Wednesday, September 30, 2015

Cái chết của hiến pháp hòa bình: Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt

Giáo sư lịch sử Gary Leupp của trường đại học Tufts, Hoa Kỳ bình luận về việc Nhật Bản từng bước tái vũ trang trong bài "The Death of  the "Pacifist" Constitution: Japan's Return to Its Martial Roots". Nhật Bản tái vũ trang với khát vọng quay trở lại thành một đế quốc theo truyền thống quân phiệt, còn Hoa Kỳ muốn họ trở thành mũi xung kích chống Trung Quốc. Sau Thế Chiến Thứ II, Nhật Bản bị tước vũ khí hoàn toàn và lệ thuộc vào sự đảm bảo của Hoa Kỳ, đã chớp cơ hội làm giàu nhờ các cuộc chiến của Mỹ ở Châu Á. Sự hồi phục về kinh tế sau hơn nửa thế kỷ dẫn đến hy vọng khôi phục chủ nghĩa đế quốc khi gặp thời cơ thuận lợi.

Cái chết của hiến pháp "hòa bình": Nhật Bản quay trở lại truyền thống quân phiệt


Việc quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép quân đội Nhật Bản hành động để hỗ trợ một “đồng minh thân cận” khi bị tấn công là vi phạm hiến pháp Nhật Bản, vốn (từ năm 1947) đã cấm nhà nước tham gia vào chiến tranh.

Ba chuyên gia hiến pháp được các luật sư mời bình luận về chủ đề đều đã xác nhận sự vi phạm này.

Hành động của các nghị sĩ cho thấy rõ điều có vẻ đang được hiểu rộng rãi: không có sự liên hệ nào giữa luật chính thống ở những nước đế quốc về căn bản là phi luật lệ và tất cả những định đề đẹp đẽ xuất hiện trọng các điều luật của quốc gia đó. 

Ở quốc gia này, chúng ta quen với sự thật là chính quyền Hoa Kỳ không bảo vệ hiến pháp để chống lại “những khám xét phi lý” bằng những nhát cắt kiểu Stasi đối với đối thoại cá nhân. Chúng ta cũng quen với sự thật là hành pháp của Hoa Kỳ đã bất chấp các điều khoản của hiến pháp quy định về việc quốc hội phải phê chuẩn chiến tranh.

Thế thì tại sao điều này lại có vẻ bất thường, trong khi hiến pháp Nhật Bản cấm thẳng thừng mọi hình thức duy trì quân đội, Nhật Bản thực tế lại có quân đội lớn thứ tám thế giới? Tầng lớp thượng lưu cai trị Nhật Bản đang chuẩn bị để triển khai quân đội bất hợp pháp hung hăng hơn?

Đừng ngây thơ. Đừng nghiêm túc về những người làm điệu bộ bảo vệ luật pháp, canh gác những thứ mà họ gọi là “cộng đồng quốc tế.” Những người đó nói dối thường xuyên, kích động sự sợ hãi (về vũ khí hủy diệt, đặc biệt là khi việc khai thác sự lo lắng đã được chứng minh có hiệu quả), nói dài dòng văn tự như con bạch tuộc phun mực để đánh lừa những người mà họ đang đe dọa, phân tích ngôn ngữ của sự đồng thuận được mã hóa để rút ra những diễn giải thiên kiến. 

Các nhà bình luận ở Nhật Bản và nơi khác đều thống nhất trong cáo buộc rằng thủ tướng Abe Shinzo đã tạo ra thay đổi lớn bằng cách áp đặt “sự diễn giải lại” điều 9 của hiến pháp Nhật Bản. Điều này không chỉ là một bước chắc chắn nữa của cánh hữu Nhật Bản trong việc viết lại hiến pháp đã bị ruồng bỏ. Đây là một thành tích trọng yếu. Một bước chủ chốt quay trở lại quá khứ quân phiệt vinh quang! 

Một số quan chức quân sự đã nói, “Giờ thì chúng ta có thể làm mọi thứ” – tất cả những thứ mà một quân đội bình thường làm ở bất cứ đâu.

Điều này rất đáng phiền đối với tôi, một người đã sống ở Nhật Bản nhiều năm, viếng thăm định kỳ, có liên hệ gia đình và bạn bè và lo ngại sâu sắc về tương lai của đất nước xinh đẹp mong manh này. Điều đó thúc đẩy tôi viết về quá khứ quân phiệt mà quốc gia này tự hào và cách thức nó tạo ra Nhật Bản ngày nay.

* * *

Hãy cùng bắt đầu vào thế kỷ 16, khi những người Châu Âu đầu tiên đến Nhật Bản, tiếp xúc ban đầu và người Nhật Bản đầu tiên đi vòng quanh thế giới tới Châu Âu.

Vào ngày 23 tháng 3 năm 1585, ba nhà quý tộc khởi hành từ Nhật Bản cùng với tùy tùng được chào đón trong lễ tiếp đón chính thức tại Vatican ở Rome. Hội truyền giáo Jesuit ở Nhật Bản, hoạt động tại đất nước “mới được khám phá” này từ năm 1549, muốn thể hiện cho toàn bộ Châu Âu thấy sự thành công của họ trong việc cải đạo cho hàng trăm ngàn người Nhật sang Thiên Chúa Giáo. Vào lúc những người Kháng Cách tràn ngập miền bắc Châu Âu, chống lại và làm suy yếu nhà thờ Catholic Rome, công việc truyền giáo ở “các quốc gia mới được phát hiện” là sự mở rộng phạm vi của Tòa Thánh.

Nhật Bản là một trong những khu vực truyền giáo hứa hẹn nhất. Một số daimyo (“vua” đối với các giáo sĩ Bồ Đào Nha) của họ, hăm hở thu hút những tàu chiến thương mại đến bờ biển, sẵn sàng cải đạo – vì những lý do chung chung – và sau đó ra lệnh cho thuộc hạ cũng làm như vậy. (Các thương nhân Bồ Đào Nha theo sự hướng dẫn của Nhà Thờ nói các chủ nhà Nhật Bản rằng khi họ tuân theo đức tin, họ sẽ nhận được thêm nhiều chuyến viếng thăm của thương thuyền Châu Âu, chất đầy tơ lụa Trung Quốc và các hàng hóa quý giá khác.) 

Nhiều cuộc cải đạo là giả dối hoặc bị cưỡng bức, khi các truy tố nghiêm khắc được bắt đầu vào những năm 1620, đại đa số những người cải đạo đã bỏ đạo. Nhưng vào thời đó, Nhật Bản là sự ưa thích trong nỗ lực truyền giáo toàn cầu của nhà thờ Catholic Rome để chống lại phái Cải Cách.

Sự tác động qua lại đầy đam mê này cũng có khía cạnh “cực đoan”. Người Nhật Bản, Francis Xavier viết vào năm 1550, là “chủng tộc tốt nhất từng được [người Châu Âu] khám phá và tôi không cho rằng anh sẽ tìm thấy đối thủ của họ trong số các quốc gia ngoại đạo.” “Những người này da trắng và có văn hóa,” giáo sĩ dòng Jesuit người Italia Alessandro Valignano đến thăm Nhật Bản viết lại vài thập kỷ sau đó, ngay cả những người bình thường cũng “lịch sự đáng chú ý” đến mức “họ vượt trội so không chỉ với người Đông Âu mà cả người Châu Âu.” Khoảng năm 1590, giáo sĩ dòng Jesuit người Bồ Đào Nha Luis Frois nói rằng người Nhật Bản “trong cách ứng xử và phong tục tập quán của họ” vượt trội hơn người Châu Âu ở nhiều góc độ, “thật xấu hổ khi nói về điều đó.”

(Ngay từ những tiếp xúc ban đầu, người Châu Âu coi người Nhật Bản là “da trắng” và gán cho màu da sáng của họ ưu điểm đạo đức và hiểu biết trí tuệ. Valignano thậm chí còn nói rằng “sự khác biệt giữa người Thiên Chúa Giáo Ấn Độ [Đông Á] và Nhật Bản … tự nó đã chứng minh rằng không có cơ sở nào để so sánh họ, nhóm thứ nhất cải đạo vì một số động cơ cá nhân thầm kín; do họ [người Ấn Độ] là da đen, trí thông minh kém, hệ quả là họ rất khó có thể cải tạo và trở thành người Thiên Chúa Giáo tốt; trong khi người Nhật Bản … do họ da trắng, có trí thông minh và hành vi tốt … trở thành những người Thiên Chúa Giáo rất tốt.”)

Trước khi viếng thăm Vatican, người Nhật Bản đã gặp thống đốc của Bồ Đào Nha, hồng y giáo chủ Albert ở Lisbon; Philip II ở Madrid; nữ hoàng Marie của Áo cũng ở Madrid; và Francesco dei Meidici, đại công tước xứ Tuscany ở Pisa. (Bicanco Capello vợ của Francesco đã ôm từng người, rõ ràng là vui thích về sự mềm mại của những bộ kimono lụa). Khi tới Vatican, được chào đón với đám đông tung hô, một loạt đại bác và chuông nhà thờ, đoàn đại diện được giáo sĩ dòng Jesuit và nhà nhân học người Bồ Đào Nha Gaspare Gonsalves đón tiếp với những lời như sau:

“Quốc đảo Nhật Bản thực sự là rất xa đây và tên của quốc đảo hiếm khi được biết đến, một số người thậm chí còn không biết nó tồn tại. Trái lại, có người biết rằng nó đứng trên tất cả các quốc gia ở phương Đông và so sánh nó với phương Tây, theo diện tích, số lượng thành phố và con người thiện chiến cũng như có văn hóa.”

Con người thiện chiến và có văn hóa! Xavier đã viết, “Chưa bao giờ trong đời mình tôi gặp những người dựa vào vũ khí nhiều như vậy … Họ rất thiện chiến và thường xuyên tham gia chiến tranh …” Tất nhiên là hơn cả những gã thực dân Iberia mà Xavier, một người xứ Basque từ Navarre phải bóp vai khi có dịp. Họ không chỉ chế tạo ra những thanh kiếm tinh tế nhất thế giới, vượt xa kiếm Damas, mà họ cũng hăm hở tiếp nhận súng hỏa mai từ khi chúng được đưa đến Nhật Bản vào năm 1543. Họ đã cải tiến súng trường Châu Âu và sản xuất hàng loạt để Nhật Bản vào năm 1600 có nhiều vũ khí nóng hơn mọi quốc gia Châu Âu. (Vào thời đó, một daimyo đơn lẻ của Nhật Bản cũng có thể kiêu hãnh về khẩu pháo lớn hơn của nữ hoàng Anh Quốc.)

Truyền thống quân phiệt của Nhật Bản có nguồn gốc sâu sa. Những cư dân đầu tiên của quần đảo (người Jomon, dường như đến thông qua Siberia) thiết lập một xã hội không đẳng cấp và hòa bình. Nhưng vào năm 400 trước công nguyên, người Yayoi đến, thông qua bán đảo Triều Tiên, mang theo văn hóa lúa nước, nghề luyện kim, cấu trúc đẳng cấp, quan niệm về nhà nước và văn hóa chiến tranh. Sau sự thống nhất Nhật Bản ban đầu, mà chúng ta có thể gọi là nhà nước “Yamato” (khoảng giữa năm 350 và 400), nhà nước mở rộng tới miền nam Kyushu và đông bắc Honshu bằng quân đội và tham gia vào chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên. Những ngôi mộ tưởng niệm (kofun) xuất hiện vào thời kỳ này có chứa những bức tượng nhỏ bằng sứ mô tả hình chiến binh mặc giáp cưỡi ngựa. 

Sự du nhập của đạo Phật, một hệ thống tín ngưỡng xa lánh cuộc sống, vào năm 538 có thể đã làm giảm nhẹ truyền thống quân phiệt. Mặc dù các cuộc nổi dậy vũ trang địa phương vẫn diễn ra thường xuyên, triều đình vương quốc đóng ở Heian (Kyoto) từ cuối thế kỷ thứ 8 đã phát triển đặc tính văn hóa tao nhã và yêu chuộng hòa bình, khá xa lạ với văn hóa của các chiến binh cha truyền con nối (samurai) tại các vùng hẻo lánh. Nhưng từ cuối thế kỷ 12, samurai đã trỗi dậy thành tầng lớp thống trị mới và tại vị cho đến khi tầng lớp này chính thức bị xóa bỏ vào những năm 1870. 

Quay trở lại Rome vào năm 1585, thật đáng trân trọng khi chào đón các chiến binh Thiên Chúa Giáo từ phía bên kia của thế giới, công khai ở St. Peter’s! Chuyến viếng thăm Vatican này đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc tình dai dẳng đau đớn Đông-Tây. Người Bồ Đào Nha, độc quyền thương mại của Châu Âu với Nhật Bản cho tới khi chiến thuyền Tây Ban Nha đóng ở thuộc địa mới Philippine cập bến muộn hơn, các samurai Nhật Bản tình nguyện chiến đấu chống lại người Malay tại thuộc địa Batavia ở Java (sau này mất về tay người Hà Lan). Người Tây Ban Nha thiện chiến thích samurai ngay từ cái nhìn đầu tiên, tuyển mộ họ làm lính đánh thuê cho các cuộc xâm lược ở Trung Quốc và dự định xâm lược Campuchia.

Cuối cùng, mối tình bắt đầu vỡ tan từng mảnh vào năm 1590, khi Toyotomi Hideyoshi, tư lệnh thống trị của Nhật Bản mới tái thống nhất, bắt đầu truy tố người Thiên Chúa Giáo và đe dọa người Tây Ban Nha ở thuộc địa Philippine với một cuộc xâm lược. (Nực cười thay, những nhà truyền đạo Thiên Chúa Giáo đầu tiên tới Triều Tiên cùng với một đạo quân samurai lên đến hơn 200.000 vào năm 1592.)

Sau đó, shogun Tokugawa nắm quyền (từ năm 1600) tiêu diệt truyền giáo Catholic Rome mà Vatican cho rằng rất hứa hẹn. Nhật Bản trục xuất các thương nhân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha với lý do (chính xác) rằng những người này luôn tìm cách buôn lậu trong khi truyền giáo và giới hạn thương mại với phương tây bằng cách chỉ giao dịch với người Hà Lan. 

(Những người Hà Lan – thuộc phái Kháng Cách giữ đức tin cho bản thân – cho thấy rõ rằng họ không phải là Catholic và không quan tâm tới việc cải đạo. Họ đều cố gắng lấy lòng chủ nhà bằng cách giẫm đạp lên các bức tranh của Catholic Rome và thậm chí bắn đại bác vào các nông dân Thiên Chúa Giáo nổi loạn để đổi lấy việc được kinh doanh ở Nhật Bản.)

Nhưng sau đó – đáng ngạc nhiên – những người Nhật Bản “thiện chiến” tụt hậu trong một thế kỷ rưỡi nội chiến liên miên. Hideyoshi và những người kế nghiệp đã tước vũ khí của nông dân, gom kiếm và súng trường, dồn samurai (chiếm khoảng 7% dân số) vào các thành lũy – mỗi lãnh địa một thành lũy, có khoảng 260 thành lũy như vậy. 

Điều này dẫn đến thứ mà các nhà nhân học lịch sử gọi là “sự thuần hóa của samurai”, diễn ra trong suốt thế kỷ 17. Hòa bình được lập lại. Nhật Bản chỉ xâm lược một quốc gia duy nhất từ năm 1598 (kết thúc tạm thời chiến tranh Triều Tiên) và cuối thời kỳ Edo (Tokugawa) vào năm 1868. Đó là triều đình Ryukyu (hiện giờ là quận Okinawa của Nhật Bản), bị lãnh địa của Satsuma tấn công vào năm 1609 và bị buộc phải chấp nhận địa vị chư hầu.

Từ những năm 1630, người Nhật Bản bị cấm đi ra nước ngoài, ngoại trừ một số nhỏ được phép đến Triều Tiên hoặc phục vụ cho mục đích thương mại của triều đình Ryukyu. Không trở thành một quốc gia hiếu chiến, Nhật Bản đã buông vũ khí, tham gia vào hoạt động thương mại nhộn nhịp nhưng được kiểm soát cẩn thận với Trung Quốc, Triều Tiên, triều đình Ryukyu và Hà Lan. (Người Hà Lan là người phương tây duy nhất được cấp phép thương mại ở Nhật Bản cho đến năm 1859). Trong phạm vi đất nước, hòa bình nói chung được đảm bảo; không có các cuộc nổi loạn của daimyo chống lại các luật lệ của shogun và không có chiến tranh giữa các daimyo. Nhật Bản vẫn luôn có các cuộc nổi loạn của nông dân nổ ra ở địa phương, một số bị đàn áp bằng súng trường, nhưng không bao giờ có các cuộc nổi loạn của nông dân khắp cả nước như thế kỷ 16 ở Đức. 

Trong khi Châu Âu bị xé nát bởi cuộc Chiến Tranh 30 Năm (1618-1648) kinh hoàng, hoàng đế Tokugawa thống trị ở Nhật Bản. Tầng lớp chiến binh, không được hướng nghiệp nhiều như các nhóm chiến binh cha truyền con nối (bao gồm cả phụ nữ), đánh mất tính cách quân phiệt và bị chuyển hóa thành giới hành chính cầm bút khi đất nước đi vào thời kỳ hòa bình ổn định. Dưới những điều kiện đó, dân số tăng gấp đôi trong thế kỷ 17, sản xuất nông nghiệp tăng lên, các thành phố lớn xuất hiện và văn hóa thị dân nảy nở.

Điều đó tiếp tục diễn ra cho đến giữa thế kỷ 19 khi chiến hạm Hoa Kỳ tiến vào cảng Edo, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho thương mại của Hoa Kỳ. Chiến thuyền Anh, Hoa Kỳ và Nga đã xâm nhập bờ biển Nhật Bản trong nhiều thập kỷ, với cường độ gia tăng. Một số thành viên của tầng lớp samurai Nhật Bản đã kêu gọi đáp trả bằng vũ lực. 

Vào năm 1808 (trong thời kỳ chiến tranh Napoleon, đẩy Anh Quốc chống lại Hà Lan thân Pháp), một chiến thuyền Anh Quốc lẻn vào cảng Nagasaki với cờ Hà Lan. Thủy thủ đoàn của họ bắt cóc các thương nhân Hà Lan và bắn đại bác để dọa cư dân thành phố. Sau đó, chế độ shogun bị sốc đã ban hành sắc lệnh có tên “Đánh trả các thuyền nước ngoài không cần cần nhắc,” yêu cầu daimyo của các lãnh địa dọc bờ biển bắn vào các thuyền nước ngoài lạ mặt. 

Trước khi họ đến, chiến thuyền Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Matthew Pery đã từng xâm nhập vịnh Edo (Tokyo) vào năm 1853, yêu cầu Nhật Bản mở cửa cho kinh tế thế giới.

Nhận thức được tình hình, chế độ shogun khuất phục trước sức ép, đồng ý thiết lập “các cảng hiệp ước”. Nhưng những tổn thất kinh tế sinh ra khi Nhật Bản hội nhập vào kinh tế thế giới và sự mất uy tín của chính quyền đối với dân chúng đã dẫn đến cuộc đảo chính đẫm máu trong Chiến Tranh Boshin năm 1867-1869. 

Chế độ shogun bị lật đổ trong cuộc chiến này, tổn thất 8.000 sinh mạng. Một chế độ mới (được lãnh đạo, theo lý thuyết, bởi một hoàng đế thiếu niên) tập trung vào việc học hỏi từ phương tây đồng thời chống lại các sự xâm lược khác, được thiết lập. Thời kỳ này được gọi là Khôi Phục Meiji. 

Bất chấp gánh nặng là các hiệp ước bất bình đẳng mà Hoa Kỳ cùng với các đế quốc khác áp đặt, Nhật Bản đã nhanh chóng thoát khỏi hai thế kỷ tương đối cô lập để trở thành một quyền lực toàn cầu theo đúng nghĩa. Trong khi đẳng cấp samurai bị bãi bỏ vào những năm 1870, một hệ thống nghĩa vụ quân sự và chính sách quốc gia về “quốc gia giàu, quân đội mạnh” đảm bảo cho sự hồi sinh của truyền thống quân phiệt lâu đời. 

Vào khoảng năm 1873, chỉ 5 năm sau thời kỳ mới Meiji, các lãnh đạo (đều có nền tảng samurai) đã lên kế hoạch xâm lược nước láng giềng gần nhất, Triều Tiên, để buộc nước này chấp nhận các quan hệ ngoại giao và thương mại. Kế hoạch bị hủy bỏ (chủ yếu là do sự phản đối của phương tây). Nhưng ngoại giao chiến hạm của Nhật Bản mô phỏng theo các đế quốc phương tây đã buộc Triều Tiên phải khuất phục vào năm 1876.

Cũng trong thời kỳ đó, chính quyền mới của Nhật Bản đã gửi chiến thuyền đi Đài Loan, để trừng phạt các bộ lạc trên đảo về việc giết hại 54 ngư dân Nhật Bản và Ryukyu bị đắm tàu. Thanh triều của Trung Hoa tuyên bố chủ quyền đối với hòn đảo (cũng như Bắc Kinh hiện nay vẫn tiếp tục khẳng định rằng Đài Loan luôn luôn là một phần của Trung Hoa). Sau khi tàn sát nhiều người, Nhật Bản buộc Trung Hoa phải bồi thường và thừa nhận chủ quyền của Nhật Bản đối với vương quốc Ryukyu (Okinawa). 

Sao hàng loạt các can thiệp vũ trang ở Triều Tiên, quân đội Nhật Bản đụng độ với quân đội Trung Hoa ở Triều Tiên vào năm 1894. Sau khi quân đội Trung Hoa can thiệp vào quốc gia này (theo yêu cầu của hoàng đế Triều Tiên) để đàn áp một cuộc nổi loạn của nông dân, Nhật Bản cũng viện dẫn hiệp ước để gửi đưa quân đội đến. Sau một số đụng độ khiêu khích lẻ tẻ với người Trung Quốc, chiến tranh toàn diện nổ ra. Cuộc chiến bao trùm bán đảo Triều Tiên, miền nam Manchuria và Đài Loan. Nhật Bản chiến thắng đòi hỏi và nhận được Đài Loan cũng như bán đảo Liaodong ở Manchuria để bồi thường chiến phí. 

Nhưng can thiệp ngoại giao của Nga, Đức và Pháp đã ngăn cản Tokyo nuốt gọn Liaodong và tạo ra sự oán giận của Nhật Bản đối với Sa hoàng. Sự oán giận này tăng lên nhanh chóng sau khi Nga tự giành nhượng địa ở Liaodong ngay sau khi ngăn cản nỗ lực của Nhật Bản.

Vào năm 1900, khi cuộc nổi loạn nông dân Boxer chiếm các đại sứ quán nước ngoài ở Bắc Kinh, Nhật Bản tham gia cùng với các đế quốc phương tây đàn áp cuộc nổi dậy. Quân đội Nhật Bản là đồng minh Châu Á duy nhất trong lực lượng đa quốc gia, được các nước phương tây ca ngợi, đặc biệt là Anh Quốc, vì sự chuyên nghiệp. Đột ngột trở thành tình nhân của đế quốc Anh, Nhật Bản ký Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật vào năm 1902 – khi người Anh bãi bỏ các điều khoản nặng nề trong hiệp ước bất bình đẳng mà Anh đã ký với Nhật Bản vào những năm 1850.

Đột nhiên các trí thức Anh nói về sự tương đồng rõ ràng giữa hai quốc đảo – xã hội vương quyền, đẳng cấp, sự tao nhã của họ; những di sản hàng hải và phong kiến của họ; niềm tự hào về truyền thống quân phiệt của họ. Điều đó tạo ra ý nghĩa cho cả hai để liên minh, đặc biệt là trong mối lo ngại chung về sự mở rộng vai trò của Nga ở Châu Á.

Nga đã giành được các nhượng địa của Trung Quốc ở Liaodong sau khi ngăn cản Nhật Bản chiếm bán đảo này vào năm 1895. Nhật Bản tấn công vào năm 1904 và khi quân đội của họ tràn ngập Manchuria thì hải quân của họ phá hủy chiến hạm Baltic của Nga ở eo biển Tsushima trong năm tiếp theo. Nga buộc phải cầu hòa. Đó là thất bại cay đắng của Sa hoàng, chiến thắng đầu tiên của đế quốc Châu Á trước đế quốc Châu Âu trong thời hiện đại, dẫn đến niềm tự hào dân tộc ở Nhật Bản. Họ sáp nhập Triều Tiên (chính thức vào năm 1910) vào đế quốc Nhật Bản, cùng với phần đất của Nga ở Manchuria và nửa phía nam của đảo lớn Sakhalin.

Thế Chiến thứ I có vẻ ít liên quan đến Nhật Bản. Nhưng viện dẫn một điều khoản trong Hiệp Ước Hàng Hải Anh-Nhật, yêu cầu Nhật Bản tham chiến cùng với Anh khi nước Anh có chiến tranh với nước khác, Tokyo đã tấn công nhượng địa Shandong của Đức ở Trung Quốc, chiếm phần đất này cho bản thân đồng thời chiếm đóng luôn các tài sản của Đức ở Nam Thái Bình Dương, bao gồm cả quần đảo Samoa. Vào năm 1918, đế quốc Nhật Bản đã dùng quân đội chiếm đóng lãnh thổ từ cận Bắc Cực đến Polynesia. Tất cả đều diễn ra trong vòng nửa thế kỷ của thời kỳ Phục Hồi Meiji.

Một quốc gia rất hiếu chiến! Rất hung hãn. Nhưng cả người Anh và người Yankee đều trở nên bồn chồn. Cả hai đều muốn tự do tiếp cận thị trường Trung Hoa khổng lồ và Nhật Bản đã thể hiện sự thích thú được hành xử đúng như các đế quốc phương tây trong Thế Chiến thứ I. Nhật Bản áp đặt “21 Yêu Cầu” không thể chịu đựng nổi cho Trung Quốc, mà cả London và Washington đều can thiệp để giảm nhẹ. Anh Quốc cho phép mở rộng hiệp ước Anh-Nhật, tuyên bố rằng các hiệp ước đa phương hậu chiến như Hiệp Ước Hàng Hải Washington 1922 trái với nó là vô hiệu. 

Trong khi đó, chính quyền Nhật Bản, đáp lại các chính sách phân biệt chủng tộc chống người nhập cư Nhật Bản ở Hoa Kỳ và những nơi khác, cũng như để tạo ra Lebensraum [tiếng Đức: Không gian sống] ở bên ngoài biên giới cho dân số đang gia tăng của họ, theo đuổi phương thức mở rộng vương quốc ở đông bắc Châu Á.

Nhật Bản chiếm đóng toàn bộ Manchuria vào năm 1931 – dựa vào hoạt động quả cảm của các đơn vị quân đội phiêu lưu hơn là các chính sách có tính toán – sáp nhập nhà nước “Manchukuo” vào đế quốc. Sự cố Manchuria dẫn đến sự sụp đổ của Liên Đoàn Quốc Gia do đại diện Nhật Bản rút khỏi sau khi Liên Đoàn lên án hành động của Nhật Bản. Cuộc chiến toàn diện ở Trung Hoa diễn ra vào năm 1937, một cuộc chiến bí mật với Soviet về biên giới Manchuria-Mongolia dấy lên vào năm 1939. (Trong cuộc chiến biên giới, quân đội Nhật Bản có vẻ như bị đánh bại; Tokyo đồng ý ký hiệp ước không xâm lược với USSR hai năm sau đó.)

Tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt, bị kiềm chế bằng quan điểm chủ nghĩa biệt lập thông dụng, lên án sự xâm lược của Nhật Bản ở Trung Quốc, công bố “cấm vận đạo đức” đối với Nhật Bản, từng bước áp dụng thêm các trừng phạt thương mại. Sau khi Nhật Bản xâm nhập thuộc địa Việt Nam của Pháp vào năm 1940 (theo lý thuyết, thực hiện hiệp ước với chính quyền Pháp thời phát xít chiếm đóng), các trừng phạt của Hoa Kỳ được siết chặt. Hoa Kỳ phong tỏa tài sản của Nhật Bản tại ngân hàng Hoa Kỳ và cắt nguồn cung cấp dầu. 

Washington yêu cầu Tokyo rút quân khỏi Trung Quốc về vị trí trước chiến tranh ở miền bắc và rút khỏi Hiệp Định Ba Bên với Đức và Italia, như là điều kiện để khôi phục các quan hệ thương mại bình thường. Các lãnh đạo Nhật Bản, do Tojo Hideki dẫn đầu, kết luận rằng điều đó bất khả thi về mặt chính trị. (Công chúng đã bị tiêm nhiễm một dạng kích động hậu chiến thường lan truyền ở các nước tư bản đế quốc hiện đại. Bất cứ thông báo đầu hàng nào trước Hoa Kỳ cũng sẽ dẫn đến sự giận dữ lan rộng cùng với những hậu quả không thể lường trước.)

Giới lãnh đạo, chỉ với kho dự trữ dầu lửa cho một năm để phát động chiến tranh, đã lựa chọn một con đường khác: Chiếm các bãi khoan dầu của Hà Lan ở Đông Indonesia. Nhưng điều này đó có nghĩa là hạ đo ván các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và Anh ở Philippine, Hong Kong, Singapore, Malaya và Hawai’i. Điều đó được hoàn thành, thần tốc và hiệu quả. Vào tháng 12 năm 1941, thần chết đã được gọi lên.

Bốn năm sau, Tokyo và Osaka bị ném bom san phẳng, Hiroshima và Nagasaki bị bom nguyên tử biến thành thứ giống như bề mặt của mặt trăng. 

Giới lãnh đạo Nhật Bản không đầu hàng quân đồng minh vì bị ném bom nguyên tử. (Trên thực tế không kinh khủng hơn loại bom thông thường đã thiêu cháy 100.000 người ở Tokyo vào ngày 9 tháng 3 năm 1945.) Sự tham chiến của Liên Bang Soviet (trước đó là trung lập) vào ngày 8 tháng 8 năm 1941, viễn cảnh quân Soviet đóng ở phía bắc, phân chia đất nước và khả năng một cuộc cách mạng cộng sản nổ ra đã cho lãnh đạo Nhật Bản thấy rằng đầu hàng Hoa Kỳ là lựa chọn tốt nhất. Khi bị quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng, người dân Nhật Bản bị buộc phải chấp nhận hiến pháp mới (vào năm 1947) do nước ngoài soạn thảo, rời bỏ văn hóa quân phiệt lịch sử lâu đời đã được mô tả ở phía trên.

Và như vậy một thời đại mới bắt đầu.

* * *

Điều 9 của hiến pháp Nhật Bản rất rõ ràng: “Khát khao chính đáng đối với hòa bình quốc tế dựa trên công lý và trật tự, người dân Nhật Bản vĩnh viễn rút khỏi chiến tranh như là chủ quyền của quốc gia cũng như đe dọa hay sử dụng bạo lực để làm phương tiện giải quyết các tranh chấp quốc tế.

“Để thực hiện mục tiêu của đoạn nêu trên, bộ binh, hải quân và không quân cũng như các tiềm năng chiến tranh khác, sẽ không bao giờ được duy trì. Quyền tham chiến của nhà nước sẽ không được thừa nhận.” 

Nghịch lý thay, hiến pháp được nước ngoài soạn thảo này đã – đặc biệt là điều khoản này – trở thành tài sản quốc gia mà hàng triệu người Nhật bảo vệ kiên quyết. Không có ai chống lại việc bổ sung vào hiến pháp kiên quyết hơn những người cộng sản Nhật Bản. 

Nhưng bản thân các lãnh đạo Hoa Kỳ đã áp đặt hiến pháp “hòa bình” cho Nhật Bản lại bắt đầu thay đổi suy nghĩ ngay sau khi nó được quốc hội phê chuẩn. Mục tiêu của người chiếm đóng vào năm 1947 là tước vũ khí Nhật Bản vĩnh viễn, nếu không nói là biến nước công nghiệp này thành một nước nông nghiệp lạc hậu. Trung Hoa có triển vọng trở thành đồng minh lớn nhất của Hoa Kỳ ở Đông Á, căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và thị trường không giới hạn cho hàng hóa của Hoa Kỳ.

Tuy vậy, cuộc cách mạng cộng sản đã đảo lộn kế hoạch đó. Sau năm 1949, khi chính khách Washington băn khoăn “ai mất Trung Hoa?”, họ định nghĩa lại vai trò của Nhật Bản như là đồng minh tái thiết mới. 

Cùng với sự bùng nổ của chiến tranh Triều Tiên vào năm 1959, Hoa Kỳ thúc ép thủ tướng Nhật Bản Yoshida Shigeru gửi quân tới tham chiến để thể hiện nỗ lực chống lại cộng sản phương Bắc của Liên Hiệp Quốc. Yoshida trả lời thẳng thừng rằng điều đó không khả thi theo hiến pháp Nhật Bản (do Hoa Kỳ soạn thảo). (Yoshida là một người chống cộng sản cứng rắn, đó là lý do khiến chính quyền chiếm đóng thích ông ta, nhưng ông ta không muốn dùng các nguồn lực hiếm hoi cho việc tái quân sự hóa vào lúc đó.)

Như đã diễn ra, công nghiệp Nhật Bản đóng góp lớn vào các nỗ lực chiến tranh, nước Nhật thời hậu chiến phục hồi là nhờ vào “sự thu mua đặc biệt” của Hoa Kỳ (các chi tiêu liên quan đến chiến tranh ở Nhật Bản). Yoshida gọi điều đó là “món quà tặng của chúa”. Vào năm 1948, GDP của Nhật Bản chỉ bằng 55% của năm 1936; vào năm 1953 là 155%. Không phải “viện trợ chung” của Hoa Kỳ mà là chi tiêu chiến tranh của Hoa Kỳ đã tạo ra sự hồi phục hậu chiến của Nhật Bản.

Dưới sức ép của Hoa Kỳ, Tokyo tạo ra một mầm mống của cỗ máy chiến tranh vào năm 1950: “Dự bị cảnh sát quốc gia” với 75.000 người. Con số này tăng lên 110.000 người vào năm 1952, sau khi kết thúc thời kỳ chiếm đóng. Vào cùng ngày Nhật Bản nhận lại chủ quyền (ngày 28 tháng 4 năm 1952), Tokyo ký một “hiệp ước an ninh” với Hoa Kỳ để hợp pháp hóa sự tiếp tục hiện diện của mười ngàn lính Hoa Kỳ (được phép là đàn áp mọi nổi loạn nội địa). Vào tháng 7 năm 1954, “cảnh sát” được tái lập thành “Lực Lượng Phòng Vệ” đất, biển và không. Hiện nay, quân số của họ vào khoảng 250.000 người.

Cục Phòng Vệ Nhật Bản được thiết lập vào năm 1954 – nhưng không phải như là quân đội, hãy nhớ! Chỉ là “lực lượng phòng vệ”. Ít nhất đó là luồng chính thống. Nhưng liệu “lực lượng đất, biển, không, cũng như các tiềm năng chiếng tran khác” có vi phạm hiến pháp? Để đáp lại các nỗ lực không ngừng của nhiều nhóm dân chúng lên án điều đó, Tòa Án Tối Cao Nhật Bản (dưới sức ép bằng văn bản của Hoa Kỳ) đã tuyên bố rằng quyết định về tính hợp pháp phụ thuộc vào quyết định của quốc hội và nằm ngoài phạm vi quyền lực của họ. 

Từng bước một, các bộ phận trong Đảng Dân Chủ Tự Do (LPD, được thiết lập với sự đỡ đầu của CIA vào năm 1955, và nắm quyền lực từ đó cho đến nay, chỉ có một số ngắt quãng nhỏ vào năm 1993-4 và 2009-12) đã vận động để xóa bỏ điều 9 cũng như tái lập Nhật Bản như là “quốc gia bình thường” với quân đội thông thường, hợp pháp, giống như các nước đế quốc khác vẫn triển khai.

Nhưng người dân Nhật Bản không đồng tình với chương trình đó. Các cuộc biểu tình địa phương và toàn quốc phản đối căn cứ Hoa Kỳ ở Uchinada, quận Ishikawa, vào những năm 1950 (quân đội Hoa Kỳ được huấn luyện ở đây trước khi đến Triều Tiên tham chiến) đã buộc căn cứ phải đóng cửa vào năm 1957. Các cuộc biểu tình tại căn cứ quân sự của Hoa Kỳ ở Tokyo vào năm 1957 dẫn đến vụ bắt giữ 7 người vì tội vượt qua ranh giới. Họ được toà chung thẩm Tokyo tuyên án vô tội dựa trên lý do sự tồn tại của căn cứ là vi hiến. (Tòa Án Tối Cao bác bỏ quyết định của tòa cấp thấp hơn sau khi chánh án trao đổi với đại sứ Hoa Kỳ.)

Vụ nhiễm xạ của 23 ngư dân Nhật Bản, một người bị chết, do Hoa Kỳ thử vũ khí hạt nhân ở quần đảo Marshall vào năm 1954, đã thúc đẩy phong trào chống vũ khí hạt nhân và chống quân phiệt của Nhật Bản. Khi thủ tướng Kishi Nobuosuke tìm cách thúc đẩy một đạo luật ở quốc hội để tiếp tục Hiệp Ước An Ninh Hoa Kỳ-Nhật Bản vào năm 1960, hơn bảy triệu người đã tuần hành phản đối. Ý kiến công chúng hầu hết là phản đối hiệp ước an ninh.

Nhưng Kishi đã thông qua đạo luật vào giờ sớm buổi sáng, sau khi đuổi các nghị sĩ đối lập. Sự giận dữ của công chúng lớn đến mức Tokyo phải thông báo với tổng thống Dwight Eisenhower, định đến thăm Nhật Bản để ký hiệp ước, rằng lực lượng an ninh Nhật Bản không thể đảm bản an toàn cho ông.

Vị thủ tướng này từng bị quân đồng minh bắt giữ và giam ở nhà tù Sugamo với cáo buộc tội ác chiến tranh loại A. Ông ta trở thành bộ trưởng bộ quân khí dưới thời thủ tướng Tojo Hideki và là đồng minh thân cận nhất của Tojo. Ông ta đã phát biểu ủng hộ cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng. Ông ta tham gia tích cực vào việc bắt hàng trăm ngàn người Trung Quốc và Triều Tiên làm nô lệ trong các hầm mỏ và nhà máy trong thời kỳ chiến tranh. Ông ta thoát khỏi truy tố nhờ sự can thiệp của “Hội Đồng Hoa Kỳ về Nhật Bản” chống cộng sản, họ cảm thấy rằng ông ta sẽ có ảnh hưởng tới chính trị Nhật Bản theo hướng “thân Mỹ”. 

Kishi Nobusuke cũng là ông của thủ tướng Nhật Bản đương nhiệm, Abe Shinzo. Abe, cũng hiếu chiến như ông của mình, mới đây tuyên bố (trong lễ kỷ niệm kết thúc Thế Chiến thứ II) rằng người Nhật không nên tiếp tục hối lỗi về quá khứ.

Trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam, quan điểm công chúng Nhật Bản hầu như là chống chiến tranh và phê phán chủ nghĩa phát xít đứng đằng sau cuộc chiến. Nhưng một lần nữa, công nghiệp Nhật Bản hưởng lợi khổng lồ từ các hợp đồng liên quan đến chiến tranh. Kinh tế Nhật Bản đã nhảy vọt và bùng nổ vào những năm 1960, vượt qua Tây Đức để trở thành nền kinh tế lớn thứ ba thế giới vào năm 1970. Mặc dù Nhật Bản tạo ra Cánh Tả Mới đầy sinh lực so với Hoa Kỳ và Châu Âu, nhưng người dân không thể tách đất nước khỏi liên minh với chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ.

Trong suốt lịch sử, lực lượng cánh hữu vận động để xóa bỏ điều 9 và đưa Nhật Bản quay trở lại con đường lịch sử của chủ nghĩa quân phiệt vinh quang. Bộ giáo dục, đặc trưng với sự điều hành của các chính khách LPD phản động và ngu dân nhất (như Fujio Masayukio, vào năm 1986 đã gọi cuộc thảm sát Nam Kinh là một ngụy tạo và tuyên bố Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên là theo yêu cầu của Triều Tiên), đã từng bước khôi phục nội dung quốc gia chủ nghĩa trong phần “giáo dục đạo đức” bắt buộc của chương trình trung học; buộc các trường học phải treo cờ mặt trời và buộc các khoa và sinh viên phải hát quốc ca đế quốc; chấp nhận cho các trường công sử dụng sách giáo khoa lịch sử tô vẽ hoặc thanh minh cho các tội ác chiến tranh của Nhật Bản. 

Trong khi đó, văn phòng thủ tướng thường xuyên thử nghiệm giới hạn của việc diễn giải lại điều 9. Vào năm 1981, thủ tướng Suzuki Zenko đã khơi lên một cơn bão chỉ trích khi ông ta đề xuất rằng Lực Lượng Phòng Vệ Biển được phép bảo vệ vận chuyển của Nhật Bản trong phạm vi 1.000 hải lý quanh Nhật Bản. Hai năm sau, thủ tướng Nakasone Yasuhiro (bạn tinh thần của những người cùng thời như Ronald Reagan, Margaret Thatcher và Helmut Kohl) khơi dậy một làn sóng chỉ trích khác khi ông ta cho phép ngân sách quân đội (“phòng vệ”) vượt qua giới hạn 1% GDP truyền thống – chỉ để thử giới hạn và xem công chúng phản ứng ra sao. Ông ta cũng gây ra sự giận dữ khi khẳng định quốc hội Hoa Kỳ mô tả Nhật Bản là “tàu sân bay không thể bị đánh chìm trên Thái Bình Dương” đang phục vụ cho nhu cầu của Hoa Kỳ.

Trong chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, Tokyo (cần thiết) phải từ chối gửi quân đến mặt trận. Điều này đã khiến các nghị sĩ Hoa Kỳ thiếu trải đời tức giận về vấn đề hiến pháp, phàn nàn rằng người Nhật Bản nhận được dầu mỏ giá rẻ ở Trung Đông là do hoạt dộng quân sự của Hoa Kỳ đảm bảo. Một số thậm chí còn đe dọa rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Nhật Bản (chi phí duy trì của họ cho tới nay vẫn do người đóng thuế Nhật Bản thanh toán) nếu Nhật Bản không tham gia vào tấn công Saddam Hussein. (Một thành viên cao cấp của Lực Lượng Phòng Vệ trong một dịp thẳng thắn công khai hiếm hoi đã tuyên bố rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút quân, người Nhật Bản sẽ nói tạm biệt; trên hết, người Nhật Bản chưa bao giờ nhất mực yêu cầu sự có mặt của họ.) 

Cuối cùng Tokyo trả cho Hoa Kỳ 13 tỷ dollar để đóng góp vào nỗ lực chiến tranh, nhằm buộc quân đội Iraq rời khỏi Iraq. (Arab tuyên bố đóng gớp cho Washington 36 tỷ dollar, trong khi Đức chi 5 tỷ dollar). Các lãnh đạo LDP coi điều này là đáng xấu hổ; “ngoại giao sổ séc,” họ tuyên bố, phải được thay thế bằng những dấu giày thực sự trên mặt đất. 

Vào năm 1992, quốc hội thông qua một đạo luật cho phép Lực Lượng Phòng Vệ triển khai trong “các chiến dịch gìn giữ hòa bình” (PKO) của Liên Hiệp Quốc cùng với các lực lượng quốc tế khác. Đó là bước khởi đầu quan trọng, một liệu pháp tâm lý. Kể từ đó SDF thực hiện các nghĩa vụ ở Campuchia, Mozambique, Đông Timor, Cao Nguyên Golan, Haiti và Nam Sudan.

Bước tự nhiên tiếp theo trong chiến dịch tái vũ trang là gửi tàu chở dầu và tàu khu trục tới bờ biển Pakistan vào cuối năm 2001 để hỗ trợ Hoa Kỳ trong chiến tranh Afghanistan. (Vùng biển này dĩ nhiên là nằm ngoài phạm vi 1.000 hải lý giới hạn cho hoạt động của SDF mà Suzuki Zenko đề xuất). Đây là một nhiệm vụ đầy tai tiếng, kết thúc theo lời hứa tranh cử của thủ tướng mới đắc cử Hatoyama Yukio vào năm 2009.

Nhật Bản trong vai trò là quốc gia chư hầu của Hoa Kỳ không bao giờ thể hiện quan điểm khác biệt cứng rắn với Washington về bất cứ vấn đề quốc tế nào. (Ít nhất thì họ cũng khác với Washington như Warsaw khác với Moscow). Họ tuân thủ hoàn toàn. Vào năm 2003, khi tổng thống George W. Bush bắt đầu dối trá để chống lại Iraq, thủ tướng Koizumi Junichiro (không giống với các lãnh đạo Đức và Pháp) đã tuyên bố hoàn toàn ủng hộ và đóng góp 600 quân cho nỗ lực của Bush.

Đây là sự đột phá chủ yếu của phe quân phiệt Nhật Bản. Dĩ nhiên, quân lực Nhật Bản không được tham chiến, do bị ràng buộc bởi điều 9. Nhưng họ có thể xây dựng một pháo đài ở Samawa, miền nam Iraq, được cung cấp các tiện nghi gia đình như karaoke bar, cửa hiệu massage, từ đó họ có thể mạo hiểm ra ngoài mỗi sáng sớm – với sự hộ tống của quân đội Hà Lan được phép giết người - để làm các công việc “nhân đạo” như lọc nước và làm đường. (Như thể là người Iraq không tự làm được.) Hai phần ba số người Nhật Bản được hỏi đã phản đối nhiệm vụ đó, nhiều người hiểu rõ ràng điều đó có nghĩa là gì: chỉ là một bước tiếp theo để vi phạm điều 9 và bình thường hóa việc triển khai quân đội trên phương diện quốc tế.

Người kế nhiệm Koizumi là Abe Shinzo – một lần nữa, đứa cháu đáng tự hào của Kishi Nobusuke đã được nhắc đến phía trên – tái định hình thiết chế quân sự để thiết lập Bộ Quốc Phòng có trụ sở ở Shinjuku của Tokyo. Người đứng đầu Bộ Quốc Phòng hiện giờ đang tham gia nội các. Vào năm 2009, trong khi một người hiếu chiến khác, Aso Taro, tái lập nhiệm vụ tiếp liệu trên Ấn Độ Dương để cho phép SDF biển gửi các tàu khu trục tới bờ biển Somali để bảo vệ không chỉ người Nhật Bản mà cả những người khác khỏi cướp biển. Kể từ đó, các thủy thủ Nhật Bản đã đóng quân tại Djibouti ở vùng Sừng của Châu Phi – cách quê nhà rất xa.

Gần tổ quốc hơn là một số đảo đá không người ở trên Biển Đông Trung Hoa, mà người Trung Hoa đã đến đó trong hơn sáu trăm năm gọi là Daioyutai. Tên Nhật Bản, được tạo ra vào những năm 1870, là Sensaku. Bất kì ai sở hữu chúng cũng sẽ sở hữu ngư trường và nguồn dầu lửa có diện tích 21.000 dặm vuông, nên chúng không phải là không quan trọng. Trung Hoa (cũng như Đài Loan) khẳng định chủ quyền dựa trên các cơ sở lịch sử chắc chắn. Tokyo khẳng định chủ quyền dựa trên cơ sở những gì họ khẳng định – rất phi lý – là được thừa nhận bằng cơ sở pháp lý quốc tế.

* * *

Nhưng (một lần nữa) sự khinh thường của chính quyền Nhật Bản đối với hiến pháp Nhật Bản khiến chúng ta phải đặt ra câu hỏi “luật pháp” có liên quan gì ở đây? 

Tokyo nói rằng khi họ tuyên bố quyền sở hữu đối với bốn đảo đá trên Biển Đông Trung Hoa (không có người Nhật Bản nào biết cho đến trong khi vào thế kỷ 15 người Trung Hoa vẽ bản đồ, đến thăm và đặt tên cho chúng) vào năm 1895 thì chúng không có dân cư, do đó bất cứ ai cũng có thể chiếm lấy. Chúng thuộc về khái niệm pháp lý phương tây “terra nullius” hay đảo không người ở. Bất kể là nhà địa lý vĩ đại nhất của Nhật Bản, Hayashi Shihei, đã vẽ một bản đồ toàn diện vào năm 1785 cho thấy những đảo đó thuộc Trung Hoa. Bất kể là ngoại trưởng Nhật Bản, Inoue Kaoru, đã từ chối lời yêu cầu sáp nhập của chính quyền Okinawa vào năm 1885 dựa trên cơ sở là những đảo này thuộc về Trung Hoa.

Tất cả vấn đề là khi Nhật Bản đang lên đánh bại Trung Hoa vào năm 1895 và gây ấn tượng với các đế quốc phương tây, tuyên bố quyền sở hữu với những hòn đảo đó trong thời kỳ chiến tranh (trước khi chiếm Đài Loan sát đó làm thuộc địa), các đế quốc thực dân đã chấp nhận đòi hỏi của Nhật Bản. Thật hợp pháp làm sao! Kể từ khi Nhật Bản có “luật pháp” ở phe mình. Thế thì lịch sử nào liên quan đến điều đó? (Nghiêm túc mà nói, tôi được nghe một nhà ngoại giao Nhật Bản đặt nó đúng vào khái niệm này)

Nhưng tranh chấp về những hòn đảo này thực tế phức tạp hơn, ngay cả từ quan điểm pháp lý. Trong Tuyên Bố Cairo năm 1943, phe thắng trận gồm Roosevelt, Churchill và Chiang Kai-shek đã tuyên bố rằng, sau khi đầu hàng vô điều kiện, “Nhật Bản phải trả lại tất cả các lãnh thổ đã cướp đoạt của người Trung Quốc, như Manchuria, Formosa và Pescadores, tất cả phải được trao trả cho nước cộng hòa Trung Hoa.” Yêu cầu này được Truman, Churchill và Stalin nhắc lại ở Potsdam. Khi bại trận, Tokyo bị buộc phải từ bỏ những tài sản đó. 

Nhưng tình trạng của Diaoyutai/Senkaku vẫn không rõ ràng. Chúng liên quan đến khu vực chiếm đóng ở Ryukyu của Hoa Kỳ, tách biệt với khu vực tạo thành đất liền của Nhật Bản. (Kể từ khi Nhật Bản sáp nhập Ryukyu vào những năm 1870, chính quyền khu vực chiếm đóng không chắc chắn hoặc không biết phải đối xử với chúng như là một phần của Nhật Bản hay là quốc gia độc lập tiềm tàng.) Vào năm 1945, Hoa Kỳ có thể giao lại các đảo có tranh chấp cho Trung Hoa một cách đơn giản, khi mặt trận thống nhất giữa Guomindang của Chiang Kai-shek và những người cộng sản còn lãnh đạo Trung Hoa. Trái lại, họ giữ lại chúng trong phạm vi quận Okinawa.

Vào năm 1972, Hoa Kỳ “trao trả” quần đảo Ryukyu cho Nhật Bản (trong khi vẫn giữ lại, thực tế là đòi hỏi, quyền đóng 25.000 quân tại các căn cứ quân sự trên đảo Okinawa). Các đảo Diaoyutai cũng được trả lại cùng với Ryukyu và hiện giờ Tokyo tính toán rằng nếu nổ ra tranh chấp đảo với Bắc Kinh, Hoa Kỳ sẽ đứng về phía họ. Sau một số rào đón, Hoa Kỳ đã tuyên bố rõ ràng rằng hiệp ước an ninh giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản bao gồm cả những đảo có tranh chấp.

Đây là thắng lợi chủ chốt cho cháu của Kishi Nobushuke. Khi ông ta dẫn dắt Nhật Bản đến vị trí của đế quốc toàn cầu “bình thường” có thể bắt nạt các quốc gia khác giống như Hoa Kỳ vẫn làm – có thể mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản khắp Đại Đông Á (không hối lỗi) – ông ta có thể dựa vào những người Yankee. Ông ta khôi phục vị thế quốc gia da trắng, văn minh của Nhật Bản. Ông ta khuyến khích nguồn gốc thiện chiến. Mọi thứ đều đang theo lộ trình, giống như trước khi có những thập kỷ hòa bình phiền nhiễu. 

Nhưng vào lúc này, “những người có văn hóa và thiện chiến” đang đứng chông chênh trên nỗ lực “xoay trục” hướng sang Đông Á và Biển Đông Trung Hoa, để đối đầu với Trung Hoa đang lên như vũ bão, của đế quốc Hoa Kỳ. Trung Hoa tiến hành một cách hợp lý trong việc đòi hỏi chủ quyền, lãnh thổ và các vấn đề khác. Trái lại, cháu của Kishi là kẻ nóng đầu, có quan điểm phục hồi quân phiệt – móc nối với cánh hữu băng đảng-tân phát xít, luôn luôn là những kẻ quá khích của chính trị Nhật – có thể tạo ra những điều rất xấu xa, sẽ sớm thôi.

Việc chính quyền Nhật Bản mua lại các đảo Daioyu/Sensaku từ các chủ sở hữu tư nhân vào tháng 12 năm 2012 (bị Washington phản đối là sự khiêu khích không cần thiết đối với Trung Quốc) có thể được coi là khởi đầu cho một giai đoạn đối đầu mới. 

Kịch bản khôi phục là rất rõ ràng. Từng bước một, phe quân phiệt giành lấy ảnh hưởng ở Nhật Bản. Họ đã giành được thắng lợi lớn trong tuần qua. Hiến pháp Nhật Bản năm 1947 không còn ý nghĩa gì hết. Hachiman (thần chiến tranh) đang mỉm cười. Trở lại bình thường, sự bình thường của hai thiên niên kỷ. Samurai quay trở lại trên yên ngựa, thẳng tiến tới chiến trường, với sao và vạch dưới lá cờ mặt trời của đế quốc đang tung bay.

* * *

Trong tuần qua, hơn một trăm ngàn người Nhật đã biểu tình bên ngoài quốc hội khi LPD và các đối tác của họ thông qua luật ủng hộ chiến tranh. Họ cần sự đoàn kết quốc tế. Bài báo này là một sự đóng góp nhỏ cho điều đó.

Gary Leupp is Professor of History at Tufts University, and holds a secondary appointment in the Department of Religion. He is the author of Servants, Shophands and Laborers in in the Cities of Tokugawa Japan; Male Colors: The Construction of Homosexuality in Tokugawa Japan; and Interracial Intimacy in Japan: Western Men and Japanese Women, 1543-1900. He is a contributor to Hopeless: Barack Obama and the Politics of Illusion, (AK Press). He can be reached at: gleupp@tufts.edu

Tuesday, September 29, 2015

"Mỹ Tân": Sự ngu dốt ở Washington

Việt Tân, rận chủ Bờ Hồ, cuồng Mỹ luôn ca ngợi sức mạnh, giá trị và văn minh Mỹ hết lời, nhưng không khi nào họ dám trích dẫn "Mỹ Tân" chưa nói là phân tích hay mổ xẻ bất cứ điều gì. Trong thời đại Internet, chúng ta rất dễ dàng tìm thấy "Mỹ Tân", một cựu quan chức chính quyền Mỹ và giờ là nhà báo nổi tiếng Paul Craig Roberts phê phán nước Mỹ từ quan điểm dân túy cánh hữu trong bài báo "Brainless in Washington", tất nhiên là cũng đầy đủ các khía cạnh như sự ngu dốt của chính quyền Mỹ, sự bất bình đẳng thu nhập khủng khiếp, sự tuyệt vọng của dân chúng bị bần cùng, kinh tế sụp đổ, thậm chí giờ còn tồi tệ hơn cả Việt Nam .... Tất nhiên, sự khác biệt không phải ở chỗ người ta phê phán cái gì, mà là ở chỗ người ta phê phán từ quan điểm nào. Cho dù là phê phán nước Mỹ tư bản chủ nghĩa, phê phán kinh tế học tân tự do, nhưng vẫn sử dụng quan điểm của nhà tư bản cá biệt, của chính kinh tế học tân tự do thì sẽ không bao giờ có thể thoát khỏi cái hệ thống đó, kết cục chỉ có thể là thỏa hiệp hoặc buông xuôi tuyệt vọng.

Sự ngu dốt ở Washington

Hình minh họa: Obama và Tập Cận Bình
Chỉ số IQ của Washington đã đi theo lãi suất của Fed – nó âm. Washington là lỗ đen hút cạn tư duy lành mạnh của chính quyền.

Sự thất bại của Washington là rõ ràng ở mọi nơi. Chúng ta có thể thấy thất bại trong những cuộc chiến của Washington và trong cách Washington tiếp cận Trung Quốc và Nga. 

Chuyến viếng thăm của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, được xếp lịch vào cuối tuần sau chuyến viếng thăm Washington của giáo hoàng. Liệu có phải là Washington hạ cấp Trung Quốc bằng cách bắt chủ tịch nước của họ đóng vai trò thứ cấp sau giáo hoàng? Chủ tịch Trung Quốc ở đây để cho truyền thông đưa tin vào cuối tuần? Tại sao Obama không nói với ông ấy là cút xuống địa ngục đi?

Sự kém cỏi về không gian mạng của Washington cũng như sự bất lực trong việc đảm bảo an ninh mạng của họ được dùng để đổ lỗi cho Trung Quốc. Vào ngày trước khi Tập Cận Bình đến Washington, thư ký báo chí của Nhà Trắng khởi động chuyến thăm của chủ tịch Tập Cận Bình bằng cách thông báo rằng Obama có thể đe dọa Trung Quốc với các biện pháp trừng phạt tài chính. 

Và không để lỡ cơ hội nào để đe dọa hay làm hạ nhục chủ tịch của Trung Quốc, bộ trưởng bộ thương mại Hoa Kỳ đã gửi cho chủ tịch Trung Quốc một cảnh báo rằng chính quyền Obama rất không hài lòng với thực tiễn kinh doanh của Trung Quốc để hy vọng một cuộc gặp trôi chảy ở Washington. 

Trái lại, khi Obama viếng thăm Trung Quốc, chính quyền Trung Quốc đã đối xử với ông ta lịch sự và tôn trọng.

Trung Quốc là chủ nợ lớn thứ hai của Hoa Kỳ, sau Fed. Nếu như chính quyền Trung Quốc tức giận, Trung Quốc có thể gây ra cho Washington nhiều vấn đề nghiêm trọng về kinh tế, tài chính và quân sự. Mặc dù vậy, Trung Quốc vẫn theo đuổi hòa bình trong khi Washington thường xuyên đe dọa.

Cũng giống như Trung Quốc, Nga có một chính sách đối ngoại độc lập với Washington và sự độc lập trong chính sách đối ngoại của họ đã đưa Trung Quốc và Nga thoát khỏi Washington.

Washington coi các quốc gia có chính sách đối ngoại độc lập là mối đe dọa. Lybia, Iraq và Syria đều có chính sách đối ngoại độc lập. Washington đã tàn phá hai trong số ba quốc gia đó và đang tiếp tục với quốc gia còn lại. Iran, Nga và Trung Quốc cũng có chính sách đối ngoại độc lập. Hệ quả là Washington coi những quốc gia này là mối đe dọa và tô vẽ họ như là mối đe đối với người dân Mỹ.

Tổng thống Nga Vladimir Putin gặp Obama vào tuần tới tại cuộc họp của Liên Hiệp Quốc ở New York. Đó là cuộc họp có vẻ như sẽ chẳng đi tới đâu. Putin muốn cung cấp cho Obama sự giúp đỡ của Nga để đánh bại ISIS, nhưng Obama muốn sử dụng ISIS để lật đổ tổng thống Assad của Syria, thiết lập chính quyền tay sai và đá đít Nga khỏi cảng duy nhất trên biển Địa Trung Hải ở Tartus, Syria. Obama muốn ép Putin phải giao Crimea của Nga và đoạn tuyệt với những nước cộng hòa không chịu thần phục chính quyền bài Nga mà Washington đã thiết lập ở Kiev.

Bất chấp sự thù địch của Washington, Tập Cận Bình và Putin tiếp tục hợp tác với Washington, ngay cả khi có nguy cơ bị hạ nhục trước mặt người dân nước họ. Putin và Tập Cận Bình có thể chấp nhận bao nhiêu sự coi thường, lên án và những cái tên (như “Hitler mới”) trước khi mất mặt ở quê nhà? Họ làm sao có thể lãnh đạo khi dân chúng cảm thấy nỗi xấu hổ mà Washington gán cho lãnh đạo của họ. 

Tập Cận Bình và Putin rõ ràng là những người ôn hòa. Họ không phải đang làm mọi cách để cứu thế giới khỏi cuộc chiến cuối cùng đó sao?

Người ta có thể giả định rằng Putin và Tập Cận Bình biết về học tuyết Wolfowitz, cơ sở của chính sách đối ngoại và quân sự Hoa Kỳ, nhưng dĩ nhiên họ không thể tin rằng những thứ ngu xuẩn trơ trẽn như vậy lại có thể có thật. Nói ngắn gọn, học thuyết Wolfowitz tuyên bố rằng nguyên tắc khách quan của Washington là ngăn chặn các quốc gia phát triển đến mức có đủ sức mạnh để chống lại sự thống trị của Hoa Kỳ. Do đó, Washington tấn công Nga thông qua Ukraina và Washington tái quân sự hóa Nhật Bản để làm phương tiện chống lại Trung Quốc, bất chấp sự phản đối của 80 dân chúng Nhật Bản. 

“Dân chủ ư?” “Sự thống trị của Washington không cần đến thứ dân chủ thối tha,” nhà cầm quyền Nhật Bản và là tay sai của Washington tuyên bố, là kẻ đầy tớ tin cậy của Washington, ông ta chà đạp lên đại đa số người dân Nhật Bản.

Trong khi đó, cơ sở thật sự của quyền lực Hoa Kỳ - nền kinh tế của nó - tiếp tục vỡ nát. Hàng triệu công ăn việc làm của tầng lớp trung lưu đã biến mất. Cơ sở hạ tầng của Hoa Kỳ đang sụp đổ. Các cô gái Mỹ, chết ngập trong các khoản nợ tiền học, tiền nhà, tiền đi lại và chẳng có gì ngoài công việc bán thời gian lương thấp, đăng lên các trang Internet lời khẩn cầu xin được làm tình nhân cho những người đàn ông có đủ khả năng giúp họ trả nợ. Đây là hình ảnh của một nước thuộc thế giới thứ ba.

Vào năm 2004, tôi đã dự đoán trong một hội thảo được truyền hình quốc gia ở Washington, DC, rằng Hoa Kỳ sẽ trở thành nước thế giới thứ ba trong 20 năm. Noam Chomsky nói rằng chúng ta đã như vậy vào năm 2015. Đây là đoạn trích dẫn gần đây của Noam Chomsky:

“Hãy nhìn quanh đất nước. Đất nước này đang sụp đổ dần. Ngay cả khi anh trở về Hoa Kỳ từ Argentina thi cũng giống như thấy một nước thế giới thứ ba, khi anh trở về từ Châu Âu thì điều đó càng rõ hơn. Cơ sở hạ tầng đang sụp đổ. Không có gì hoạt động hết. Hệ thống giao thông không hoạt động. Hệ thống y tế hoàn toàn là nhục nhã – chi phí trên đầu người cao gấp đôi các quốc gia khác và kết quả thì không tốt. Từ thứ này đến thứ khác. Trường học đang suy thoái ….”

Một chỉ số khác của nước thế giới thứ ba là sự bất bình đẳng lớn trong phân phối thu nhập và của cải. Theo CIA, Hoa Kỳ hiện giờ là nước có phân phối thu nhập tồi tệ nhất thế giới. Phân phối thu nhập ở Hoa Kỳ tồi tệ hơn Afghanistan, Albania, Armenia, Australia, Áo, Azerbaijan, Bangladesh, Belarus, Bỉ, Benin, Bosnia/Herzegovina, Burkina Faso, Burundi, Campuchia, Cameroon, Canada, Cote d’Ivoire, Croatia, Cyprus, Cộng hòa Czech, Đan Mạch, Ai Cập, Estonia, Ethiopia, Phần Lan, Pháp, Đức, Ghana, Hy Lạp, Guinea, Guyana, Hungary, Iceland, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Ireland, Israel, Italy, Nhật Bản, Jordan, Kazakhstan, Kenya, Hàn Quốc, Kyrgyzstan, Lào, Latvia, Liberia, Lithuania, Luxembourg, Macedonia, Malawi, Mali, Malta, Mauritania, Mauritius, Moldova, Mongolia, Montenegro, Morocco, Nepal, Hà Lan, New Zealand, Nicaragua, Niger, Nigeria, Na uy, Pakistan, Philippines, Poland, Portugal, Romania, Nga, Senegal, Serbia, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Đài Loan, Tajikistan, Tanzania, Timor-Leste, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan, Uganda, Ukraine, Anh, Uzbekistan, Venezuela, Việt Nam và Yemen.

Sự tập trung của thu nhập và tài sản của Hoa Kỳ vào tay của những người rất giàu là sự tiến triển triển mới trong thời của tôi. Điều này có hai nguyên nhân. Thứ nhất là chuyển công ăn việc làm của Hoa Kỳ ra nước ngoài. Việc này đã chuyển các công việc năng suất cao, giá trị gia tăng cao của Hoa Kỳ sang các nước mà sự thừa thãi của nguồn cung lao động khiến cho tiền lương tụt xuống dưới mức đóng góp của người lao động vào giá trị đầu ra. Chí phí lao động thấp ở quốc tế đã chuyển hóa tiền lương và thu nhập cao của người Mỹ và do đó là thu nhập của hộ gia đình Mỹ thành lợi nhuận doanh nghiệp, phần thưởng cho người điều hành doanh nghiệp và thu nhập tư bản cho cổ đông, vô hiệu hóa con đường tiến bộ đã biến Hoa Kỳ thành “miền đất hứa”. 

Nguyên nhân còn lại gây ra sự bất bình đẳng kinh khủng đang ngự trị ở Hoa Kỳ là điều mà Michael Hudson trong cuốn sách Giết vật chủ gọi bằng cái tên tài chính hóa kinh tế, cho phép các ngân hàng chuyển hướng thu nhập khỏi nền kinh tế để thanh toán lãi suất cho các khoản nợ mà ngân hàng cung cấp.

Cả hai sự tiến triển này tối đa hóa thu nhập và tài sản của Một Phần Trăm với chi phí của dân chúng và kinh tế. 

Như Michael Hudson và tôi đã khám phá, kinh tế học tân tự do mù lòa trước hiện thực và biện minh cho sự phá hủy các triển vọng kinh tế của Thế Giới Phương Tây. Hãy nhìn xem liệu Nga và Trung Quốc có thể phát triển kinh tế học khác hay những siêu quyền lực mới nổi này sẽ trở thành nạn nhân của “kinh tế học rác rưởi” đã phá hủy phương Tây. Với nhiều nhà kinh tế học Trung Quốc và Nga được đào tạo theo truyền thống Mỹ, triển vọng của họ có thể không tốt hơn chúng ta.

Toàn bộ thế giới này có thể cùng rơi xuống hố.

Paul Craig Roberts is a former Assistant Secretary of the US Treasury and Associate Editor of the Wall Street Journal. Roberts’ How the Economy Was Lost is now available from CounterPunch in electronic format. His latest book is How America Was Lost.

Cách thức Starbucks và Subway bóc lột nhân viên cũng như những nhà cung cấp

BENOÎT BRÉVILLE viết về cuộc đấu tranh của người lao động với chủ các doanh nghiệp đồ ăn nhanh đa quốc gia, trong "The Frappuchino Society: How Starbucks and Subway Exploit Their Staff and Suppliers to Feed Coporate Profits", bức tranh được thể hiện rất đa dạng, nếu như Subway móc túi những người mua nhượng quyền thì Starbucks tìm cách khai thác tối đa nhân công giá rẻ. Nhưng con đường nào thì gánh nặng cũng đổ lên đầu những người lao động phải làm việc với đồng lương tối thiểu và bị ngăn cản tổ chức công đoàn nhằm bảo vệ quyền lợi bản thân bằng đủ mọi cách. 

Xã hội Frappuchino: Cách thức Starbucks và Subway bóc lột nhân viên cũng như những nhà cung cấp để nuôi dưỡng lợi nhuận của doanh nghiệp

Quán sandwich của Subway ở Porte d’Orléans của Paris, bị kẹp chặt giữa một ngân hàng và một cửa hiệu thời trang, chật cứng người khi tôi đến đó vào một ngày tháng bảy, có thể là mười người đang xếp hàng, một người đàn ông đang đói, một nhóm thiếu niên, một bà mẹ với trẻ nhỏ. Một phụ nữ trẻ yêu cầu chiếc Sub30 (bánh sandwich dài 30 cm) với thịt gà tây, pho mát, cà chua, dưa chuột bao tử và nước sốt thị nướng; người bạn của cô lựa chọn Subway Melt, một loại đặc biệt của thương hiệu. Mọi người xử lý xong bữa ăn trong vòng 15 phút, không hề có chút níu kéo nào: cửa hàng với ánh sáng đèn neon ngột ngạt trong thời tiết nóng và tiếng ầm ĩ của nhạc techno. 

Nằm dọc theo đại lộ Général-Leclerc là Buffalo Grill, một quán Subway khác, một quán McDonald’s và một Burger King, trước khi bạn nhìn thấy những cánh cửa sổ khổng lồ và biểu tượng nàng tiên cá của Starbucks, hơn hai hành lang có điều hòa nhiệt độ ở góc phố d’Alésia. Tương phản với Subway – những bức tường được sơn màu trầm, nhạc jazz, bàn và ghế sofa chào đón bạn, có các ổ cắm điện cho laptop: mọi thứ đều mời gọi khách hàng ở lại đến chừng nào họ thích. Một phần ba khách hàng gọi đồ bằng tiếng Anh khi tôi ở đó, hầu như mọi người đều mặc quần áo đắt tiền. Trong khi bánh sandwich của Subway có giá thấp hơn 3 Euro (3,30 dollar) thì một lý Frappuchino của Starbucks có giá hơn 5 Euro (5,50 dollar).

Với mạng lưới Hoa Kỳ và các cơ sở đã được thiết lập trong thị trường ăn nhanh toàn cầu, Subway đến Pháp vào năm 2001 và Starbucks vào năm 2004. Không giống như Burger King đa quốc gia, đăng ký trên sàn chứng khoán, với nhượng quyền nằm trong tay các trung gian lớn (1), Subway là một mạng lưới những người kinh doanh nhỏ (“Gia đình Subway”), xuất hiện gần gũi với người lao động và ủng hộ các dự án cộng đồng. Không giống như McDonald và Gà Rán Kentucky (KFC), với thực phẩm giàu chất béo, Subway khẳng định cung cấp sản phẩm “lành mạnh”.

Starbucks muốn được nhìn nhận là upmarket và có trách nhiệm, khẳng định về sự tươi mới của bánh sandwich, bánh ngọt và nước trái cây, kỹ năng của người rang xay café. Họ kiêu hãnh về thương mại cà phê công bằng và quản lý nhân viên tốt. Theo điều lệ công ty, nhân viên là “đối tác”: “Đây không phải chỉ là công việc mà còn là sự đam mê của chúng ta. Chúng ta cùng nhau kết hợp tính đa dạng để tạo ra một nơi mà mỗi người trong chúng ta có thể là chính mình. Chúng ta luôn đối xử với nhau đầy tôn trọng và tự trọng. Mỗi người trong chúng ta đều duy trì tiêu chuẩn đó,” CEO Howard Schultz của Starbucks tuyên bố (2). Ông ta chịu trách nhiệm về 21.000 quán Starbucks ở 60 nước, với lực lượng lao động hơn 200.000 người. 

Sau khi có một sự nghiệp thành công tại Xerox và Hammarplast của Hoa Kỳ, Schultz mua lại Starbucks vào năm 1987 với giá 4 triệu dollar, khi đó mới chỉ là một chuỗi quán địa phương ở Seattle do hai người yêu cà phê tạo ra. Kể từ đó, thông qua sách và truyền thông, ông ấy đã xây dựng lên huyền thoại của Starbucks. Ông không để lỡ cơ hội nào để thể hiện sự ủng hộ với những yếu tố tiến bộ: chính sách chăm sóc y tế của tổng thống Obama, kết hôn đồng giới, cấm mang súng. Vào tháng 6 năm ngoái, Schultz, ăn vận thoải mái, xuất hiện trên chương trình Daily Show của Stewart tại Trung Tâm Hài Kịch. “Hôm nay, chúng ta được biết rằng Starbucks sẽ trở thành công ty Hoa Kỳ đầu tiên cung cấp chương trình đại học miễn phí cho tất cả nhân viên của họ,” ông nói với các khán giả đang hài lòng. Chỉ có những nhân viên làm việc nhiều hơn 20h/tuần mới được cung cấp, và cũng chỉ là các khóa học trực tuyến, nhưng thông báo kiểu này đã giúp Schultz đạt vị trí 17 trong danh sách “50 lãnh đạo vĩ đại nhất thế giới” của tạp chí Fortune. 

Nhiều quán nhất 

Người đồng cấp của ông ta ở Subway, Friedrick DeLuca, cũng là một sự ưa thích của truyền thông Hoa Kỳ, như là một người tự lực. Vào năm 1965, ở tuổi 17, ông mở nhà hàng đầu tiên ở Connecticut với 1.000 dollar vay từ bạn của bố, tiến sĩ Peter Buck, người hiện vẫn đồng sở hữu thương hiệu. Công thức – bán sandwich tươi sẵn sàng chờ gọi món – hầu như có hiệu quả tức thời. Vào năm 1974, DeLuca và Buck có 16 quán tại Hoa Kỳ và lập chuỗi nhượng quyền.

Kể từ đó, Subway, với 44.000 quán ở 105 nước, đã vượt qua McDonald như là chuỗi đồ ăn nhanh với số lượng quán lớn nhất, mặc dù McDonald’s có doanh thu cao hơn. DeLuca, cái đầu của mạng lưới những người kinh doanh nhỏ, bảo vệ om sòm “gia đình” của ông ta và chỉ trích các luật lệ làm tổn hại kinh doanh nhỏ. Môi trường của những người kinh doanh Hoa Kỳ đã “ngày càng trở nên tồi tệ hơn bởi vì ngày càng có nhiều luật lệ hơn,” ông ta nói vào năm 2013. “Thật là khó khăn để kinh doanh, nhất là kinh doanh nhỏ … Nếu tôi bắt đầu Subway vào ngày nay, Subway sẽ không tồn tại.” Ông ta chống lại Obamacare (“mối lo ngại nhất của những người mua nhượng quyền”), thuế thu nhập và mọi sự gia tăng lương tối thiểu (“điều đó sẽ khiến những người mua nhượng quyền phải tăng giá”). DeLuca là một phần của “sự sùng bái người kinh doanh Mỹ”, cá nhân đặc trưng kêu gọi chủ nghĩa không tưởng tư bản chủ nghĩa (3), theo lời Charles Wright Mill. 

Để phát triển ở Hoa Kỳ và sau đó là thế giới, Subway tạo ra một mô hình hấp dẫn. Chi phí nhượng quyền ban đầu rất thấp: 11.000 dollar (10.000 Euro) ở Pháp, 15.000 dollar ở Hoa Kỳ, bằng một phần ba so với phí của các đối thủ cạnh tranh. Mở một quán không cần phải đầu tư nhiều: 220.000 dollar với 88.000 dollar là tài sản cố định. Không cần có chảo rán, bếp lớn, máy làm đá hay máy soft drink; chỉ là lò nướng, một quầy để bày thực phẩm và một tủ mát cho đồ uống. Những người mua nhượng quyền, những người gánh chịu toàn bộ rủi ro của thất bại, trả cho Subway 12,5% tổng doanh thu (so với 11% của KFC và Pizza Hut hay 7% của Pomme de Pain và Planet Sushi). Trụ sở gom doanh thu, đảm bảo marketing và gửi các thanh tra đi kiểm tra xem các quán có chấp hành các quy định của họ không: 13 bước rã đông và nướng bánh mì, trang trí, đồ gỗ, các quy định vệ sinh, chính sách giá cả. “Họ quyết định và chúng tôi thi hành,” một người mua nhượng quyền Đan Mạch nói. “Nếu chúng tôi thay đổi thứ gì đó mà không báo với đại diện của Subway, chúng tôi sẽ gặp rắc rối,” một người khác nói với tôi (4). 

Những người đệ đơn mua nhượng quyền không cần phải có kinh nghiệm hay bằng cấp. Do Subway có ít thấp bại nên có nhiều người kinh doanh mới tích cực đăng ký. Vào năm 1988, nhà kinh tế học Dean Sager mô tả Subway là “vấn đề lớn nhất trong nhượng quyền … một trong những ví dụ chủ chốt về lạm dụng [nhượng quyền] mà bạn biết tới.” Trang blog-franchise.fr của Pháp viết vào năm 2013: “Đa số những người mua nhượng quyền sống sót bằng sự nô lệ hàng ngày.”

Có vẻ như là do một điều khoản về giữ bí mật, hầu hết những người mua nhượng quyền từ chối nói về hợp đồng của họ. Một chủ quán ở khu vực Lille đồng ý phát biểu nặc danh: “Subway mốn mở nhà hàng ở mọi nơi và không thực sự có phân tích thị trường. Đôi khi anh thấy có ba quán Subway cạnh tranh với nhau trong phạm vi 500 m. Để tồn tại, nhiều người đã phải mở vài quán.” (Điều này khớp với dữ liệu của Observatoire de la Franchise, cho thấy 70% quán Subway mới ở Pháp được những người mua nhượng quyền cũ mở). Ông phàn nàn về yêu cầu trung thành của Subway: “Anh phải trả tiền cho họ hàng tuần, ngay cả khi công việc kinh doanh xấu. Rất dễ để nợ nần, nhất là khi anh phải ký hợp đồng với các nhà cung cấp chính thức của thương hiệu và không thể điều chỉnh giá cả.”

Phá sản thường xuyên 

Tôi hỏi một người quản lý phát triển khu vực của Subway về vấn đề của những người mua nhượng quyền, anh ta giới thiệu tôi với đại diện quan hệ công chúng, hãng McKenna Townsend của Anh Quốc, khẳng định rằng ngoại trừ một số trường hợp nhỏ đơn lẻ thì những người mua nhượng quyền rất hạnh phúc. Mặc dù vậy phá sản là thường xuyên. Theo tạp chí Capital, từ năm 2008 đến năm 2010, 45% cửa hàng Subway ở Pháp đã đổi chủ. 

Sức ép lên những người quản lý quán được chuyển sang nhân viên của họ. Theo điều tra của CNN, sử dụng dữ liệu của Bộ Lao Động Hoa Kỳ, các quán ở Hoa Kỳ có 17.000 vi phạm luật lao động trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2013: làm thêm giờ không trả tiền, giữ tiền lương trái luật khi ngân quỹ thâm hụt, sa thải bất công. DeLuca lên án những người mua nhượng quyền, nói rằng đó là những trường hợp “vi phạm ở cấp độ quán … ba hay bốn năm trước đây, chúng tôi đã hợp tác chặt chẽ với Bộ Lao động để hướng dẫn cho các đối tác của chúng tôi về những điều đúng đắn cần phải làm.” Người lao động của Subway có ít sựa lựa chọn để chống lại chủ của họ: “Họ là những người kinh doanh rất nhỏ với vài lao động, hầu như không thể lập công đoàn được,” Olivier Guivarch nói, ông là người chịu trách nhiệm về lĩnh vực khách sạn, du lịch và nhà hàng tại Liên Đoàn Lao Động Dân Chủ Pháp (CFDT). “Ở Pháp, [người lao động của Subway] không có hội đồng người lao động, đại diện công đoàn hay các thể chế đại diện khác. Rất dễ để thành lập ở các công ty thống nhất như Starbucks.”

Starbucks tự điều hành các cửa hàng, để duy trì tiêu chuẩn của thương hiệu và có thể lựa chọn địa điểm một cách cẩn trọng (5). Subway, với chiến lược phát triển đầy may rủi, mở các nhà hàng không phân biệt; Starbucks tiến từ thành phố này qua thành phố khác, tập trung vào các vị trí có dòng người tốt – các phố chính, trung tâm thương mại, quận kinh doanh, trung tâm thành phố lịch sử, nhà ga và sân bay – đủ bão hòa để ngăn cản sự cạnh tranh. Họ đã thành công trong việc đứng vững ở những quốc gia hầu như không có văn hóa cà phê trước đó, như Trung Quốc (có 1.300 quán vào năm 2014).

Địa điểm được lựa chọn phù hợp với thị trường mục tiêu và hình ảnh của doanh nghiệp. Như Paula Mathieu, một chuyên gia hùng biện đã cho biết, đây là một câu chuyện hướng tới kịch bản hóa “trải nghiệm Starbucks” (6). Theo Schultz, điều này “được quy định bởi những gì chúng ta đã đặc trưng hóa trong một thời gian dài khi Starbucks thực sự trở thành “nơi thứ ba” bên cạnh nhà và nơi làm việc – một sự mở rộng cửa trước hay văn phòng của mọi người.” Nhân viên pha chế được khuyến khích làm cho khách hàng cảm thấy đặc biệt bằng cách tán gẫu với họ, sử dụng tên thân mật và nói về sự bất bình đẳng kinh khủng ở Hoa Kỳ (mục tiêu của chiến dịch Cùng Chạy Đua mà Starbucks phát động vào tháng 3 vừa qua) hay các kỹ thuật rang cà phê.

Khách hàng của Starbucks được kỳ vọng sẽ nhận được nhiều hơn là đồ uống đơn giản, đồng nhất từ Dubai tới Rio de Janeiro – điều đó có nghĩa là trải nghiệm ăn uống. Việc sử dụng tên Italia (latte, macchiato, Frappuchino), quy định về việc nhân viên pha chế phải vứt bỏ mọi ly expresso không được pha trộn sau 10 giây bởi vì chúng đã mất hương vị, các tờ rơi quảng cáo (“Mỗi hạt cà phê đòi hỏi một sự cân bằng độc nhất về nhiệt độ và thời gian để đạt được đỉnh cao về hương thơm, độ chua, hàm lượng và mùi vị”), thúc đẩy ý tưởng rằng sản phẩm, cân bằng một cách thông minh giữa các nguyên lý khoa học và đam mê, chỉ có thể được thừa nhận bởi những người sáng suốt. Đây là cách mà Starbucks tác động tới khách hàng tương tự trên khắp thế giới: các sinh viên giàu có, người có chuyên môn, khách du lịch và chuyên gia, những người coi Starbucks là nơi tạm trú quen thuộc và là điểm đến đặc biệt mà họ có thể thực hành khẩu vị tốt của họ. “Chúng ta tạo ra công việc cho những người sành cà phê,” Schultz khoa trương. 

DeLuca khẳng định phải sáng tạo kinh doanh đồ ăn nhanh lành mạnh. Vào năm 1998, Jared Folge, một người Mỹ 21 tuổi nặng 192kg, ăn theo kiểu bất thường: trong một năm, anh ta chỉ ăn bánh sandwich Subway – gà tây vào bữa trưa và rau vào bữa tối, không ăn phó mát và mayonnaise. Anh ta giảm được hơn 110 kg. Tạp chí Men’s Health đăng sự kiện này lên trang nhất như là “Ăn kiêng Subway”. Subway phất lên. Vào năm 2002, họ đưa ra khẩu hiệu “Ăn tươi” và đổi biểu tượng của họ sang màu xanh giống như dấu hiệu của “tính tự nhiên”. Để gia tăng độ tin cậy, họ thành lập quan hệ đối tác với Đại Học về Bệnh Tim Hoa Kỳ và Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ. Folge trở thành xiềng xích của Ronald McDonald, gã Subway. Anh ta xuất hiện tại hơn 300 quảng cáo của Subway, mỗi quảng cáo anh ta nhận được 15 triệu dollar. Michelle Obama cảm ơn Subway vì đã khiến “trẻ em thích ăn rau” (7). 

Bằng cách thể hiện bản thân đó, Subway tập trung vào thị trường nhận thức về sức khỏe và mở ra các thị trường gần với các đối thủ cạnh tranh cung cấp đồ ăn chiên của họ, trong đó có bệnh viện, trường trung học và trường đại học. Việc sơn xanh đó mang lại lợi nhuận: từ năm 1998 đến 2011, theo tờ USA Today, doanh số của Subway Hoa Kỳ tăng từ 3,1 tỷ dollar lên 11,5 tỷ dollar. 

Nhưng đồ ăn không “lành mạnh”, “tự nhiên” hay “tươi” chỉ bởi vì chúng thô. Rau củ của Subway không có vị, được quanh năm trong nhà kính quá nóng, được hái khi còn non (hoặc vẫn xanh) để đủ thời gian vận chuyển. Một dấu bảng ghi chú ở quầy khuyến cáo thịt cắt lát, gà tây và thịt bê không được khuyến khích cho những người dị ứng với sữa và đậu tương – thịt đến từ các xưởng mà động vật chỉ là vật liệu được kết hợp và chuyển hóa với nước, muối, đường, chất ổn định. Ở Hoa Kỳ, Subway được cung cấp bởi người khổng lồ West Liberty Foods, cũng là nhà cung cấp cho các cửa hàng lớn của Walmart và Costco. Vào tháng 6 vừa qua, Subway bị cáo buộc sử dụng thuốc kháng sinh quá mức cho động vật của họ (8). 

Họ có bánh sandwich tương đối lành mạnh nhưng hầu hết khách hàng thêm nước sốt và pho mát, bên cạnh đó gọi thêm đồ chiên và soft drinks. Sự kết hợp được khuyến khích của chuỗi có lượng ca lo rất cao: loại bánh sandwich dẫn đầu như Big Philly Cheesesteak và Meatballs Marinara cỡ 30 cm chứa 1.000 và 750 calo, so với 540 ca lo của Big Mac.

“Kinh doanh có đạo đức”

Sự định vị của Starbucks trên phương diện kinh doanh có đạo đức cũng đột ngột như hiện tượng Folge. Vào năm 1999, hội nghị thượng đỉnh của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới được tổ chức ở Seattle, kéo theo các cuộc biểu tình chống toàn cầu hóa khắp thành phố. Các quán Starbucks trở thành mục tiêu bởi vì họ xuất khẩu phong cách sống Mỹ đồng thời bóc lột các nông dân ở phương Nam. Schultz và các nhà chiến lược khác của ông ta lo lắng vì họ trở thành một biểu tượng của chủ nghĩa đế quốc giống như McDonald’s và Nike, họ phát động một chiến dịch cải thiện hình ảnh doanh nghiệp. Vào năm 2000, Starbucks ký hợp tác với TransFair Hoa Kỳ, một tổ chức thúc đẩy thương mại công bằng. Vào năm 2004, họ thiết lập nhãn hiệu đạo đức riêng, cam kết mua cà phê cao hơn 20-30% so với giá thị trường và đặt mức sàn cho giá mua cà phê nữa khi giá thị trường giảm mạnh. Họ cũng cải thiện phúc lợi của người lao động: ở Hoa Kỳ, người lao động có thể nhận được bảo hiểm y tế (nếu họ làm việc nhiều hơn 20 giờ/tuần), mua cổ phần được giảm giá (sau một năm làm việc) và mang về nhà một túi cà phê miễn phí mỗi tuần. 

Nhưng chính sách toàn cầu của Starbucks lại rất khắc nghiệt với các nhà cung cấp và nhân viên. Từ năm 1991 đến 2013, doanh số cà phê toàn cầu tăng 30 tỷ lên 70 tỷ dollar, nhưng phần thuộc về nhà sản xuất giảm từ 40% xuống 10% (9). Starbucks đóng góp vào sự thay đổi này. Họ có những người vận động chính sách ở Washington từ năm 2004, chống lại hàng rào hải quan thấp đối với các nước cung cấp cho họ (10). Vào năm 2006-7, họ đưa Ethiopia ra tòa án Hoa Kỳ để ngăn cản quốc gia này cấp nhãn hiệu thương mại cho ba khu vực trồng cà phê. Nhằm tránh phải trả thuế lợi nhuận ở những nước mà họ hoạt động, Starbucks chuyển tiền tới các thiên đường thuế thông qua một công ty ở Thụy Sĩ (11). Trong vai trò một thành viên của Hiệp Hội Các Nhà Chế Biến Tạp Hóa đầy thế lực, cùng với Nestlé, Kraft Foods, Proctor & Gamble, họ khuyến khích tự do thương mại. Họ hành động giống như tất cả các doanh nghiệp đa quốc gia khác trong lĩnh vực nông nghiệp.

Nhân viên pha chế, cũng giống như “nghệ sĩ sandwich” của Subway, phải nhận đặt hàng, khuyến khích khách hàng chi tiêu nhiều hơn, chuẩn bị đồ uống, vận hành quầy, lau dọn bàn và nhà vệ sinh, đổ thùng rác, rửa cốc chén và cười, để nhận lương chỉ vừa đủ cao hơn mức tối thiểu, bao gồm cả tiền tip.

Ở Starbucks, nhân viên là có thể trao đổi được. “Nếu một quán khác cần thêm người, hoặc nếu chúng tôi dư người, người quản lý quán có thể nói anh đi đến đó và giúp họ,” một nhân viên pha chế ở Paris nói. “Trong hợp đồng của chúng tôi có điều khoản về sự linh hoạt: họ có thể yêu cầu anh thay đổi thường xuyên giữa các quán và nhân viên toàn thời gian không có quyền từ chối.” Để theo dõi “các đối tác” – mang tính đạo đức – Starbucks sử dụng một hệ thống được gọi là Tiếng Nói của Khách Hàng: “Trong ba hay bốn tháng qua, [sau] một lượng gọi đồ nhất định sẽ có một tờ thứ hai được in kèm theo với hóa đơn của quầy, yêu cầu khách hàng điền vào một khảo sát trực tuyến để cung cấp phản hồi về trải nghiệm của họ. Khách hàng có cơ hội giành được phần thưởng tương đương với một ly latte lớn mỗi ngày trong một tháng.” 

Sức ép ngăn cản người lao động nói về ý kiến của mình là rất mạnh. Vào năm 2005, Daniel Gross, một nhân viên pha chế ở New York muốn thiết lập hiến chương của Công Nhân Công Nghiệp Thế Giới (IWW) tại quán anh làm việc, đã phát biểu với tờ New York Times. Schultz đã ngay lập tức gửi thư điện tử tới tất cả những nhân viên Hoa Kỳ của Starbucks có cùng quan điểm với Gross; Gross bị sa thải vài tháng sau đó (12). Kể từ đó Starbucks phản đối dữ dội việc thành lập công đoàn, hoặc đảm bảo họ sẽ không có rắc rối. Vào năm 2013, những cuộc bầu cử đầu tiên của đại diện nhân viên ở Starbucks Pháp là một thắng lợi của CFDT, nhưng khi tôi cố gắng liên lạc với hai đại diện của họ, một người thì quản lý một quán ở Paris nói không thể liên lạc được trong vài tuần và người kia, một trưởng ca, không muốn nói mà không có sự chấp thuận của quản lý.

Số lượng nhân viên lớn, hoạt động quy mô nhỏ, hệ thống và cấp bậc nhượng quyền khiến cho việc tổ chức người lao động trong lĩnh vực ăn nhanh gặp khó khăn. Vào năm 2014, các đại biểu công đoàn từ hơn 30 nước trên thế giới gặp mặt tại New York để thảo luận về hành động tập thể. Họ liệt kê các kinh nghiệm của công đoàn Unite New Zealand, một trong số ít được thiết lập chắc chắn trong lĩnh vực này. Vào năm 2005, các nhà hoạt động của Unite xông vào Starbucks ở Auckland và kêu gọi các nhân viên pha chế ngừng làm việc (13). Hành động này được lặp lại ở các quán khác, ít nhất là trong sáu tháng, 2.000 người đã đăng ký vào công đoàn, tiếp tục các can thiệp (như làm tắc nghẽn đường dây điện thoại của công ty bằng các cuộc gọi để ngăn cản hệ thống giao hàng). Người khổng lồ đồ ăn nhanh đầu hàng, vào năm 2006 một thỏa thuận tập thể được ký kết. Kể từ đó, hơn 30.000 lao động đã tham gia công đoàn và lương trong lĩnh vực đồ ăn nhanh ở New Zealand đã tăng lên 50%. 

George Miller dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh.

Notes.

(1) Người mua nhượng quyền lớn nhất của Burger King, một doanh nghiệp ở bang New York, có hơn 560 nhà hàng. Xem Thomas Frank, “Chi phí thực của bánh burger rẻ tiền”, Le Monde diplomatique, Bản tiếng Anh, tháng 2 năm 2014.

(2) Howard Schultz với Joanne Gordon, Tiến về phía trước: Cách thức Starbucks chiến đấu để sinh tồn mà không đánh mất linh hồn, Rodale Press, New York, 2012.

(3) Charles Wright Mills, Cổ trắng: Tầng lớp trung lưu Hoa Kỳ, Oxford University Press, Oxford và New York, 1951.

(4) Được trích dẫn trong Henrik Antonsson, Lukas Engström và Vytautas Verbus, “Sáng tạo trong nhà hàng bán đồ ăn nhanh: vai trò của các quản lý nhà hàng địa phương”, Jönköping International Business School, 2011.

(5) Để chiếm lĩnh một quốc gia mới, đôi khi Starbucks thiết lập một hợp tác tạm thời với đối tác địa phương: Autogrill ở Bỉ, Sazaby League ở Nhật Bản, Grupo Vips ở Pháp, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Sau đó họ sẽ mua lại phần của đối tác. 

(6) Paula Mathieu, “Quyền công dân kinh tế và hùng biện về người sành cà phê” (PDF), Rhetoric Review, vol 18, no 1, mùa thu năm 1999.


(8) Thư ngỏ gửi Frederick DeLuca của 60 hiệp hội về sức khỏe và môi trường, 23 tháng 6 năm 2015.

(9) Kelsey Timmerman, Tôi đang ăn ở đâu? Một chuyến du hành qua kinh tế thực phẩm toàn cầu, Wiley, Hoboken (New Jersey), 2013.

(10) Jeanne Cummings, “Thận trọng, Starbucks đặt vận động chính sách lên thực đơn doanh nghiệp ”, The Wall Street Journal,12 tháng 4 năm 2005.

(11) Tom Bergin, “Báo cáo đặc biệt: Cách thức Starbucks trốn thuế ở Anh Quốc”, Reuters, 15 tháng 10 năm 2012.

(12) “Ủy Ban Quan Hệ Lao Động Quốc Gia v Starbucks Corporation”, United States Court of Appeals, Second Circuit, New York, 27 tháng 4 năm 2011.

(13) Erik Forman, “Trả lương đáng kinh ngạc ở New Zealand”, Labor Notes, no 407, Detroit, tháng 2 năm 2013.

This article appears in the excellent Le Monde Diplomatique, whose English language edition can be found at mondediplo.com. This full text appears by agreement with Le Monde Diplomatique. CounterPunch features two or three articles from LMD every month.

More articles by: BENOÎT BRÉVILLE

Sunday, September 27, 2015

Mười lý do để chống lại triều đình Saudi

Noam Chomsky đã từng nói rằng nếu chính quyền của một nước tích cực bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản và nhà đầu tư Hoa Kỳ thì bất kể họ làm gì, chặt đầu bao nhiêu người, bỏ tù bao nhiêu dân chúng, thủ tiêu mọi quyền căn bản, họ vẫn sẽ là tấm gương sáng láng về tự do, dân chủ và nhân quyền, là đồng minh thân cận của chính quyền Hoa Kỳ. Trường hợp điển hình chính là Saudia Arabia, một hóa thạch sống của triều đình phong kiến còn tồn tại trong thế giới hiện đại. Nó sẽ vẫn còn tồn tại chừng nào nó còn có ích cho Hoa Kỳ, nhưng cũng sẽ thật ảo tưởng khi cho rằng Hoa Kỳ sẽ thay đổi nó theo hướng tiến bộ hơn. Không, chỉ có người lao động Saudi mới có thể làm được điều đó. Dưới đây là bản dịch bài viết "Ten Reasons to Oppose the Saudi Monarchy" của nữ tác giả Medea Benjamin.

Hình minh họa: Hoa Kỳ và Saudi vui vẻ với thanh kiếm
Nguồn: Internet
Mười lý do để chống lại triều đình Saudi

Trong cuộc thảo luận về thỏa thuận hạt nhân của Iran, thật lạ lùng khi các chính khách Hoa Kỳ lên án dữ dội việc vi phạm nhân quyền của Iran nhưng lại im lặng về những vi phạm tồi tệ của đồng minh thân cận Saudi Arabia. Không chỉ sự áp bức của chính quyền Saudi ở trong và ngoài nước, mà vũ khí và sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với chính quyền này cũng khiến người dân Mỹ trở thành đồng lõa. Hãy cùng xem xét chế độ được chính quyền Hoa Kỳ coi là người bạn thân.

1. Saudia Arabia được cai trị bằng chế độ quân chủ chuyên chế với một bộ lạc lớn, gia đình Saudi, ngai vàng được chuyển giao từ vua này sang vua khác. Nội các là do nhà vua chỉ định, các chính sách của họ phải được phê chuẩn bằng quyết định của hoàng gia. Các đảng chính trị bị cấm và không có các cuộc bầu cử quốc gia.

2. Phê phán triều đình, hay bảo vệ nhân quyền, đều có thể phải nhận nhiều hình phạt tàn bạo cùng với án tù. Ali al-Nimr bị theo dõi và bắt giữ ở tuổi 17 vì phản đối sự tham nhũng của chính quyền, cậu bị tuyên án chặt đầu và phơi thây. Raif Badawi bị kết án 10 năm tù và 1.000 roi vì viết blog mà chính quyền cho rằng phê phán sự cai trị của họ. Waleed Abulkhair bị kết án 15 năm tù vì những công việc của ông làm trong vai trò luật sư nhân quyền. Luật mới đánh đồng việc phê phán chính quyền cũng như các hoạt động ôn hòa khác với khủng bố. Chính quyền kiểm soát chặt chẽ báo chí quốc nội, các nhà báo và biên tập viên đã đăng các bài báo có vẻ chống lại thiết chế tôn giáo hoặc nhà cầm quyền đều bị cấm hành nghề. Hơn 400.000 website được coi là phi đạo đức hoặc nhạy cảm chính trị đã bị chặn. Một đạo luật vào tháng 1 năm 2011 yêu cầu mọi blog và website, hoặc bất cứ ai đăng tin tức hay bình luận trực tuyến, đều phải có giấy phép của Bộ Thông Tin nếu không sẽ bị phạt hoặc đóng cửa website.

3. Saudia Arabia có tỷ lệ xử tử cao nhất thế giới, giết hại nhiều người mỗi năm về những tội như ngoại tình, bỏ đạo, sử dụng ma túy và yêu thuật. Chỉ riêng năm nay, chính quyền đã thực hiện hơn 100 vụ chặt đầu, thường xuyên ở các quảng trường công cộng.

4. Phụ nữ Saudi là công dân hạng hai. Cảnh sát tôn giáo thi hành chính sách phân chia giới tính và thường xuyên quấy rầy phụ nữ, sử dụng hình phạt thân thể để thực thi quy định ngặt nghèo về trang phục. Phụ nữ cần được sự chấp thuận của người bảo hộ nam giới để lấy chồng, đi du lịch, học đại học, hoặc xin hộ chiếu, họ bị cấm lái xe. Theo các diễn giải của luật Sharia, con gái nói chung nhận được một nửa thừa kế so với anh em trai, lời khai của một người đàn ông có giá trị bằng hai phụ nữ. 

5. Không có tự do tôn giáo. Đạo Hồi là tôn giáo chính thức, mọi người Saudi đều phải theo Hồi Giáo theo luật định. Chính quyền cấm thực hành công khai bất cứ tôn giáo nào khác Hồi Giáo và cấm các hoạt động tôn giáo của những nhóm Hồi Giáo thiểu số dòng Shiite và Sufi. Mặc dù chính quyền công nhận quyền tín ngưỡng cá nhân của những người không phải Hồi Giáo nhưng họ không tôn trọng những quyền này trong thực tế. Việc xây dựng giáo đường Shiite bị cấm.

6. Saudi xuất khẩu một cách diễn giải cực đoan về Hồi Giáo, chủ nghĩa Wahhabi, khắp toàn cầu. Trong hơn ba thập kỷ qua, Saudi Arabia đã chi 4 tỷ dollar mỗi năm cho các giáo đường, trang phục, giáo sĩ, sinh viên và sách giáo khoa để phổ biến chủ nghĩa Wahhabi cũng như tình cảm bài phương Tây. Hãy đừng quên rằng 15 trong số 19 kẻ điên cuồng tham gia vụ tấn công ngày 11 tháng 9 là người Saudi, cũng giống như Osama bin Laden.

7. Quốc gia này được lao động nước ngoài xây dựng và vận hành, nhưng hơn 6 triệu công nhân nước ngoài hầu như không có sự bảo hộ pháp lý. Đến từ những nước nghèo, nhiều người bị lùa vào vương quốc này với những lời hứa hẹn giả dối và bị buộc phải chịu đựng những điều kiện làm việc và sống nguy hiểm. Lao động nhập cư nữ làm việc nhà ở Saudi thường tố cáo các lạm dụng thân thể, tình dục và tình cảm.

8. Saudi tài trợ cho khủng bố khắp thế giới. Điện tín bị Wikileaks tiết lộ năm 2009 trích dẫn người sau này là Ngoại Trưởng Hillary Clinton nói rằng “Các nhà tài trợ ở Saudi Arabia là nguồn tài trợ đáng kể cho các nhóm khủng bố Sunni trên toàn thế giới …. Có nhiều thứ phải làm hơn kể từ khi Saudi Arabia trở thành nguồn tài trợ tài chính trọng yếu của al-Quaeda, Taliban, Lashkar e-Tayyiba và các nhóm khủ bố khác.” Ở Syria, Saudi ủng hộ các lực lượng phe phái cực đoan nhất và hàng ngàn tình nguyện viên tập hợp theo sự kêu gọi của họ. Trong khi chính quyền Saudi lên án ISIS, nhiều chuyên gia, trong đó có tác giả hàng đầu của Báo Cáo Ủy Ban 9/11 là Bob Graham, tin rằng ISIL là sản phẩm của lý tưởng Saudi, tiền của Saudi và sự hỗ trợ tổ chức của Saudi.

9. Saudi đã sử dụng các cơ quan quân đội quy mô lớn của họ để xâm lược các quốc gia láng giềng và đàn áp phong trào nổi dậy dân chủ. Vào năm 2011, quân đội Saudi (sử dụng xe tăng của Hoa Kỳ) tiến vào quốc gia láng giềng Bahrain và đàn áp dã mang phong trào dân chủ non trẻ của quốc gia này. Vào năm 2015, Saudi can thiệp vào xung đột quốc tế ở Yemen, với chiến dịch ném bom khốc liệt (sử dụng bom chùm và chiến đấu cơ phản lực F-15 do Hoa Kỳ chế tạo) đã giết hại và làm bị thương hàng ngàn thường dân. Cuộc xung đột đã trở thành khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng tác động tới 80% dân số Yemen.

10. Saudi hậu thuẫn cho cuộc đảo chính ở Ai Cập đã giết hại hơn 1.000 người và ném hơn 40.00 người bất đồng chính kiến vào những nhà tù dơ dáy. Trong khi các nhà hoạt động nhân quyền trên khắp thế giới lên án chế độ tàn bạo của Al Sisi, chính quyền Saudi đã cung cấp 5 tỷ dollar để ủng hộ thủ lĩnh đảo chính của Ai Cập.

Mối quan hệ thân thiện giữa Hoa Kỳ và Saudi có liên quan đến dầu mỏ, buôn bán vũ khí và sự đối đầu chung với Iran. Nhưng với chủ nghĩa cực đoan đang lan rộng toàn cầu, sự suy giảm nhu cầu về dầu mỏ của Hoa Kỳ, sự tan băng trong mối quan hệ của Hoa Kỳ với Iran, giờ là lúc bắt đầu kêu gọi chính quyền Hoa Kỳ siết chặt những ràng buộc với hoàng gia Saudi.

Medea Benjamin is the co-founder of the peace group CODEPINK and the human right organization Global Exchange. Follow her on twitter at @MedeaBenjamin.