Mỗi khi bàn đến chuyện học và dạy môn lịch sử là báo chí lại đua nhau đăng bài ca ngợi cách dạy và học môn lịch sử của Mỹ để làm gương cho Việt Nam. Họ đăng hình ảnh của một buổi học và thực hành có phụ huynh tham dự để thấy sự sinh động, hay phê phán:...ở Việt Nam vẫn chưa vượt qua những bài giảng mang nặng tính ý thức hệ và duy ý chí. Nhưng James W. Loewen, trong cuốn sách "Lies My Teacher Told Me" do nhà xuất bản Touchstone phát hành năm 2007, lại tiết lộ những bí mật kinh khủng khác trong việc dạy và học lịch sử ở Mỹ như lảng tránh sự thật, cắt xén lịch sử, áp đặt quan điểm chính thống... đặc biệt là người Mỹ lẩn tránh chủ đề chiến tranh Việt Nam, không có báo chí hay sách vở nào ở Việt Nam nói về điều này.
Dưới đây là bản dịch chương 9 "Down the Memory Hole: The Disappearance of Recent Past" của cuốn sách.
Nếu
chúng ta không nói về chúng, những người khác chắn sẽ viết lại đề cương. Mỗi
túi xác, mỗi ngôi mộ tập thể sẽ được mở ra và nội dung của chúng sẽ được phù phép
thành nguyên nhân cao quý.
—George Swiers, Cựu chiến binh Việt Nam1
Khi
thông tin có vẻ như thuộc về công chúng bị những người có quyền lực kiểm soát một
cách có hệ thống, người dân sớm trở thành ngu ngốc về công việc của họ, thiếu
tin tưởng những người cai quản họ và – thậm chí – không có khả năng quyết định
vận mệnh của họ.
—Richard M. Nixon2
Mục
tiêu của nhà sử học là biết những thành phần của hiện tại thông qua việc hiểu
biết những gì đi từ quá khứ đến hiện tại, do hiện tại chỉ là quá khứ phát triển
lên…. Mục tiêu của nhà sử học là hiện tại sống động.
—Frederick Jackson
Turner3
Chúng
ta nhìn mọi thứ không phải như chúng tồn tại mà như chúng ta tồn tại.
—Anai's Nin
Chìm trong quên lãng: Sự biến mất của quá khứ gần
Nhiều
xã hội Châu Phi phân chia con người thành ba loại: những người còn sống trên
trái đất, sasha và zamani. Những người mới chết có thời gian trên trái đất chồng
lên thời gian của những người còn sống là sasha, xác sống. Họ chưa chết hoàn
toàn, họ vẫn còn tồn tại trong ký ức của người sống, những người có thể nhắc tới
họ trong ý nghĩ, tạo ra hình ảnh của họ trong nghệ thuật và mang họ trở lại đời
sống bằng giai thoại. Loại còn lại là tổ tiên đã chết, đã rời bỏ sasha để trở
thành zamani, người chết. Khi tổ tiên được khái quát hóa, zamani không bị quên
lãng mà được tôn kính. Nhiều người như George Washington hay Clara Barton có thể
được nhắc tên. Nhưng họ không phải là xác sống. Đây là sự khác biệt. 4
Do
chúng ta thiếu những khái niệm Kiswahili nên chúng ta hiếm khi nghĩ về sự khác
biệt này một cách có hệ thống, nhưng chúng ta cũng vẫn làm điều đó. Xét xét cách
thức chúng ta đọc mô tả về một sự kiện đã trải qua, đặc biệt là khi chúng ta
tham gia vào đó, bất kể là sự kiện thể thao hay Chiến Tranh Vùng Vịnh, chúng ta
đọc với tinh thần phê phán, đánh giá sai lầm hay đồng ý hoặc học những điều
đúng đắn của tác giả. Khi chúng ta nghiên cứu quá khứ xa hơn, chúng ta có thể
cũng đọc một cách phê phán, nhưng chúng ta chỉ có ít cơ sở về nó và để phê phán
những gì chúng ta đọc.
Các
tác giả của sách giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ dường như quá rõ về sasha – sự thật là
giáo viên, cha mẹ và các thành viên của ủy ban chấp nhận sách giáo khoa đều đã
từng trải qua quá khứ gần đây. Họ dường như không cảm thấy dễ chịu với điều đó.
Tôn kính zamani - tổ tiên chung – hợp với
phong cách của họ hơn. Theo định nghĩa, thế giới của sasha là mâu thuẫn, bởi vì
độc giả đưa vào đó kiến thức và hiểu biết của bản thân, có thể không đồng thuận
với những gì được viết, do đó, càng nói ít về quá khứ gần thì càng tốt. Tôi đã nghiên cứu cách thức mà mười bài tường thuật lịch sử Hoa Kỳ trong mẫu trình bày
về lịch sử trong năm thập kỷ cho tới những năm 1980. (Tôi loại trừ những năm
1980 bởi vì một số sách giáo khoa xuất hiện vào thập kỷ này, nên chúng không thể
tường thuật đầy đủ được.) Tính trung bình sách giáo khoa dùng 47 trang cho những
năm 1930, 43,6 trang cho những năm 1940 và dưới 35 trang cho mỗi thập kỷ tiếp
theo. Ngay cả thập kỷ 1960 đầy xáo trộn – trong đó có phong trào dân quyền, phần
lớn cuộc chiến tranh Việt Nam và vụ sát hại Martin Luther King, Jr., Medgar
Evers, Malcom X, John và Robert Kennedy – cũng có ít hơn 35 trang.
Tôi sử
dụng khái niệm tường thuật giới hạn trong những đoạn trước bởi vì nghiên cứu
cho thấy một sự khác biệt rõ ràng giữa sách giáo khoa tìm hiểu và sách giáo
khoa tường thuật. Hai cuốn sách Khám Phá Lịch Sử Hoa Kỳ và Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ,
có rất nhiều bản đồ, hình ảnh minh họa và trích dẫn từ các nguồn sơ cấp, không
thể hiện sasha. Sự chú ý của họ đối với quá khứ gần chỉ cho thấy ý đồ làm cho lịch
sử phù hợp với các sự kiện và chủ đề hiện tại của tác giả. Thậm chí những
chương đầu của hai cuốn sách giáo khoa này còn kêu gọi học sinh áp dụng những
điều học được cho hiện tại. Do đó, bất chấp việc cả hai cuốn sách đã được xuất
bản trước khi những năm 1970 kết thúc, chúng giành nhiều không gian hơn cho những
năm 1960 và 1970 so với mười cuốn sách giáo khoa tường thuật còn lại, không có
cuốn sách giáo khoa tìm hiểu nào trên thị trường. Việc chúng thiếu sức sống
trên thị trường có thể đoán rằng trong quá khứ gần đây các nhà xuất bản sách
giáo khoa tường thuật đã đáp ứng được nhu cầu. Có vẻ như là nhu cầu tránh sự
xung đột.
Lảng tránh
sasha chắc chắn không đáp ứng được nhu cầu của sinh viên. Tác giả sách giáo
khoa có thể làm việc dựa theo giả định rằng tường thuật về các sự kiện mới qua
là không cần thiết vì sinh viên đã biết về chúng. Mặc dù vậy, khi tác giả sách
giáo khoa có khuynh hướng lớn tuổi, sasha của họ là zamani của học sinh.
Khi
giáo sư đại học chúng ta trở nên già hơn, chúng ta sẽ ngạc nhiên hơn về những
điều mà sinh viên không biết trong quá khứ gần. Tôi nhận ra hiện tượng này lần
đầu tiên khi những năm 1970 biến thành những năm 1980. Khi giảng dạy về chiến
tranh Việt Nam, tôi nhận được nhiều hơn những cái nhìn ngơ ngác. Một phần tư,
sau đó là một nửa và vào những năm 1990, 4/5 số sinh viên năm thứ nhất không biết
gì về ý nghĩa của từ có bốn chữ cái hawk (diều hâu) và dove (bồ câu). Vào ngày
đầu tiên của khóa học năm 1989, tôi đưa ra cho sinh viên một câu đố từ có câu hỏi
mở, “Ai đã chiến đấu trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam?” Gần một phần tư sinh
viên của tôi trả lời là binh lính Bắc và Nam Triều Tiên! Tôi đã sững sờ - đối với
tôi điều này tương tự như câu trả lời “1957”
cho câu hỏi “Cuộc chiến tranh 1812 diễn ra vào năm nào?” Trên thực tế, nhiều học
sinh mới tốt nghiệp trung học biết về chiến tranh 1812 hơn chiến tranh Việt
Nam.5 Điều đó chẳng có nghĩa gì nhiều và không đáng để lên án học
sinh. Đó khó có thể là lỗi của chúng. Nếu hồi ức công dân của chúng ta bắt đầu
khi chúng ta mười tuổi thì sinh viên cuối cùng có chút hồi ức về chiến tranh Việt
Nam đã tốt nghiệp trung học vào năm 1983. Chiến tranh là lĩnh vực bỏ trống đối
với sinh viên hiện nay, họ chưa ra đời khi nó kết thúc. Phong trào phụ nữ, vụ
Watergate, và nhiệm kỳ của tổng thống Carter cũng tương tự như vậy. Phim ảnh,
tiểu thuyết, ca khúc và các phương tiện văn hóa đại chúng khác cũng đề cập quá
khứ gần, nhưng trộn lẫn giữa sự thật và hư cấu, nhưng mọi người hâm mộ phim
Rambo có thể làm chứng.6 Sinh viên cần thông tin về quá khứ gần từ
các khóa học lịch sử ở trường trung học. Trên hết, quá khứ gần là lịch sử có
tác động hầu như tức thì đối với đời sống hàng ngày của chúng ta.
Quan
niệm rằng khóa học lịch sử nên hạ thấp sasha so với zamani ở xa thật là ngoan cố.
So sánh tường thuật của sách giáo khoa về chiến tranh Việt Nam và chiến tranh
1812 sẽ minh họa cho sự ngoan cố này. Cuộc chiến tranh 1812 diễn ra gần hai thế
kỷ trước đã giết chết khoảng 2 ngàn người Mỹ. Tuy nhiên, sách giáo khoa lịch sử
trung học Hoa Kỳ giành cho nó số trang tương tự với cuộc chiến tranh Việt Nam –
9 trang. Người ta có thể lập luận, tôi nghĩ vậy, rằng chiến tranh 1812 quan trọng
hơn chiến tranh Việt Nam và cần phải có nhiều không gian. Sách giáo khoa lịch sử
của chúng ta không khẳng định như vậy: hầu hết tác giả sách giáo khoa lịch sử
không biết gì về chiến tranh 1812 và không khẳng định gì về sự quan trọng của
nó.
Mặc dù
cuộc chiến tranh 1812 chỉ dài bằng nửa chiến tranh Việt Nam, nhưng các tác giả xem
xét nó chi tiết hơn. Họ kể một cách xa hoa về các trận đánh đơn lẻ và anh hùng
trong 1812. Ví dụ cuốn Miền Đất Hứa giành ba đoạn cho trận hải chiến ven đảo
Put-in-Bay trên hồ Erie, tức là mỗi đoạn cho một giờ của trận đánh! Việt Nam
không được chi tiết như vậy! Không gian hà tiện chỉ là một phần của vấn đề.
Chín trang phân tích thú vị về chiến tranh Việt Nam có thể chứng minh hơn cả đầy
đủ. 7 Chúng ta phải hỏi về loại tường thuật của sách giáo khoa, với
hình ảnh mà chúng đưa ra. Các bức ảnh là một phẩn của tư liệu chiến tranh ở Hoa
Kỳ kể từ khi có những bức ảnh nổi tiếng của Matthew Brady về Nội Chiến. Ở Việt
Nam, hình ảnh truyền hình đã xuất hiện nhưng những bức ảnh vẫn ấn tượng đối với
nhận thức và cảm xúc của người dân Mỹ. Hơn bất cứ cuộc chiến nào trong lịch sử
của chúng ta, chiến tranh Việt Nam được đặc trưng bằng hàng loạt hình ảnh đóng
dấu vào ý thức của công chúng. Tôi hỏi hàng tá người trưởng thành đủ lớn tuổi để
sống qua thời chiến tranh về hình ảnh sống động mà họ còn nhớ; danh sách mà họ
đưa ra cho thấy sự trùng khớp đáng chú ý. Một danh sách ngắn bao gồm 5 bức ảnh:
Một
nhà sư ngồi ở khu vực công cộng của Sài Gòn, tự thiêu để phản đối chính quyền
Nam Việt Nam;
Một bé
gái trần truồng chạy trên đường quốc lộ, trốn khỏi trận bom na-pam;
Giám đốc
cảnh sát quốc gia xử tử một người đàn ông đang sợ hãi, bị tình nghi là Việt Cộng,
với một phát súng lục vào thái dương;
Những
xác chết nằm trong mương sau vụ thảm sát Mỹ Lai;
Những
người Mỹ di tản từ mái nhà ở Sài Gòn bằng trực thăng, trong khi những người Việt
Nam hốt hoảng tìm cách trèo lên khoang.
Danh
sách này cũng có thể bao gồm hai hình ảnh chung khác: Máy bay B-52 đang thả bom
trên phần lãnh thổ thủng lỗ chỗ như bệnh đậu mùa của Việt Nam, một thành phố
hoang tàn như Huế, chẳng còn gì ngoài gạch vụn, khi quân đội Hoa Kỳ và Nam Việt
Nam tiến vào giành lại quyền kiểm soát sau đợt tấn công Tết.
Chỉ cần
đọc phần mô tả ngắn là những người Mỹ già nhất nhớ lại chi tiết của hình ảnh. Cảm
xúc đã đưa họ quay trở lại quá khứ một cách sống động. Dĩ nhiên, kể từ khi Hoa
Kỳ can dự sâu vào cuộc chiến từ năm 1965 đến 1973, người Mỹ phải ít nhất là 30
tuổi vào năm 1993 để có hình ảnh này trong sasha của họ. Ngày nay, thanh niên
hiếm có cơ hội nhìn thấy hay gợi nhắc đến những hình ảnh này trừ khi sách giáo
khoa lịch sử cho họ biết. Chúng không làm vậy. Những bức ảnh này đã bì vùi sâu
vào lãng quên, rơi tuột vào lò nung, nơi các sự thật khó chịu bị thiêu thành
tro bụi trong tác phẩm 1984 của George Orwell. Cuốn sách duy nhất, Đám Rước Hoa
Kỳ, có một trong những bức ảnh đã nêu; giám đốc cảnh sát bắn người đàn ông đang
sợ hãi.10 Không có cuốn sách nào khác đăng bất cứ bức ảnh nào trong
số những bức ảnh nêu trên. Cuộc Phiêu Lưu Mỹ có một bức ảnh chúng ta ném bom Việt
Nam nhưng bức ảnh cho thấy máy bay B-52 và bom ở dưới không đem lai cảm giác về
sự tàn phá đối với mặt đất.
Bảy bức
ảnh được trích dẫn là các ví dụ quan trọng của tài liệu sơ cấp về chiến tranh Việt
Nam. Phe diều hâu có thể tuyên bố rằng những bức ảnh này đã thổi phồng các khía
cạnh chiến tranh mà chúng phản ánh. Mặc dù vậy, những bức ảnh này cũng có những
khẳng định bổ sung đối với ý nghĩa lịch sử: chúng tạo ra lịch sử, do chúng tác
động tới cách người Mỹ nghĩ về cuộc chiến. Một số trong những bức ảnh này tiếp
tục “là những bức ảnh nổi tiếng nhất thế giới từng được biết cho đến nay [1991],”
theo Patrick Hagopian. Việc loại chúng khỏi sách giáo khoa lịch sử đã làm thay
đổi độc giả hiện nay. Khi sinh viên của tôi viết, “Việc đưa ra bức ảnh một bé
gái trần truồng kêu khóc sau khi bị bỏng na-pam đã thay đổi toàn bộ ý nghĩa của
cuộc chiến tranh này đối với học sinh trung học.” Ở Việt Nam, Hoa Kỳ đã ném số
lượng bom gấp 3 lần số lượng bom được ném xuống tất cả các mặt trận trong chiến
tranh Thế Giới thứ II, ngay cả khi cộng thêm bom nguyên tử mà chúng ta đã ném
xuống Hiroshima và Nagasaki, thế nên tác giả sách giáo khoa có nhiều bức ảnh về
sự tàn phá của bom để lựa chọn. Trên mặt đất, sau đợt tấn công Tết, Việt Cộng
và quân đội Bắc Việt đã chiếm giữ nhiều thành phố và thị trấn ở miền Nam Việt
Nam, quân đội Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam đã nã pháo Huế, Bến Tre, Quảng Trị và
các thành phố khác trước khi chiếm lại chúng. Tuy vậy, không có sách giáo khoa
nào tường thuật về những thiệt hại mà phe chúng ta gây ra.
Dĩ
nhiên, tác giả và biên tập viên sách giáo khoa phải lựa chọn từ hàng ngàn bức ảnh
về chiến tranh Việt Nam. Họ có thể lựa chọn khác đi và vẫn biện minh cho chiến
tranh. Nhưng ít nhất họ cũng phải tường thuật sự tàn bạo đối với thường dân Việt
Nam, những người này thường xuyên và bắt buộc phải đối mặt với chiến tranh mà
không có giới tuyến, mà ở đó quân đội của chúng ta chỉ có khái niệm cực kỳ mơ hồ
như đồng minh và đối thủ. Tấn công thường dân là chính sách của Hoa Kỳ, như tướng
William C. Westmoreland đã mô tả về thiệt hại dân sự: “Đó có phải là tiêu diệt
kẻ thù của dân chúng không?” Chúng ta đánh giá sự tiến bộ bằng cách đếm xác và
vạch ra các khu vực bắn tự do, ở đó toàn bộ thường dân bị coi là kẻ thù. Chiến
lược này không thể không dẫn đến các tội phạm chiến tranh. Do đó, Mỹ Lai không
phải là sự kiện cá biệt, không đáng để đề cập trong lịch sử quốc gia mà thực sự
quan trọng bởi vì sự đại diện cho những gì diễn ra trong toàn bộ chiến tranh ở
Việt Nam. Mỹ Lai là ví dụ nổi tiếng nhất mà John Kerry, một Cựu Chiến Binh Việt
Nam Chống Chiến Tranh, hiện giờ là thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, cho rằng “không phải
là sự kiện đơn lẻ mà là tội ác thường ngày với sự nhận biết của sĩ quan và tất
cả các cấp chỉ huy.” Xuất hiện trước Ủy Ban Quan Hệ Quốc Tế Thượng Viện vào
tháng 4 năm 1971, Kerry nói, “Hơn 150 người xuất ngũ trong danh dự và nhiều cựu
chiến binh được gắn huân chương cấp cao nhất đã làm chứng về tội ác chiến tranh
ở Đông Nam Á.” Ông tiếp tục kể về cách quân đội Hoa Kỳ “đích thân cưỡng hiếp, cắt
tai, cắt đầu, buộc dây điện từ máy điện đài vào bộ phận sinh dục và bật điện, cắt
chân tay, nổ tung xác, bắn ngẫu nhiên vào thường dân, san bằng các ngôi làng
theo kiểu Thành Cát Tư Hãn, bắn chết gia súc và chó cho vui, đầu độc thực phẩm
dự trữ và tàn phá hoàn toàn miền nam Việt Nam. Tất cả những điều này là “thêm
vào sự tàn phá thông thường của chiến tranh.”15 Những bức ảnh về việc
lính Mỹ châm lửa đốt nhà của người Việt Nam, một hình ảnh thường thấy trong chiến
tranh, sẽ nhấn mạnh điều này, nhưng không có bất cứ sách giáo khoa nào sử dụng
bất cứ hình ảnh tội lỗi nào của người Mỹ. Không có sách giáo khoa nào có bất cứ
bức ảnh nào về sự phá hủy, thậm chí các mục tiêu hợp lệ, mà phía chúng ta gây
ra. Chỉ có cuốn sách Khám Phá Lịch Sử Hoa Kỳ, một cuốn sách giáo khoa tìm hiểu,
mô tả vụ thảm sát Mỹ Lai là sự kiện đơn lẻ. Thêm vào đó, để cho học sinh dốt
nát về lịch sử chiến tranh, sự im lặng của các cuốn sách giáo khoa khác về chủ
đề này cũng làm cho phong trào phản chiến khó hiểu.
Hai
tác giả sách giáo khoa, James West Daividson và Mark H. Lytle, thể hiện ở đâu
đó là biết về tầm quan trọng của vụ thảm sát Mỹ Lai. “Chiến lược của Hoa Kỳ hàm
chứa sự tàn bạo,” Lytle nói với tôi. Davidson và Lytle dùng gần hết một chương
trong cuốn sách After the Fart để mô tả vụ thảm sát Mỹ Lai. Ở đó họ cho biết
tin tức về vụ thảm sát đã làm Hoa Kỳ sửng sốt ra sao. “Một điều chắc chắn là sự
đụng độ trở thành thời điểm xác định trong nhận thức của công chúng về chiến
tranh,”16 họ viết. Mặc dù vậy, họ không cho rằng học sinh trung học
cần biết về điều đó trong sách giáo khoa lịch sử của họ, Hoa Kỳ - Lịch Sử Nước
Cộng Hòa, giống như bảy cuốn sách khác trong mẫu của tôi, không bao giờ đề cập
tới Mỹ Lai.
Nếu
sách giáo khoa che giấu tất cả những bức ảnh quan trọng về chiến tranh Việt Nam
thì những bức ảnh nào họ sẽ đăng? Hầu như là những bức ảnh không gây tranh cãi –
lính đi tuần, đi qua đầm lầy, hay nhảy xuống từ trực thăng. Bảy cuốn sách giáo
khoa có ảnh người tị nạn hay thiệt hại do phe bên kia gây ra, nhưng những thiệt
hại đó thường có quy mô rất nhỏ so với những gì bom đạn của chúng ta gây ra, những
bức ảnh không thật sự ấn tượng.
Văn của
họ thì sao? Đáng buồn, tác giả sách giáo khoa cũng loại bỏ tất cả những trích dẫn
đáng nhớ của thời kỳ đó. Martin Luther King, Jr., lãnh đạo chủ chốt đầu tiên chống
chiến tranh, phản đối nó bằng ngữ điệu riêng của ông: “Chúng ta phá hủy hai thể
chế quan trọng nhất của họ: gia đình và làng. Chúng ta phá hủy đất đai và mùa
màng của họ …. Chúng ta làm hư hỏng phụ nữ và trẻ em của họ, giết đàn ông của họ.”17
Không có sách giáo khoa nào trích dẫn King. Thậm chí về người bất đồng chính kiến
nổi tiếng Muhammad Ali, sau này là nhà vô địch quyền anh hạng nặng thế giới
cũng vậy. Ali từ chối tham gia quân ngũ, vì thế mà ông đã bị tước danh hiệu, và
nói, “Không có Việt Cộng nào từng gọi tôi là “mọi đen”.” Tất cả mười hai cuốn
sách giáo khoa đều không trích dẫn. Sau đợt tấn công Tết, một sĩ quan quân đội
Hoa Kỳ tham gia vào việc tái chiếm Bến Tre nói, “Cần thiết phải phá hủy thành
phố để bảo vệ nó.” Đối với bốn triệu người Mỹ, tuyên bố này đã tóm tắt tác động
của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Không sách giáo khoa nào trích dẫn điều này.18
Cũng không có sách giáo khoa nào trích dẫn lời khẩn cầu rút quân ngay lập tức của
John Kerry: “Làm sao anh có thể yêu cầu ai đó sẽ là người cuối cùng chết cho
sai lầm?” 19 Toàn bộ phong trào phản chiến trở thành không thể hiểu
được bởi vì sách giáo khoa không cho phép nó thể hiện bản thân. Chúng loại bỏ
các bài ca phản chiến, các biểu ngữ - “Khủng khiếp, Không; Chúng tôi không đi!”
và “Này, LBJ, hôm nay ông sẽ giết bao nhiêu trẻ con?” – và trên hết là cảm xúc.20
Dường như chỉ có tổng thống Johnson và Nixon là được trích dẫn. Trong một đoạn
đặc trưng của Đám Rước Hoa Kỳ, Nixon nói, “Nước Mỹ không thể - và sẽ không –
phác thảo mọi kế hoạch, thiết kế mọi chương trình, thực hiện mọi quyết định và
bảo vệ cho các quốc gia tự do trên thế giới.” Đoạn này không làm rõ chiến tranh
hay phản đối nó. Thậm chí phần trích dẫn độc giả bổ sung của Đám Rước Hoa Kỳ chỉ
trích dẫn Johnson và Nixon như là nguồn sơ cấp về chiến tranh Việt Nam – không một
từ nào của những người tham chiến hay phản đối nó.
Khi loại
bỏ quan điểm, tiếng nói và cảm giác về thời kỳ Việt Nam, tác giả sách giáo khoa
đã loại bỏ cả chủ đề. Frances FitzGerald trong phần bổ sung cho cuốn Sử Chữa
Hoa Kỳ, viết cuốn Lửa Trong Hồ, một cuốn sách hay về Việt Nam, gọi các sách
giáo khoa mà bà đánh giá vào năm 1979 là “chẳng phải diều hâu hay hay bồ câu về
chiến tranh – họ chỉ lẩn tránh.” Bà tiếp tục nói, “Khi chúng thảo luận về chiến
tranh một cách thực sự khó khăn và lảng tránh những vấn đề chủ chốt thì phần Việt
Nam rất đáng đọc.”21 Ở một cấp độ nào đó, xác định chủ đề là vấn đề
diễn giải và tôi sẽ không muốn chê trách sách giáo khoa về việc có sự diễn giải
khác với tôi. Dĩ nhiên chúng ta có thể đồng ý rằng sự đối xử hợp lý về chiến
tranh Việt Nam sẽ được thảo luận ít nhất là với sáu câu hỏi như sau:
Tại
sao Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam?
Cuộc
chiến tranh trước khi Hoa Kỳ tham chiến là gì? Chúng ta thay đổi điều đó ra
sao?
Tại
sao phong trào phản chiến lại mạnh như vậy ở Hoa Kỳ?
Những
phê phán về chiến tranh ở Việt Nam là gì? Chúng có đúng không?
Tại
sao Hoa Kỳ thua trận?
Bài học
mà chúng ta rút ra từ kinh nghiệm này là gì?
Cách đơn
giản để đặt ra những câu hỏi này là thừa nhận rằng mỗi câu đều vẫn đang mâu thuẫn.
Lấy câu thứ nhất. Một số người vẫn lập luận rằng Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam để
đảm bảo sự tiếp cận các nguồn tài nguyên quý giá của đất nước này. Một số khác
tuyên bố rằng chúng ta tham chiến để mang đến dân chủ cho người Việt Nam. Dĩ
nhiên, phổ biến hơn là các phân tích về chính sách đối nội của chúng ta: tổng
thống Dân Chủ Kennedy và Johnson, đã chứng kiến phe Cộng Hòa khiển trách Truman
về việc “mất” Trung Quốc, không muốn bị coi là “mất” Việt Nam. Một sự diễn giải
khác đưa ra học thuyết domino: giờ đây chúng ta biết rằng cộng sản Việt Nam thù
địch với Trung Quốc, trước đây chúng ta chưa biết, một số lãnh đạo tin rằng nếu
Việt Nam “rơi” vào tay cộng sản thì Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippine
sẽ cũng như vậy. Mặc dù vậy, quan điểm khác cho rằng Hoa Kỳ cảm thấy có thanh
danh và không muốn bị đánh bại ở Việt Nam, vì sợ rằng hòa bình kiểu Mỹ sẽ bị đe
dọa ở Châu Phi, Nam Mỹ và bất cứ đâu trên thế giới. Một số người theo thuyết âm
mưu đi xa hơn, khẳng định rằng các doanh nghiệp lớn kích động cuộc chiến để hỗ
trợ nền kinh tế. Một số nhà sử học có quan điểm rộng hơn, cho rằng sự can thiệp
của chúng ta ở Việt Nam xuất phát từ hình mẫu văn hóa phát xít và đế quốc được
bắt đầu từ cuộc chiến tranh da đỏ đầu tiên ở Virginia vào năm 1622, tiếp diễn
trong thế kỷ 19 với “Tuyên Ngôn Định Mệnh”, và giờ là theo ngọn gió “Thế Kỷ Hoa
Kỳ”. Họ chỉ ra rằng lính Mỹ ở Việt Nam thu thập và trưng bày tai của người Việt
Nam giống như thực dân Anh ở Bắc Mỹ thu thập và trưng bày chỏm da đầu của người
da đỏ.23 Quan điểm chung cuộc có thể là không có lý do rõ ràng và mục
đích rõ ràng, rằng chúng ta bị lôi cuốn vào cuộc chiến bởi vì không có chính
quyền kế tiếp nào đủ can đảm để vô hiệu hóa sai lầm chống lại các phong trào độc
lập dân tộc của chúng ta vào năm 1946. Ngoại trưởng John Foster Dulles viết, “Sai lầm căn bản liên quan đến Đông Dương được
tạo ra sau năm 1945, khi chính quyền của chúng ta đồng ý cho Pháp và Anh khôi
phục lại vị thế thực dân của Pháp ở Đông Dương.”24
Dĩ
nhiên, mầm mống sự can thiệp bi kịch của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã được ấp ủ ở
Versailles vào năm 1918, khi đó Woodrow Wilson đã không nghe lời yêu cầu độc lập
cho đất nước này của Hồ Chí Minh. Chúng nảy mầm khi chính sách của FDR không
giúp Pháp tái thuộc đại hóa Đông Nam Á sau khi thế chiến thứ II kết thúc cùng với
cái chết của ông ta. Kể từ đó sách giáo khoa hiếm khi đề xuất rằng những sự kiện
của một thời kỳ này sẽ dẫn đến những sự kiện của thời kỳ tiếp theo, không mấy
ngạc nhiên, không có cuốn sách giáo khoa nào mà tôi nghiên cứu quay trở lại trước
những năm 1950 để giải thích chiến tranh Việt Nam.
Trong
khoảng những năm 1950 và 1960, các bằng chứng lịch sử về những diễn giải mâu
thuẫn yếu hơn thời kỳ khác, mặc dù vậy tôi không chọn phe ở đây.23
Tác giả sách giáo khoa cũng không cần phải chọn phe phái. Họ có thể trình bày một
số diễn giải, cùng với một quan điểm ủng hộ về mặt lịch sử cho từng diễn giải
và yêu cầu học sinh đưa kết luận của bản thân. Tuy vậy, những yêu cầu này không
phải là phong cách của tác giả sách giáo khoa. Họ dường như bị bắt buộc trình
bày câu trả lời “đúng” cho mọi câu hỏi, thậm chí cho cả các cuộc tranh luận
không thể kết thúc.
Họ chọn
cách diễn giải nào? Chẳng cách nào hết! Hầu hết sách giáo khoa lảng tránh chủ đề.
Đây là phân tích đặc trưng, trong cuốn Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ: “Vào cuối những
năm 1950, chiến tranh nổ ra ở miền Nam Việt Nam. Vào lúc này, Hoa Kỳ viện trợ
cho người miền Nam Việt Nam.” “Chiến tranh nổ ra” – thật đơn giản làm sao! Cuốn
Cuộc Phiêu Lưu Hoa Kỳ dùng 4 trang để trình bày lý do chúng ta tham gia vào cuộc
chiến 1812, nhưng chỉ cần hai câu để trình bày lý do chúng ta tham chiến ở Việt
Nam. Một trong những lý do khiến tác giả sách giáo khoa rón rén đi qua quá khứ
gần đây, lảng tránh mọi chủ đề chính, có thể là họ cảm thấy không đủ chuyên môn
để xử lý chúng. Không có ai trong số 45 tác giả của 12 cuốn sách giáo khoa
trong mẫu của tôi là chuyên gia về quá khứ gần, như tôi có thể nói. Dĩ nhiên,
sách giáo khoa được nhiều tác giả viết nên sẽ có nhiều chủ đề do các tác giả
không phải là chuyên gia viết. Mặc dù vậy về các chủ đề trong zamani, tác giả
sách giáo khoa có thể sử dụng quan điểm lịch sử làm lá chắn. Bằng cách viết
theo giọng trí thức tẻ nhạt về những sự kiện trong zamani, các tác giả giả định
rằng một sự thật lịch sử đơn lẻ tồn tại, các nhà sử học đã đồng ý về chúng và đó
là thứ họ đang dạy cũng như học sinh cần phải ghi nhớ. Lối viết đó giả định rằng
quan điểm lịch sử phát triển sẽ ngày càng đúng đắn hơn với một giai đoạn thời
gian, che chở cho các tác giả sách giáo khoa ngày nay với sự tích lũy hiểu biết
về lịch sử. Mặc dù vậy, họ không thể sử dụng quan điểm lịch sử để bảo vệ cho
cách họ xử lý các sự kiện trong sasha. Khi không có quan điểm lịch sử, tác giả
sách giáo khoa dường như trần trụi; không có phẩm chất đặc biệt nào cho phép họ
có quyền tường thuật về các sự kiện mới qua với sự vô tư Olympia mà họ diễn
thuyết hùng hồn về những sự kiện trong zamani.
Quan
điểm lịch sử hoàn toàn biện minh cho sự thờ ơ đối với sasha. Các nhà sử học nói
với chúng ta về việc họ gần gũi với bất kỳ sự kiện nào mới đây mà chúng ta cho
rằng có thể quay trở lại và nhìn nó trong bối cảnh. Khi tài liệu mới xuất hiện
trong tàng thư, họ tuyên bố, hoặc khi kết quả của hành động trở nên rõ ràng
theo thời gian, chúng ta có thể đạt tới sự đánh giá “khách quan” hơn. Tuy vậy,
khoảng thời gian không tự mình tạo ra quan điểm. Thông tin mất đi cũng như thu
được cùng với thời gian.
Tại điểm
này, chúng ta có thể nhắc lại một số thay đổi trong quan điểm được ghi nhận ở
những chương trước. Hiện nay, Woodrow Wilson được xếp hạng tích cực hơn rất nhiều
so với năm 1920. Sự cải thiện không xuất phát từ khám phá thông tin mới về
chính quyền của ông ta mà là từ nhu cầu hệ tư tưởng của những năm 1940 và đầu
những năm 1950. Trong những năm đó, các nhà sử học da trắng thường buộc tội
Wilson về việc phân biệt chủng tộc ở chính quyền liên bang, bởi vì không có sự
đồng thuận về việc coi sự phân biệt chủng tộc là sai. Vấn đề công cộng hàng đầu
của thời hậu chiến không phải là quan hệ chủng tộc mà là bao vây chủ nghĩa cộng
sản. Trong Chiến Tranh Lạnh, chính quyền của chúng ta hoạt động giống như dưới
thời Wilson, với các cuộc chiến tranh bán công khai, lừa dối quốc hội và đàn áp
phong trào tự do dân sự dưới danh nghĩa chống chủ nghĩa cộng sản. Chính sách của
Wilson, mâu thuẫn và không được ủng hộ vào những năm 1920, trở thành bình thường
vào những năm 1950. Quan chức và các nhà sử học vào những năm 1950 phủ nhận và
tầm thường hóa chủ nghĩa biệt lập. Vụ lợi trong việc thúc ép Liên Hiệp Quốc, sau
đó thông qua sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ, họ thừa nhận nỗ lực của Wilson theo mệnh
lệnh của Liên Hiệp Quốc. N. Gordon Levin, Jr., thể hiện gọn gàng: “Cuối cùng,
trong thời kỳ hậu chiến tranh Thế Giới thứ II, các giá trị của Wilson đã chiến
thắng hoàn toàn trong sự đồng thuận lưỡng đảng của thời Chiến Tranh Lạnh.” Do vậy,
sự đánh giá Wilson thay đổi trong sách giáo khoa hiện nay có thể cho thấy sự thật
là nhu cầu hệ tư tưởng của những năm 1950, khi Wilson đã là zamani, khác với những
năm 1920, khi ông ta mới là sasha.
Việc Tây
Ban Nha ngược đãi và bắt cư dân da đỏ vùng Caribbe làm nô lệ được Bartolome de
las Casas và nhiều người khác ghi nhận trong khi Columbus vẫn còn là sasha. Mặc
dù vậy, sau đó Columbus được đề cao thành người can đảm của khoa học, bác bỏ
khái niệm trái đất phẳng và mở ra chân trời mới cho sự tiến bộ. Columbus của thế
kỷ 19 hấp dẫn một dân tộc đã tóm lược kết quả của 300 năm chiến tranh đánh bại
các dân tộc da đỏ. Nhưng vào năm 1992, kẻ cướp bóc Columbus đã được chấp nhận
ngang bằng với nhà thám hiểm Columbus, và nhiều cuộc kỷ niệm Columbus đã kéo
theo phản đối, thường xuyên được người Mỹ bản địa tổ chức. Columbus “mới”, gần
với Columbus của sasha, hấp dẫn một dân tộc khởi đầu với vài tá cựu thực dân,
giờ là những dân tộc mới. Sự tương phản giữa kỷ niệm hành trình đầu tiên của
Columbus vào năm 1892 và năm 1992 một lần nữa cho thấy tác động của những vị
trí thuận lợi.
Huyền
thoại của phe ly khai về Cải Cách lần đầu tiên xuất hiện tràn lan trong sách lịch
sử vào lúc quan hệ chủng tộc tồi tệ nhất, từ năm 1890 đến năm 1920, và bám vào
sách giáo khoa cho đến những năm 1960. Chính quyền Cải Cách được trình bày như
là ví dụ về sự bất hợp pháp và tha hóa của “sự thống trị của người da đen”. Hiện
nay, các nhà sử học quay lại quan điểm Cải Cách xuất hiện trong lịch sử cận đại,
được viết khi các chính quyền cộng hòa vẫn cai trị các bang miền Nam. Eric
Foner ca ngợi sự thay đổi là nhờ vào “học thuật khách quan và kinh nghiệm hiện
đại,” một sự đổi pha gắn liền với hai nguyên nhân chủ chốt. Học thuật khách
quan không tồn tại trong lịch sử, đó là lý do tại sao tôi mạo hiểm những từ ngữ
như đúng và sai. Khoảng cách lịch sử không thúc đẩy sự mô tả chính xác hơn về Cải
Cách. Bởi vì sự thật về Cải Cách không phù hợp với “kinh nghiệm hiện đại” về thời
kỳ tăm tối, chúng nằm yên trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, bị hầu hết các
nhà sử học nhìn lướt qua. Cho tới khi phong trào dân quyền thay đổi “kinh nghiệm
hiện đại” thì sự thật mới nói với chúng ta.
Quan
điểm lịch sử không phải là thành phẩm của một giai đoạn thời gian. Quan điểm
chính xác hơn được rút ra từ lý thuyết mâu thuẫn về nhận thức của Leon
Festinger, giả định rằng thực tiễn xã hội của một giai đoạn mà lịch sử được viết
sẽ quết định quan điểm lịch sử về quá khứ.29 Học thuật khách quan phải
kết nối với kinh nghiệm hiện đại cho phép chúng thắng thế. Tuyên bố quan điểm lịch
sử không thích hợp với xã hội không phải là sự biện minh cho việc lảng tránh
sasha. Các nhà sử học không có lý do nào ngoài sự hèn nhát để lảng tránh việc
phơi bày hoàn toàn quá khứ gần đây của chúng ta.
Tác giả
sách giáo khoa không phải là người duy nhất chịu trách nhiệm cho việc bỏ qua
quá khứ gần trong các khóa học lịch sử trung học. Ngay cả khi sách giáo khoa
giành không gian xứng đáng cho sasha, hầu hết học sinh sẽ phải tự đọc chúng, bởi
vì hầu hết giáo viên không bao giờ đọc hết sách giáo khoa. Trong khóa học lịch
sử Hoa Kỳ dài 1 năm, giáo viên lớp 5 Chris Zajac, đối tượng của Tracy Kidder
trong cuốn sách Về Học Sinh, không bao giờ vượt qua Cải Cách! Thời gian không
phải là vấn đề duy nhất. Giống như các nhà xuất bản, giáo viên không muốn có
nguy cơ xúc phạm cha mẹ học sinh. Hơn nữa, theo Linda McNeil, hầu hết giáo viên
đặc biệt không muốn dạy về Việt Nam. “Hồi ức của họ về thời kỳ chiến tranh Việt
Nam khiến họ mong muốn lảng tránh chủ đề mà học sinh sẽ bất đồng với quan điểm
của họ hoặc điều đó khiến học sinh “hoài nghi” các thể chế của Hoa Kỳ.” Do đó,
trung bình giáo viên giành cho Chiến Tranh Việt Nam từ 0 đến 4,5 phút trong
toàn bộ một năm học!29
Chiến
Tranh Việt Nam gần như không gây bất đồng như một số chủ đề khác trong quá khứ
gần; hiện nay hơn 2/3 người Mỹ trưởng thành coi chiến tranh là sai lầm về đạo đức
cũng như vớ vẩn về mặt chiến thuật.30 Mâu thuẫn hơn là phong trào phụ
nữ. Mọi trường học quận đều có các bậc cha mẹ ủng hộ mạnh mẽ vai trò giới tính
truyền thống và các bậc cha mẹ khác không ủng hộ. Đồng tính là vấn đề cấm kỵ
hơn trong thảo luận hay học tập. Đưa ra chủ đề về hành động khẳng định dẫn đến
các tranh luận giận dữ. Một sự đánh giá tiêu cực về chính quyền Carter hay
Reagan chắc chắn sẽ xúc phạm một số cha mẹ thuộc phe Dân Chủ hay Cộng Hòa, đáng
chú ý là Mel và Norma Gabler, người tổ chức các thành viên cánh hữu để gây sức
ép với nhà xuất bản, tìm cách thành lập công đoàn và Hội Đồng Nhà Thờ Quốc Gia
cũng là những vấn đề quá xung đột để các tác giả và nhà xuất bản đề cập. Do các
bậc cha mẹ có quan điểm về những sự kiện mà họ đã trải qua, giáo viên và tác giả
có thể cảm thấy cần phải tiếp cận hầu hết các chủ đề trong sasha dưới điều kiện
khắc nghiệt. Kết quả là lịch sử của quá khứ gần cũng giống như mẹ của Thumper khuyên bảo:
“Nếu như mày không thể nói điều gì hay ho thì đừng nói gì hết.” Không có gì
đáng ngạc nhiên, chỉ có 2 đến 4% sinh viên đại học nói rằng chúng có được những
thứ cần thiết về Chiến Tranh Việt Nam ở trường trung học.31
Mặc dù
vậy, khi sách giáo khoa trình bày về sasha, chúng gây khó khăn để học sinh
không thể tạo dựng mối liên hệ giữa việc nghiên cứu quá khứ, cuộc sống của
chúng hiện nay và những vấn đề mà chúng phải đối mặt trong tương lai. Các chính
khách của các phe phái chính trị cầu khẩn “bài học Việt Nam” khi họ tranh luận
về can thiệp ở Angolo, Lebanon, Kuwait, Somalia và Bosnia. Biểu ngữ của Bumper là
“El Salvador là tên Tây Ban Nha của Việt Nam” để ngăn cản Hoa Kỳ đưa quân tới
quốc gia này.32 “Bài học Việt Nam” cũng thường được sử dụng để thông
tin hay tranh luận sai lầm về tình báo, báo chí, cách chính quyền liên bang điều
hành và thậm chí là việc quân đội có tiếp nhận đồng tính nam hay không. Các vấn
đề mà phong trào phụ nữ dấy lên vào những năm 1970 tiếp tục tác động đến xã hội
Hoa Kỳ, ảnh hưởng đến các thể chế từ gia đình đơn lẻ đến truyền thông. Học sinh
tốt nghiệp trung học có quyền có đủ kiến thức về quá khứ gần để tham gia một
cách thông minh vào những tranh luận này.
Quá khứ
không bao giờ chết,” William Faulkner viết. “Nó thậm chí chưa qua đi.” Sasha là
quá khứ quan trọng nhất của chúng ta, bởi vì nó đã chết nhưng là xác sống. Việc
sách giáo khoa và giáo viên đánh cắp nó là tội ác học đường đáng nguyền rủa đối
với học sinh trung học, lấy đi của chúng quan điểm về những vấn đề có tác động
quan trọng đến chúng. Học sinh nửa nhớ nửa quên về trận chiến Put-in-Bay hay
Silent Cal Coolidge chẳng mấy có ích cho việc hiểu thế giới mà chúng sẽ tham
gia sau khi tốt nghiệp. Thế giới vẫn đặt ra vai trò của giới tính. Thế giới vẫn
đầy những nước thuộc Thế Giới Thứ Ba có khả năng trở thành “Việt Nam mới”. Thế
giới được đánh dấu bằng sự bất bình đẳng xã hội. Việc bỏ qua quá khứ gần đảm bảo
rằng học sinh sẽ không học hỏi được nhiều để áp dụng vào thế giới từ các khóa học
lịch sử
Công
viên Thế Giới Disney ở Florida tổ chức buổi triển lãm có tên “Cuộc Phiêu Lưu
Hoa Kỳ”, 29 phút về lịch sử Hoa Kỳ. Buổi triển lãm hoàn toàn bỏ qua Chiến Tranh
Việt Nam, các vụ nổi loạn ghetto của những năm 1960 và 1990, mọi thứ gây rắc rối
khác về quá khứ gần. Một mô tả cô đọng và nhạt nhẽo về quá khứ gần trong sách
giáo khoa lịch sử Hoa Kỳ cho thấy sự suy sụp thần kinh tương tự của tác giả,
nhà xuất bản và nhiều giáo viên. Học sinh trung học đáng được nhận những thứ tốt
hơn lịch sử của Thế Giới Disney, nhất là khi sách giáo khoa của chúng không phải
là phương tiện mua vui như công viên giải trí.
Chú thích:
Bản scan của cuốn sách mà tôi có bị lược bỏ phần chú thích nên tạm thời chưa thể dịch, khi tìm được phần chú thích thì tôi sẽ dịch và bổ sung sau.
Mỹ vẫn còn xấu hổ về chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ tránh nhắc tới những thất bại e chề trong quá khứ. Vậy nên Mỹ cố tình viết sai lịch sử trong giao đoạn này.
ReplyDeleteMình thì nghĩ xấu hổ chỉ là vấn đề bề ngoài, còn việc lảng tránh về chủ đề VN có lẽ liên quan tới bản chất chế độ ở Hoa Kỳ. Nếu người dân Mỹ biết nhiều hơn về cuộc chiến tranh Việt Nam, họ sẽ đặt vấn đề là vì sao một dân tộc yêu chuộng hòa bình như VN lại bị Hoa Kỳ xâm lược; hai là họ tìm được niềm tin lật đổ chính quyền hiện tại ở Hoa Kỳ.
ReplyDeleteCó lẽ chiến tranh VN thực sự là cú sốc với CNTB, CNTB đã thất bại ngay trên thuộc địa nghèo đói.