Thursday, January 21, 2016

Hối lộ chính trị ở Nhật Bản - Các Chính Sách Bài Trừ

Các chương đã được dịch của cuốn sách:





4. Các Chính Sách Bài Trừ 




Hối Lộ Chính Trị ở Nhật Bản - Chương 4: Các Chính Sách Bài Trừ

Sự suy thoái của chính quyền đảng phái sau năm 1932 mở đường cho sự trỗi dậy của “viên chức xét lại”. Những người xét lại bảo vệ cho sự thanh tẩy hệ tư tưởng, nhà nước kiểm soát kinh tế, hoặc sự gia tăng của quân sự quốc gia và sự lành mạnh tinh thần. Viên chức xét lại của Bộ Nội Vụ, muốn phá hủy liên minh giữa các thành viên Hạ Viện và các lãnh đạo địa phương, liền nhằm vào tham nhũng bầu cử, mà công chúng coi là phổ biến và chính khách không thể cưỡng lại. [1] Vào ngày 23/6/1934, Luật Cải Cách Bầu Cử Quốc Hội đã được ban hành, theo luật này các quận trưởng được kiểm soát quá trình bầu cử nhiều hơn. Hình phạt tối đa đối với việc mua phiếu bầu là bốn năm tù và phạt tiền lên đến 3.000 yen; những người môi giới bầu cử là đối tượng bị phạt tù lên đến 5 năm. [2] Luật này cũng cấm các chiến dịch tiền bầu cử, cung cấp cho chính quyền các tài liệu in ấn để tranh cử, mở rộng sự kiểm soát với việc diễn thuyết tại mít-tinh và một giới hạn nghiêm ngặt về chi phí tranh cử. [3] Một học giả viết, “Bằng cách tạo ra mức độ giới hạn cho sự đại diện tỷ lệ và tước bỏ lợi thế của của cải trong các cuộc bầu cử, luật bầu cử sửa đổi đã đảm bảo cho số lượng các thành viên vô sản và độc lập tăng lên trong Quốc Hội.” [4] 

Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Gotò Fumio (nội các Okada Keisuke, 7/1934–3/1936), một lãnh đạo của phái xét lại, đã tổ chức phong trào Thanh Tẩy Bầu Cử, được ban hành bằng một sắc lệnh hoàng gia vào tháng 5/1935. Trong tháng tiếp theo, các Ủy Ban Thanh Tẩy Bầu Cử do các quận trưởng đứng đầu và viên chức cảnh sát là thành viên đã được thiết lập ở tất cả các quận. Các ủy ban này có mục đích giáo dục cử tri về thực hành bầu cử đúng đắn. [5] Các trưởng cảnh sát quận trong hội nghị vào tháng 8 tại Tokyo đã nhận được lệnh của Gotò và bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara Naoshi về việc phải đảm bảo các cuộc bầu cử cấp quận được thực hiện đúng đắn và công bằng. Các cảnh sát trưởng cũng được chỉ thị bắt giữ tất cả những người mua phiếu bầu và môi giới bầu cử. [6] Có lẽ là cảnh sát đã thực hiện những mệnh lệnh này cùng với sự trả thù. Aikawa Katsuroku, viên chức của Cục Cảnh Sát, Bộ Nội Vụ, đảm nhiệm việc theo dõi bầu cử trong đầu thời kỳ phong trào thanh tẩy, đã khẳng định trong hồi ký rằng cảnh sát đã bắt giữ “không thương tiếc bất cứ ai vi phạm luật bầu cử vì bất kỳ lý do nào và không cần cân nhắc xem đảng nào sẽ trở thành đảng chiếm đa số.” [7]

Sự thi hành luật lệ nghiêm khắc đã giúp cho các cuộc bầu cử cấp quận tương đối trong sạch. [8] Tuy vậy, việc thanh tẩy bầu cử cũng có mặt trái. Vào ngày 16/12/1935, bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara chúc mừng các viên chức cảnh sát đã tập hợp ở Tokyo bởi vì có ít phàn nàn về việc vi phạm quyền cá nhân trong các cuộc bầu cử ở quận vừa qua. Bộ trưởng yêu cầu các lãnh đạo cảnh sát đặc biệt chú ý không bắt giữ người dân vì những vi phạm nhỏ nhặt. [9] Điều mà Ohara coi là “vi phạm nhỏ nhặt” được minh họa bằng một bài báo khác trên cùng trang của tờ báo tường thuật bài phát biểu của ông: “Theo Luật Bầu Cử mới, tất cả mọi người, trừ những người có tên được khai báo đầy đủ cho cảnh sát, đều bị cấm cung cấp tất cả các dịch vụ hỗ trợ bầu cử....Khi một xe máy đưa một ứng cử viên nào đó bị sa lầy, những người qua đường cố gắng giúp [nhưng]…cảnh sát can thiệp và ra lệnh cho họ giải tán, cho rằng đây là cung cấp dịch vụ hỗ trợ bầu cử.” Một ví dụ nực cười khác về sự thái quá của cảnh sát liên quan đến một ly nước đặt trên bàn diễn giả, được một khán giả lau sạch. “Điều này cũng bị cảnh sát có mặt coi là hành động bất hợp pháp, cung cấp dịch vụ hỗ trợ bầu cử.” [10]

Sassa Hiroo, một thành viên của Hiệp Hội Nghiên Cứu Showa, bình luận về cuộc bầu cử vào số tháng 10/1935 của tờ Kaizò: “Phong trào thanh tẩy đã tạo ra một tiền đề cho việc làm sạch chính giới và tái cấu trúc lại các đảng chính trị….Nhà nước sẽ là liên minh của người dân chống lại sự tham nhũng của các chính đảng.” [11] Ròyama Masamichi, nhân vật hàng đầu trong Hiệp Hội Nghiên Cứu Showa và là giám đốc đầu tiên của Phong Trào Thanh Tẩy Bầu Cử, là người ủng hộ mạnh mẽ phong trào thanh tẩy, coi nó là hy vọng duy nhất có thể bài trừ tận gốc tham nhũng chính trị trong các cuộc bầu cử. Ròyama hy vọng rằng khi phong trào thanh tẩy được phổ biến khắp quốc gia, ứng cử viên Quốc Hội có thể thoát khỏi nhu cầu cần sự ủng hộ của đảng phái và có thể chỉ dựa vào sự ủng hộ của các nhóm tạm thời. Mục tiêu của ông ta, cũng giống như Sassa, là bài trừ tham nhũng của nền chính trị đảng phái thường trực. [12]

Bài kiểm tra thực sự đầu tiên đối với phong trào thanh tẩy là tổng tuyển cử vào ngày 20/2/1936, các ủy ban thanh tẩy khuyến khích ý tưởng về bầu cử trong sạch bằng các bài giảng, pamphlet, phim và bài diễn thuyết trên sóng phát thanh. [13] Một học giả khẳng định rằng Bộ Nội Vụ coi cuộc bầu cử này là thắng lợi của phong trào thanh tẩy. Các viên chức đã ngạc nhiên bởi số lượng cử tri giảm đi 7,4% (76,7% tham gia bỏ phiếu) so với tổng tuyển cử năm 1932. [14] Bất chấp sự suy giảm này, khoảng 15.000 người đã bị bắt giữ vì vi phạm luật bầu cử (hối lộ và các vi phạm khác), cho thấy một sự bộc phát của các hoạt động bất hợp pháp (cũng có thể cho thấy sự thực thi pháp luật nghiêm chỉnh). [15] Với bất tỷ lệ nào, số lượng vi phạm là 10.401 vào năm 1928; 18.010 vào năm 1930; 9.869 vào năm 1932. [16] Con số ứng cử viên Hạ Viện bị bắt giữ (62) cũng cho thấy sự tăng vọt trong vi phạm (hay sự thực thi pháp luật nghiêm khắc hơn). Vào giữa tháng 5 của năm tiếp theo, 6 ứng cử viên đã bị kết án; các vụ án khác vẫn đang trong quá trình kháng án. [17] Số liệu của cuộc tổng tuyển cử ngày 20/4/1937 cho thấy phong trào thanh tẩy đã có ảnh hưởng tới hành vi của cử tri và chính khách. Khoảng ba tuần sau cuộc bầu cử, cảnh sát chỉ xử lý 1.950 nghi phạm vi phạm luật bầu cử, trong đó có 221 người liên quan đến việc hối lộ cử tri. Hai mươi ứng cử viên Hạ Viện cũng đang bị điều tra. [18] Viên chức Bộ Tư Pháp thông báo “104 người đã bị truy tố vì vi phạm luật bầu cử….Điều này cho thấy một sự giảm xuống rõ rệt so với cuộc tổng tuyển cử trước đó, 600 người đã bị truy tố trong cùng kỳ.” Mặc dù viên chức Bộ Tư Pháp kỳ vọng có nhiều bản án hơn, song họ cũng hy vọng rằng số lượng các vụ truy tố sẽ thấp hơn một nửa so với kỳ bầu cử trước. [19] 

Cũng cần phải ghi nhận rằng đằng sau bề ngoài của thanh tẩy bầu cử, “các thương nhân chính trị” vẫn tiếp tục chi tiền. Ví dụ, Sakomizu Hisatsune, từng là thư ký của thủ tướng Okada, đóng vai trò là người trung gian chuyển một triệu yên từ zaibatsu Sumitomo cho Minseitò để sử dụng trong tổng tuyển cử năm 1936. [20] Cải cách bầu cử vào đầu những năm 1930 không giải quyết được vấn đề cơ bản: tiền. Cựu bộ trưởng Bộ Nội Vụ Mizuno Rentarò, viết trên tờ nội san Shimin của bộ vào năm 1935, cho biết một ứng cử viên chi từ 20.000 đến 200.000 yen. Một tờ báo đưa tin là chi tiêu của một số chính khách trong tổng tuyển cử năm 1936 khoảng 150.000 yen mỗi người. Rất ít ứng cử viên có đủ tiền để tài trợ cho chiến dịch tranh cử. [21] Tướng Ugaki Kazushige viết trong nhật ký của ông vào tháng 1/1935 rằng chủ tịch của một đảng lớn cần khoảng 100.000 – 150.000 yen mỗi năm; trong số đó 120.000 – 130.000 yen được chi cho đảng. Trong năm có tổng tuyển cử, cần phải có khoảng 2.500.000 yen, để hỗ trợ khoảng 400 ứng cử viên. Trong số đó, chủ tịch sẽ đóng góp 1.000.000 yen và các thành viên đóng góp 1.500.000 yen. [22] 

Vào giữa tháng 4/1935, bài báo cho biết ít nhất cũng có một số viên chức Bộ Nội Vụ lo sợ rằng cảnh sát sẽ thực hiện phong trào thanh tẩy một cách thái quá: “Viên chức Bộ Tư Pháp e ngại rằng khi cảnh sát bắt giữ tất cả những người vi phạm, với sự nhiệt tình của họ trong việc thanh tẩy bầu cử, các phàn nàn về xâm phạm quyền cá nhân sẽ sớm xuất hiện. Do vậy, họ sẽ đưa ra các hướng dẫn cho cảnh sát địa phương để kiềm chế những hành động có thể bị coi là xâm phạm quyền cá nhân.” [23] Một tháng trước tổng tuyển cử tháng 2/1936, bộ trưởng Bộ Tư Pháp Hayashi Raizaburò nói rằng “[v]i phạm bầu cử là đặc biệt có hại đối với việc duy trì sự thiêng liêng của pháp luật và do vậy phải bị trừng phạt nghiêm khắc.” [24] Do đó, cảnh sát và công tố viên nhận được một thông điệp kết hợp: không vi phạm quyền cá nhân và thực thi luật bầu cử nghiêm khắc. Dường như hầu hết cảnh sát và công tố viên đã thực hiện phần sau của thông điệp này. Một sự phản đối vụ đàn áp của chính quyền đến từ Makino Ryòzò (Seiyûkai) tại cuộc họp của ủy ban ngân sách vào ngày 27/2/1937. Makino lên án sự lạm dụng thẩm quyền của công tố viên và cảnh sát, kêu gọi chú ý tới việc có khoảng 400.000 – 500.000 người bị cảnh sát điều tra trong cuộc tổng tuyển cử năm 1936 do có thư khiếu nại. Con gái và vợ của một số ứng cử viên thậm chí còn bị tra tấn, ông ta khẳng định. Ông ta khẳng định rằng nhà chức trách phải bỏ qua các thư nặc danh. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Shiono Suehiko bày tỏ sự ân hận của ông và nói rằng các viên chức có lỗi sẽ bị trừng phạt. Một tuần trước đó, Kokubo Ki’ichi (Thượng Viện) đã cáo buộc rằng trong các cuộc bầu cử cấp quận của năm 1935 và tổng tuyển cử năm 1936 có nhiều vụ cảnh sát tra tấn. Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Kawarada Kakichi trả lời rằng những vụ án đó đang được điều tra và một số viên chức vi phạm đang bị xét xử. [25] Vào năm 1937, sau khi kết thúc cuộc tổng tuyển cử, Seiyûkai thành lập một ủy ban để xem xét các vụ án về hành động thái quá của cảnh sát và công tố viên. Một người phát ngôn nói, “[T]hông tin mà trụ sở đảng nhận từ mọi vùng của đất nước cho thấy ở nhiều nơi các viên chức cấp thấp địa phương đã xâm phạm đến các quyền cá nhân. Hành động theo các thông tin sai lệch do những người có lợi ích cung cấp, họ đã bắt giữ các quản lý bầu cử và cử tri. Cũng có những vụ vi phạm nhỏ bị trừng phạt quá nghiêm khắc.” [26] Cũng có những bằng chứng chắc chắn cho cáo buộc về việc cảnh sát tra tấn để buộc những nghi phạm vi phạm Luật Bầu Cử phải thú tội, được chứng minh bằng báo cáo “bí mật” của thẩm phán Kawakami Kan vào tháng 2/1938. Một trường hợp được Kawakami trình bày có liên quan đến Kawaguchi Yoshihisa, một ứng cử viên Hạ Viện của Seiyûkai, trong cuộc tổng tuyển cử vào ngày 20/2/1936, đã bị bắt cùng với những người ủng hộ vì tình nghi hối lộ. Việc thẩm vấn trong vụ án này được cảnh sát quận Kanagawa thực hiện. Người ủng hộ đầu tiên bị tra tấn là Hishinuma Shunkichi, bị cáo buộc đưa tiền cho cử tri. Hishinuma và các nghi phạm khác thường bị tra tấn bằng một hay nhiều kiểu như sau: bị đánh bằng kiếm tre, bị đá vào đầu và thân thể, bị xông khói, bắt quỳ trên đống que gỗ, bị bắt uống nước, bị ném xuống sàn nhà cứng. [27] Thượng nghị sĩ Kokubo Ki’ichi coi những vi phạm của cảnh sát ở Kanagawa là cực kỳ tồi tệ: “Những vụ án này xảy ra ở các quận Kaganawa, Kagoshima, Yamaguchi, Iwate, Okayama và các dạng tra tấn mà cảnh sát Kanagawa đã sử dụng thật kinh hoàng.” [28] Phong trào Thanh Tẩy Bầu Cử dường như đã làm giảm số lượng việc mua phiếu bầu và các vị phạm Luật Bầu Cử khác, nhưng cái giá phải trả quá cao. Cảnh sát, có lịch sử lâu dài về hành động bất hợp pháp và vào những năm 1930 hành động theo các quy tắc riêng của họ, đã trở nên tàn nhẫn hơn trong việc hành hạ các nghi phạm. [29]

Viên chức mới không phải là những người duy nhất mong muốn thanh tẩy chính trị. Vào cuối tháng 9/1930, một nhóm hai tá viên chức quân sự ở Tokyo đã thành lập một hiệp hội mà sau này được gọi là Hiệp Hội Anh Đào. Nhóm này có mục đích tái tổ chức quốc gia, trong đó có việc xóa bỏ các đảng chính trị. [30] Một phần trong tuyên bố mục tiêu của nhóm cải cách chính trị này nêu rõ, “[Chính khách]…thiếu sự can đảm để thực hiện các chính sách nhà nước….[H]ọ hoàn toàn bị ngự trị bởi sự theo đuổi ích kỷ quyền lực chính trị và của cải vật chất….Giờ đây, mũi kiếm tẩm độc của các chính khách đảng phái suy đồi đã chĩa vào quân đội….[C]húng ta, trụ cột của quân đội, phải…tự thức tỉnh và xóa bỏ hoàn toàn các chính khách suy đồi.” [31] Các hoạt động của viên chức quân sự cực đoan dẫn đến âm mưu đảo chính ở Tokyo vào ngày 26/2/1936. Khoảng 400 lính do những sĩ quan cấp thấp lãnh đạo đã giết và làm bị thương một số chính khách cấp cao, viên chức và sĩ quan quân đội. Sự may mắn đã giúp cho thủ tướng Okada thoát chết. Tuyên ngôn của các sĩ quan nổi loạn lên án cả các trùm tài chính, chính khách, viên chức, tất cả những người khiến quốc gia bị tàn phá. Không may cho những người nổi loạn, hoàng đế đã hành động cương quyết để dập tắt vụ nổi loạn. [32]

Công ty Mitsui, trong nhiều thế hệ đã uốn mình như cây tre theo các làn gió chính trị, đã bổ sung thêm vào danh sách hối lộ của họ các phần tử dân sự và quân sự cực đoan. Vào đầu mùa xuân năm 1931, Ariga Nagabumi, giám đốc điều hành của Mitsui, đã quyên góp 200.000 yen cho một đại diện của Hiệp Hội Anh Đào. Vào cuối năm đó, Ariga gặp Kita Ikki, một người cánh hữu nổi tiếng vì kế hoạch tái cấu trúc xã hội cực đoan. Khi yêu cầu của Kita bảo trợ cho Mitsui, Ariga đã hối lộ Kita khoảng 20.000 – 30.000 yen; Ikeda Seihin, sau khi nắm quyền ở Mitsui vào năm 1934, tiếp tục đóng góp cho Kita 10.000 yen vào mỗi tháng 6 và tháng 12 hàng năm. Một phần của khoản tiền đó đã được rót cho các sĩ quan quân đội cực đoan. Khoản tiền bảo trợ này đã đi đúng hướng: Kita loại tên của Ikeda ra khỏi danh sách ám sát do những người tham gia đảo chính, cuộc nổi loạn của quân đội, vào ngày 26/2/1936 lập ra. Sau này, khi tên của Ikeda xuất hiện trên một danh sách khác, ông ta cũng được cảnh báo trước. Bên cạnh việc hối lộ đám khủng bố cánh hữu, Mitsui, theo sự yêu cầu của Ikeda, cũng bắt đầu hối lộ công chúng, cố gắng thay đổi ấn tượng về một công ty tham lam lam, kiếm lợi bằng mọi giá, trong đầu óc của công chúng. Vào giữa năm 1933, công ty quyên góp 3 triệu yen cho trợ cấp thất nghiệp và vào tháng 10/1933, họ thành lập Hiệp Hội Đáp Lại Lòng Tốt Mitsui, một quỹ từ thiện có số vốn 3 triệu yen. Sau ngày 26/2/1936, quân đội nổi loạn, Mitsui thực hiện kế hoạch loại bỏ các lãnh đạo trên 50 tuổi do Ikeda đưa ra. Do vậy, nhóm quản lý già, mà công chúng có ấn tượng xấu, đã bị xóa bỏ. Đối với các đảng chính trị mà Mitsui đã trợ cấp trong nhiều thế hệ, Ikeda quyết định phải cắt bỏ mối quan hệ đó để cải thiện hình ảnh của Mitsui. Kể từ đó, công ty từ chối các yêu cầu tài trợ tranh cử của Minseitò, Seiyûkai và các đảng khác. [33] “Mặc dù ông ta [Ikeda] không hỗ trợ cho bất cứ đảng nào nhưng ông ta lại đưa tiền cho các cá nhân. “…Tôi đã giữ lại một số khoản tiền để hỗ trợ cho một số đảng viên ngay thẳng, bất kể họ thuộc đảng phái nào, có quan hệ đặc biệt với Mitsui….Tôi không thể đột ngột cắt bỏ chúng.”” [34]

Một thương nhân chính trị hàng đầu khác, Kuhara Fusanosuke, cũng hối lộ để được các sĩ quan quân đội cánh hữu chiếu cố. Vào cuối những năm 1920, Kuhara là nguồn tài trợ chính trị quan trọng của Tanaka Giichi. Công ty của Kuhara, Nippon Sangyò (Nissan), vào những năm 1930 đã phát triển thành một zaibatsu mới; nó là hãng lớn đầu tiên chuyển một phần lớn hoạt động sang Mãn Châu Lý. Cũng giống như Mitsui, Kuhara hối lộ cho Kita Ikki và các sĩ quan quân đội cánh hữu. Một lãnh đạo doanh nghiệp khác cũng cung cấp tài chính cho các sĩ quan quân đội cánh hữu là Ishihara Kòichirò, đứng đầu công ty Công Nghiệp và Vận Tải Biển Ishihara. Ishihara đã đưa 11.500 yen cho trung úy Kurihara Yasuhide, một trong những sĩ quan tham gia vụ nổi loạn của quân đội vào ngày 26/2. Trong thời kỳ từ tháng 10/1933 đến 10/1935, Ishihara đã đưa 260.000 yen cho nhiều tổ chức cánh hữu khác nhau. [35]

Viên chức mới và những người cánh hữu của quân đội cũng không phải là đối tượng duy nhất mong muốn thanh tẩy chính trị. Công tố viên tại Tòa Án Quận Tokyo cũng đang tuyên chiến với sự tham nhũng trong kinh doanh từ cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930. Dưới thời chưởng lý Shiono Suehiko (xem chương 3), viện công tố Tokyo đã hăng hái truy tố một số các vụ án hối lộ quan trọng bất kể là nghi phạm thuộc đảng phái nào.

Vào năm 1934, công tố viên Tokyo điều tra vụ hối lộ quan trọng nhất giữa hai cuộc chiến tranh, được gọi là vụ Teijin. Kuroda Etsurò, công tố viên chỉ đạo giai đoạn điều tra trong vụ án này, nói với một bị cáo vào ngày 2/5/1934 rằng xã hội, trong đó có Bộ Tài Chính, đã thối nát. Do đó, cần phải dựa vào công tố viên để tạo ra một xã hội lý tưởng. [36] Một học giả viết, “Mục tiêu chính của công tố viên có lẽ là khẳng định sự tham nhũng tuyệt đối của giới kinh doanh và các chính đảng. Theo nghĩa nào đó, việc xử lý các vụ án có lẽ được thiết kế để thể hiện vai trò tương tự trong việc trừng phạt giới kinh doanh, giống như vụ án của Minobe [Tatsukichi] đã bịt miệng giới học thuật.” [37]

Teijin là tên gọi tắt của Teikoku Jinzò Kenshi Kabushiki Kaisha (Công Ty Tơ Nhân Tạo Đế Quốc), một chi nhánh của công ty thương mại Suzuki Trading. Sau khi công ty thương mại bị phá sản vào năm 1927, ngân hàng Taiwan mua lại 225.000 cổ phiếu của Teijin. Hầu hết cổ phiếu được đem cầm cố ở ngân hàng Nhật Bản để đổi lấy một khoản vay nhà nước của ngân hàng Taiwan. Do chính quyền bảo lãnh khoản vay của ngân hàng Taiwan, số cổ phiếu đó chỉ được giao dịch với sự cho phép của Bộ Tài Chính. Theo thời gian thì giá trị của cổ phiếu tăng lên và các nhà đầu cơ cố gắng mua chúng. Vào tháng 6/1933, một nhóm tài chính mua 100.000 cổ phiếu. Mặc dù việc mua bán này có vẻ là giao dịch kinh doanh minh bạch song tin đồn về hối lộ và thao túng thị trường chứng khoán đã thu hút được sự chú ý của truyền thông, các địch thủ chính trị của nội các Saitò Makoto (5/1932–7/1934) và công tố viên. Vào mùa xuân năm 1934, các lãnh đạo doanh nghiệp nổi tiếng và các viên chức chính quyền quan trọng lần lượt bị cáo buộc lạm quyền và hối lộ. Vụ bắt giữ hai bộ trưởng trong nội các cùng với lời thú tội của thứ trưởng Bộ Tài Chính đã làm sụp đổ nội các Saitò vào ngày 3/7. Sau một cuộc điều tra kéo dài của công tố viên và phiên đánh giá sơ bộ, 16 doanh nhân, viên chức, chính khách và công chúng phải đối mặt với một phiên toà kịch tính với 265 phiên xét xử (22/6/1935 – 5/10/1937). Mặc dù tất cả các bị cáo đều được trắng án vào ngày 16/12, phiên toàn kéo dài đã làm gia tăng hình ảnh tiêu cực của chính khách và doanh nhân, có cùng một hang ổ tham nhũng. Dĩ nhiên, sự kinh khủng nhất là cáo buộc hối lộ của công tố viên đối với các viên chức cấp cao của Bộ Tài Chính. Phiên tòa đã có nhiều bất ngờ, mặc dù 12 bị cáo đã thừa nhận nhiều tội lỗi ở phiên đánh giá sơ bộ, song họ đã bác bỏ hoàn toàn tại phiên tòa chính thức. Trong quá trình phản cung này, công tố trở thành đối tượng chịu sự giận dữ của bị cáo và công chúng với các cáo buộc tra tấn, ép cung, vi phạm quyền cá nhân, tại tòa án, Hạ Viện và trên báo chí. Sự tấn công bất ngờ vào cơ quan tư pháp đã phá hủy sự hài lòng của công chúng và công tố bị gọi là “phát xít”. [38]

Vào đầu năm 1932, Fujita Ken’ichi, chủ tịch Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Tokyo và là thành viên của Thượng Viện, yêu cầu Mori Kaku, một chính khách có ảnh hưởng của Seiyûkai và thư ký trưởng của nội các Inukai, đóng vai trò trung gian trong việc mua cổ phiếu của Teijin. Mori lại giới thiệu ông ta với bá tước Itò Miyoji, một thành viên Hội Đồng Cơ Mật. Thông qua con đường này, Fujita tiếp cận bộ trưởng Bộ Tài Chính Takahashi Korekiyo. Sự tiếp cận này không thành công. Dĩ nhiên tiếng tăm xấu của Fujita đã khiến giao dịch này thất bại. Fujita đã bị xét xử tại Tòa Án Quận Tokyo về tội tham ô và lạm quyền trong vụ án Dệt Len Gòdò (ông ta bị kết án vào ngày 16/5/1933 và nhận án một năm rưỡi tù, nhưng được hoãn thi hành án ba năm). Fujita cũng bị phát hiện mua huy chương trong vụ bê bối Cục Nghi Lễ. Bên cạnh các lý do có thể khiến cho giao dịch thất bại đó, Itò Miyoji cũng bị ghét bởi vì thành tích tống tiền doanh nhân và viên chức chính quyền. Bằng mọi giá, Fujita đã cố gắng một lần nữa, hy vọng vào nam tước Gò Seinosuke, một thượng nghị sĩ và giám đốc của nhiều doanh nghiệp lớn. Sự tiếp cận này cũng thất bại, do Gò nói với Fujita rằng ông ta lấy ít nhất là một phần ba giá mua. [39]

Cố gắng tiếp cận cổ phiếu của Teijin tiếp theo do Nagano Mamoru, trợ lý của Fujita, thực hiện. Đầu tiên, ông ta tiếp cận Shòriki Matsutarò, chủ tịch của tờ Yomiuri Newspaper và là cựu viên chức cảnh sát của Bộ Nội Vụ. Shòriki lại tìm kiếm sự giúp đỡ từ bộ trưởng Bộ Giáo Dục Hatoyama Ichirò, yêu cầu ông này nói chuyện với người của Bộ Tài Chính và ngân hàng Nhật Bản về việc bán cổ phiếu. [40] Các nhà tài chính và doanh nhân khác tham gia vào vụ việc vào cuối năm 1932 hoặc đầu năm 1933 là: Kawai Yoshinari, Kobayashi Ataru, Okazaki Akira và Nagasaki Eizò. Vào tháng 2/1933, Kawai và Kobayashi thảo luận việc mua cổ phiếu của Teijin với Takagi Naomichi, giám đốc của ngân hàng Taiwan. Mặc dù chủ tịch ngân hàng Shimada Shigeru cũng được báo cáo, song Takagi là viên chức ngân hàng chủ chốt liên quan đến những thảo luận này. Vào ngày 6/5, nhóm của Kawai đề nghị giá 117 yen cho mỗi cổ phiếu cộng thêm tiền cổ tức cho 100.000 cổ phiếu đầu tiên và 122 yen cho mỗi cổ phiếu cộng thêm cổ tức nếu việc bán được thực hiện ngay lập tức. Về gói 100.000 cổ phiếu thứ hai, người mua được quyền đợi một tháng để đưa ra quyết định chung cuộc. Người mua, Kawai nói, là các công ty bảo hiểm và nhà buôn bông; mỗi nhóm sẽ mua một nửa số cổ phiếu. Phía công ty bảo hiểm sẵn sàng thanh toán ngay lập tức, còn phía nhà buôn bông sẽ thanh toán trước 30% tiền mặt và phần còn lại được thanh toán trong vòng ba tháng. Kawai cho biết bộ trưởng Bộ Thương Mại và Công Nghiệp Nakajima Kumakichi sẽ quyết định cách phân chia cổ phiếu giữa các công ty bảo hiểm. Giám đốc Takagi trả lời rằng giá quá thấp: công ty Teijin có lợi nhuận tốt và cổ phiếu sẽ có lợi tức cao. Cuối cùng, vào ngày 25/5, thỏa thuận được chốt là người mua sẽ nhận được 100.000 cổ phiếu với giá 125 yen mỗi cổ phiếu. Hợp đồng được ký kết vào ngày 30/5. Các công ty bảo hiểm nhân thọ Tokyo nhận được 60% số cổ phiếu và các nhà buôn bông Osaka nhận được 40%. Tháng sau, ngân hàng Taiwan sử dụng tiền thu được từ giao dịch để thanh toán cho ngân hàng Nhật Bản. Việc mua bán cổ phiếu ít được bình luận vào lúc đó. [41]

Sau giao dịch, nhiều khoản hoa hồng quà tặng đã được trao đổi. Kawai, đóng vai trò chủ chốt, nhận được hoa hồng 1 yen cho mỗi cổ phiếu từ cả người bán và người mua (có nghĩa là ông ta nhận được 200.000 yen). Ngân hàng Taiwan đưa cho Nagano 60.000 yen và Murachi Kyûjirò, một người môi giới chứng khoán ở Osaka, nhận được 40,000 yen cho dịch vụ đã cung cấp. Kawai đã chi tiêu toàn bộ khoản hoa hồng của ông ta: đưa 170.000 yen cho Shòriki (105.000 yen được chuyển cho Fujita và Hatoyama); 15.000 yen cho Nagano; 15.000 cho Murachi. Nagano và bốn người khác cũng “quyên góp chính trị” cho Nakajima tổng cộng 10.000 yen. Bên cạnh những phần thưởng đó, tại đại hội cổ đông của công ty Teijin vào ngày 26/6/1933, Kawai được bầu làm kiểm soát viên và Nagano trở thành giám đốc. Họ có thể sử dụng những vị trí bên trong để kiếm lợi từ viêc bán cổ phiếu của Teijin. Giám đốc ngân hàng Takagi cũng được thưởng xứng đáng: ông ta trở thành chủ tịch của Teijin. [42]

Một năm trước khi bán cổ phiếu của Teijin, Bộ Tài Chính và các công tố Tokyo đã có xung đột về một vụ trốn thuế. Công tố viên không quên sự mất mặt của họ trong vụ xung đột này. Công ty bị tình nghi trốn thuế là Meiji Seitò Datsuzei, chuyên nhập khẩu và tinh chế đường. Cảnh sát đã bắt giam và thẩm vấn lãnh đạo của Meitò, Sòma Hanji, nhưng sau khi Nakajima Teppei, lãnh đạo của Cục Thuế Vụ, ra quyết định là công ty không trốn thuế, Sòma đã được thả vào ngày 11/5/1932. Đây là một kết cục tốt cho chủ tịch công ty nhưng lại khiến cho Nakajima có những giờ phút khó khăn tại Hạ Viện, các nghị sĩ đã tra hỏi ông ta về vụ án. Vụ việc đã nhanh chóng bị lãng quên do vụ sát hại Inukai vào ngày 15/5, sự sụp đổ của nội các Seiyûkai vài ngày sau và sự thành lập nội các thống nhất quốc gia dưới quyền đô đốc Saitò. Không may cho các viên chức Bộ Tài Chính, một luật sư của Meitò đến văn phòng của Nakajima và đề nghị đóng các khoản thuế quá hạn chưa được báo cáo. Tòa Án Quận Tokyo đã phản ứng vào ngày 22/6 bằng cách thảo cử công tố viên Kuroda Etsurò tới thảo luận vụ án với Nakajima. Kudora cho rằng Meitò có thể đang cố gắng thủ tiêu bằng chứng; Nakajima nên đưa các công tố viên vào vụ án bằng cách gửi khiếu nại cho họ. Nakajima, cho rằng việc điều tra thêm là không có cơ sở, đã bỏ qua lời khuyên của Kuroda. Vào ngày 24/6, Kuroda gửi tới Cục Thuế Vụ một đề xuất bằng văn bản. Các số báo buổi tối đều đăng tải câu chuyện quan trọng về việc Bộ Tài Chính cho phép Meitò trốn thuế và sự thông đồng giữa viên chức chính quyền và giới tài chính. Sau đó, công tố viên yêu cầu một khoản phạt nặng lên đến 34.430.000 yen cộng thêm 7.420.000 yen thuế quá hạn. Tuy vậy, Cục Thuế Vụ quyết định áp dụng khoản phạt 600.000 yen và thuế quá hạn là 120.000 yen. Mặc dù, quyết định đó khiến Kuroda và các công tố viên khác không hài lòng song lại được nội các Saitò chấp nhận, họ thông báo thuế và tiền phạt đã được nộp và vụ án được khép lại. [43]

Vào cuối năm 1933, nội các Saitò bị các chính khách của Seiyûkai và Minseitò chỉ trích, họ giận dữ về việc một nội các không đảng phái đang nắm quyền. Báo chí tham gia bằng vào vụ ồn ào, đã khiến cho bộ trưởng Bộ Thương Mại và Công Nghiệp Nakajima Kumakichi mất chức vào tháng 2/1934. Tất cả những ồn ào trên đường phố và trong Quốc Hội đều xoay quanh một bài báo đăng lại về Ashikaga Takauji do Nakajima viết vào năm 1924. [44] Nhà xuất bản báo chí A. Morgan Young đã viết, “Sự ồng ào hiện nay về nam tước Nakashima….Nhiều năm trước khi ông ta viết một luận văn để ca ngợi Ashikaga Takauji, một người vĩ đại vào thời của ông vài thế kỷ trước đây, nhưng cũng là người chọn sai cửa khi có cuộc đua giành ngai vàng. Sự trung thành cấp thiết trở thành vĩ đại nhưng giờ lại là không trung thành để tán tụng những phẩm chất tốt đẹp của nhà độc tài thế kỷ 14 này.” [45] Không may cho nội các Saitò, vài ngày trước khi Nakajima từ chức, bộ trưởng Bộ Giáo Dục Hatoyama Ichirò bị Okamoto Kazumi (Seiyûkai) cáo buộc hối lộ tại Hạ Viện. Mặc dù một ủy ban điều tra đã tuyên bố Hatoyama vô tội song bộ trưởng này cũng đã từ chức. [46] Bình luận về kỳ họp Quốc Hội, tờ Asahi Newspaper viết, “[k]hi kỳ họp đã đi được nửa đường, cuộc thi ném bùn theo thông lệ lại bắt đầu, lên đến cực điểm trong sự từ chức của ngài Hatoyama….Tiếng nói tranh luận đã nhỏ đi so với các kỳ họp trước, uy tín của các chính đảng trong dân chúng đã thấp đi….Họ đã cầu xin cho hiện tại cũng như họ đã làm trước kia.” [47] Cùng với sự tấn công vào Nakajima và Hatoyama là các câu hỏi được đặt ra tại cả hai viện của Quốc Hội về vụ mua bán cổ phiếu của Teijin. [48] 

Sự quan tâm được khôi phục về việc giao dịch cổ phiếu đã diễn ra từ tám tháng trước dẫn đến một loạt các bài báo trên tờ Jiji shinpò về giao dịch tài chính và thao túng chứng khoán bất hợp pháp của Banchò Kai, trong đó có việc mua bán cổ phiếu của Teijin. Sự mổ xẻ kéo dài hai tháng, bắt đầu vào tháng 1/1934, là kế hoạch của Mutò Sanji, chủ tịch tờ báo. Mutò, có danh tiếng kinh doanh trong sạch, hướng tới mục đích thanh tẩy hệ thống tư bản chủ nghĩa bằng các phơi bày những phần thối nát của giới kinh doanh. Một tuyên bố bằng văn bản của Mutò cho biết ông ta sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về các bài báo đã khiến chúng có thêm độ tin cậy. Công chúng, vốn chán ghét vì một hàng dài bất tận các vụ bê bối hối lộ, đã nhanh chóng chấp nhận sự trung thực của các bài báo này. Mutò, cựu chủ tịch của công ty se sợi Kanegafuchi, đã thành lập một đảng chính trị cải cách nhỏ vào năm 1923 và vào 1924 trúng cử Hạ Viện, tại đó ông ta đã mạnh mẽ lên án sự cấu kết của doanh nhân và chính khách. Ông ta rời khỏi chính trị vào năm 1932 để nắm quyền ở tờ Jiji shinpò. [49] Banchò Kai là một nhóm chọn lọc các doanh nhân và chính khách nhưng phi chính thức, họ đã thành lập một câu lạc bộ vào năm 1923, tập trung quanh nam tước Gò Seinosuke, một thành viên Thượng Viện và giám đốc của một số doanh nghiệp lớn. Nhóm này ủng hộ Hatoyama Ichirò và Nakajima Kumakichi với các khoản quyên góp chính trị. [50]

Cùng lúc đó, các công tố viên nhận được đơn tố cáo ở Osaka (một) và ở Tokyo (hai) về việc nhiều người phạm tội liên quan đến việc mua bán cổ phiếu Teijin. Đơn khiếu nại ở Osaka, do một trong những người ủng hộ của Mutò viết, cáo buộc rằng Takagi Naomichi (chủ tịch của Teijin), Nagano, Kawai và những người khác phạm tội lạm dụng quyền hành, tham ô và vi phạm luật kinh doanh. Một trong những đơn khiếu nại ở Tokyo, do Katò Noboru viết, cáo buộc chủ tịch Shimada Shigeru của ngân hàng Taiwan nhận hối lộ, lạm dụng quyền hành và làm giả giấy tờ. Đơn khiếu nại thứ ba, do Hasui Keitarò, một thành viên ban điều hành của Dai Nippon Kikusui Minshû Tò (một nhóm cánh hữu), viết đã nêu tên Shimada, Kawai, Nagano và Shòriki. Chưởng lý Tòa Án Quận Tokyo Miyagi Chògorò nhận được các đơn khiếu nại này vào tháng hai. Công tố viên Kuroda, đã điều tra vụ trốn thuế của Meitò, đương nhiên được chọn làm trưởng nhóm điều tra; thực ra ông ta là sự lựa chọn duy nhất, do những công tố viên khác biết rất ít về thị trường chứng khoán. Công tố viên Biwada Gensuke cũng được bổ nhiệm làm đồng trưởng nhóm. Khi họ xác định rằng hành vi lạm dụng quyền hành đã được thực hiện, ba công tố viên khác đã tham gia. Vào đầu tháng 4, nhóm này đã sẵn sàng cho giai đoạn khám xét và thu giữ trong cuộc điều tra. [51] 

Sự tấn công dữ dội vào Banchò Kai của tờ Jiji shinpò đã tạo ra sự đồng cảm của công chúng và dấy lên cuộc thảo luận ở Quốc Hội; nó cũng báo động các công tố viên ở Tòa Án Quận Tokyo. Giận dữ vì những tấn công đó, một số thành viên của nhóm đã yêu cầu kiện tội phỉ báng nhưng Kawai cho rằng một sự đáp trả bằng báo chí sẽ hiệu quả hơn. Tuyên bố của Kawai, được Gotò Kunihiko (người quản lý câu lạc bộ) ký tên, đã được đăng trên số tháng 3 của tờ Keizai òrai (phát hành trong tháng 2). Kawai giải thích rằng Banchò Kai là một tổ chức xã hội xoay quanh nam tước Gò; họ gặp mặt mỗi tháng một lần để thảo luận về các chủ đề hiện tại; các thỏa thuận kiếm tiền không phải là chủ đề thảo luận. Hơn nữa, việc báo chí đưa tin nam tước Nakajima có mối quan hệ sâu sắc với nhóm là sai hoàn toàn. Tuy vậy, do hai vị nam tước là bạn bè nên họ có gặp nhau tại những sự kiện như tiệc Năm Mới của Banchò Kai. Kawai kết luận, việc báo chí khẳng định rằng ba thành viên của nhóm có liên quan đến vụ Teijin và Kobe Seikòjo (đây là công ty thép) là sai. Vào ngày 9/3, Mutò Sanji bị bắn chết. Tờ Jiji shinpò phản ứng bằng cách đưa ra câu hỏi về việc Banchò Kai, đặc biệt là Kawai Yoshinari, đứng đằng sau vụ sát hại. Trong tình hình xã hội rối loạn vào năm 1935, nhiều người sẽ cũng có liên tưởng sai lầm này. Trên thực tế, vụ sát hại Mutò không có liên quan gì đến Banchò Kai. Người thanh niên mắc bệnh lao giết Mutò chỉ cố cướp tiền. [52] 

Khi các công tố viên mở rộng điều tra vụ giao dịch cổ phiếu Teijin, họ ban hành lệnh cấm báo chí đăng tin về chủ đề vào ngày 25/3/1934. [53] Vài ngày sau, chưởng lý Miyagi được lệnh nhận vị trí mới tại Tòa Phúc Thẩm Nagasaki; vị trí của ông ta được giao cho Iwamura Michiyo, vốn từng làm việc ở Tòa Án Quận Nagoya. Trước khi Miyagi rời đi, ông ta đã chỉ thị cho các công tố viên giới hạn điều tra vụ Teijin, không chạm đến các nhân viên ngân hàng Nhật Bản. Vào ngày 3/4, các công tố viên Biwada và Nagao Takeo, đang trên đường tới Osaka để bắt đầu giai đoạn khám xét, thu giữ và thẩm vấn, tạm dừng ở Nagoya để gặp Iwamura. Sau khi nghe báo cáo về vụ việc, Iwamura nói rằng họ sẽ không kết án thành công nếu lạm dụng quyền hạn là tội duy nhất; họ phải thêm tội hối lộ vào cáo trạng. Hai công tố viên ghi nhớ đề xuất này. [54] 

Vào ngày 5/4, các cuộc điều tra đồng loạt bắt đầu ở Osaka và Tokyo: các viên chức lục soát văn phòng ngân hàng Taiwan, công ty Teijin và nhà ở tư nhân. Tài liệu bị thu giữ tại trụ sở của Teijin ở Osaka nhiều đến mức cần đến một xe tải để chở. Takagi, chủ tịch của Teijin, bị bắt giữ ở Tokyo và đưa về Osaka. Trong những ngày tiếp theo, những người khác cũng bị bắt giữ: Okazaki Akira, một giám đốc của Teijin (11/4); Kawai, Nagano và Nagasaki Eizò (18/4); vân vân. Vào giữa tháng 5, việc bắt giữ đã lan sang cả Bộ Tài Chính: thứ trưởng Kuroda Hideo (May 19); Òno Ryûta, trưởng Ban Ngân Hàng Đặc Biệt; Aida Iwao, thanh tra ngân hàng; Shidomoto Jirò, trợ lý thanh tra ngân hàng (20/5); Òkubo Teiji, lãnh đạo Cục Ngân Hàng (21/5). Ít nhất hai tờ báo lớn, Asahi và Nichinichi, đã vi phạm lệnh cấm báo chí bằng cách phát hành ấn bản đặc biệt về câu chuyện quan trọng này. [55]

Sự kiện chủ chốt trong giai đoạn đầu của vụ án hình sự là lời thú tội của chủ tịch Takagi, đã có ảnh hưởng tới những người khác. Takagi đã thú nhận rằng Nagasaki đưa 1.300 cổ phiếu của Teijin cho các giám đốc của ngân hàng Taiwan và các giám đốc đưa lại cổ phiếu cho thứ trưởng Kuroda, giám đốc Cục Ngân Hàng Òkubo, bộ trưởng Bộ Đường Sắt Mitsuchi Chûzò và bộ trưởng Bộ Thương Mại và Công Nghiệp Nakajima Kumakichi. Một số cổ phiếu đã được chuyển thành tiền mặt và đưa cho nhân viên Bộ Tài Chính là Òno, Aida và Shidomoto. Các giám đốc của ngân hàng Taiwan là Yanagida Naokichi, Koshifuji Tsunekichi, Okazaki, và Takagi bỏ túi phần còn lại. Sự kiện chủ chốt thứ hai trong cuộc điều tra là một đơn kiến nghị của thứ trưởng Kuroda gửi chưởng lý Iwamura giải thích về khoản tiền mà ông ta đã nhận được từ Nagasaki: 10.000 yen cho một bạn chính trị ở Quốc Hội (Òyama Hisamaro), 10.000 yen cho Mitsuchi và 10.000 hay 20.000 yen được quyên góp cho Seiyûkai; phần còn lại được đưa cho Òta Osamu, một nhà tài chính tại Yamaichi Shòken, để đầu tư. Kurroda cũng khai là được nghe một người bạn nói rằng con trai của bộ trưởng Bộ Tài Chính Takahashi cần tiền, ông ta đã cho người này vay 30.000 yen. [56]

Tại một cuộc họp của nội các Saitò vào ngày 29/6, bộ trưởng Bộ Tư Pháp Koyama Matsukichi nói rằng đã đủ bằng chứng để truy tố các nhân viên bộ Tài Chính vì hối lộ. Ông ta nói thêm, không nhắc đến tên, rằng cựu bộ trưởng và đương kim bộ trưởng cũng có liên quan. Báo chí đăng tin tức nhạy cảm này vào ngày 30/6; nội các từ chức vào ngày 3/7/1934. Hôm sau, cựu bộ trưởng Nakajima bị bắt giữ (Shòriki cũng bị bắt giữ). Theo quan điểm của công tố viên, cuộc điều tra đã diễn ra thuận lợi. Bởi vì họ tin rằng cổ phiếu của Teijin đã được bán thấp hơn giá thị trường, người bán có thể bị kết tội lạm dụng quyền hành. Nakajima và các nhân viên Bộ Tài Chính có thể bị kết tội hối lộ liên quan đến giao dịch cổ phiếu. Cuối cùng, họ cho rằng bộ trưởng Mitsuchi, được gọi làm nhân chứng, đã nói dối, thến nên ông ta cũng có thể bị truy tố vì tội khai man. Những quyết định đó được đưa ra từ ngày 28/4 đến 13/9/1934. Trong số 17 nghi phạm thì 12 người đã thú nhận nhiều tội khác nhau trong cuộc điều tra của công tố viên. Việc công tố viên Kuroda bất ngờ chết ở tuổi 43 vào ngày 23/7 đã gây ra cho các công tố viên một sự căng thẳng lớn trong cuộc điều tra. Bước tiếp theo trong việc truy tố là trình bày các bằng chứng tại phiên tòa đánh giá sơ bộ. Không có gì bất ngờ, phiên tòa đánh giá sơ bộ đã chấp nhận quan điểm của công tố về vụ án. Ngoại lệ duy nhất là bác bỏ truy tố nghi phạm Takanashi Hiroji, một thanh tra của ngân hàng Kawasaki Daihyaku. [57]

Công chúng, tuy đã chai sạn trước các tin tức về sự vi phạm pháp luật của chính khách và doanh nhân, song cũng bị sốc nặng nề khi biết 5 viên chức Bộ Tài Chính bị cáo buốc nhận hối lộ. Aoki Kazuo, trưởng Ban Ngoại Tệ của Bộ Tài Chính, cho biết rằng chưa bao giờ có một vụ án hối lộ ở bộ - kể từ đó, sự mất niềm tin của nhân viên bộ và cú sốc của công chúng. [58]

Khai mạc Nghị Viện Đế Quốc vào ngày 31/11/1934, Iwata Chûzò, Thượng Viện, chất vấn chính phủ về việc xử lý các nghi phạm trong vụ Teijin. Ông ta hỏi tại sao các nghi phạm bị giam giữ khi không có nguy cơ bỏ trốn. Có phải việc giam giữ kéo dài được sử dụng để ép cung? Tạo sao một số nghi phạm bị còng tay nhiều ngày mỗi lẫn và do vậy không thể tự đuổi muỗi? Tại sao một số nghi phạm bị giam trong những căn phòng cực nhỏ (tức là chờ thẩm vấn) trong suốt nhiều ngày trước khi được thẩm vấn? Có phải đó là chiến thuật bẻ gãy sự kháng cự của nghi phạm? Hôm sau, bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara Naoshi phủ nhận cáo buộc cho rằng các công tố viên đã hành hạ các bị cáo. Lý do của việc sử dụng còng tay, Ohara nói, là lo ngại rằng nghi phạm bị giam sẽ tự tử; sự đối xử với các nghi phạm không nhằm mục đích ép cung. [59] Báo chí ở Osaka và Tokyo đăng những bài báo khó chịu đã phá hoại sự tin tưởng của công chúng đối với việc xử lý vụ án của Bộ Tư Pháp. Ví dụ, một tờ báo ở Osaka cho rằng các thẩm phán đánh giá sơ bộ đã cho rằng bằng chứng của công tố viên rất yếu. Tổng chưởng lý Hayashi Raisaburò cho rằng cần phải bác bỏ cáo buộc này. Một tờ báo ở Tokyo cho biết có tin đồn trên báo chí là các bị cáo đã bị ép nhận những tội không có cơ sở. [60] Vào ngày 23/1, Minobe Tatsukichi (Thượng Viện), giáo sư danh dự của Đại Học Đế Quốc Tokyo, đã hỏi bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara về việc vi phạm các quyền cá nhân của nghi phạm. Điều 194 của Luật Hình Sự, Minobe chỉ ra, quy định rằng việc viên chức chính quyền ép cung và các cách hành hạ nghi phạm khác đều là tội hình sự. Cho đến nay, Minobe nói, tin đồn về việc vi phạm quyền cá nhân của nghi phạm là đúng. Ví dụ, việc Okazaki “tự nguyện” có mặt ở Sở Cảnh Sát thành phố Osaka, tại đó ông ta bị giữ trong một phòng giam nhỏ cùng với bảy người khác ngay cả khi bị bệnh. Một tuần sau, ông ta được đưa đến Tokyo, một lần nữa dưới dạng “tự nguyện”. do không có lệnh chính thức nào, Minobe coi đây là sự giam giữ bất hợp pháp. Ai sẽ “tình nguyện” ở một nơi bẩn thỉu như vậy? ông ta hỏi. Minobe cũng yêu cầu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara giải thích về việc sử dụng còng tay. Có phải việc đó được thực hiện để khiến nghi phạm đau đớn về thể xác? Còn phòng giam đầy những rận của Nagano thì sao? Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara trả lời rằng các công tố viên đã hành động đúng đắn, nhưng ông sẽ điều tra về trường hợp Okazaki. Mọi cáo buộc về việc “tra tấn” các nghi phạm, bộ trưởng tin rằng, đều là sai lầm. Trả lời cáo buộc của Minobe về việc tài liệu của công ty Teijin đã bị thu giữ bất hợp pháp, Ohara khẳng định rằng các công tố viên chỉ mượn tài liệu của công ty (tức là “thu giữ tạm thời”) và Okazaki đã “tự nguyện” đi cùng các công tố viên. [61] 

Vào ngày 6/2, Iwata (Thượng Viện) lại một lần nữa đưa ra câu hỏi về sự vi phạm quyền cá nhân của nghi phạm. Theo lời khai của các nghi phạm, ông ta nói, công tố viên điều tra họ đã cáo buộc rằng doanh nhân phải chịu trách nhiệm về các chính khách tham nhũng và các hành động của Bộ Tài Chính trong vụ trốn thuế của Meitò là sai. [62] Công tố viên nói như sau: “Chúng tôi giữ anh, bị cáo, chẳng vì lý do gì hết. Có những người cấp cao hơn vẫn còn đang dấu mình, chúng tôi muốn đưa họ ra trước công lý. Mục tiêu của chúng tôi là thực hiện một cuộc đảo chính không đổ máu để thanh tẩy xã hội.” [63] Trong thời gian này, tờ Kobe Newspaper đã đăng một trích đoạn trong lời khai của Nagano. Công tố viên 
không bao giờ cho phép ông ta nói bất cứ điều gì ngoại trừ những từ thừa nhận cáo buộc ông ta đã đưa hối lộ 1.300 cổ phiếu. Ngay khi ông ta cố gắng phủ nhận cáo buộc, họ liền nạt nộ, “Đừng nói chuyện ngớ ngẩn!” Họ xô đẩy ông ta, ra lệnh cho ông ta phải đứng thẳng và…đấm vào mặt ông ta. Ông ta bị đẩy vào tường phía sau, trán và hàm của ông ta bị đẩy khiến cho phía sau gáy bị đập vào tường….[Một công tố viên sau đó nói,] “Một kẻ thấp kém như như mày nên chết đi thì hơn. Nhưng dĩ nhiên là mày không đủ can đảm để tự tử. Nếu mày không biết cách tự tử thì tao sẽ nói cho mày biết. Đập đầu vào tường đi, đó là cách tự tử đấy. Nào làm đi!” [64]
Tờ báo tiếp tục đưa tin, “Sau đó, ông ta bị còng tay (còng tay bằng da). Khi ông ta không cử động tay được….ông ta không thể đuổi muỗi và bọ chét. Ông ta hiếm khi ngủ được ban đêm….Một bạn tù nói với ông ta rằng họ trừng phạt ông ta bằng cách còng tay….Đôi lúc sau đó, một công tố viên, trong khi thẩm tra ông ta, đe dọa rằng nếu ông ta còn ngoan cố thì sẽ tiếp tục bị còng tay.” Do Nagano không nhận tội, ông ta đã được sang một phòng giam khác vào ngày 10/7. Phòng giam này “thực sự là một ổ rận. Khi ông ta ở bên trong, một đám bọ tấn công ông ta…và ông ta phải thức suốt đêm để chống lại chúng. Tình trạng này kéo dài khoảng một tháng.” [65] Tờ Japan Weekly Chronicle đưa tin rằng mặc dù một số cáo buộc về việc hành hạ nghi phạm có thể bị thổi phồng song cáo buộc của các luật sư bào chữa, một số người có ghế ở Quốc Hội, là sự thật: một số nghi phạm đã được xếp loại 3. “Các cáo buộc là khá rõ ràng và theo một mức độ tôn trọng nhất định thì không thể phản đối. Các bị cáo đã bị còng tay liên tục 48 giờ mỗi lần; những người khác đã bị nhốt trong các phòng giam đầy côn trùng và tất cả - cùng một thời gian hoặc khác – đều là đối tượng của các mánh khóe hành hạ tinh vi – chủ ý hay không – được tính toán để bẻ gãy sự kháng cự của họ và tạo ra các thú tội cần thiết, vốn là đặc trưng của thủ tục tố tụng hình sự Nhật Bản.” [66]

Phiên tòa công khai bắt đầu vào ngày 22/6/1935; Fujii Goichirò, từng đảm nhiệm việc xét xử nhóm Hiệp Ước Máu, là chánh tòa trong phiên tòa có ba thẩm phán. Các công tố viên Biwada, Hirata Susumu và một số đồng nghiệp khác đã đối mặt với một trung đội luật sư bào chữa do Imamura Rikisaburò, một luật sự xuất sắc có hơn 25 kinh nghiệm, dẫn đầu. Bốn trong số 16 bị cáo không ký biên bản nhận tội: cựu bộ trưởng Mitsuchi Òno, Aida và Shidomoto (nhân viên Bộ Tài Chính); họ kiên định phủ nhận việc đưa hoặc nhận hối lộ. Shimada, cựu chủ tịch của ngân hàng Taiwan, phản cung với lý do bị cưỡng bức và nói không biết gì về 1.300 cổ phiếu được đưa cho nhiều người. Một bị cáo khác cũng phản cung. Nam tước Nakashima thừa nhận đã nhận 10.000 yen nhưng khẳng định rằng đó là tiền quyên góp chính trị và không liên quan đến Teijin. [67]

Phiên tòa công khai trải qua 265 phiên xét xử ngoại trừ ngày 16/12/1937, ngày tuyên án. [68] Một nhiệm vụ chính của thẩm phán Fuji là xác định xem cổ phiếu của Teijin có được bán đúng giá không. Takagi cho rằng chúng đúng giá và không thể dự báo giá trị tương lai của cổ phiếu. Ông ta nói, cũng là hợp lý khi bán hàng trăm ngàn cổ phiếu cho nhóm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ-bông bởi vì khó có ai khác có thể gom được một số tiền lớn như vậy (12.500.000 yen). Hơn nữa, ngân hàng Nhật Bản đã thúc ép ngân hàng Taiwan phải trả nợ. Bởi vì chứng minh sự lạm dụng quyền hành ở phía người bán phụ thuộc vào việc Takagi và các nhân viên ngân hàng khác có thể dự báo được sự tăng vọt của giá cổ phiếu Teijin sau khi bán hay không, thẩm phán Fuji đã tra hỏi Takagi trong một phiên xét hỏi sau những người khác. Khi Fuji chỉ ra rằng Takagi đã thú nhận, Takagi trả lời rằng công tố viên Kuroda đã khủng bố ông ta. Kuroda, bị cáo nói, đã có định kiến là giới tài phiệt cấu kết với chính khách và ngay cả Bộ Tài Chính cũng tham nhũng. Ông ta nói, Kuroda trích dẫn ví dụ về vụ trốn thuế của Meitò. Bên cạnh sự hăm dọa liên tục, Takagi khẳng định rằng ông ta bị còng tay trong ba ngày đêm. Cuối cùng, để thoát khỏi những đau đớn thể xác và tinh thần, ông ta đã đồng ý với bất cứ điều gì Kuroda nói. Con số 1.300 cổ phiếu, ông ta cho biết, là do một công tố viên đưa ra. Fuji hỏi tại sao Takagi không phản cung ở phiên đánh giá sơ bộ. Takagi trả lời rằng thẩm phán đã không nghe. [69]

Suzuki Yoshio, luật sư trưởng của Takagi, nói với tòa án rằng thân chủ của ông đã bị hành hạ tại nhà tù thành phố Osaka. Ví dụ vào sáng ngày 7/4, một lính gác quật ngã ông ta xuống mặt sàn cứng và đá ông ta, công tố viên gọi ông ta là tham nhũng. Cảng sát đối xử với ông ta giống như những kẻ móc túi hay trộm cắp thông thường, giam ông ta trong một phòng giam nhỏ với hơn mười kẻ lang thang đầy chấy rận. Takagi, luật sư nói, không đủ tinh thần để chịu đựng sự đối xử kiểu này. Do các hành hạ tinh thần và thể chất đó, Takagi đã thú nhận bất cứ điều gì mà công tố viên nói. Sự dại dột của Takagi, Suzuki nói, là nghĩ rằng sự hợp tác sẽ giúp ông ta được về nhà. Trái lại, ông ta bị chuyển tới nhà tù ở Tokyo. Suzuki cho biết rằng nững người khác cũng nhận tội, nhưng chỉ ra rằng tất cả đều đã phải ngồi tù từ 100 đến 200 ngày. Khi họ không trả lời đúng, họ bị trừng phạt bằng cách còng tay. [70]

Ngay giai đoạn đầu của phiên tòa, các bị cáo đã lật ngược thế cờ và đẩy công tố viên lên vành móng ngựa. Ví dụ, trong một buổi thẩm vấn, “Takagi đã quay sang công tố viên Biwada và hét lên rằng ông ta sẽ không bao giờ quên sự hành hạ đối với đôi tay của mình ở Osaka. Khi ông ta tiếp tục la hét, tòa án đã cảnh cáo bị cáo….Ngài Takagi nói với tòa rằng trong đời mình ông chưa từng trải qua bất thứ gì giống như sự hành hạ của công tố viên.” Takagi khẳng định rằng họ buộc ông phải nói “những điều ông biết là sai”. Trong một phiên xét xử khác, Shimada đã lên án các công tố viên đầy khinh miệt. Khi được hỏi tại sao ông lại dùng những từ ngữ lỗ mãng như vậy, Shimada trả lời rằng các công tố viên đã nhục mạ ông ta trong khi thẩm vấn bằng cách la hét, đập bàn, dậm chân xuống sàn và gọi ông ta là quân phản bội. [71]

Suốt phiên tòa, Shimada đã ủng hộ sự đấu tranh của Takagi rằng giá cổ phiếu là phù hợp và không thể dự báo về sự biến động tương lai của giá cổ phiếu. Hơn nữa, ông ta chỉ ra rằng ngay vào năm 1931 chính phủ đã thúc ép ngân hàng Taiwan bán cổ phiếu. [72]

Phiên tòa đầy bê bối đã trôi đi như vậy, lần lượt từng bị cáo phản cung và tố cáo sự hành hạ của các công tố viên. Các sự lên án đầy khinh miệt đối với công tố cũng đến từ Quốc Hội. Ví dụ, Makino Ryòzò (Seiyûkai) đã cáo buộc công tố viên nói chung “lạm dụng quyền lực công…Thời gian giam giữ quá dài….Hiện nay, hầu hết các trường hợp là 100 đến 200 ngày. Khi mà các nghi phạm là nhân vật của công chúng thì thời gian giam giữ có khuynh hướng kéo dài.” [73] Makino tiếp tục chỉ ra rằng các nghi phạm bị giam giữ lâu sẽ trả lời theo yêu cầu của công tố viên. Ông chỉ ra các báo cáo về viên chức cấp cao của Bộ Đường Sắt, bị bắt giữ năm trước, vẫn tiếp tục bị thẩm vấn vì không chịu nhận tội. [74] Tờ Japan Weekly Chronicle, được khuyến khích bởi chất vấn của Makino, đã đưa tin như sau: “Ở đây, ngài Makino đã nhắc đến sự lạm dụng phổ biến nhất…. Khi bị bắt giữ, một nghi phạm không có cơ hội được tự do cho đến khi cả cảnh sát và công tố viên hài lòng với việc điều tra, lấy được từ anh ta mọi thứ anh ta biết về tội lỗi….Vụ bê bối Teijin…cho thấy một ví dụ nổi bật.” Nghi phạm trong vụ án này, tờ báo viết, “bị giam giữ ở nhà giam của cảnh sát, không được phép gặp luật sư, trong thời gian dài…Cuối cùng họ được tại ngoại sau khi đã ký các bản cung khai.” Tại tòa, các bị cáo giải thích rằng “chỉ có ký đơn nhận tội thì họ mới được nghỉ ngơi trong cuộc điều tra sẽ hủy hoại sức khỏe của họ.” [75] 

Điều kỳ lạ nhất trong phiên tòa này là sự xuất hiện của thẩm phán phiên đánh giá sơ bộ Morozumi Seiei với tư cách nhân chứng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sự Nhật Bản một thẩm phán đánh giá sơ bộ phải tuyên thệ làm nhân chứng. Chánh tòa Fuji gọi Morozumi ra tòa để giải đáp câu hỏi về một văn bản được trao đổi giữa Nakajima và Nagano. Đây là một yếu tố pháp lý quan trọng, do sự trao đổi thông tin giữa hai nghi phạm trong phiên đánh giá sơ bộ là bất hợp pháp. Thẩm phán Fuji hỏi, “Vào ngày 22/7/1934, khi ông phụ trách vụ án này, ông có nhận được yêu cầu của công tố viên cho về việc cho phép trao đổi văn bản giữa hai bị cáo, có nghĩa là trao một lá thư do nam tước Nakashima viết cho Nagano, thúc giục Nagano xác nhận với công tố viên rằng ông ta nhận 200 cổ phiếu của Teijin (như là quà tặng của ngân hàng) từ Nagano?” [76] Morozumi trả lời tốt hơn cả là ông ta sẽ nộp câu trả lời bằng văn bản. Những câu hỏi được thẩm phán Fuji lặp lại đều không nhận được câu trả lời của Morozumi. Kịch bản này được lặp lại ở phiên xét sử thứ hai, Morozumi khẳng định rằng ông ta không được phép đưa ra các bằng chứng. Để giải quyết vấn đề này, thẩm phán Fuji yêu cầu và nhận được từ Tòa án Hình Sự Tokyo hồ sơ đánh giá sơ bộ của Morozumi. Fuji đọc báo cáo này để lưu vào hồ sơ phiên tòa. Theo bản báo cáo, Morozumi khẳng định rằng ông ta đã bác bỏ yêu cầu của công tố viên Kuroda về việc đưa một văn bản do một bị cáo viết cho một bị cáo khác. Kuroda không thể bị thẩm vấn do ông ta đã chết, nhưng các công tố viên Biwada và Hirata khẳng định rằng Morozumi đã cho phép, nói thêm rằng dĩ nhiên ông ta đã quên. Cuối cùng, Morozumi xuất hiện tại tòa án lần thứ ba; một lần nữa ông ta phủ nhận việc đã cho phép trao đổi văn bản. Cuộc nội chiến giữa các viên chức tư pháp đã khiến Bộ Tư Pháp bối rối và là một thuận lợi rõ ràng cho nhóm bào chữa. [77] Một tờ báo đưa tin, “Xung đột hiện nay là một trong những câu hỏi pháp lý nghiêm trọng nhất trong lịch sử Tòa Án của đất nước này. Cho rằng nhân chứng có thái độ chống lại các điều khoản của Luật Tố Tụng Hình Sự, các luật sự biện hộ cho bị cáo đã yêu cầu Tòa Án có các hành động quyết liệt đối với ông ta.” [78] Hiệp Hội Luật Sư Đế Quốc cũng ủng hộ nhóm biện hộ, đã gửi một nghị quyết lên án cho bộ trưởng Bộ Tư Pháp Shiono. [79]

Vào giai đoạn sau của phiên tòa, công tố viên Hirata tuyên bố rằng cáo buộc về tra tấn “hoàn toàn không có cơ sở. Việc các bị cáo phủ nhận sự truy tố không phải là bất thường…nhưng việc tất cả các bị cáo đều chỉ trích và lăng nhục các công tố viên trong suốt các phiên thẩm vấn là chưa từng được thấy. Song tất cả các cáo buộc này đều không có cơ sở và các công tố viên không hề bức cung.” [80]

Trong phiên thẩm vấn cuối cùng, công tố viên yêu cầu những bản án như sau: Mitsuchi, khai man, 6 tháng tù; Nakajima, nhận hối lộ, 1 năm tù; Kuroda, nhận hối lộ, 2 năm tù; Òkubo, nhận hối lộ, 10 tháng tù; Òno, nhận hối lộ, 8 tháng tù; Aida, nhận hối lộ, 8 tháng tù; Shidomodo, nhận hối lộ, 6 tháng tù; Shimada, lạm quyền và hối lộ, 2 năm; Takagi, lạm quyền và hối lộ, 2 năm tù; Nagano, lạm quyền và hối lộ, 2 năm tù; Yanagida, lạm quyền và hối lộ, 1 năm tù; Nagasaki, lạm quyền và hối lộ, 10 tháng tù; Koshifuji, lạm quyền và hối lộ, 6 tháng tù; Ozaki, lạm quyền và hối lộ, 6 tháng tù; Kobayashi, lạm quyền và hối lộ, 6 tháng tù; Kawai, lạm quyền, 14 tháng tù. [81]


Phiên tòa Teijin trải qua 265 phiên xét xử (công thêm phiên cuối cùng để tuyên án) đã trở thành kỷ lục của tòa án. [82] Thẩm phán Fuji đọc lời tuyên án, giống như một cú tát mạnh vào mặt các công tố viên, vào ngày 16/12/1937. Fuji chỉ trích các bằng chứng của họ giống như “một nỗ lực vớt trăng dưới đáy nước.” [83] Hầu hết những người có mặt tại phòng xử án đều hiểu rằng thẩm phán muốn nhắc tới bức tranh vẽ cảnh một con khỉ bám trên một cành cây đang cố múc lấy hình ảnh mặt trăng phản chiếu trên mặt nước. [84] Tại một cuộc họp báo, thẩm phán Fuji tuyên bố rằng phán quyết là trắng án, bởi vì “không có hành vi phạm tội nào tồn tại” (hanzai no jijitsu ga sonzai shinai). Ông ta nói, “Đặc biệt, tôi hy vọng rằng các vị sẽ không nhầm lẫn về điều này.” [85]

Theo hồi ký của Matsuzaka Hiromasa (trưởng Cục Tội Phạm), bản án của tòa là một đòn nặng đối với công tố và các công tố viên muốn kháng án. Bộ trưởng Bộ Tư Pháp Shiono Suehiko (2/1937 – 8/1939) ra lệnh cho Matsuzaka nghiên cứu kỹ lưỡng về vụ án và đưa ra khuyến nghị vào ngày 23/12, ngày cuối cùng trong thời hạn kháng án. Vào ngày 22/12, Shiono nói với Matsuzaka rằng ông ta sẽ không kháng án bởi vì ông ta cảm thấy rằng không thể thắng vụ án này. Công việc tiếp theo của Matsuzaka là trấn an các công tố viên của Tòa Án Quận Tokyo. Ngày hôm sau, Shiono họp với Tokunaga Eikichi (chưởng lý của Tòa Án Quận Tokyo), tổng chưởng lý Motoji Shinkuma và một số người khác cũng có mặt. Một viên chức nói rằng tất cả các công tố viên đều cho rằng các bị cáo có tội và cần phải kháng án. Tokunaga, rất tức giận vì bản án (dĩ nhiên ông ta cho rằng các công tố viên bị so sánh với khỉ!), đã yêu cầu kháng án. Motoji cho rằng bỏ đi những yếu điểm của cáo trạng và củng cố các điểm khác sẽ giúp kháng án thành công. Không ai trong phòng họp có thể chắc chắn về thắng lợi. Shiono quyết định không kháng án. [86]

Cựu bộ trưởng Bộ Tư Pháp Ohara (trong nội các của Okada Keisuke, 7/1934 – 3/1936) viết trong hồi ký là vụ án Teijin đã cho thấy xung đột giữa các viên chức tư pháp. Một mặt, ông ta thừa nhận rằng các công tố viên có nhiều sai lầm trong điều tra; mặt khác, ông ta lại cho rằng tòa án đã phán quyết sai. Không may là tòa án chịu ảnh hưởng quá nhiều từ lời khai của bị cáo và tin tức báo chí. Ohara viết, vụ án nên được kháng án. [87] Thêm vào đó, Ohara viết, “Khi nghĩ lại về hành động của ngài Mitsuchi, tôi ngạc nhiên là không có cách nào xử lý vấn đề tốt hơn.” [88] Trên thực tế, Ohara ở vị thế có thể làm điều gì đó về vấn đề Mitsuchi. Trước khi mở phiên tòa, thủ tướng Okada đã cố gắng giải quyết vấn đề về Mitsuchi bằng cách hỏi Ohara xem có thể làm gì với cáo trạng của Mitsuchi. Ohara hiểu rằng thủ tướng đã suy nghĩ từ lâu về việc hủy bỏ cáo trạng (cách đã được dùng để giảm nhẹ sự hạ nhục đối với bộ trưởng Bộ Nội Vụ Òura Kanetake vào năm 1915), nhưng Ohara không có khả năng hủy bỏ việc truy tố cũng như không muốn làm việc đó. [89] Dĩ nhiên Ohara không có bụng dạ nào để chống lại các công tố viên hung hãn và những người ủng hộ họ ở các vị trí cao trong Bộ Tư Pháp. 

Biên tập viên hồi ký của Ohara (có lẽ là Kaji Kòichi, một nhà báo đảm nhiệm việc đưa tin về vụ Teijin) viết rằng các công tố viên vào lúc đó ít hiểu biết về cổ phiếu và trái phiếu và do vậy họ đã mắc sai lầm. Tuy vậy, bằng chứng cho thấy tiền được trao đổi liên quan đến vụ Teijin cũng có đủ. Ông ta chỉ ra rằng, Nakajima đã nhận tội trước khi bị bắt giữ. Điều đó thật khó tin, Kaji viết, một doanh nhân và chính khách lọc lõi như Nakajima sẽ không nhận tội trừ khi cáo buộc có bằng chứng thực sự. Hơn nữa, công tố viên phải tập trung vào cáo buộc lạm quyền thay vì cáo buộc tham nhũng. Kaji kết luận rằng hành động của cả công tố viên cũng như các bị cáo đều làm vấy bẩn sự thật. [90] 

Hồi ký của bộ trưởng Bộ Tư Pháp Shiono về vụ án Teijin bắt đầu bằng bình luận là mặc dù ông ta hoàn toàn đứng ngoài cuộc, song bốn ngày xem lại tài liệu của vụ án đã cho ông ta thấy rằng việc bắt giữ và cáo trạng đối với các bị cáo là chính xác. Tuy vậy, “giác quan thứ sáu” của Shiono mách bảo với ông ta rằng cáo cáo buộc có một nửa là sự thật và một nửa là tưởng tượng. Khi quyết định không kháng án, Shiono đã cân nhắc đến cuộc chiến tranh với Trung Quốc (từ tháng 7/1937) và thiệt hại đối với uy tín của công tố viên. Do vậy, ông ta cho rằng tốt nhất đối với Bộ Tư Pháp và quốc gia là bỏ qua vụ việc phức tạp này. Vào ngàu 23/12, Shiono thông báo vụ án Teijin đã kết thúc. [91] 

Trong một bài phỏng vấn thời hậu chiến, thẩm phán Fuji được hỏi về những sai lầm của viên chức tư pháp. Ông ta trả lời rằng các công tố viên đã không chuẩn bị chu đáo và thiếu sự thống nhất trong mục tiêu. Các thẩm phán đánh giá sơ bộ cũng vậy, đã gia tăng thêm sự hỗn loạn bằng những sai lầm. Trong một số trường hợp, bằng chứng về việc các nghi phạm gặp nhau là không chính xác. Trên hết, Fuji cho rằng rất nhiều vấn đề phát sinh từ sự điều tra không hợp lý. Hơn nữa, rõ ràng là công tố viên không hiểu vấn đề chủ chốt của phiên tòa: việc bán cổ phiếu. Hai quan tòa đồng sự, Fuji cho biết, hoàn toàn đồng ý rằng bằng chứng không ủng hộ cho công tố viên. Do vậy, việc tuyên trắng án là dễ hiểu. Khi được hỏi về tuyên bố nổi tiếng về con khỉ và mặt trăng, Fuji nói rằng điều đó được thẩm phán Ishida Kazuto viết. Do ba quan tòa chia nhau viết bản án nên tuyên bố ấy có tạo ra một chút ngạc nhiên, nhưng các quan tòa quyết định không xóa bỏ nó, mặc dù họ biết rằng các công tố viên sẽ cảm thấy bị xúc phạm. [92] 

Chánh tòa đánh giá sơ bộ Morozumi, được phỏng vấn sau chiến tranh, đã lặp lại lời khai trước tòa: Ông ta không được phép trả lời câu hỏi của thẩm phán Fuji. Do vậy, Fuji nên đọc báo cáo. Khi được hỏi về yêu cầu của công tố viên Kuroda về việc cho phép trao đổi văn bản giữa hai bị cáo, Morozumi trả lời rằng ông ta không đồng ý. Ông ta kết luận rằng mình đã hành động đúng. [93]

Imamura Rikisaburò, luật sư cao cấp của phiên tòa, đã chỉ ra trong một văn bản có tại trụ sở của Minseitò vào năm 1937 rằng công tố viên ngày càng thống trị các vụ án chính trị và chèn ép quan tòa. Khuynh hướng này bắt đầu từ vụ High Treason (1910 – 1911) và được thể hiện đầy đủ trong vụ Teijin. Imamura đặc biệt chú ý tới công tố viên của Tòa Án Quận Tokyo, nói rằng từ khoảng năm 1929, họ đã có ý định phá hủy nội các bằng quyền lực công tố. Vụ án Teijin là kết quả của chiến dịch. Ông ta cho rằn vấn đề này có thể giải quyết được bằng cách khôi phục quyền lực của thẩm phán và thúc giục các thẩm phán, công tố viên và cảnh sát không chỉ chú ý tới luật pháp mà còn phải chú ý tới trách nhiệm về đạo đức. [94] Trong cuốn Thảo Luận về Vụ Án Teijin (Teijin jiken benron), được Imamura xuất bản tư nhân vào tháng 12/1937, ông ta tiếp tục lên án công tố viên Tokyo. Ngoài việc đề cập tới lá thư mà Wakatsuki gửi cho Kusumi yêu cầu quyên góp, do ai đó tiết lộ ra ngoài, ông ta cũng cáo buộc rằng trong vụ án của Kobashi các công tố viên đã ép bị cáo Kusumi thay đổi ngày tháng trong lời khai để lôi kéo Kobashi vào. Hơn nữa, ông ta nhắc lại việc các bị cáo trong vụ Teijin nghe thấy công tố viên nói rằng doanh nhân và chính khách đều tham nhũng và nhiệm vụ của các công tố viên không thể bị mua chuộc là xóa sổ những kẻ tham nhũng khỏi xã hội. [95]

Bị cáo Kawai Yoshinari viết trong hồi ký của ông ta là công tố viên đã ép cung Takagi và Kuroda. Takagi ký vào bản cung khai để thoát khỏi điều kiện giam giữ tồi tệ và các cuộc thẩm vấn bất tận. Tất cả những gì ông ta nghĩ tới là được trở về nhà. Phải nằm viện vì những vết lở loét là dấu hiệu cho thấy sự căng thẳng của Takagi. Cũng như đối với Kuroda, Kawai cho rằng một người nghiện rượu nặng như thứ trưởng, một tháng không được uống rượu cùng với điều kiện giam giữ tồi tệ và các cuộc thẩm vấn đã buộc ông ta phải nhận tội bừa. [96]

Nhà báo Nonaka Moritaka, theo sát toàn bộ phiên tòa, lên án các công tố viên về việc tạo ra một vụ án chính trị nghiêm trọng gây xáo trộn xã hội. Ông ta viết, chính quyền nên điều tra vụ án này đề cho công chúng biết ai phải chịu trách nhiệm. [97]

Tờ Japan Weekly Chronicle bình luận, “Sự quan trọng thật sự của phiên tòa đối với chúng ta không phải là một nhóm luật sư bào chữa xuất sắc…có mặt tại tòa…mà là việc tòa án tin vào lời khai trực tiếp của các bị cáo, trái ngược với các bản cung khai đã được ký tên….Tòa án không tin vào các bằng chứng của việc đánh giá sơ bộ…cuối cùng đã cho thấy một điều rất đặc biệt.” Tờ báo tiếp tục, “Có một số ví dụ cho thấy Tòa Án Quận đã lưỡng lự khi chấp nhận các quan điểm của công tố, nhưng không bao giờ quả quyết và công khai như trong vụ án Teijin. Sự phản đối cho rằng các cáo buộc sai được đưa ra do một số viên chức nhất định không chịu nghe lời khai khác và bởi vì các bị cáo bị hành hạ trong tù…đã được điều tra….” Tuy vậy, tờ báo viết, thẩm phán Fuji không nhắc hay ám chỉ tới các cáo buộc bị hành hạ trong tù của các bị cáo.” [98] Trái lại, Fuji tập trung vào sự thiếu bằng chứng đối với tội lạm quyền và hối lộ.” 

Sự kết thúc của phiên tòa không chấm dứt sự chỉ trích đối với Bộ Tư Pháp. Các chính khách ở cả hai đảng lớn đều lên án công tố viên vi phạm quyền cá nhân của bị cáo trong vụ Teijin cũng như các vụ án khác. Chính phủ cần phải làm gì để thay đổi tình trạng này? Ai phải chịu trách nhiệm về những sai lầm trong vụ Teijin? Họ cũng hỏi tại sao chưởng lý Iwamura lại được thăng cấp làm thứ trưởng thay vì bị buộc phải từ chức. [99] Tại cuộc họp của ủy ban ngân sách của Quốc Hội vào ngày 2/2/1938, Shiono đã bị lên án vì phát biểu sau phiên tòa (trong một cuộc họp báo chi) rằng ông ta hy vọng rằng các bị cáo đã học được một bài học và sẽ cư xử tốt hơn trong tương lai. [100] Shiono trả lời rằng ông ta “luôn luôn cho rằng bản án được tuyên…là đúng đắn. Vào lúc đó, các công tố viên liên quan sốt sắng muốn kháng án, nhưng ông ta đã khiến họ đổi ý. Bộ trưởng tuyên bố rằng ông ta tin tưởng sự thật đã được thể hiện trong bản án. Ông ta phủ nhận khi một bản tin báo chí chưa được tìm thấy mô tả ông ta thể hiện sự bất bình với bản án.” [101] Mặc dù tuyên bố này đã làm hạ nhiệt của Bộ Tư Pháp song nó chỉ là một nửa sự thật. Như hồi ký của Shiono đã cho thấy, ông ta không chấp nhận tất cả “sự thật” trong bản án của Fuji; Shiono cho rằng một số bị cáo có tội. Vào ngày 1/3/1938, Seiyûkai và Minseitò đưa ra một kiến nghị chung yêu cầu chính phủ cải cách hệ thống truy tố hình sự. Trong cuộc tranh luận về kiến nghị, được áp dụng với đa số lớn, nó đã chỉ ra rằng không có viên chức tư pháp nào phải chịu trách nhiệm về vụ án Teijin và từ chức. [102] Yêu cầu cải cách tư pháp đã thúc đẩy Bộ Tư Pháp và một số hiệp hội luật sư thành lập các ủy ban điều tra, nhưng sự mở rộng của chiến tranh với Trung Quốc đã thu hút sự chú ý sang hướng khác và không có sự thay đổi nào trong hệ thống tư pháp. [103]

Khó có thể đánh giá được mức độ tổn hại của vụ Teijin đối với các bị cáo và viên chức tư pháp, song rõ ràng là một số người có tình hình tốt hơn những người khác. Nam tước Nakajima và cựu thứ trưởng Kuroda được bổ nhiệm làm thượng nghị sĩ. Mặc dù Nakajima tránh chính trị và tài chính sau khi va chạm với pháp luật song ông ta cũng trở thành chủ tịch của Hiệp Hội Thương Mại Quốc Tế Nhật Bản. Vào ngày 29/1/1938, Mitsuchi được nhận huân chương Mặt Trời Mọc hạng nhất. Huân chương cao quý này được trao vào ngày 29/4/1935, nhưng bị thu lại cho đến khi vụ án kết thúc. Mitsuchi là bộ trưởng không bộ trong nội các đầu tiên của Konoe Funimaro (6/1937 – 1/1939) và vào năm 1940 ông ta tham gia Hội Đồng Cơ Mật. Sau chiến tranh, ông ta giữ hai chức bộ trưởng dưới thời nội các Shidehara Kijûrò (10/1945 – 5/1946). Cựu viên chức công ty Teijin Kawai Yoshinari và Nagano Mamoru cũng giữ chức trong nội các thời hậu chiến. Trong thời hậu chiến, Kobayashi trở thành chủ tịch đầu tiên của ngân hàng Phát Triển Nhật Bản và là một nhân vật quyền lực trong giới thống trị cả chính quyền lẫn kinh doanh. Nagano trở thành một người môi giới nổi tiếng của thế giới chính trị ngầm. Shòriki giữ chức bộ trưởng trong nội các đầu tiên của Kishi Nobusuke (2/1957 – 6/1958). Tình hình của các viên chức cấp thấp trong Bộ Tài Chính không tốt. Ví dụ, Òno và Aida được tái bổ nhiệm, Aida là thanh tra ngân hàng và Òno là đặc phái viên tài chính về Trung Quốc. Vị trí đặc phái viên đã bị bỏ trống nhiều năm, có lẽ Òno bị thuyên chuyển sang một công việc không có tương lai. Về phía viên chức Bộ Tư Pháp, cựu bộ trưởng Ohara được bổ nhiệm vào Thượng Viện vào ngày 2/9/1936. Ohara không nhận được huân chương Mặt Trời Mọc hạng nhất, cho đến gần ba mươi năm sau khi nghỉ hưu; dĩ nhiên vinh dự này bị trì hoãn do vụ truy tố Teijin. Ông ta làm bộ trưởng trong một thời gian ngắn vào năm 1954 (nội các thứ năm của Yoshida Shigeru). Sự nghiệp của cựu chưởng lý Iwamura Michiyo không bị ảnh hưởng: ông ta trở thành bộ trưởng Bộ Tư Pháp của nội các Tòjò Hideki (10/1941 – 7/1944). Trong thời gian đó, ông ta nhận được huân chương Bảo Vật Thiêng Liêng hạng nhất. Sau khi ông ta chết vào năm 1965, huân chương Mặt Trời Mọc được trao cho gia đình. Tình hình của cựu bộ trưởng Bộ Tư Pháp thì cũng không tốt, chỉ nhận được huân chương Bảo Vật Thiêng Liêng hạng hai, vào tháng 3/1937. [104] 

Hơn một năm sau khi bản án của vụ Teijin được đưa ra, độc giả báo chí được biết đến một vụ án hối lộ chính trị quan trọng khác, vụ này liên quan đến cựu bộ trưởng Đường Sắt Uchida Nobuya. Uchida, được bầu vào Hạ Viện trong mọi cuộc bầu cử kể từ năm 1924, là một doanh nhân nổi tiếng. Chính trị là sự nghiệp thứ hai; sau khi ông ta trở nên giàu có trong công nghiệp đóng tàu, Hara Kei đã kết nạp ông ta vào Seiyûkai sau thế chiến thứ I. [105] Uchida giữ chức bộ trưởng trong nội các Okada, đã có nhiều nỗ lực lớn để thanh tẩy bầu cử và làm trong sạch chính trị nói chung. 

Từ lâu trước khi Uchida trở thành bộ trưởng, “hội ý tham nhũng” (dangò oshoku) đã tồn tại trong các công ty xây dựng nộp hồ sơ đấu thầu các dự án của Bộ Đường Sắt. Nực cười là nỗ lực bài trừ tham nhũng ở bộ lại dẫn đến cáo trạng hối lộ của ông ta. Ngay sau khi nhậm chức, ông ta đã thanh lọc các nhân viên bị nghi là tham gia vào hoạt động tham nhũng và cố gắng mở cửa quy trình đấu thầu cho nhiều doanh nghiệp hơn. Trong số những người bị thiệt hại do cải cách này có Maeda Eijirò, người đứng đầu Dobokugyò, một hiệp hội của các nhà thầu được cấp phép. Khi bị cắt đứt khỏi nguồn thông tin ở Cục Xây Dựng của bộ, Maeda tìm kiếm sự hợp tác của Uchida. [106] 

Đảm nhận công việc lấy cảm tình của Uchida là Tobishima Bunkichi, chủ tịch của tập đoàn Tobishima và là cựu thượng nghị sĩ. Tobishima là một trong số các doanh nhân tìm kiếm cảm tình của Uchida ngay sau khi quyết định bổ nhiệm Uchida được công bố. Trong các cuộc viếng thăm của Tobishima tại nhà riêng của Uchida, các cuộc thảo luận đều là về các chủ đề chung; không có gì về đấu thầu xây dựng hay hợp đồng. Sau khi Tobishima biết rằng Uchida có kế hoạch thành lập một chính đảng mới, ông ta gom 50.000 yen từ Maeda và những người khác với kế hoạch quyên góp chính trị cho Uchida thông qua Nanba Kiyohito, một hạ nghị sĩ và là cánh tay phải của Uchida. Bên cạnh khoản đóng góp này cho Uchida, các nhà thầu cũng đóng góp vài trăm ngàn yen cho các ứng cử viên bầu cử cấp quận và tổng tuyển cử. [107] 

Các công tố viên cáo buộc rằng Tobishima đưa tiền cho Nanba tại một quán trà ở Asakusa, yêu cầu Nanba thúc giục Uchida đáp ứng lợi ích của nhóm Maeda. Hơn nữa, công tố viên nói, sau khi Uchida nhận được tiền, các lệnh cấm đối với nhóm Maeda đã bị bãi bỏ. Điểm chủ chốt trong phiên tòa, bắt đầu vào ngày 5/4/1938 và kéo dài đến khi tuyên án vào ngày 25/7/1939, là Uchida có thực sự nhận được tiền không. Ba thẩm phán được chọn tin vào lời khai của Nanba, ông ta đã đưa tiền cho Uchida. Do đó, cựu bộ trưởng bị tuyên án 8 tháng tù và bị phạt 50.000 yen. Nanba nhận án bốn tháng tù. Cả hai người đều được hoãn thi hành án một năm. Uchida, quyết liệt phản đối cáo trạng suốt phiên đánh giá sơ bộ và phiên tòa công khai, đã kháng án. [108] 

Các thẩm phán tòa phúc thẩm đã bác bỏ bản án sơ thẩm. Trong bản án được tuyên vào ngày 26/10/1940, họ viết rằng bị cáo có sự nghiệp chính trị lâu dài và chưa bao giờ liên quan đến tham nhũng và ông ta cũng được coi là một viên chức không thể bị mua chuộc khi thực hiện các quy định của chính quyền. Hơn nữa, khi giao dịch với các doanh nhân, ông ta không thảo luận về công việc của bộ; gia đình ông ta được lệnh không nhận quà tặng. Tòa án kết luận rằng việc cựu bộ trưởng nhận hối lộ là không thể tin được. [109] 

Uchida trình bày quan điểm về những sự kiện đó trong một cuốn sách thời hậu chiến. Tobishima đưa tiền và Uchida khẳng định rằng ông ta không nhận. Sau đó Tobishima bàn bạc với Nanba, người này nhận tiền. Một phần của khoản tiền đó được đưa cho các viên chức quận và một phần được sử dụng để thanh toán cho các hóa đơn của Nanba ở nhiều khách sạn của Akasaka. Trong cuộc điều tra của cảnh sát, viên chức khẳng định rằng Nanba phải chuyển khoản tiền đó, cho biết rằng nếu ông ta không chuyển tiền thì sẽ bị buộc tội lừa đảo. Viên chức cảnh sát nhấn mạnh là tội lừa đảo phải nhận hình phạt nặng hơn tội trợ giúp hối lộ. Dưới sức ép đó, Nanba đã thay đổi lời khai. Như Uchida viết trong cuốn sách này, một vụ án hối lộ thời hậu chiến là trung tâm sự chú ý của báo chí. Công tố viên Baba Yoshitsugu, thảo luận vụ án với các nhà báo, đã so sánh vụ án với một vụ hối lộ chính trị thời tiền chiến. Trong vụ án kia tiền không được chuyển, nhưng trong vụ án này thì tiền đã được chuyển. Uchida cũng nhắc đến Baba, trưởng nhóm công tố. [110] Bình luận của công tố viên trong một bản tóm tắt đã giải thích lý do các quan tòa phúc thẩm bác bỏ bản án sơ thẩm: công tố viên không chứng minh được Uchida đã nhận tiền.

Nỗ lực thanh tẩy các chiến dịch bầu cử của chính phủ, bắt đầu dưới thời nội các Saitò và Okada, đã không được kiểm tra trong 5 năm tại cấp bầu cử quốc gia sau năm 1937. Sau đó, vào năm 1942, cuộc bầu cử Hạ Viện duy nhất trong thời chiến được tổ chức. Nhân viên chính phủ tuyên truyền về một cuộc bầu cử trong sạch và đặc biệt nỗ lực bài trừ các vi phạm bầu cử. [111] Đây là một cuộc bầu cử kỳ lạ, các ứng cử viên tranh cử mà không có liên kết đảng phái; đó là chính trị không có đảng phái! Dưới sức ép thời chiến và lời kêu gọi đoàn kết quốc gia, tất cả các đảng phái đã bị giải tán vào giữa năm 1940. Vào ngày 12/10/1940, Hiệp Hội Hỗ Trợ Cai Trị Đế Quốc (IRAA) được chính phủ thành lập thay cho các tổ chức chính trị cũ. Bố già của siêu tổ chức có nhiệm vụ hoàn thiện thống nhất quốc gia này là Konoe Fumimaro. Mặc dù hầu hết các lãnh đạo đảng phái cũ đều tham gia IRAA song Hạ Viện vẫn tiếp tục hoạt động. Cuối cùng IRAA đã không trở thành một tổ chức chính trị quần chúng; các đảng chính trị bị xóa bỏ vẫn cho thấy sức sống đáng kể và các kịch bản chính trị cũ vẫn diễn ra. [112] Các lãnh đạo ở Hạ Viện vẫn giữ đặc quyền “đóng vai trò là phương tiện riêng để đại diện chính trị cho dân chúng. Với vai trò người môi giới chính của Hạ Viện trong cuộc tranh luận với chính phủ về lập pháp và đề xuất ngân sách, họ vẫn tiếp tục sử dụng thành công các đòn bẩy chính trị để giành được những nhượng bộ của nội các.” [113] Sự ít thay đổi trong bản chất của chính trị cũng được thể hiện vào ngày 30/4/1942, bầu cử Hạ Viện, được gọi là bầu cử Tòjò. 

Tòjò cùng với các sĩ quan quân đội khác hy vọng sẽ chôn vùi các chính khách dòng cũ trong cuộc bầu cử năm 1942. Cử tri được yêu cầu chỉ ủng hộ các ứng cử viên nhận được sự đề cử của chính phủ. Mặc dù số lượng các khuôn mặt mới trúng cử cao hơn các cuộc bầu cử trước song chỉ có một chính khách lớn mất ghế. Do vậy, ngay giữa những cấp bách của thời chiến, nỗ lực bẻ gẫy sự liên hệ giữa chính khách với sự ủng hộ địa phương của họ cũng như quét sạch sự thống trị chính trị cũ đã thất bại. [114] Có vẻ như việc mua phiếu bầu và các dạng tham nhũng khác đã giảm, nhưng theo khía cạnh nào đó thì cuộc bầu cử này là điển hình. Ví dụ, chính phủ sử dụng cảnh sát đề gây sức ép với cử tri (sức ép của cảnh sát là không đồng nhất do phụ thuộc vào thái độ của các viên chức quận); tiền phi pháp cũng có vai trò (một quỹ bí mật của quân đội lên đến 10 triệu yen được sử dụng để trợ cấp cho các ứng cử viên được chính phủ đề cử); và sự ủng hộ vững chắc của jiban luôn luôn tác động đến bầu cử. [115]

Kết quả của phong trào chống tham nhũng của những năm 1930 là gì? Hối lộ chính trị giảm đi hay tăng lên? Các kịch bản chính trị cũ có bị phá vỡ bởi thời kỳ xáo trộn của những năm 1930 và những năm chiến tranh sau năm 1937? Do các nhà khoa học xã hội hiện đại dựa nhiều vào những con số được trích dẫn nên việc xử lý chủ đề hối lộ chính trị theo định lượng sẽ là một sự hấp dẫn lớn. Các học giả sử dụng thông tin về số lượng nghi phạm bị bắt giữ và bị truy tố để có thể tạo thành chỉ số tham nhũng. Cách tiếp cận này có nhiều hạn chế. Ví dụ, số nghi phạm hối lộ bị bắt giữ hàng năm phụ thuộc mức độ theo đuổi các vụ án hối lộ của cảnh sát. Điều tương tự áp dụng cho công tố viên và tỷ lệ truy tố. Nhật Bản vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930 vướng vào cuộc chiến chính trị chống lại những người cộng sản trong nước. Cảnh sát và công tố viên, với số lượng hạn chế trước cuộc chiến chống cộng sản, chịu sức ép cao độ khi đàn áp các đảng bất hợp pháp. Cảm giác chung cho thấy rằng các viên chức hành pháp lo ngại về “Hiểm Họa Đỏ” hơn các vụ án hối lộ chính trị. Dĩ nhiên đó là sự thật, Cảnh Sát Đặc Nhiệm (đơn vị tinh nhuệ được thành lập để xử lý tội phạm hệ tư tưởng) không xử lý các vụ án hối lộ, nhưng trong chiến dịch chống cộng sản thì tất cả các đơn vị cảnh sát, kể cả Cảnh Sát Đặc Nhiệm, chủ yếu xử lý các vụ vi phạm bầu cử, đều được tung ra để hỗ trợ đơn vị tinh nhuệ. Vì những lý do đó, chắc chắn là số lượng các vụ án hối lộ chính trị đã bị báo cáo thấp. Với sự bảo lưu ý kiến đó, các chỉ số dưới đây được trình bày. Con số cho thấy số lượng viên chức công bị bắt giữ vì hối lộ theo Luật Hình Sự (bị bắt giữ theo Luật Bầu Cử bị loại trừ), [116] trong đó có các viên chức dân sự ở mọi cấp chính quyền.

1933
1.664
1940
2.128
1934
3.885
1941
2.722
1935
3.089
1942
3.299
1936
4.471
1943
6.166
1937
2.469
1944
3.272
1938
2.365
1945
2.343
1939
1774




Quan trọng hơn thống kê hàng năm về số lượng viên chức chính quyền bị bắt giữ về hối lộ là sự thừa nhận rằng theo khía cạnh nào đó thì thời kỳ 1933 – 1945 có sự liên tục với những năm trước đó. Số vụ hối lộ bầu cử trong các cuộc bầu cử giảm xuống trong những năm này dường như là chính xác. Tuy vậy, các chính khách kiểu cũ đã thoát khỏi thời kỳ đầy căng thẳng và những thương nhân chính trị ủng hộ họ từ lâu thậm chí còn phát triển. Trên thực tế, chính khách và zaibatsu đã sống lâu hơn viên chức mới, những người cải cách quân sự cực đoan và những người cố gắng bài trừ tham nhũng chính trị khỏi xã hội. Các phong tục kinh doanh và chính trị cũ còn được sắp đặt để đạt được một thắng lợi ngoạn mục trước tầng lớp công tố thượng lưu trong vụ án Teijin. Cũng cần phải lưu ý rằng công ty Mitsui từ năm 1941 đã tiếp tục sử dụng “bộ phận nghiên cứu” cho “các vận động chính trị - với các bộ trưởng nội các, viên chức quân đội và hải quân, viên chức, nghị sĩ Quốc Hội.” Không có số liệu nào cho thấy hối lộ được đưa bởi vì không có hồ sơ nào được lưu giữ. [117] 

Vào những năm 1930, vụ Teijin và phiên tòa xét xử cựu bộ trưởng Uchida đã rọi sáng mặt tối của chính trị đảng phái: nỗ lực bất tận tìm kiếm tiền. Mặc dù không phải là lý do chính khiến đảng phái suy sụp song những vụ án tham nhũng này cũng đóng góp vào việc đó do sự thật mà các phiên tòa đã cho thấy là dường như các chính khách ích kỷ rất ít quan tâm tới lợi ích quốc gia. Hơn nữa, vụ Teijin cho công chúng thấy một bức tranh xấu xí về mối quan hệ giữa chính khách, doanh nhân và viên chức. Ở một phạm vi hẹp hơn, phiên tòa của Uchida cho thấy cùng một sự tồi tệ về đạo đức. Nhiều độc giả báo chí, như họ đã nói về những phiên tòa này, đã cho rằng các lực lượng chống lại chính trị đảng phái sẽ tạo ra các lãnh đạo quốc gia siêu việt.

Chú thích:

1. Robert M. Spaulding, Jr., “The Bureaucracy as a Political Force, 1920–1945,” 61–63; Berger, Parties Out of Power, 72.
2. Hirata, Senkyo hanzai no kenkyû, 23–24.
3. Hayashida, “Election Law,” 7, 39; Gerald L. Curtis, Election Campaigning Japanese Style, 213–214; Charles B. Fahs, Government in Japan: Recent Trends in Its Scope and Operation, 74.
4. Ibid.
5. Susan B. Weiner, “Bureaucracy and Politics in the 1930s: The Career of Gotò Fumio,” 135–137.
6. Japan Weekly Chronicle, August 22, 1935, 243; Obinata Sumio, Tennòsei keisatsu to minshû, 231.
7. Quoted in Weiner, “Bureaucracy and Politics,” 138.
8. Ibid., 146–147.
9. Japan Weekly Chronicle, December 26, 1935, 806.
10. Ibid.
11. Quoted in Fletcher, Search for a New Order, 99.
12. Ibid., 80, 98.
13. Berger, Parties Out of Power, 73.
14. Weiner, “Bureaucracy and Politics,” 148.
15. Japan Weekly Chronicle, May 14, 1936, 600.
16. Hirata, Senkyo hanzai no kenkyû, 79, 492, 682.
17. Japan Weekly Chronicle, May 13, 1937, 583.
172 Notes to Pages 66–73
18. Ibid.
19. Ibid.
20. Berger, Parties Out of Power, 74.
21. R. L. Sims, “National Elections and Electioneering in Akita Ken, 1930–1942,” 99, 104, 274 n. 30.
22. Itò Takashi, Showa shi o saguru, 1:148.
23. Japan Weekly Chronicle, August 15, 1935, 211.
24. Ibid., March 26, 1936, 382.
25. Ibid., February 25, 1937, 237; Kazaba Gunzò, head of the Police Bureau, was grilled in the lower house about torture and other violations of human rights during and after the 1936 general election. Obinata, Tennòsei keisatsu, 232.
26. Japan Weekly Chronicle, May 13, 1937, 583.
27. Kawakami Kan, Iwayuru jinken jûrin mondai ni tsuite, 71–82.
28. Japan Weekly Chronicle, February 25, 1937, 237.
29. Mitchell, Janus-Faced Justice, 136.
30. Richard Storry, The Double Patriots: A Study of Japanese Nationalism, 54.
31. Quoted in Hane, Modern Japan, 248.
32. Storry, Double Patriots, 185–188; Ben-Ami Shillony, Revolt in Japan: The Young Officers and the February 26, 1936, Incident, 172–173; Stephen S. Large, Emperor Hirohito and Showa Japan: A Political Biography, 68–70.
33. Shillony, Revolt, 83–85; Tiedemann, “Business and Politics,” 291–292, 296 n. 44, 300 n. 54.
34. Quoted in Tiedemann, “Business and Politics,” 296 n. 44.
35. Hastings, “Party Government,” 59, 79 n. 59; Shillony, Revolt, 89–92.
36. Òshima Tarò, “Teijin jiken: Shòkanshû o mamotta ishoku no hanketsu,” 60.
37. Tiedemann, “Business and Politics,” 295; for information about the attack on Minobe, see Frank O. Miller, Minobe Tatsukichi: Interpreter of Constitutionalism in Japan, 196–253.
38. For details about the intimate relationship between the Bank of Taiwan and the Suzuki Trading Company, see Morikawa, Zaibatsu, 175–177; for information on the financial panic of 1927, the failure of the Bank of Taiwan, the collapse of the Wakatsuki cabinet, and relief measures by the Diet to resuscitate the Bank of Taiwan, see Chò Yukio, “Exposing the Incompetence of the Bourgeoisie: The Financial Panic of 1927,” 497–499.
39. Japan Weekly Chronicle, August 12, 1937, 231; Shiono, Shiono Suehiko kaikoroku, 259; Òshima, “Teijin jiken,” 310, 316; Akita, “The Other Ito,” 352– 353.
40. Japan Weekly Chronicle, January 3, 1935, 14.
41. Òshima, “Teijin jiken,” 55–56.
42. Ibid., 56–57; Japan Weekly Chronicle, January 3, 1935, 15; December 23, 1937, 835; Showa Òkurashò gaishi kankòkai, Showa Òkurashò gaishi, 571 (cited hereafter as SOG).
43. SOG, 482, 486–488, 492; Kyoto daigaku, Nihon kindai shi jiten, 592. As Notes to Pages 73–82 173 late as February 1933, a lower house representative was interpellating Justice Minister Koyama Matsukichi on the Meitò tax settlement. Japan Weekly Chronicle, February 9, 1933, 188.
44. SOG, 498–499.
45. A. Morgan Young, Imperial Japan, 1926–1938, 187.
46. SOG, 517.
47. Japan Weekly Chronicle, April 15, 1934, 445.
48. SOG, 517.
49. Òshima, “Teijin jiken,” 57–59; Kawai Yoshinari, Teijin jiken Sanjûnenme no shògen, 21–22; Vandenbrink, “State and Industrial Society,” 147; Kòdansha, Illustrated Encyclopedia, 2:1025.
50. Chitoshi Yanaga, Big Business in Japanese Politics, 57; Japan Weekly Chronicle, August 19, 1937, 270; Takenobu Y., ed., The Japan Year Book, 1928, appendix A, 17.
51. SOG, 523–524.
52. Ibid., 519, 521–522; Òshima, “Teijin jiken,” 58, Kawai, 51; Òuchi Tsutomu, Nihon no rekishi 24, 374.
53. Japan Weekly Chronicle, January 3, 1935, 15; Òshima, “Teijin jiken,” 59.
54. SOG, 525.
55. Ibid., 573; Òshima, “Teijin jiken,” 59; Japan Weekly Chronicle, January 3, 1935, 15.
56. SOG, 526, 594–595.
57. Ibid., 535, 537; Òshima, “Teijin jiken,” 60.
58. Ibid., SOG, 531, 535, 537.
59. Japan Weekly Chronicle, December 6, 1934, 771; January 31, 1935, 125.
60. Ibid., January 10, 1935, 31.
61. Ibid., 126; Iwamura Michiyo den kankòkai, Iwamura Michiyo den, 88.
62. Japan Weekly Chronicle, February 7, 1935, 161.
63. Quoted in ibid.
64. Quoted in ibid., January 31, 1935, 134.
65. Ibid.
66. Ibid., 118.
67. SOG, 536–537, 563, 565, 567, 573, 575; Òshima, “Teijin jiken,” 67; Suzuki Yoshio denki kankòkai, Suzuki Yoshio, 101–102; Japan Weekly Chronicle, January 17, 1935, 76; June 27, 1935, 837.
68. Òshima, “Teijin jiken,” 52; SOG, 621.
69. Japan Weekly Chronicle, July 11, 1935, 48; August 15, 1935, 213.
70 Suzuki Yoshio, 406–407, 410, 412.
71. Japan Weekly Chronicle, August 15, 1935, 213; September 5, 1935, 310.
72. Ibid., September 12, 1935, 342; September 19, 1935, 374.
73. Quoted in ibid., February 25, 1937, 237.
74. Ibid.
75. Ibid., March 4, 1937, 251.
76. Ibid., May 27, 1937, 656.
77. Ibid., June 17, 1937, 750–751. 174 Notes to Pages 82–90
78. Ibid., 750.
79. Ibid.
80. Ibid., August 12, 1937, 231.
81. Ibid., August 19, 1937, 270.
82. Ibid., April 22, 1937, 494.
83. Quoted in SOG, 622.
84. Ibid.
85. Quoted in ibid., 621.
86. Matsuzaka, Matsuzaka Hiromasa den, 156–158.
87. Ohara, Ohara Naoshi kaikoroku, 256.
88. Quoted in ibid., 250.
89. SOG, 582.
90. Ohara, Ohara Naoshi kaikoroku, 257.
91. Shiono, Shiono Suehiko kaikoroku, 278–280.
92. Nomura, Hòsò fûunroku, 2:71.
93. Ibid., 291–293.
94. Morishita Sumio, “Imamura Rikisaburò,” 135.
95. Imamura Rikisaburò, Teijin jiken benron, 9–10, 117–129, 132–133.
96. Kawai, Teijin jiken, 184, 186, 285.
97. Nonaka Moritaka, Teijin o sabaku, 11–12.
98. Japan Weekly Chronicle, December 23, 1937, 818.
99. Ibid., December 30, 1937, 873; February 3, 1938, 133.
100. Ibid., February 10, 1938, 170.
101. Ibid., February 3, 1938, 142.
102. Ibid., February 24, 1938, 238.
103. Ibid., January 19, 1939, 76.
104. Sanseidò, Konsaisu jinmei jiten, 801, 1073; Japan Weekly Chronicle, December 30, 1937, 873; Ohara, Ohara Naoshi kaikoroku, 474, 491; SOG, 584; Hunter, Modern Japanese History, 288, 299, 304; Iwamura, Iwamura Michiyo
den, 563–569; Shiono, Shiono Suehiko kaikoroku, 902; Yanaga, Big Business, 56, 60, 93.
105. Ramsdell, The Japanese Diet, 47.
106. Murobushi Tetsurò, Jitsuroku Nihon oshoku shi, 244; Japan Weekly Chronicle, November 12, 1936, 637; March 2, 1939, 256.
107. Ibid.
108. Murobushi, Jitsuroku Nihon, 245; Japan Weekly Chronicle, August 3, 1939, 144.
109. Murobushi, Jitsuroku Nihon, 246–247.
110. Uchida Nobuya, Fûsetsu gojûnen, 235–236, 239, 246.
111. Edward J. Drea, “The Japanese General Election of 1942: A Study of Political Institutions in Wartime,” 252–253.
112. Scalapino, Democracy, 388–389; Harold S. Quigley and John E. Turner, The New Japan: Government and Politics, 70–72; Hunter, 67.
113. Berger, Parties out of Power, 347.
114. Ibid., 348–349. Notes to Pages 90–99 175
115. Drea, “General Election of 1942,” 231, 238, 280, 282, 288, 296–298, 302–303, 305; Sims, “National Elections,” 106; Ben–Ami Shillony, Politics and Culture in Wartime Japan, 23–25.
116. Japan, Prime Minister’s Office, Statistics Bureau, ed., Japan Statistical Yearbook, 1950, 470.
117. Hadley, Antitrust, 42.

No comments:

Post a Comment