washington và đồng minh châu Âu đang khuếch trương cuộc bầu cử vào chủ nhật, coi đó là biện pháp hợp pháp hóa cuộc đảo chính lật đổ chính quyền dân cử của phát xít mới được phương Tây hậu thuẫn, cũng như thiết lập một chính quyền bất hợp pháp có các lãnh đạo được quan chức Hoa Kỳ lựa chọn.

Ý tưởng về một cuộc bầu cử hợp pháp có thể được tổ chức, trong khi quân đội đưa xe tăng, pháo binh và trực thăng chiến đấu tới đàn áp phe đối lập chính trị trên phần lớn lãnh thổ đất nước, là lố bịch. Sự lừa dối đang được dàn xếp, với sự hỗ trợ vô điều kiện của Hoa Kỳ, chỉ hai tuần sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 11 tháng 5 về sự tự trị ở khu vực Donetsk và Luhansk mà bộ ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố là bất hợp pháp. Cuộc khủng hoảng Ukraina cung cấp một cửa sổ độc đáo cho thấy sự yếm thế và đạo đức giả trong chính sách đối ngoại của đế quốc Hoa Kỳ.

Washington đã gia tăng sự can thiệp, gửi tàu tuần tiễu có mang tên lửa hành trình của hải quân Hoa Kỳ Vella Gulf tới Biển Đen để tham gia bầu cử. Trong khi đó, phó tổng thống Joe Biden bày tỏ một sự đe dọa khác đối với Nga, long trọng tuyên bố trong chuyến viếng thăm Romania rằng nếu Moscow “phá hoại ngầm” cuộc bầu cử vào chủ nhật, Hoa Kỳ sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế cứng rắn hơn và gia tăng sự mở rộng về phía đông của NATO.

Kể từ khi chính phủ Ukraina khởi sự các chiến dịch “chống khủng bố”, đưa quân đội và các đơn vị vệ binh quốc gia kết hợp với quân phát xít mới Right Sector tới chống lại miền đông và miền nam Ukraina, ít nhất 127 người đã bị giết hại, theo ước lượng của Liên Hiệp Quốc.

Một trong những dấu hiệu rõ ràng của bầu không khí mà các cuộc bầu cử được tổ chức vào cuối tháng tới là khi ứng cử viên tổng thống Oleg Tsarev, cựu phó chủ tịch đảng Các khu vực của tổng thống bị lật đổ Yanukovych và là một người ủng hộ liên bang hóa, bị đám đông cực hữu tấn công trong một buổi truyền hình ở Kiev. Do bị đánh đập đến mức phải vào viện trong tình trạng nguy kịch, ông ta đã rút ứng cử và kêu gọi tẩy chay cuộc bầu cử.

Sự tàn bạo tương tự và thậm chí tồi tệ hơn do các thành phần phát xít gây ra trở thành cột trụ cho chính phủ chống lại tất cả các nhóm có khuynh hướng tả, bao gồm cả nhóm “Borotba” (“Đấu tranh”) và Đảng cộng sản Ukraina (KPU), có các thành viên bị giết hại, đánh đập, bắt giữ và phải đối mặt với các âm mưu ám sát.

Lần đầu tiên kể từ khi Liên bang Soviet tan rã năm 1991, cuộc bầu cử được tổ chức trong các điều kiện không có ứng cử viên nào đại diện cho các khu vực đa số nói tiếng Nga ở miền đông và miền nam Ukraina tham gia. 

Trong khi đó, chính phủ Kiev liên tục đàn áp truyền thông Nga ở Ukraina, bắt giữ, bỏ tù, thẩm vấn và trục xuất tất các các phóng viên bị tình nghi là không phục tùng ranh giới tuyền truyền do Washington đặt ra. (Xem: Chính phủ Ukraina bỏ tù các nhà báo làm việc cho truyền thông Nga).

Tiếp theo sự đàn áp đó, chính phủ Kiev, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và Đức, thông qua đề xuất đàm phán “bàn tròn” nhằm xoa dịu sự căng thẳng giữa chính phủ và các khu vực miền đông và miền nam. Trong các cuộc đối thoại này, các chính khách tham gia có quan hệ với những nhà tư bản tài phiệt đang thống trị đất nước, đã loại bỏ một cách có hệ thống các đại diện cho dân chúng đang biểu tình và bị tấn công.

Nghị viện Ukraina, Verkhovna Rada, với phiếu đa số phiếu chấp thuận vào ngày thứ tư thông qua một “bản ghi nhớ về hòa bình và hòa giải”, thứ chỉ là sản phẩm của một hoạt động “bàn tròn”. Giải pháp kêu gọi triệu hồi quân đội Ukraina đang bao vây các khu vực miền đông và miền nam về doanh trại và kết thúc bạo lực của mọi phe phái. Việc Ukraina tham gia các liên minh quốc tế như Liên minh châu Âu hay NATO cũng bị quy định là phải được chấp thuận bằng một cuộc trưng cầu dân ý.

Một điều khoản ân xá cho những người chiếm đóng các tòa nhà công sở ở miền đông và nam Ukraina đã bị loại khỏi phiên bản chính thức của bản ghi nhớ.

Giải pháp rõ ràng là muốn đánh lạc hướng khỏi các điều kiện thực tế trên thực địa mà bộ quốc phòng đã giải thích thẳng thừng và do đó không đem lại cho cuộc bầu cử một chút đáng tin cậy nào. Chúng dường như muốn xoa dịu chính quyền của tổng thống Vladimir Putin ở Moscow, những người đặt ra dấu hỏi cho sự hợp pháp của cuộc bầu cử.

Cũng có những dấu hiệu cho thấy mức độ mà chính phủ Nga sẽ hành động, sự ra hiệu đã có một số hiệu quả. Thứ trưởng bộ ngoại giao Nga Grigory Karasin nói vào thứ tư rằng bản ghi nhớ đã tạo thành “sự hiện thực hóa bước đầu công khai và rõ ràng, mặc dù muộn, một bước tiến của Thỏa ước Geneva 2014”.

Những thỏa ước này, được thiết lập giữa đại diện Hoa Kỳ, Nga, Liên minh châu Âu và chính phủ Kiev, kêu gọi tất cả các bên “giảm căng thẳng” bằng cách kết thúc bạo lực, tước vũ khí “các nhóm vũ trang bất hợp pháp”, chấm dứt chiếm đóng các tòa nhà công sở và mở rộng ân xá cho người biểu tình. Chính quyền Kiev, được Washington hậu thuẫn, giải thích hiệp định này hoàn toàn theo kiểu một phía, bỏ qua các nhóm vũ trang bất hợp pháp như phát xít Right Sectos, một trong những kẻ hỗ trợ chủ chốt của họ, cũng như sự chiếm đóng ở Kiev và miền Tây Ukraina, trong khi từ chối ân xá cho những người biểu tình ở miền đông.

Chính quyền Putin coi bản ghi nhớ là đáng tin cậy – trái ngược với mâu thuẫn rõ ràng giữa bản ghi nhớ và hoạt động của chính phủ Kiev trên thực địa – đã đồng thuận với một thông báo từ Moscow rằng tất cả quân đội Nga đã được rút khỏi khu vực gần biên giới Ukraina. Các quan chức Ukraina xác nhận vào thứ tư là không có quân đội Nga trong phạm vi 10 cây số quanh biên giới.

Hoạt động của chính quyền Nga gắn chặt với lợi ích của nhóm tư bản tài phiệt bán tội phạm, đóng vai trò là các khối cử tri chủ chốt của chính phủ Putin. Mặt khác, sự khát khao xoa dịu căng thẳng về Ukraina gắn liền với quan ngại của tầng lớp thống trị rằng xung đột với phương Tây – nơi các ngân hàng đang giữ tài sản của phần lớn trong số họ – và các biện trừng phạt gia tăng đe dọa tới lợi ích của họ. 

Sự quan ngại này được thể hiện trong tuần này ở diễn đàn kinh tế St. Peterburg, nơi 32 nhà tỷ phú Nga xuất hiện, nhưng các giám đốc tài chính và doanh nghiệp Hoa Kỳ tránh xa dưới sức ép của chính quyền Obama.

Moscow cũng mong muốn xoa dịu lo ngại của phía Bắc Kinh về sự sáp nhập Crimea và khả năng vẽ lại đường biên giới cũng như tác động của chúng đối với vấn đề của họ trong xung đột về Tân Cương và Tây Tạng.

Putin cùng với chủ tịch Tập Cận Bình quan sát việc ký kết hợp đồng khí đốt trong 30 năm trị giá 400 tỷ dollar vào thứ tư. Trong khi hợp đồng đã được đàm phán trong thập kỷ trước, sự đối đầu hiện nay với phương Tây về Ukraina dường như tạo ra sự thúc đẩy cho việc đạt được thỏa thuận mặc dù giá cả là khá viển vông.

Khi cuộc bầu cử ở Ukraina đang tới gần, chính quyền Putin vẫn tin rằng nó sẽ trao quyền lực cho những tư bản tài phiệt tha hóa, những người mà Moscow có thể hợp tác. 

Người dẫn đầu trong tất cả các khảo sát ở Ukraina là Petro Poroshenko, người Ukraina được gọi là “vua sô cô la”, người tích lũy được khối tài sản cá nhân khoảng 1,3 tỷ dolla bằng cách cướp đoạt các nhà máy thuộc sở hữu nhà nước sau khi Liên bang Soviet tan rã và khôi phục chủ nghĩa tư bản. Khảo sát mới nhất cho thấy ông ta được 53,2% số người tham gia ủng hộ, so với khoảng 10% của đối thủ cạnh tranh chính, cựu thủ tướng Yulia V. Tymoshenko, người được gọi là “nữ hoàng khí đốt”, người đã bị bỏ tù vì tội tham nhũng và chỉ được thả sau cuộc đảo chính do Hoa Kỳ hậu thuẫn ở Kiev 

Poroshenko, người giàu có thứ bảy ở Ukraina, có quan hệ mật thiết với toàn bộ giới tư bản tài phiệt, một trong những cộng sự gần gũi của ông ta là Dmytro Firtash, người khổng lồ khí đốt Ukraina, có quan hệ với các bố già tội phạm Nga và hiện đang ở Áo chờ dẫn độ sang Hoa Kỳ về tội gian lận và hối lộ. 

Trong khi được chào đón như một tư bản tài phiệt đã hậu thuẫn cho biểu tình bạo lực ở Maidan dẫn đến cuộc đảo chính tháng hai, Poroshenko không chỉ là bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ thân phương Tây của tổng thống Viktor Yushchenko mà còn là bộ trưởng bộ phát triển kinh tế và thương mại dưới chính quyền của tổng thống bị lật đổ Yanukovych.

Monday, May 12, 2014

Người Indonesia cần cuộc cách mạng!

Nếu có một ngày nào đó, bạn thấy người dân Indonesia đổ ra đường giương cao những khẩu hiệu như: "Đả đảo chế độ độc tài đa đảng", "Chủ nghĩa xã hội muôn năm", "Thoát Mỹ để phát triển", "Độc lập và Dân chủ"; thì có thể bạn sẽ không thấy ngạc nhiên, bởi vì bạn đã đọc bản dịch này.  Người trả lời phỏng vấn trong bài "Indonesians needs revolution", Andre Vlcheck là nhà văn, nhà làm phim, nhà báo điều tra, nghiên cứu về các cuộc chiến tranh ở nhiều nước trên thế giới. Andre Vlcheck đã đưa ra một cái nhìn độc đáo và khác biệt về hệ thống chính trị Indonesia, một quốc gia láng giềng trong khối ASEAN với Việt Nam.

Sau đây là bản dịch.

Ở Indonesia, sự lạ thường và đầy hy vọng đang xuất hiện. Sau một mùa đông trí tuệ kéo dài, những mầm xanh đang trồi lên khỏi mặt tuyết (nếu được phép sử dụng phép ẩn dụ này cho một đất nước miền nhiệt đới).

Một nhà xuất bản tiến bộ Indonesia – Badak Merah (“Tê giác đỏ”) – đang phát hành đầu sách đầu tiên, cuốn sách của Andre Vltchek’s “Indonesia – Quần đảo của nỗi sợ hãi”, được dịch từ tiếng Anh sang ngôn ngữ bản địa là ‘Indonesia: Untaian Ketakutan di Nusantara’. Một sự phê phán mạnh mẽ về Indonesia thời kỳ trước năm 1965, thời kỳ mà cả Andre Vlchek và Naomi Klein tin rằng không có gì hơn là một cuộc thí nghiệm của phương Tây trên con người, sau đó được sao chép lại tại nhiều nơi trên thế giới.

Nhà văn và nhà xuất bản người Indonesia Rossie Indira (RI) phỏng vấn Andre Vltchek (AV) cho báo CounterPunch:

RI: Anh có thể nói gì về tình hình hiện tại ở Indonesia? Anh so sánh tình hình hiện tại với tình hình thời kỳ mà anh sản xuất và đạo diễn bộ phim tài liệu “Terlena – Breaking of a Nation” như thế nào?

AV: Hiện giờ tình hình còn tồi tệ hơn 10 năm trước đây. Bởi vì trước đây còn có chút ít hy vọng. Nhà lãnh đạo tiến bộ Hồi giáo Abdurrahman Wahid (được gọi là Gus Dur) vẫn còn sống và Pramoedya Ananta Toer cũng vậy. Ngài Wahid, cựu tổng thống Indonesia, là một người xã hội chủ nghĩa bí mật. Ông ấy bị tầng lớp tinh hoa và quân sự Indonesia lật đổ bằng một cuộc đảo chính tư pháp, nhưng nhiều người Indonesia vẫn tin rằng ông ấy chuẩn bị quay lại.

Sau nữa, có một số nhóm nhà hoạt động, vẫn thuần khiết và chưa “bị tẩy não”, chiến đấu cho nước Indonesia mới. Nhân dân, ít nhất là nhiều người trong số họ, quan sát và tìm ra những cách thức mới để thay đổi đất nước.

Giờ đây chế độ độc tài hay còn gọi là “chính phủ Indonesia”, đã thống nhất hoàn toàn quyền lực… Bạn thấy đấy, phương Tây nói với người Indonesia, tất nhiên là gián tiếp, rằng “dân chủ” là khi bạn có nhiều đảng phái chính trị, và nhân dân ít nhất cũng được bỏ phiếu vào lúc nào đó. Nhưng điều đó hoàn toàn là vô nghĩa. Dân chủ là khi bạn bỏ phiếu và lá phiếu của bạn có thể thay đổi hoàn toàn đường lối của quốc gia: giống như Venezuela. “Quyền lực của nhân dân” thực sự … Có quá nhiều đảng phái chính trị và nhét những mẩu giấy vào một cái hộp chả đảm bảo điều gì hết. Ở Indonesia có rất nhiều đảng phái, nhưng tất cả bọn họ đều ủng hộ doanh nghiệp và tầng lớp tinh hoa, và mọi ứng cử viên của họ, gồm cả Jokowi, đều được chính phủ lựa chọn cũng như chấp nhận trước. Vậy nên bất kể mọi người bầu cử ra sao, chẳng có gì thay đổi hết.

Thực tế, bỏ phiếu ở những quốc gia như Indonesia là không yêu nước, chỉ để hợp pháp hóa chính phủ, thứ phục vụ cho lợi ích kinh tế và chính trị của ngoại bang, cũng như lũ điếm “tinh hoa”. Indonesia giờ đây là không thể phủ nhận là một quốc gia đang bị tàn phá. Đất nước này đã rơi xuống cấp độ của các quốc gia châu Phi cận Sahara (Tôi làm việc ở châu Phi và có thể dễ dàng so sánh). Có những khách sạn nhỏ và sang trọng ở một số thành phố, nhưng ở giữa chúng là ác mộng thực sự, thiếu hay hoàn toàn không có những dịch vụ căn bản.

Thậm chí Rwanda còn có đường xá tốt hơn Indonesia. Ngay cả Zimbabwe cũng có trường công tốt hơn. Ngay cả Kenya cũng có mạng thông tin di động và Internet tốt hơn. Ngay cả Botswana cũng có các bệnh viện công tốt hơn. 

Chính phủ dối trá về mọi thứ, gồm cả dân số, và số người nghèo (chiếm đa số dân chúng trong thực tế). Giáo dục hầu như không tồn tại. Cái được gọi là hệ thống giáo dục chỉ là sự tẩy não, và để duy trì tình trạng nguyên thủy. Và đây: một quốc gia với hơn 300 triệu người (con số thực) không có lấy một nhà khoa học hay tư tưởng lớn nào, trái ngược với những nơi như Nigeria, ở đó có rất nhiều.

Và không có sự đối lập thật sự.

Tất nhiên là nhà nước thất bại được giới hàn lâm và truyền thông phương Tây hoàn toàn ủng hộ; bởi vì nó làm những gì được sai bảo: trở thành một đất nước bị tẩy não khổng lồ, bị cướp bóc và xuất khẩu sự giàu có, trong khi không có lấy một người từng trải thấy rằng nhiều nơi trên thế giới đang đấu tranh cho sự độc lập thật sự, thoát khỏi kẻ độc đoán phương Tây, và đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội.

RI: Trong cuốn sách “Quần đảo của nỗi sợ hãi” của anh, đã được nhà xuất bản Pluto ở London phát hành, và sẽ có mặt trong hai tuần nữa ở Bahasa Indonesia: tại sao anh mô tả Indonesia là một “quần đảo của nỗi sợ hãi”? Nhiều người ở đây hỏi tôi điều này và dường như họ không nhận thấy hay không chấp nhận những gì anh mô tả?

AV: Nhân dân Indonesia sống trong nỗi sợ hãi thường trực, trong sự kinh hoàng. Họ thường xuyên không nhận thấy điều đó, bởi vì tâm trạng, “sống trong nỗi sợ hãi”, vốn là “biasa” (sự bình thường). Nỗi sợ hãi, cũng có thể giải thích tại sao hầu như không có những người nổi loạn, hay sẵn lòng khơi dậy sự nổi loạn chống chính phủ. Nhân dân bị chia rẽ bởi nỗi sợ hãi vô hình, thứ bắt nguồn từ sự thờ ơ và thiếu an toàn.

Chỉ có những kẻ cướp và tha hóa mới được bảo vệ và tôn trọng. Những người còn lại là các nạn nhân. Họ là các nạn nhân bị dọa nạt, bị làm nhục và không được biết tới. Công nhân sợ hãi vì họ không được bảo vệ: nông dân sợ hãi, các cô gái (pembantus) sợ hãi (và trốn chạy để tìm việc làm sang tận Trung Đông, một bến đỗ khắc nghiệt cho phụ nữ), và ngay cả những người quản lý thuê cho doanh nghiệp cũng sợ hãi. Trẻ em sợ hãi bởi vì chúng là tài sản của cha mẹ và bị đối xử như tài sản. Phụ nữ sợ hãi bởi vì họ bị hạ nhục trong hoạt động thường ngày và bị coi như miếng thịt, như đối tượng tình dục, như nô lệ. Nhiều phụ nữ phải chịu đựng việc cắt môi âm đạo (một số người nói phần lớn họ bị), bị tấn công tình dục, cưỡng hiếp (thậm chí ngay trong phạm vi gia đình của họ), và trong khi tỷ lệ lạm dụng tình dục cao nhất thế giới, phần lớn các vụ án không được trình báo do sợ hãi.

Ở Indonesia, cưỡng hiếp là chuyện thường xuyên xảy ra và một số vụ cưỡng hiếp trên quy mô lớn có tổ chức đã được chứng kiến: năm 1965/1966, ở Đông Timor và giờ là Papua. Phụ nữ bị bắt vào đồn cảnh sát thường bị cưỡng hiếp.

Nhiều phụ nữ sợ xã hội và gia đình của họ, nên nếu họ có thai ngoài hôn nhân, họ sẽ bỏ con (ném chúng xuống cống) hơn là đối mặt với xã hội. Indonesia là một trong những nước có tỷ lệ bỏ con cao nhất thế giới, nhưng một lần nữa, phần lớn không được thông tin. 

Người dân sợ bị tấn công, làm hại, cướp bóc hay cưỡng hiếp bởi vì họ không được bảo vệ. Cảnh sát và hệ thống pháp luật tha hóa hay/và theo phe của người giàu. Nạn nhân không thấy công lý. Làm sao bạn có thể không sợ hãi trong tình trạng hoàn toàn vô pháp luật?

Nếu người dân trông “khác biệt”, họ phải e ngại. Kẻ phân biệt chủng tộc làm hại những ai trông không giống như những người thuộc nhóm đa số. Indonesia là một trong những quốc gia phân biệt chủng tộc nhất trái đất, và đã có vài cuộc diệt chủng diễn ra ở đây. Nhưng không có nhận thức, trải nghiệm, hay hiểu biết về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hiện tại. Không có sự tự phê phán. 

Người dân sợ bị ốm, bởi vì Indonesia có một hệ thống y tế tồi tệ nhất thế giới, hoàn toàn bỏ mặc cho các lực lượng thị trường. Chăm sóc y tế là công việc “kinh doanh”, cũng như mọi thứ khác đều trở thành “kinh doanh”. Thật là khủng khiếp và kinh hoàng.

Nạn nhân của vụ thảm sát năm 1965 sợ hãi! Thay vì yêu cầu công lý và đưa những kẻ chịu trách nhiệm về vụ diệt chủng vào tù, họ thực sự sợ hãi! Bởi vì họ không có khả năng tự vệ. Bạn thấy điều đó trong phim “Act of Killing”! Nhưng trong khi cả thế giới kinh hoàng, khi thấy những kẻ giết người hàng loạt ở địa phương được tôn kính và ca tụng, nhiều người Indonesia lại coi đó là chuyện bình thường – chỉ là biasa.

Nỗi sợ hãi sinh ra khi một người nhìn thấy toàn bộ quần đảo – bị tàn phá, phong tỏa, cướp bóc, đầu độc. Sumatra đã đi tong. Kalimantan đã đi tong, Papua… Java… Bangka… Bali trở thành một hòn đảo “miễn thuế” nhem nhuốc và bị đầu độc.

Có thể nhiều người không thể định nghĩa được nỗi sợ hãi của họ. Nhưng họ có nỗi sợ hãi và thể hiện nó trong hành vi. Đó là sự tức giận và cáu kỉnh.

Một số người nói họ hài lòng, nhưng thực tế phần lớn họ đang chán ngán. Người dân nói họ không nghèo, ngay cả khi họ lấy nước từ dưới cống và sống trong hộp carton. Họ nói họ không e ngại, bởi vì sự kinh khủng mà họ trải qua hàng ngày không được phép mô tả là nỗi sợ hãi. Nếu không, gia đình, quan chức, truyền thông sẽ nhại lại.

Tất nhiên, trên hết người dân Indonesia sợ bị “khác biệt”. Trở nên khác biệt sẽ bị trừng phạt tàn bạo. Những người khác biệt bị nhại, bị cách ly, bị cưỡng hiếp, bị tra tấn và bị giết hại. Họ bị cấm đoán. Trở thành người cộng sản bị cấm. Trở thành đồng tính bị cấm. Trở thành vô thần bị cấm. Theo Lão giáo bị cấm. Trở thành một trong hàng ngàn thứ bị cấm.

Đó là lý do tại sao đây là một trong những nơi kém sáng tạo, đơn điệu nhất trái đất. Nhiều người ẩn mình sau tôn giáo, một số thực sự đã trở nên hoàn toàn điên khùng. Họ cũng ẩn mình sau các bộ tộc theo huyết thống. Đối với đa số, thiếu sự hiểu biết và không có khả năng suy nghĩ khiến họ không thể thoát khỏi sự ngu dốt, lại được coi là thế mạnh. Indonesia là một trong những nơi kinh sợ và đáng sợ nhất trái đất. 

RI: Chúng tôi có những cuộc bầu cử lập pháp và ngày 9 tháng năm 2014. Đáng tiếc là như anh mới nói xong, chúng tôi đã bị tẩy não để nghĩ rằng có những cuộc bầu cử với nhiều đảng phái là dân chủ. Đại diện của chúng tôi ở Quốc hội quên sạch những lời hứa của họ sau khi được bầu hay tái cử, và rõ ràng là họ chỉ phục vụ cho lợi ích của bản thân. Cuộc bầu cử tổng thống cũng tương tự như vậy: một khi được bầu, tổng thống “quên luôn” những lời hứa và nhiệm vụ bảo vệ dân chúng. Vậy đâu là hệ thống tốt nhất cho một quốc gia như Indonesia? Bốn cây cột của Pancasila (triết lý nền tảng của nhà nước Indonesia) – “Dân chủ được dẫn dắt bởi sự thông thái nội tại trong sự đồng thuận được tạo nên từ sự cẩn trọng của những người đại diện” – có đúng không?

AV: Tôi tin rằng Indonesia trước hết cần được cai trị bằng một hệ thống chủ nghĩa xã hội, trước khi chúng ta có thể bắt đầu nói về “dân chủ”.

Bởi vì trước hết, người dân Indonesia cần được giáo dục và biết cái mà họ muốn và cái mà đất nước của họ là. Lợi ích của nhân dân cần phải được đặt lên đầu tiên! Toàn bộ xã hội phải làm việc ngày đêm để cải thiện cuộc sống của đa số. Điều căn bản là chúng ta cần đối lập với những gì mà Indonesia đang là hiện nay, đó là: đại đa số đang phục vụ cho lợi ích của những tên côn đồ địa phương và thương nhân ngoại quốc.

Cần phải giáo dục người dân một cách mạnh mẽ. Như hiện nay, sau cuộc đảo chính quân sự được Hoa Kỳ tài trợ năm 1965 và dẫn đến tắm máu, văn hóa Indonesia đã bị phá hủy và thay thế bằng văn hóa đại chúng địa phương và chủ yếu là văn hóa đại chúng Hoa Kỳ. Tư duy bị coi thường. Giáo dục đúng đắn chỉ dành cho tầng lớp tinh hoa, và những người có giáo dục sử dụng kiến thức của họ để bóc lột đất nước nhiều hơn, thay vì cải thiện.

Do đó, người dân Indonesia không biết nên bỏ phiếu cho ai, hay hệ thống chính trị của họ theo đuổi cái gì. Làm cho họ ngớ ngẩn rất dễ.

Người đại diện cho nhân dân: tốt… tất nhiên! Nhưng đó phải là những người đàn ông và đàn bà rất dũng cảm, trung thực và chuyên nghiệp. Họ phải sẵn sàng sống hay chết vì quốc gia: đặt lợi ích cá nhân, hay lợi ích gia đình, dưới lợi ích của quần đảo!

Để tạo ra những người đó, những người đại diện cho nhân dân, cần phải có hàng thập kỷ, và họ chỉ có thể lớn lên trong một hệ thống chính trị khác biệt về căn bản, và một nền văn hóa hoàn toàn mới. Những gì đang thống trị ở Indonesia là sự bại hoại về đạo đức, đó là sự tha hóa. Những gì thống trị ở quốc gia này không phải là hệ thống văn hóa hay chính trị: đó là bệnh ung thư.

Như hiện nay, nhiều thập kỷ sau năm 1965, người dân Indonesia không được trải nghiệm về hệ thống nào khác ngoài hệ thống họ có, hay nền dân chủ thực sự.

Nếu Hoa Kỳ và phương Tây không cưỡng hiếp đất nước năm 1965, một dạng tự nhiên của chính quyền đã tồn tại như đã được tạo ra bởi người cha của quốc gia, người theo chủ nghĩa quốc gia (và quốc tế) Sukarno, người đã liên minh chặt chẽ với đảng Cộng Sản Indonesia (PKI), sau này trở thành đảng Cộng Sản lớn thứ ba thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Liên Bang Soviet. Theo đó, những phần – chủ nghĩa quốc gia, chủ nghĩa quốc tế và “dân chủ cộng sản chủ nghĩa – sẽ là sự phát triển tự nhiên và bình thường nhất đối với Indonesia, đối với văn hóa và trí tuệ. Chỉ có phương Tây khủng bố, tầng lớp tinh hoa tha hóa Indonesia, cũng như những chức sắc tôn giáo đố kỵ (mọi tôn giáo, không chỉ đạo Hồi), đã chặn đứng quá trình bằng giết chóc, cưỡng hiếp, và bỏ tù hàng triệu người, phong tỏa đất nước bằng nỗi sợ hãi thường trực, trong sự kinh hoàng, trong sự đầu hàng về đạo đức. 

Tất cả những điều này cần phải giải thích cho công chúng Indonesia: đâu là đất nước của họ trước cuộc đảo chính, và đâu là thứ mà cuộc đảo chính tạo ra. Cuộc đảo chính không “bảo vệ Indonesia khỏi chủ nghĩa cộng sản”. Nó đã biến một đất nước tiến bộ và theo chủ nghĩa quốc gia thành thuộc địa của phương Tây. “Chủ nghĩa thực dân” và “dân chủ” là hai khái niệm đối lập. Để trở thành “dân chủ” thì một quốc gia phải tự do. Ngay hiện giờ, người dân Indonesia là nô lệ: của phương Tây và tầng lớp tinh hoa địa phương.

Ngay hiện giờ, ở đó không phải là “sự cai trị của nhân dân” (dân chủ), mà là sự cai trị của các bố già địa phương tham lam và các chủ sở hữu nước ngoài.

RI: Anh cũng đề cập tới hệ thống giáo dục. Đâu là kiểu giáo dục cần được triển khai? Chúng tôi hiểu rằng không thể tạo dựng nền dân chủ tiến bộ nếu người dân chưa được giáo dục, và để giáo dục họ, đất nước phải trả giá rất cao; bất cứ giá nào, thực sự. Nhưng theo Tòa Án Hiến Pháp Indonesia, “sự tham gia tự nguyện của công chúng vào việc tài trợ cho giáo dục” không trái với hiến pháp. Tòa án tuyên bố rằng đối với sự phát triển của bản thân, mỗi công dân cần gánh vác trách nhiệm giáo dục bản thân đạt tới mức độ mà họ mong muốn. Điều này có nghĩa là nhà nước có trách nhiệm chung nhưng các công dân cần phải đóng góp ngân quỹ. Đây là chủ nghĩa tân tự do, nếu tôi đọc chính xác?

AV: Chính xác. Không thể có dân chủ trong một quốc gia mà người dân không được giáo dục và không hiểu vị trí của bản thân trong xã hội và thế giới. Nhân dân “cai trị” chỉ khi họ có thể tạo ra “các quyết định có giáo dục”. Dân chủ có nghĩa là “sự cai trị của nhân dân”, nhưng dân dân thực sự cai trị khi tất cả họ có thể đếm xem mình thu được bao nhiêu tiền nếu bỏ phiếu vào hòm, hay họ có thể bỏ phiếu cho những ứng cử viên sẽ đảm bảo rằng trạng thái nguyên thủy sẽ giữ nguyên? Tất cả các ứng cử viên ở Indonesia đã được chính phủ lựa chọn và chấp nhận trước, đặc biệt là những người “hơi khác biệt một chút”, như Jokowi.

Tất nhiên mỗi công dân nên tự giáo dục bản thân, nhưng chỉ sau khi nhận được một số kiến thức căn bản và cần thiết. Giáo dục phổ cập nên miễn phí; từ bậc mẫu giáo cho đến tiến sĩ. Chúng được miễn phí tại nhiều quốc gia châu Âu, và ở một số nước Mỹ Latin (bao gồm Cuba, Mexico và Argentina). Trung Quốc quay trở lại miễn phí giáo dục, cũng như quay lại bảo hiểm y tế phổ cập. Ở những quốc gia như Chile, người dân đang đấu tranh trên các đường phố đòi giáo dục miễn phí và họ chiến thắng!

Văn hóa cũng phải được ưu tiên thường xuyên. Nó sẽ giáo dục người dân, như ở Mỹ Latin: hàng ngàn nhà hát lớn, rạp chiếu phim nghệ thuật, hàng triệu sách miễn phí được chính phủ phân phát, đọc thơ công khai, tự do văn học công chúng, và tất cả các cửa hàng sách mở cửa cho tới sáng sớm, triển lãm phản ánh nhu cầu và lo lắng của xã hội, các buổi hòa nhạc khích lệ.

Xin hãy nhìn các thành phố Indonesia: Jakarta, Surabaya, Medan… có bất cứ thành phố nào trên thế giới có cùng quy mô mà mọi người biết lại hoàn toàn thiếu văn hóa và các thiết chế như vậy không? Như nhà hát, kho lưu trữ, thư viện lớn, phòng hòa nhạc, rạp chiếu phim nghệ thuật, các nhà sách tiến bộ… Chả có gì hết. 

Làm thế nào mà bạn tự giáo dục bản thân ở Indonesia? Bạn có thể tự giáo dục, chỉ bằng cách tiêu thụ những thứ ngớ ngẩn – văn hóa đại chúng của tư bản tài phiệt, các kênh truyền hình vô vị, hay hòa mình với “đa số thất học chức năng”, những người che dấu sự dốt nát trong một đại dương những công dân có suy nghĩ giống nhau. 

RI: Nếu anh khuyến nghị về một dạng hệ thống xã hội chủ nghĩa sẽ cai trị Indonesia, anh có phỏng đoán nào về cách thức mà chúng tôi có thể đi theo hướng đó không? Nhiều đất nước trên thế giới đấu tranh cho điều đó, và ví dụ hiện nay, chúng ta có thể thấy phần lớn các đất nước Mỹ Latin đang thắng lợi và quay lại chủ nghĩa xã hội. Nhưng dường như người Indonesia, phần lớn trong số họ, không tham gia vào làn sóng này. Phần lớn họ thậm chí còn khác biệt. Chúng ta chỉ dạy người dân Indonesia như thế nào về một hệ thống chính trị, kinh tế và văn hóa hoàn toàn khác mà họ cần phải có để thoát ra khỏi tình thế vô vọng hiện nay?

AV: Điều đó cần phải thực hiện bằng giáo dục và sự cởi mở. Bất cứ ai có thể, nên tham gia vào “dự án” này. Không chỉ những nhà giáo dục và giáo viên chuyên nghiệp (những người này thường bị nhồi sọ và tẩy não), mà đặc biệt là những nghệ sĩ, những người sáng tạo, những nhà tư tưởng. Cần phải có nhiều sự khích lệ, đặc biệt là từ báo chí tự do! Điều gì đang xảy ra với xuất bản độc lập tiến bộ ở Indonesia? Chả có gì – họ không bao giờ phát hành! Thật đáng xấu hổ. 

Một nhà xuất bản như của các bạn – Badak Merah – nên là trụ cột chính cho sự đối lập. Những công dân phẫn nộ của Indonesia – luật sư, bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học – nên cất cao tiếng nói; họ nên gào thét. Tất nhiên, tiếng nói của nông dân và công nhân, những câu chuyện khủng khiếp của họ, cũng nên được đọc và nghe từ các trang của tạp chí và blog độc lập, cũng như từ YouTube và các hãng phim độc lập.

Văn hóa đại chúng là quá đủ! Văn hóa đại chúng là thứ giải trí thấp kém và ích kỷ cho đám đông bị chết não và bị nhồi sọ. Phương Tây phân phối chúng, khắp đế chế, để những người dân tại thuộc địa mới của họ ngừng cùng nhau tư duy, trong khi họ bị cưỡng hiếp thì họ lại tưởng rằng mình đang làm tình! Đó là phản động, cách thức biểu hiện thực tại tâm lý kiểu cánh hữu. Phần còn lại được đảm bảo: cực kỳ thiếu tốt đẹp và bảo thủ.

Người dân Indonesia phải học, hiểu rằng chiến đấu cho một quốc gia tốt hơn là cao cả và giàu cảm hứng. Như những người đàn ông, đàn bà, thậm chí trẻ em ở Mỹ Latin đã hiểu biết cách đây nhiều thập kỷ. Đặc biệt là những người trẻ tuổi cần biết: Nổi loạn là tốt. Cách mạng là tốt. Tư duy là tốt. Tiến bộ là tốt. Trở nên cách mạng, một người nổi loạn, là tốt – rất tốt. Tốt hơn là lái một chiếc xe Ferrari đỏ hay vàng được mua bằng tiền mà ông bố ăn cắp của người nghèo!

Học hỏi, đi xa và so sánh thế giới, viết những bài thơ phẫn nộ, sản xuất nghệ thuật cách mạng, biểu tình, buộc tầng lớp già hơn (bao gồm cha mẹ và ông bà họ) phải gánh trách nhiệm vì đã phá hủy đất nước, và hướng tới xây dựng một quốc gia mới và đẹp đẽ được gọi là “Indonesia”. Điều đó tốt hơn và vinh quang hơn ngồi trong quán Starbucks, nhìn chăm chăm như kẻ đần độn vào điện thoại thông minh được sản xuất hàng loạt, và giết một cuộc đời… cuộc sống của người khác… chả vì cái gì cả.

Người dân phải được khích lệ. Chủ nghĩa hư vô là quá đủ rồi! Chủ nghĩa bại trận và yếm thế là quá đủ rồi! Chiến đấu cho một thế giới tốt đẹp hơn là điều đúng đắn duy nhất đáng để làm, nó cũng vui vẻ; nó đầy ý nghĩa và đầy công sức.

RI: Anh có nghĩ Indonesia phải trải qua một cuộc cách mạng để có chăm sóc y tế phổ cập và giáo dục miễn phí. Có cần một cuộc cách mạng để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn?

AV: Họ có một số kế hoạch về chăm sóc y tế, nhưng không có tác dụng, như kiểu “chó-mèo” vậy. Không phải là một kế hoạch cụ thể để cung cấp cho công dân Indonesia dịch vụ chăm sóc y tế phổ cập và miễn phí (ít nhất là tương tự như thứ đang tồn tại ở Thái Lan), mà một dạng che đậy tình trạng khủng khiếp, che đậy một vết thương hở. Một lần nữa chúng ta phải nhớ rằng chất lượng chăm sóc y tế ở Indonesia chỉ ngang với Kenya hay Tanzania, chứ không ngang với Malaysia hay Thái Lan, và hệ thống hoàn toàn tha hóa, cả về tài chính cũng như đạo đức, không bao giờ cho phép bất cứ thứ gì “công cộng”, hay “miễn phí”.

Cũng như giáo dục miễn phí, chăm sóc y tế phổ cập và các quyền căn bản khác: Phải, người dân phải chiến đấu! Tất nhiên họ phải. Giáo dục tốt và miễn phí là quyền của họ, bất chấp những thứ mà cố vấn và “chuyên gia” đến từ Hoa Kỳ nói.

Đất nước đã bị các bố già mù dở cai trị quá lâu, họ đã bán quốc gia cho chính quyền và công ty nước ngoài. Những người đó không có đạo đức và tình thương. Nếu bạn đàm phán với họ, họ sẽ chỉ làm những gì mà họ đang làm suốt nhiều thập kỷ: họ sẽ lừa gạt và nói dối, cố gắng câu giờ. Họ không quan tâm tới Indonesia và dân chúng! Họ muốn những chiếc xe Porsche và bằng diploma cho con cái của họ, các dinh thự xa hoa ở Australia, Hoa Kỳ, Singapore và Hong Kong.

Chỉ có một cách duy nhất để lật đổ họ, để đá họ ra khỏi ngai vàng. Người dân Indonesia phải giành lại quyền lực, giành lại sự kiểm soát đất nước. Và điều đó không bao giờ đến mà không có đấu tranh.

Nhưng nó có thể thành công; nó phải thành công. Nhân danh đa số người dân Indonesia, những người đang sống trong sự đau khổ khủng khiếp! Nhân danh một quốc gia gần như đã mất tất cả. Nhân danh cuộc sống của hàng triệu đàn ông, đàn bà và trẻ em!

Saturday, April 12, 2014

Quốc Hội sai thì ai xử?

Mới đây ông chủ tịch Quốc Hội lại có một phát ngôn bất hủ: "Quốc hội tức là dân, dân quyết sai thì dân chịu, chứ kỷ luật ai". Có lẽ trong lúc vội vàng, ông chủ tịch Quốc Hội đã nhầm lẫn, Quốc Hội là cơ quan lập pháp tối cao của nhà nước vốn chỉ đại diện cho nhân dân chứ không phải là nhân dân. 

Đại diện của nhân dân sai thì nhân dân có thể xử lý, ít nhất là bằng lá phiếu bầu, cứ 5 năm một lần nhân dân sẽ phán xét mọi chuyện Quốc Hội làm là đúng sai hay hiệu quả thế nào, và phán xét từng đại biểu một.

Tại nhiều nước trên thế giới người ta có thể giải tán Quốc Hội ngay giữa nhiệm kỳ để bầu cử lại nếu xét thấy Quốc Hội đó không đáp ứng được yêu cầu của nhân dân. Việt Nam chưa có cái lệ ấy, nhưng đã có tiền lệ là các đại biểu Quốc Hội có thể bị truất quyền đại biểu ngay trong nhiệm kỳ nếu vi phạm pháp luật, ví dụ như trường hợp của bà đại biểu Quốc Hội Đặng Thị Hoàng Yến. Vì vậy, minh bạch hóa quá quy trình làm luật và thông qua các chủ trương lớn của quốc gia, gắn với trách nhiệm cá nhân điều hoàn toàn có thể làm được.

Có lẽ Việt Nam có một đặc điểm khác với nhiều nước trên thế giới mà ít người để ý, đó là Đảng lãnh đạo. Đa số tuyệt đối đại biểu Quốc Hội là Đảng viên, thế nên nếu Quốc Hội làm sai thì Đảng có thể kỷ luật Đảng viên là đại biểu Quốc Hội và như vậy cũng là một cách kỷ luật Quốc Hội. 

Nhiều người sẽ ngạc nhiên khi đại biểu Quốc Hội hỏi về việc nếu Quốc Hội làm sai thì có kỷ luật ông chủ tịch Quốc Hội không. Câu hỏi ấy có lý của nó. Xét về mặt tổ chức, chủ tịch Quốc Hội không phải là người đứng đầu Quốc Hội, cũng chỉ là một đại biểu Quốc Hội như mọi đại biểu khác. Nhưng xét về mặt Đảng, chủ tịch Quốc Hội là có một ghế trong Bộ Chính Trị, cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng, tức là có vị trí cao hơn các đại biểu khác rất nhiều. Trên bàn họp Quốc Hội tiếng nói của chủ tịch Quốc Hội với đại biểu cũng là tiếng nói của ủy viên bộ chính trị với các Đảng viên. Đó chính là vấn đề mà câu hỏi vô tình đề cập tới. 

Xét theo lẽ tự nhiên nếu Quốc Hội không làm tròn chức trách của mình thì bất cứ khi nào nhân dân dân cũng có thể giải tán Quốc Hội để bầu Quốc Hội khác. Cho dù có tiền lệ hay không có tiền lệ, thì đó là điều không thể tránh khỏi. Tốt hơn hết là Quốc Hội tự lựa chọn cách kỷ luật thay vì để nhân dân ra tay, bởi vì khi đó chỉ có một hình thức kỷ luật duy nhất.  


Thursday, April 3, 2014

Tham nhũng ở Nhật Bản

Thật buồn cười khi báo chí nước nhà đang nhẩy bổ lên vì chuyện mấy người Nhật hối lộ quan chức ngành đường sắt để trúng thầu dự án nhưng lại không bao giờ chịu tìm hiểu phần chìm của tảng băng trôi là gì. Mặc dù bề ngoài Nhật Bản là một trong những nước có tình trạng tham nhũng thấp nhất thế giới, nhưng những vụ tham nhũng ở Nhật Bản lại cho thấy cái tỷ lệ thấp đó dường như được truyền thống chính trị bóng tối tạo ra chứ không phải là sự thật. Trong chính trị Nhật Bản có một thứ "bộ ba sắt thép" điều khiển tất cả, không phải là tam quyền phân lập như sự tuyên truyền của truyền thông, mà là doanh nghiệp lớn, chính khách của đảng Dân chủ Tự do (LDP) và tầng lớp tinh hoa chính trị. Có lẽ không thừa khi nhắc tới cánh tay nối dài của hệ thống chính trị ấy, tổ chức mafia yakuza, một ví dụ là doanh nghiệp Nhật Bản đã thông qua yakuza để thuê mướn nhân công giá thấp trong việc dọn dẹp nhà máy điện nguyên tử Fukushima (theo nguồn Reuters).

Các tập đoàn lớn của Nhật Bản có truyền thống kiếm tiền qua vốn ODA của chính phủ Nhật, họ muốn bán máy móc và thầu xây dựng các cơ sở hạ tầng nên chính phủ Nhật Bản cung cấp ODA cho lĩnh vực ấy. Chính sách ODA của Nhật không phản ánh lợi ích của đa số người dân Nhật Bản và lại càng không đáp ứng lợi ích của nhân dân nước nhận ODA. Vì ngày nay các nước đang phát triển nhận ra rằng họ không cần những cơ sở hạ tầng đồ sộ chỉ để cho một nhúm nhỏ dân cư có điều kiện sử dụng mà họ cần chuyển giao kỹ thuật để thoát đói nghèo, cần các hệ thống an sinh xã hội, giáo dục, y tế và văn hóa để nâng cao mức sống của đại đa số người dân. Chính phủ Nhật Bản càng tăng ngân sách OAD bao nhiêu thì chính sách ODA của Nhật Bản lại càng trở lên thừa bấy nhiêu. Trong bối cảnh ấy, hối lộ là phương pháp chủ yếu mà người Nhật dùng để tạo ra và giành lấy các dự án ODA.

Nếu ai đó còn nghi ngờ về truyền thống hối lộ trong các dự án ODA của Nhật Bản thì hãy so sánh mức án chung thân mà ông Huỳnh Ngọc Sỹ phải nhận trong vụ tham nhũng tại dự án đại lộ Đông Tây với mức án nhẹ nhàng đến kỳ lạ của những người đã hối lộ ông ta, có bốn người Nhật bị kết tội và nhận mức án lần lượt là 2,5 năm, 2 năm, 1,5 năm và 20 tháng tù giam.

Hiện nay, bất chấp các cải cách tư pháp của Nhật Bản, nạn gian lận trong các dự án đấu thầu công khai của chính phủ vẫn diễn ra, tiếng Nhật gọi là kanshei dango. Các quan chức chính phủ sẽ dàn xếp để doanh nghiệp được họ ưu ái trúng thầu và quan chức sẽ nhận được tiền mặt, quà tặng có giá trị hoặc kỳ nghỉ hưu ở thiên đường, tiếng Nhật gọi là amakudari, tức là quan chức sau khi về hưu sẽ nhận được vị trí béo bở trong lĩnh vực kinh doanh mà họ quản lý, cụ thể là từ năm 2008 đến 2009 có 68 quan chức nghỉ hưu của Bộ Kinh tế, Thương Mại và Công Nghiệp (METI) đã nhận được các vị trí hàng đầu tại 12 doanh nghiệp cung cấp điện của Nhật, trong năm 2008 có 1757 quan chức về hưu nhận được việc làm tại các doanh nghiệp được chính phủ trợ cấp hay nhận được các hợp đồng của chính phủ. Mọi nỗ lực của chính phủ Nhật chống lại amakudari hầu như không thành công.

Trong suốt 15 năm kể từ khi được ban hành, điều 18 trong luật cạnh tranh của Nhật nhằm trừng phạt việc hối lộ quan chức nước ngoài để được nhận các hợp đồng chỉ được thi hành duy nhất có hai lần. Lần thứ nhất vào năm 2007, hai người Nhật bị buộc tội hối lộ hai quan chức Philippine dưới dạng thẻ sân golf và các quà tặng đắt tiền khác trị giá khoảng 8000 USD để giành được hợp đồng. Lần thứ hai vào năm 2009, bốn người Nhật bị buộc tội hối lộ quan chức Việt Nam số tiền 2,434 triệu USD nhưng tòa án chỉ xét xử 820,000 USD. Với vụ hối lộ quan chức Việt Nam mới diễn ra, Nhật Bản sẽ có vụ thứ ba, người ta sẽ đặt câu hỏi là quan chức Việt Nam thích nhận hối lộ hơn quan chức Philippine và Malaysia? Hay quan chức Việt Nam đòi hỏi hối lộ nhiều hơn quan chức Philippine và Malaysia vì số tiền họ nhận được nhiều hơn? Không có lý do nào rõ ràng về việc đó, nhưng điều rõ ràng là lợi nhuận từ các dự án ODA của Nhật ở Việt Nam cao hơn các nước khác, khiến cho người Nhật sẵn sàng chi nhiều tiền hơn. Đấy chính là điểm cần quan tâm về mặt kinh tế.

Có lẽ cũng cần phải điểm qua danh sách các vụ tham nhũng diễn ra ở Nhật Bản, người ta sẽ ngạc nhiên vì quy mô và sự tinh vi của chúng cũng như mức án nhẹ nhàng mà tòa án đã tuyên:

1. Vụ scandal đóng tàu năm 1954: Vào năm 1954, vụ scandal hối lộ số tiền khổng lồ cho các chính khách và quan chức chính quyền để thông qua một điều luật của năm 1953 cho phép các doanh nghiệp đóng tàu được vay dưới lãi suất thị trường đã góp phần làm sụp đổ nội các Yoshida. Nhưng chỉ duy nhất có một người trong số 71 người bị bắt phải ngồi tù. Một người tham gia vào vụ này là Sato Eisaku sau đó trở thành thủ tướng (1964-1972) và nhận được giải Nobel Hòa Bình.

2. Vụ scandal Lockheed năm 1976: Tại hội nghị thượng đỉnh giữa tổng thống Hoa Kỳ Nixon và thủ tướng Nhật Tanaka năm 1972, một thỏa thuận về nhập khẩu số lượng lớn máy bay Lockheed đã được thông qua. Khi chính phủ Miki lên nắm quyền, cựu thủ tướng Tanaka đã bị bắt vì nhận khoảng 500 triệu Yên từ Lockheed. 460 người trong đó có 17 nghị sĩ đã bị thẩm vấn. Không có ai bị tuyên án nhưng tên của 17 nghị sĩ bị công khai. Tanaka bị tuyên án sau hai phiên xét xử năm 1983 và 1987. Ông ta kháng án, nhưng đã chết năm 1993 khi thủ tục tái xử chưa kết thúc.

3. Vụ scandal của công ty Recruit năm 1988-1989: Vụ này tập trung vào Recruit Cosmos, một chi nhánh của tập đoàn Recruit. Có rất nhiều người tham gia, từ chính khách hàng đầu, công chức, đại diện các hiệp hội và truyền thông. Họ đã mua cổ phiếu của công ty trước khi nó được lên sàn nhằm bán lại để kiếm lợi. Tiền được dùng trong các hoạt động mua bán đó được một công ty tài chính thuộc tập đoàn Recruit cho vay không lãi suất. Đổi lại các công ty con của tập đoàn Recruit nhận được nhiều ưu ái của chính khách và quan chức. Trong vụ scandal này rõ ràng là không có cá nhân quan chức nào nhận tiền, nhưng hầu hết các chính khách quan trọng đã tham gia. Vụ việc đã khiến thủ tướng Takeshita phải từ chức năm 1989, nhưng cựu thủ tướng Nakasone và thành viên trong nội các Fujinami cũng can dự.

4. Vụ Kyowa năm 1991: Vụ việc này liên quan đến Abe Fumio ở Kyowa, một nhà sản xuất dầm thép. Abe là tổng thư ký khu vực Miyazawa của LDP. Abe cũng là người đứng đầu Ủy Ban Phát Triển Hokkaido và Okinawa. Thông qua một chính khách khác, Abe đã sắp xếp cho công ty thương mại Marubeni được xây dựng một sân golf ở Kyowa để nhận tiền hối lộ, việc này diễn ra dưới thời thủ tướng Suzuki. Sau khi bị cáo buộc tham nhũng, Abe từ chức tháng 12 năm 1991, bị bắt tháng 1 năm 1992 và bị kết án 2 năm tù vào tháng 5 năm 1994.

5. Vụ scandal Sagawa Kyubin năm 1991-1993: Công ty chuyển phát bưu kiện Sagawa Kyubin quyên góp một số tiền lớn cho các chính khách của đảng LDP phụ trách về vận tải cũng như các chính khách có ảnh hưởng trong các đảng khác. Sagawa Kyubin tăng trưởng thần tốc và mong muốn nhận được giấy phép cho dịch vụ bưu kiện toàn quốc. Điều đặc biệt trong vụ này là không chỉ các chính khách mà cả tổ chức tội phạm yakuza cũng nhận được tiền. Kanemaru Shin, phó tổng thư ký của LDP dính dáng đến vụ này khi tham gia tranh cử Takeshita Nobu, đã gây thiệt hại lớn cho uy tín của LDP.

6. Scandal trốn thuế năm 1993 liên quan đến Kanemaru Shin: Sau khi can dự vào vụ bê bối tài chính nêu trên, Kanemaru Shin bị khám nhà. Người ta tìm thấy 3,6 triệu Yên mà Kanemaru Shin không giải trình được, nên đã bị kết tội trốn thuế thu nhập.

7. Scandal tham nhũng Genecon năm 1993: Thị trưởng thành phố Sendai bị bắt năm 1993 vì cáo buộc nhận tiền hối lộ của các tổng thầu (genecon), là các doanh nghiệp xây dựng lớn. Vụ bê bối được mở rộng và dẫn đến các quan chức trong hội đồng quận trưởng của Ibaraki và Miyagi. Tháng 11 năm 1997, cựu bộ trưởng bộ xây dựng, Nakamura Kishiro bị tuyên án tham nhũng.

8. Vụ scandal Sokaiya năm 1997: Có bốn hãng môi giới lớn tham gia vào vụ việc là Nomura Shoken, Yamaichi Shoken, Nikko Shoken và Daiwa Shoken. Bốn hãng này bị cáo buộc trả tiền cho kẻ tống tiền ban giám đốc liên quan đến đại hội cổ đông. Sokaiya là kẻ tống tiền tại đại hội cổ đông, các hãng tống tiền thường mua một lượng cổ phiếu nhỏ của các công ty khác để trở thành cổ đông, sau đó cho người gây rối tại đại hội cổ đông để ban giám đốc của công ty kia phải trả tiền cho họ. Kẻ gây rối tại các đại hội cổ đông thông thường không phải là ai xa lạ, chính là các yakuza.

9. Vụ scandal năm 1996-1998 của tầng lớp tinh hoa chính trị: Đó là vụ bộ trưởng bộ Y tế và Trợ cấp Xã hội nhận tiền để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia xây dựng nhà cho người già. Liên quan vào vụ việc có cả các quan chức cao cấp của Ngân hàng Nhật Bản và các thanh tra của bộ tài chính. Những người này đã tuồn ra ngoài thông tin mật về kế hoạch thanh tra của những điều phối viên được ủy quyền.

Tất nhiên ngoài những vụ bê bối đã nêu còn rất nhiều vụ khác diễn ra gần đây mà người ta có thể dễ dàng tìm ra trên báo chí và mạng internet. Nhưng lịch sử cho thấy Nhật Bản luôn rất nhẹ tay với tội tham nhũng. Vốn ODA của Nhật Bản suy cho cùng là quá đắt, nhưng nó tuyệt vời đối với quan chức và doanh nghiệp Nhật Bản và quan chức ở các nước nhận viện trợ vì họ tiêu tiền, còn đối với nhân dân hai nước chỉ là gánh nặng còng. Hối lộ và tham nhũng là điều tồi tệ, song đằng sau là chính sách ODA không phục vụ cho lợi ích của đại đa số nhân dân, điều đó còn tồi tệ hơn gấp nhiều lần.

Tài liệu tham khảo:

1. Global Legal Inside: "Bribery and Coruption"; First Edition; Daiske Yoshida, Junyeon Park, Latham, Watskin: "Japan".

2. Wener Pascha: "Corruption in Japan-An Economist's Perspective"


4. Henry Laurence: "The Big Bag and Sokaiya"