Wednesday, August 31, 2016

Chính quyền Hoa Kỳ thế kỷ 19 được xây dựng dựa trên nạn tham nhũng tràn lan?

Bài viết của giáo sư khoa chính trị học Hoa Kỳ Peri E. Arnold cho rằng vào thế kỷ 19 thì chính quyền Hoa Kỳ đã được xây dựng dựa trên tham nhũng để phục vụ cho việc công nghiệp hóa. Sự tham nhũng phổ biến đó đồng thời cũng dẫn đến sự khuyến khích dân chúng tham gia vào chính trị, tức là mang đến một mức độ dân chủ cao. Trong trường hợp của Hoa Kỳ, tham nhũng không phải là kẻ thù của dân chủ. Khi nạn tham nhũng được đẩy lùi thì sự tham gia dân chủ cũng suy giảm.

Những cải cách nhằm chống lại tham nhũng như thi tuyển công chức, chuyên nghiệp hóa hành chính công đã hạn chế sự tham gia của dân chúng vào chính trị và chính quyền vì điều này loại bỏ người dân ở tầng lớp thấp hơn ra khỏi công việc chính quyền và việc xóa bỏ chế độ lại quả đã buộc các đảng phái dựa vào nguồn tài trợ của doanh nghiệp thay vì sự ủng hộ của dân chúng.


Peri E. Arnold đã cho thấy việc chống lại tham nhũng đã giúp giới thượng lưu kinh doanh loại bỏ sự tham dự vào chính trị của các tầng lớp thấp hơn và buộc các đảng phái phải trực tiếp phục vụ cho lợi ích của họ. Điều này khiến cho sự trong sạch về tham nhũng của Hoa Kỳ là đáng hoài nghi, nhưng tình trạng tham nhũng có thể sẽ không còn là vấn đề đối với giai cấp tư sản Hoa Kỳ, khi họ đã hoàn toàn kiểm soát được chính quyền và đảm bảo rằng các giai cấp khác sẽ không thể dựa vào chính quyền để chống lại họ. Nếu như sự hợp pháp hóa tham nhũng ở Hoa Kỳ đã giúp ích cho quá trình công nghiệp hóa của họ thì việc Hoa Kỳ thông qua các tổ chức quốc tế chống lại tham nhũng ở các quốc gia đang phát triển liệu có phải là chống lại quá trình công nghiệp hóa ở các nước này hay không?

Dưới đây là bản dịch bài viết Democracy And Corruption in the 19th Century United States: parties, "spoils" and political participation (pp 197-211) trong cuốn The History of Corruption in Cetral Government của Seppo Tiihonnen do nhà xuất bản IOS phát hành năm 2003.  


Dân Chủ và Tham Nhũng ở Hoa Kỳ vào Thế Kỷ 19: Đảng Phái, “Bổng Lộc” và Sự Tham Gia Chính Trị
Peri E. Arnold*

Trên khắp các nước phương tây dân chủ, sự tham nhũng hệ thống và phổ biến là dịch bệnh của quá khứ. Tại các xã hội dân chủ tiến bộ phương tây, tham nhũng là đặc trưng của chính quyền thời kỳ tiền dân chủ, khi đó sự tham gia bầu cử bị giới hạn và công việc của chính quyền hầu như vô hình đối với công chúng. Tuy vậy, Hoa Kỳ cho thấy một ngoại lệ kỳ lạ trong mối quan hệ giữa dân chủ hóa và tham nhũng.

Trong sự phát triển chính trị của Hoa Kỳ có một sự liên hệ kỳ lạ giữa sự tham nhũng phổ biến và mức độ tham gia dân chủ cao. Trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ, tham nhũng có sự tương quan tích cực với một số chỉ số tổng quan của sự tham gia dân chủ. Sự tham gia suy giảm cùng với sự suy giảm thực tế của tham nhũng trong chính quyền Hoa Kỳ. Hơn nữa, sự thay thế việc quản trị có thời hạn của công dân thông qua sự bảo trợ bằng tầng lớp quản trị chuyên nghiệp là khuynh hướng thay đổi mang tính hệ thống đi cùng với sự suy giảm của tham gia chính trị.

Trong bài báo này, tôi sẽ giải thích cách thức tham nhũng diễn ra trong hành chính công đi cùng với sự mở rộng tham gia dân chủ ở Hoa Kỳ vào thế kỷ 19. Sau đó, tôi sẽ xem xét sự lên án thực tiễn tham nhũng trong quản trị và các cơ chế mà thực tiễn tham nhũng nương tựa. Cuối cùng, tôi sẽ khẳng định rằng sự suy giảm tỷ lệ cử tri tham gia bầu cử là một hệ quả không mong muốn của cải cách chính quyền và hành chính quốc gia của Hoa Kỳ.

Suốt phần lớn thế kỷ 19, tham nhũng đã ngự trị chính quyền Hoa Kỳ. Đồng thời, mức độ tham gia bầu cử là rất cao vào những thập kỷ sau cuộc nội chiến – trung bình khoảng 80% cử tri hợp lệ trong các cuộc bầu cử quốc gia. Các vị trí ở Quốc Hội bị cạnh tranh khốc liệt và lợi ích của các vị trí trong Quốc Hội đem lại cũng rất lớn. Bằng các luật lệ và thủ tục điều tra mới, sự tham nhũng đã suy giảm trong chính quyền Hoa Kỳ vào thế kỷ 20. Đồng thời, tỷ lệ tham gia bầu cử cũng giảm nhanh chóng, xuống còn khoảng một nửa số cử tri hợp lệ trong các cuộc bầu cử tổng thống và một phần ba trong các cuộc bầu cử Quốc Hội vào những năm 1990. Các vị trí lập pháp và hành chính trở thành nghề nghiệp chuyên môn thay vì là các vị trí nhất thời như ở nước Mỹ vào thế kỷ 19. Các đảng phái chính trị quần chúng sống động của thế kỷ 19 đã trở thành các nhà cung cấp dịch vụ hợp pháp chuyên nghiệp cho các chính khách chuyên nghiệp trong một kỷ nguyên chính quyền trong sạch đã được phát triển vào thế kỷ 20.

Mối liên hệ tích cực giữa sự tham nhũng chính trị mang tính hệ thống và sự tham gia bầu cử ở Hoa Kỳ có phải chỉ là trùng hợp? Hay chính là sự tham nhũng chính trị ở Hoa Kỳ vào thế kỷ 19, theo cách nào đó, là phương tiện để mở rộng sự tham gia dân chủ?


1. Tham Nhũng và Quản Lý Nhà Nước

Tại các nước dân chủ hiện nay, tham nhũng trong chính quyền là một sự nguyền rủa. Nó bị săn đuổi ở bất cứ nơi nào nó xuất hiện và sự phòng ngừa nghiêm khắc đối với nó xuất hiện trong quản trị công cũng như tư pháp, với một phạm vi hẹp hơn là trong quy trình lập pháp cũng như tranh cử.

Về tham nhũng, David Rosenbloom viết: Nó “có thể được định nghĩa là sự lừa dối niềm tin của công chúng để phục vụ cho các lợi ích riêng” (Rosenbloom, p. 533). Hầu hết những người tham nhũng là những người tìm kiếm sự giàu có cá nhân hoặc thỏa mãn lợi ích của họ thông qua các hoạt động chính quyền. Ví dụ, trong vụ “Whitewater”, tổng thống và bà Clinton bị cáo buộc đã thu lợi từ các giao dịch bất hợp pháp được che dấu khỏi luật pháp trong khi ông Clinton còn là thống đốc của bang Arkansas. Khi Clinton trở thành tổng thống, sự cáo buộc đó đã dẫn đến việc bổ nhiệm một hội đồng đặc biệt độc lập để điều tra vai trò của Clinton trong vụ “Whitewater”. Tuy vậy, tham nhũng được phân biệt với các hành vi làm giàu cá nhân bất hợp pháp; nó có thể được hiểu rộng hơn như là hành vi bị phản đối nói chung. Anechiarico và Jacob đã nhận thấy:

Tham nhũng là cái tên mà chúng ta dùng cho một số sự trao đổi của một số người trong một số bối cảnh tại một số thời điểm. Việc sử dụng phổ biến khái niệm này không đòi hỏi rằng hành vi tham nhũng bị coi là bất hợp pháp; chỉ cần người nhắc đến chúng cho rằng chúng phi luân lý hoặc vô đạo đức là đủ (p.3).

Tham nhũng nói chung không cần phải giới hạn với các hành vi tư lợi hoặc trực tiếp vi phạm pháp luật. Thay vì tìm kiếm lợi ích cá nhân thông qua sự tin tưởng của công chúng, tham nhũng có thể bao gồm việc lạm dụng các quy trình công để đạt được mục tiêu chính sách không thể chấp nhận mặc dù phương tiện đã được phê chuẩn.

Vụ bê bối ở Hoa Kỳ vào giữa những năm 1980 được gọi là “Iran-Contra” đã minh họa sự lạm dụng của chính quyền. Mục đích của tổng thống Ronald Reagan là mục đích công và không phải là sự tư lợi – sự trở về của các con tin Hoa Kỳ bị giam giữ ở Lebanon và vũ trang cho những kẻ nổi loạn chống cộng sản ở Trung Mỹ. Tuy vậy, phương tiện mà người của tổng thống sử dụng là đặc biệt bất hợp pháp và nói chung được coi là vi phạm đạo đức dân chủ. Cũng như trong vụ “Whitewater”, những lời cáo buộc về vụ “Iran-Contra” dẫn đến việc bổ nhiệm một hội đồng đặc biệt độc lập.

Trong khái niệm về tham nhũng, chính quyền Hoa Kỳ cuối thế kỷ 20 không có gì khác biệt với các nước công nghiệp phát triển còn lại. Thông qua nhiều cơ chế đa dạng, chính quyền liên bang Hoa Kỳ đã chống lại các hoạt động tham nhũng của các cá nhân hoặc nhóm tìm cách phá hoại các quy trình bình thường để thu lợi cá nhân hay đạt được các chính sách không thể chấp nhận. Trong số các cơ chế đang hoạt động chống lại tham nhũng ở Hoa Kỳ, hội đồng độc lập được coi là mấu chốt. Các nỗ lực chống tham nhũng khác bao gồm tổng thanh tra trong các bộ của chính quyền, trách nhiệm kiểm toán và điều tra của Cục Kiểm Toán, hệ thống bảo vệ của luật công vụ, luật bảo vệ “nhân chứng” và chức năng điều tra “giám sát” của các ủy ban Quốc Hội. Từ bên ngoài chính quyền, báo chí điều tra thường xuyên theo dõi chính quyền để phát hiện các tội lỗi và tìm kiếm các câu chuyện.

2. Tham Nhũng Trong Chính Quyền Hoa Kỳ Vào Thế Kỷ 19

Trong thời kỳ sau cuộc nội chiến Mỹ (1861-65), một hệ thống thực tiễn chính trị phục vụ cho chính trị và chính quyền quốc gia Hoa Kỳ đã bị lên án là tham nhũng. Một cuộc chiến về tham nhũng kéo dài 50 năm đã thay đổi bản chất của chính quyền Hoa Kỳ và tái định hình vai trò của các đảng chính trị trong chính trị Hoa Kỳ.

Từ sau nội chiến đến đầu thế kỷ 20, thực tiễn bị lên án “tham nhũng” không chỉ đơn giản là việc thao túng niềm tin của công chúng cho lợi ích tư nhân, mặc dù lúc đó sự thu lợi cá nhân có thừa. Trái lại, chúng là một hệ thống các hoạt động sử dụng chính quyền để hỗ trợ cho các đảng phái chính trị quần chúng. Trong suốt 50 năm đó, sự lên án tham nhũng không nhằm vào sự thiếu trung thực cá nhân mà nhằm vào cỗ máy động cơ chính của hệ thống chính trị quốc gia Hoa Kỳ của thời kỳ đó. Do đó, cuộc chiến thành công chống lại tham nhũng không chỉ chấm dứt thực tiễn tham nhũng phổ biến trong chính quyền mà cũng đồng thời biến đổi chính trị cũng như chính quyền theo một cách không được lường trước.

Các Chính Đảng, Sự Sảo Trợ và Dân Chủ Tham Dự

Giành được vị trí tổng thống vào năm 1828, Andrew Jackson đại diện cho một lực lượng mới trong chính trị Hoa Kỳ. Ông là người đầu tiên ở miền Tây đạt tới vị trí cao nhất, cho đến lúc đó vẫn thuộc về các thành viên của giới thượng lưu vùng Bờ Đông và ông cũng là tổng thống đầu tiên không có liên hệ với phong cách gia trưởng của thế hệ lập quốc (Skowronek, chap. 5). Khi nói về sự thay đổi chung, địa phương và hệ tư tưởng trong chính trị Hoa Kỳ, Jackson đã hỏi rằng làm thế nào để sự thắng cử của ông được chuyển hóa vào quản lý nhà nước? Hiến Pháp cho phép ông bổ nhiệm một số bộ trưởng của vài bộ trong chính quyền liên bang, nhưng cần được Thượng Viện phê chuẩn. Còn các viên chức cấp thấp hơn đang thực hiện công việc hàng ngày của chính quyền thì sao? Jackson lên án quan niệm cho rằng những viên chức này sẽ tại nhiệm vĩnh viễn và ông chấm dứt tình trạng này trong nhánh hành pháp (White, 1965, chap. 1).

Trong bài phát biểu tại nhiệm đầu tiên, Jackson đã đưa ra học thuyết quản trị công mới. Những người được bổ nhiệm hành chính, lớn hay nhỏ, đều sẽ là những người trung thành với tổng thống và đảng thắng cử. Những người được bổ nhiệm hành chính sẽ là công cụ phản ánh ý chí của cử tri. Dĩ nhiên, hệ quả logic của chính sách nhân sự mới là mỗi đời tổng thống đều sẽ loại bỏ các viên chức do tổng thống trước đó bổ nhiệm. Trên thực tế, điều này đã được đưa ra từ khi Jefferson thắng cử vào năm 1800 nhưng chưa bao giờ được thực hiện một cách có hệ thống như dưới thời Jackson (Aronson).

Jackson đưa ra học thuyết “luân chuyển vị trí” như là khái niệm về quản trị dân chủ (Mosher, pp. 61-64). Việc bổ nhiệm chính trị và bãi nhiệm các vị trí hành chính có hai hệ quả, một đối với quản lý nhà nước và một đối với các chính đảng. Thứ nhất, việc bổ nhiệm các đảng viên vào bộ máy hành chính đảm bảo rằng các viên chức hành chính sẽ trung thành với chính sách của lãnh đạo thắng cử (Crenson, pp. 104-139). Thứ hai, Jackson và người của ông cũng tạo thành một nền chính trị Hoa Kỳ mới với các đảng quần chúng (Ceaser). Thời kỳ của Jackson bắt đầu với việc xây dựng các chính đảng quốc gia từ các tổ chức đảng của bang, mỗi đảng đều được tổ chức bởi các lãnh đạo nắm giữ sự bảo trợ. Các đảng cấp bang này kiểm soát việc lựa chọn các của bang và ứng cử viên địa phương cũng như ứng cử viên vào hai viện của Quốc Hội. Trong kỳ họp bốn năm một lần, các đảng ở bang này, tại đại hội quốc gia, lựa chọn ứng cử viên tổng thống. Do vậy, sự luân chuyển vị trí đòi hỏi trách nhiệm chính trị trong quản lý nhà nước đồng thời cũng cung cấp nguồn lực để xây dựng các đảng quần chúng.

Hệ thống đảng phái thời hậu Jackson bền vững nhờ vào khả năng phân phối sự bổ nhiệm mang tính bảo trợ cho những người trung thành, nhờ vào khả năng đưa sự mua sắm của chính quyền đến những người ủng hộ và quyền ban phát phần thưởng cho các khu vực bầu cử đã ủng hộ thông qua chính sách phân phối công. Trên thực tế, một hệ thống tham nhũng có tổ chức là nền tảng cho các tổ chức chính trị dân chủ và sự tham gia chính trị ở Hoa Kỳ.

Chính quyền Hoa Kỳ thế kỷ 19 thiếu năng lực nhưng lại phải đối mặt với nhu cầu và gánh nặng gia tăng. Họ thiếu các tổ chức quản trị hợp lý, các viên chức hành chính được đào tạo, các phương tiện truyền thông và họ chỉ có quyền lực không chắc chắn đối với sự phát triển kinh tế mới. Bằng cách sử dụng các nguồn lực của chính quyền để hỗ trợ cho bản thân, các chính đảng cũng mang đến sự trật tự cho chính quyền. Các hoạt động của đảng phái cung với các nhà hoạt động và cử tri của họ đã lấp đầy khoảng trống do chính quyền thiểu số của Hoa Kỳ tạo ra. 

Ann Orloff and Theda Skocpol cho rằng mức độ xuất hiện dân chủ trong sự phát triển nhà nước quyết định số lượng nguồn lực công mà các chính đảng có thể khai thác. Họ viết:

Tại một số nước Châu Âu phong kiến, sự hành chính hóa nhà nước diễn ra trước sự xuất hiện của chế độ dân chủ bầu cử… Khi các đảng tranh cử cuối cùng cũng xuất hiện tại các quốc gia đó thì họ không thể tiếp cận “bổng lộc của chức vụ”, và do đó phải đưa ra các kêu gọi cương lĩnh… Nhưng ở những nước mà chính trị dân cử diễn ra trước sự hành chính hóa nhà nước… các đảng phái có thể sử dụng các chức vụ cũng như chính sách của chính quyền làm sự bảo trợ (p. 731).  

Từ những năm 1820 đến năm 1900, những đảng phái bảo trợ Hoa Kỳ đã có thể giao tranh như thể họ có một đạo quân lớn (Jensen, p. 11). Các cử tri có liên hệ mạnh mẽ với chính đảng lớn này hay chính đảng lớn khác, hệ quả là nếu như việc bỏ phiếu cho đảng đối thủ là bất khả thi thì cử tri cũng không chú ý đến sự khó chịu đó. Cho đến cuối thế kỷ, phiếu bầu vẫn do các chính đảng tự in ra và chỉ có ứng cử viên của bản thân. Cử tri lựa chọn phiếu bầu của đảng này hay đảng khác và trên thực tế là bỏ phiếu thẳng cho đảng ấy. Do vậy, vào ngày bầu cử, mối quan tâm chính của mỗi đảng là tối đa hóa số cử tri đi bỏ phiếu trong số những người trung thành với họ.

Sự quan trọng của số lượng cử tri đi bầu có thể thấy trong những thắng lợi sít sao của các kỳ bầu cử tổng thống từ năm 1868 đến 1900. Chỉ có hai trong số chín kỳ bầu cử bốn năm một lần có thắng lợi chênh lệch hơn 5% tổng số phiếu bầu cho đảng Cộng Hòa hoặc đảng Dân Chủ. Ba kỳ có thắng lợi chỉ chênh lệch dưới 1% tổng số phiếu bầu cho cả hai đảng (Keller, p. 545). Thêm vào đó, sự tương quan đảng phái trong Quốc Hội cũng thay đổi qua các kỳ bầu cử. Khi những căng thẳng về nội chiến và Tái Thiết qua đi, trận chiến chính trị trở thành đấu tranh giữa các cỗ máy đảng phái để tối đa hóa số cử tri đi bầu trong một bối cảnh không có sự khác biệt về hệ tư tưởng hay có các vấn đề chia rẽ.

Cho đến lúc đó, các đảng phải sử dụng một đạo quân nhân viên đảng phái để đảm bảo số cử tri đi bầu và cung cấp người cho các điểm bỏ phiếu vào ngày bầu cử. Morton Keller nhận thấy: “Phương kế máy móc mong manh của chính trị mang tính tổ chức chiếm ưu thế so với các vấn đề quốc gia chủ chốt” (Keller, p. 544). Nhân viên đảng phái tụ tập ở các điểm bỏ phiếu tạo ra cho đảng cơ hội hối lộ hay lôi kéo cử tri vào phút chót. Giữa các kỳ bầu cử, các đảng duy trì sự trung thành của cử tri thông qua các báo chí dành cho đảng viên và thông qua việc phân phát lợi ích. Cho đến cuối thế kỷ 19, hầu như mọi tờ báo Hoa Kỳ đều liên kết với đảng phái và phần lớn ấn phẩm của họ được các tổ chức đảng quốc gia hay bang phân phát (ví dụ, xem Abbott). Trong một thời kỳ không có chính sách phúc lợi, các tổ chức đảng phái là người cung cấp dịch vụ, người ban phát đặc ân và văn phòng tuyển dụng.   

Do đó, các đảng phái không chỉ đơn giản là cỗ máy phân phối các lợi ích cụ thể để phục vụ cho bản thân. Bên cạnh đó, họ cũng lấp đầy những khoảng trống trong chính sách công có thể được cung cấp ở đâu đó tại phương Tây bằng cách mở rộng nhà nước phúc lợi xã hội. Ví dụ, khi mà các bộ máy đảng đô thị ở Hoa Kỳ cung cấp nhiều loại lợi ích giống như phúc lợi cho những người nhập cư mới từ Ireland, Đông Âu và miền bắc Italy, chính quyền trung ương ở Anh và Tây Âu cũng bắt đầu phổ quát hóa chính sách phúc lợi cho công dân của họ. Sự bảo trợ là lợi ích trung tâm được các đảng phái phân phát cho người trung thành. James C. Scott đã viết:

Bằng cách khai thác sự theo đuổi công cộng để cung cấp các vị trí có thể thỏa thuận theo các tiêu chí chính trị, bộ máy đảng phái thu được công cụ cần thiết để duy trì kỷ luật và sự gắn kết bên trong. Các nhóm và cá nhân khác nhau kết hợp thành đảng phái được gắn kết bằng các phần thưởng vật chất như là sự bảo trợ, đồng thời những vị trí này cũng đem đến cho đảng phái các cán bộ đảng, họ là những người thường trực của tổ chức và chịu trách nhiệm về những mệnh lệnh của lãnh đạo (p. 1151).

Do vậy, các chính đảng duy trì một đạo quân các nhà hoạt động sẵn sàng làm việc cho ứng cử viên của đảng, ủng hộ báo chí của đảng và duy trì sự trung thành của cử tri dựa trên lợi ích. Làm sao các chính đảng này có thể cung cấp tài chính cho những hoạt động quy mô lớn đó? Khả năng của đảng thắng cử trong việc bổ nhiệm những người trung thành với họ vào các vị trí trong chính quyền đã mang lại cho đảng phái cả khả năng tặng thưởng tức thời cho người trung thành cũng như nguồn tài chính đáng tin cậy. Trong hệ thống của Jackson, mỗi vị trí đều đi kèm với nghĩa vụ về khoản phần trăm cho chính đảng và nguồn thu đó trở thành nền tảng cho ngân quỹ của đảng. 

Điều mà Jackson khởi sự vào cuối những năm 1820 đã trở thành quy tắc trong phần còn lại của thế kỷ. Summers viết

Vào năm 1896, chính quyền thực hiện việc bãi nhiệm và bổ nhiệm quy mô lớn mỗi khi tổng thống mới nhậm chức… Không tổng thống nào có thể để đối thủ tiếp tục tại nhiệm và triển khai chính sách của họ. Trong một hệ thống đảng phái dựa trên lòng trung thành, với cấp bậc giống như cấp bậc quân sự … người thắng cử có thể không tin rằng những người thất cử sẽ hành động chân thành, nhưng hơn thế nữa, họ không thể tin rằng người của họ sẽ trung thành mà không… có phần chia.” (Summers, p. 89).

Nhu cầu của đảng phái đối với nguồn lực của chính quyền – việc làm và hợp đồng – dẫn đến sự phát triển của chính quyền. Xã hội và kinh tế Hoa Kỳ đã thay đổi vào cuối 1/3 thế kỷ 19, công việc của chính quyền trở nên phức tạp hơn. Tuy vậy, sự tăng trưởng của chính quyền trong thời gian đó không hoàn toàn dựa trên các chức năng được mở rộng bởi vì khi mà bối cảnh trở nên phức tạp hơn thì bản thân chính quyền đã không mở rộng nhanh chóng phạm vi chính sách đối với xã hội và kinh tế cho đến thế kỷ 20.

Do đó, điều hợp lý là xem xét nhu cầu tổ chức của đảng phái như là nguyên nhân sự phát triển của chính quyền. Từ năm 1871 đến 1881, số lượng nhân viên của chính quyền liên bang đã tăng gấp đôi, từ 51.000 lên 100.000 và vào năm 1891, số lượng nhân viên đã tăng lên 157.442 (Cục Thống Kê, p. 710). Nhân viên chính quyền đã phình ra ở hầu như mọi địa phương. Ví dụ, ở thành phố New York, có 140.000 nhân viên chính quyền, địa phương, bang và liên bang – chiếm 1/8 số cử tri (Keller, p.239).

Chương trình chi tiêu lớn nhất của chính quyền liên bang vào cuối thế kỷ 19 đáp ứng được cho một chính đảng và đó chính là mô hình sử dụng nguồn lực của chính quyền cho lợi ích của đảng viên. Trợ cấp cho cựu chiến binh phe Liên Bang và người phụ thuộc, gắn kết một số lượng người khổng lồ cho đảng Cộng Hòa và tổ chức liên kết của họ, Đại Quân Cộng Hòa, nhóm gây sức ép lớn nhất thời đó. Trợ cấp cho cựu chiến binh chiếm 34% ngân sách liên bang vào năm 1890 và cục trợ cấp quản lý chính sách này có 6.241 nhân viên vào năm 1991. Vào năm 1900, 753.000 cựu chiến binh và 241.000 người phụ thuộc được nhận trợ cấp. Thêm vào đó: “Một cơ sở hạ tầng trợ cấp lớn và các đại lý nhận, luật sư về trợ cấp [khoảng 60.000 vào năm 1898], các ban y tế và 4.000 phẫu thuật viên phục vụ cho hệ thống phúc lợi liên bang quy mô lớn đầu tiên này” (Keller, 311).

Từ một góc độ, chính quyền Hoa Kỳ cuối thế kỷ 19 đã quản trị dựa trên sự tham nhũng. Tuy vậy, nếu tham nhũng là “sự lừa dối niềm tin của công chúng để mưu lợi riêng,” thì điều đã diễn ra trong chính quyền Hoa Kỳ phức tạp hơn tham nhũng hiện đại. Chúng đã lợi dụng “niềm tin của công chúng” để cung cấp năng lượng cho bộ máy chính trị dân chủ ở Hoa Kỳ. Vào cuối những năm 1890, nhà khoa học chính trị Henry Jones Ford coi những bổng lộc này giống như tiền tệ, mà nhờ vào đó các tổ chức phân tán trong phạm vi các đảng phái củng cố bản thân và thực hiện công việc của họ. “Các nghị sĩ, cũng như các lãnh đạo đảng phái ở bang và địa phương của họ trở thành người môi chức quyền, tìm kiếm và chi tiêu khoản tiền tệ bổng lộc” (Trích dẫn của White, Repub. Era, pp. 7-8). Trong khi rõ ràng là có sự lạm dụng đồng thời niềm tin của công chúng cho lợi ích riêng thì mục tiêu trung tâm của các đảng phái chính trị dựa trên nguồn lực của chính quyền là vận hành một hệ thống tham gia đã khiến Hoa Kỳ thế kỷ 19 trở thành một xã hội dân chủ chính trị nhất vào thời đó. Do đó, tham nhũng, được gọi là “hệ thống bổng lộc”, là phương tiện để mở rộng các mục tiêu công của chính quyền – ngay cả khi bằng các phương tiện phi pháp và phi chính thống.

Đảng Phái và Chính Quyền

Hiến Pháp Hoa Kỳ năm 1787 đã tạo ra một chính quyền cho nước cộng hòa nông nghiệp. Không có sự thay đổi căn bản trong quyền lực và tổ chức thì chính quyền này sẽ không phù hợp với sự trỗi dậy của công nghiệp và chủ nghĩa tư bản tập thể, một gia tăng dân số nhanh chóng, sự gia tăng đô thị và sự phát triển của vận tải. Sự trỗi dậy của các cỗ máy đảng phái theo cách nào đó đã hướng tới việc cung cấp các phương tiện để mở rộng phạm vi của chính quyền trong xã hội và kinh tế. Nhà sử học Mark Summer nhận thấy: “Ông chủ, sự vận động hành lang có tổ chức, các nhà thầu lắm mánh khóe, tất cả đều thấy rằng sự phát triển của họ vướng vào một chính quyền nhỏ, giới hạn, với các quan chức dân cử không, không thể làm tất cả những công việc được kỳ vọng một cách có hiệu quả hay toàn diện” (Summers, p. x).

Chính quyền nhỏ, chính thống, giữa một xã hội và nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng được bổ sung bằng các chính đảng quần chúng, với gốc rễ tổ chức ở các bang và địa phương, các lãnh đạo khéo léo của họ - “những ông chủ,” với binh đoàn đảng viên tích cực cũng như các doanh nhân trung thành về chính trị với họ. Theodore Lowi khái quát chính quyền quốc gia trong thời kỳ này là là nhà nước phân phối, có nghĩa là vai trò chính của chính quyền liên bang là thúc đẩy kinh tế quốc gia bằng việc phân phối trợ cấp và phần thưởng (Lowi, chap. 1). Minh họa nổi bật cho chính sách công của nhà nước phân phối là sự trợ cấp cho việc xây dựng đường sắt đi về phía tây bằng cách giao đất công cho các công ty đường sắt.

Trợ cấp của chính quyền được phân phối thông qua các doanh nhân trung thành với đảng nắm quyền và là một dạng khác của sự bảo trợ chính trị. Những trợ cấp này, như việc cấp đất cho đường sắt, tạo thành sự trao đổi mà qua đó chính quyền liên bang khuyến khích doanh nhân và nhà đầu tư thực hiện các dự án lớn. Do vậy, không cần đến năng lực hành chính để lập kế hoạch và triển khai các dự án, chính quyền vẫn có thể hỗ trợ việc xây dựng một cơ sở hạ tầng quốc gia phục vụ cho việc mở rộng chủ nghĩa tư bản công nghiệp – kênh rạch, đường xá, bưu điện và đường sắt.

Hợp đồng của chính quyền đóng vai trò kép đối với chính quyền, đạt được mục tiêu chính sách đồng thời cũng cung cấp việc làm và nguồn tài chính cho các đảng chính trị. Làn sóng xây dựng các tòa nhà công cộng lớn đáng chú ý vào cuối thế kỷ 19 cũng liên quan. Từ tòa thị chính thành phố, tòa nhà nghị viện tới tòa nhà trung tâm bang và các tòa nhà liên bang lớn, hai thập kỷ trước năm 1900 đã tạo thành thời đại vàng của kiến trúc công cộng ở Hoa Kỳ. Hầu như mọi thành phố đều được thiết lập vào cuối thế kỷ 19 đều có một tòa nhà nghị viện hoặc thị chính lộng lẫy ở trung tâm. Những tòa nhà này dường như báo hiệu một chính quyền mới đang trỗi dậy, một chính quyền quyền lực hơn và đế quốc hơn nước cộng hòa nông nghiệp. Tuy vậy, chìa khóa để hiểu được sự huy hoàng mỹ thuật – và chi phí – của những tòa nhà này là ghi nhận rằng những dự án đó là tham nhũng như chúng được dự báo.

Thông qua các hợp đồng xây dựng, chính quyền đáp ứng cho các doanh nhân trung thành về chính trị và các tổ chức đảng phái phục vụ như là văn phòng tuyển dụng để cung cấp công nhân cho công việc xây dựng. Bên cạnh đó, để lại quả cho các hợp đồng nhận được, doanh nghiệp trả các khoản phần trăm cho chính khách và lãnh đạo đảng phái. Những hệ quả của mối quan hệ phức tạp, mang tính cộng sinh giữa chính quyền, đảng phái và doanh nghiệp có thể được dự báo theo quy mô.  Morton Keller viết: “Các nhà thầu trúng thầu chia sẻ lợi nhuận từ giá cả được kê cao bừa bãi với các chính khách. Tòa nhà Tòa Án Hạt New York… tốn phí gấp bốn lần tòa nhà Nghị Viện của Anh Quốc. Hơn 13.000.000 dollar [170 triệu dollar vào năm 1998] đã được chi cho việc xây dựng tòa nhà này từ năm 1869 đến 1871 và tòa nhà không bao giờ được hoàn thành” (Keller, p. 240).

Tóm tắt lại lập luận cho đến thời điểm này, chính trị Hoa Kỳ vào thế kỷ 19 đã chuyển giao có hệ thống nguồn lực công từ chính quyền sang các đảng phái chính trị. Hệ quả là các đảng phái có thể được coi bản thân họ như người thực hiện các chức năng công thiết yếu. Họ tạo ra sự tham dự chính trị rộng rãi bằng cách kết nối các lợi ích cụ thể với hành động chính trị của các cá nhân. Họ khiến cho các cuộc bầu cử giống như được thực hiện trong dân chủ, kết nối sự lựa chọn của cử tri với hành động của chính quyền. Cuối cùng, họ còn tạo cho chính quyền tối thiểu cơ hội để sử dụng các đảng phái quốc gia và các hệ thống tổ chức của họ như là phương tiện để thực thi chính sách. Mặc dù vậy, tất cả đều có giá của nó. 


3. Chống Lại Tham Nhũng Trong Chính Quyền

Vào cuối thế kỷ 19, Moise Ostrogorski cho rằng mục tiêu chính của chính quyền Hoa Kỳ đã trở thành sự duy trì tổ chức đảng phái. Ông bình luận rằng các đảng phái đã kết nối những hệ thống quyền lực phân tán thành chính quyền thống nhất, nhưng thay vì là một chính quyền hiệu quả hơn, điều mà sự thống nhất hướng tới là “sự bán rẻ bảo trợ tổng thống cho các nghị sĩ,” và ai đó nói thêm, cho các đảng phái (Ostrogorski, pp. 285-6). Liệu sự đóng góp của các đảng phái cho dân chủ có xứng đáng với chi phí tham nhũng đi kèm với hệ thống mà xã hội phải gánh chịu? Trong vài thập kỷ cuối của thế kỷ 19, sự phê phán việc bảo trợ và các đảng phái đã đi đến kết luận là phí tổn trong tham nhũng và sự lãng phí của những đảng phái đó vượt xa sự đóng góp cho dân chủ và chính quyền của họ.
 
Cuộc thánh chiến phá hủy bảo trợ chính trị trở nên cuồng nhiệt trong chính trị Hoa Kỳ sau năm 1870. Nếu như ai đó cho rằng phong trào cải cách chỉ đề cập tới việc gia tăng hiệu quả của chính quyền thì sự say mê của những người cải cách sẽ không thể cắt nghĩa được. Nhưng nếu người ta hiểu rằng mục tiêu là thanh tẩy chính quyền về đạo đức thì người ta sẽ hiểu được sự say mê đi cùng với cuộc cải cách. Nhân vật nổi bật trong cuộc cải cách công vụ là George William Curtis, chủ tịch của Liên Hiệp Cải Cách Công Vụ (NCSRL). Khu vực bầu cử của ông ta bao gồm các công dân bản địa thượng lưu và phần trên của tầng lớp trung lưu. Curtis tìm cách thay đổi hệ thống phần thưởng đã gắn kết các chính đảng với chính quyền, nó cũng đã vô tình đã mở cửa công việc chính quyền cho các công dân ở tầng lớp thấp hơn. Ông ta giải thích rằng mục tiêu của cải cách không phải chỉ là tuân thủ những quy định thi cử nhất định. Đó phải là sự chỉnh đốn tham nhũng trong chính trị và khôi phục các chính đảng cho chức năng thực sự của chúng, tức là… các chính sách quốc gia” (White, p. 298).

Những người cải cách dịch vụ công áp đặt một hệ thống thi cử công chức đảm bảo rằng những người gia nhập công sở đạt đủ điều kiện để quản lý. Để củng cố “hệ thống tài năng” đó, họ cũng tìm cách bảo vệ công chức trước sự phân biệt đối xử chính trị trong các quyên góp cho đảng phái và bãi nhiệm vì lý do chính trị. Cuộc cải cách chỉ đạt được thành công nhỏ nhoi với sự thông qua Luật Pendleton 1883, chịu ảnh hưởng của các cuộc cải cách Northcote-Trevelyan trước đó ở Anh Quốc. Đạo luật này thiết lập các kỳ thi cạnh tranh và tạo ra một ủy ban công vụ do tổng thống chỉ định để thực hiện các kỳ thi đó cũng như áp dụng kết quả của chúng. Luật này cũng cụ thể hóa rằng “không bất cứ cá nhân nào trong công vụ… có nghĩa vụ quyên góp chính trị cho bất cứ quỹ chính trị nào,” và “không bất cứ cá nhân nào trong công vụ có quyền sử dụng quyền lực chính thống hay ảnh hưởng của anh ta để áp đặt hành động chính trị của bất cứ ai….” (Mosher, pp. 56-7).
Thành công ban đầu của những người cải cách còn hạn chế bởi vì tỷ lệ công vụ mà hệ thống tài năng mới bao quát còn nhỏ. Tuy vậy, đạo luật đã mang lại cho tổng thống quyền mở rộng số lượng các vị trí mà hệ thống tài năng bao quát. Trong hơn hai thập kỷ tiếp đó, các tổng thống đã thường xuyên mở rộng phạm vi bao quát của luật. Vào năm 1891, 22% công chức của chính quyền liên bang nằm trong phạm vi thi công chức. Vào năm 1900, 44% công chức thuộc phạm vi đó và vào năm 1910 thì tỷ lệ đó tăng lên 57% (Cục Thống Kê Hoa Kỳ, p. 710). Trên thực tế, theo các quy tắc công vụ mới, phần thưởng của sự bảo trợ và tư cách đảng viên đã góp phần mở rộng phạm vi bao quát của hệ thống tài năng. Các tổng thống lần lượt kết thúc nhiệm kỳ với các mệnh lệnh mở rộng phạm vi bao quát của hệ thống tài năng đối với các vị trí mà ông đã lấp đầy bằng sự bảo trợ vào lúc khởi đầu nhiệm kỳ.

4. Nền Cộng Hòa Cải Cách: Quản Trị Chuyên Nghiệp và Sự Suy Giảm Của Tham Dự

Các nhà cải cách công vụ đã thay đổi nhận thức của công chúng về đặc trưng của chính trị và chính quyền liên bang Hoa Kỳ. Sự chính trực thay thế cho sự đại diện và hiệu quả thay thế cho sự thông cảm. Việc phân phối chức vụ cho đảng viên hay đòi hỏi công chức đóng góp tiền cho đảng không còn là hợp pháp (Mosher, pp. 64-79). Các đảng phái bị buộc phải tìm ra các nguồn lực thay thế. Trong quá trình tìm kiếm nguồn lực thay thế, bản thân các đảng phái cũng thay đổi. Dưới hệ thống bổng lộc, các chính đảng liên kết qua lại với các khối cử tri lớn theo hai cách. Thứ nhất, đảng được tổ chức để kích thích sự tham gia ở mức độ rất cao, cả thông qua bầu cử lẫn các trong các hội thảo chính trị thường xuyên của đảng viên, các cuộc tranh luận và diễu hành đặc trưng cho thời kỳ đó. Thứ hai, tổ chức đảng được đảm bảo bằng sự phân phối rộng rãi các bổng lộc chính trị theo cấp bậc trong đảng. Hệ thống mới sau cải cách sẽ kết nối các đảng với tầng lớp thượng lưu kinh tế đồng thời tách họ khỏi cử tri quần chúng.

Nguồn Lực Mới và Các Đảng Phái Đã Thay Đổi

Hệ thống nguồn lực mới được đảng Cộng Hòa và lãnh đạo của họ, Mark Hanna, phát kiến trong cuộc bầu cử năm 1896, đó là một sự phản ứng lại lệnh cấm yêu cầu công chức đóng góp chính trị của cuộc cải cách công vụ. Trong cùng năm đó, đảng Dân Chủ đề cử William Jennings Bryan, một người bảo vệ quyền lợi cho nông dân và chỉ trích các chủ ngân hàng cũng như doanh nghiệp lớn. Đảng Cộng Hòa sử dụng nỗi ám ảnh do lập trường bài kinh doanh của Bryan để gây quỹ được một khoản tiền khổng lồ từ các doanh nghiệp nhằm tài trợ cho chiến dịch tranh cử của đảng Cộng Hòa. Khi hướng tới các khoản đóng góp tài chính của doanh nghiệp, đảng Cộng Hòa đã tìm thấy một mỏ vàng, có thể nói như vậy (Martin, pp. 84-87). Sự sáng tạo trong việc gây quỹ đã tạo ra một nguồn lực ổn định đảm bảo cho đảng phái, nguồn lực đó cũng dần dần thay thế cho các bổng lộc. Hệ quả của hệ thống nguồn lực mới là các đảng phái trở nên gắn bó với tầng lớp thượng lưu kinh doanh chặt chẽ hơn và dần dần đại diện cho các lợi ích chính trị của họ, cả đảng Dân Chủ cũng như đảng Cộng Hòa.

Một sự thay đổi khác trong hoạt động chính trị ở Hoa Kỳ cũng được củng cố bằng nguồn tiền mới của lĩnh vực kinh doanh là sự trỗi dậy của truyền thông giải trí cũng như các kênh tin tức quốc gia đại chúng. Vào những năm 1880, báo chí chuyển hóa từ các hoạt động quy mô nhỏ của đảng phái, được các đảng phái tài trợ, thành hoạt động kinh doanh phát đạt, xuất bản các tờ báo chính trị độc lập lớn hơn và nhiều màu sắc hơn. Công nghệ in ấn mới cũng như sự phát triển nhanh chóng của các hãng quốc gia đang tìm kiếm kênh quảng cáo đã thúc đẩy sự thay đổi trong ngành báo chí. Số lượng và số kỳ xuất bản của báo chí đã bùng nổ trong nửa thế kỷ, từ nội chiến cho đến năm 1914. Vào năm 1860, Hoa Kỳ có 387 nhật báo với tổng số ấn bản phát hành là 1.478.000. Vào năm 1914, Hoa Kỳ có 2.580 nhật báo với tổng số phát hành là 28.777.000 (Cục Thống Kê, p. 500). Trong cùng nửa thế kỷ đó, số lượng phát hành của báo chí đã tăng gấp gần 20 lần, dân số tăng gấp 3 lần (Cục Thống Kê, p. 1). Với nguồn tiền dồi dào mới, các chính đảng đã phát hiện ra rằng quảng cáo qua báo chí là sự thay thế lý tưởng cho đạo quân nhân viên đảng phái, những người khuyến khích cử tri đi bỏ phiếu trong các kì tranh cử của thế kỷ 19. Do đó, hệ quả là hệ thống bổng lộc chấm dứt, bản chất tranh cử của đảng chính trị thay đổi ngay khi nguồn tài chính của đảng đã thay đổi. Khi đánh mất tổ chức dựa trên sự bảo trợ để tiến hành các chiến dịch tranh cử theo kiểu quân sự của thế kỷ 19, các đảng phái dần dần áp dụng chiến dịch tranh cử theo kiểu quảng cáo phù hợp với nguồn tiền từ doanh nghiệp (Jensen).

Ngay khi cơ sở của đảng phái tách khỏi các tổ chức quần chúng quy mô lớn, vai trò của họ trong việc cung cấp dịch vụ cho các cử tri trung thành cũng suy giảm. Trong thời kỳ chính quyền nhỏ ở Hoa Kỳ, các bộ máy đảng đã cung cấp dịch vụ cho người nghèo, người thất nghiệp và người nhập cư mới. Sau năm 1900, chính quyền bang và địa phương đã dần dần cung cấp một số dịch vụ xã hội, cùng với các tổ chức từ thiện tư nhân, như nhà tạm trú, xây dựng một mạng lưới an sinh xã hôi tối thiểu để thay thế cho vai trò phân phối phúc lợi của tổ chức đảng.

Thắng Lợi Của Người Cải Cách Trước Tham Nhũng

Những người cải cách đã thắng lợi trong cuộc chiến chống lại tham nhũng và kém hiệu quả trong chính trị Hoa Kỳ, hoàn toàn ở cấp quốc gia và không hoàn toàn ở các chính quyền thành phố vào Thế Chiến I. Họ đã cải cách nhánh hành pháp liên bang và áp dụng khái niệm công chức chuyên nghiệp. Ở cấp địa phương, họ đã áp dụng khái niệm chính quyền thành phố phi đảng phái và người quản lý thành phố chuyên nghiệp. Hơn thế nữa, họ đã khởi sự một ngành nghiên cứu hành chính công của Hoa Kỳ để phục vụ cho việc gia tăng hiệu quả của quản lý nhà nước “để mở đường cho chính quyền,” như Woodrow Wilson đã viết trong luận văn cổ điển của ông, “Nghiên Cứu Về Hành Chính” (p. 485). Cuối cùng, những người cải cách đã tạo ra các chương trình nghiên cứu và đào tạo để giáo dục các công chức chuyên nghiệp, những người sẽ quản lý chính quyền hiệu quả và bảo vệ nói khỏi sự đồi bại của bổng lộc.

Theo ngôn ngữ của người cải cách, sự chấm dứt của tham nhũng trong chính quyền Hoa Kỳ sẽ đảm bảo rằng chính quyền gần gũi với người dân. Tuy vậy, một nghịch lý đã xuất hiện. Như James Morone đã nhận thấy: “chính quyền sẽ vừa quay lại với dân chúng vừa xa cách họ và nằm trong tay của các chuyên gia” (Morone, p.98). Theo một cách thỏa hiệp nhanh chóng, hệ thống bổng lộc đã hiện thực hóa lý tưởng của Andrew Jackson về hệ thống hành chính “luân chuyển vị trí”, thông qua đó các công dân bình thường hiểu được sự phục vụ của chính quyền trong thời gian tương đối ngắn. Trái lại, một chính quyền được cải cách và có trật tự hơn sẽ nằm trong tay của những người chuyên nghiệp. Những người cải cách đã định nghĩa lại quan hệ giữa chính quyền và nhân dân. Thay vì để công dân trực tiếp tham gia vào chính quyền, những người cải cách tạo ra một chính quyền sẽ phục vụ cho công dân tốt hơn. Với bổng lộc, các công dân đã tham gia vào chính trị và chính quyền. Với cải cách, công dân trở thành khách hàng.

Đáng chú ý là có bằng chứng cho thấy mục đích phục vụ công dân – hay cử tri – như khách hàng đã khuyến khích chính khách tấn công sự bảo trợ và tham nhũng. Vào cuối thế kỷ 19, bưu điện là một trong những lĩnh vực lớn được bảo trợ đảng phái của chính quyền liên bang. Hầu như toàn bộ hệ thống thu gom và phát trả thư ở nông thôn đều dựa trên sự bảo trợ dưới dạng bổ nhiệm chính trị các trưởng bưu cục cấp 4. Tuy vậy, vào năm 1890, một đạo luật của Quốc Hội đã biến hệ thống đó thành một hệ thống chuyển phát tự do ở nông thôn với nhân sự được lựa chọn bằng thi tuyển và chấm dứt sự bảo trợ. Sự chấm dứt bổng lộc và thiết lập sự chuyên nghiệp không do các nhà cải cách khởi sự mà do các nghị sĩ Quốc Hội tìm cách gia tăng dịch vụ cho cử tri của họ (Kernell and McDonald).

Do vậy, các đảng phái và chính khách đã thay đổi khi cuộc cải cách công vụ và hành chính chấm dứt bổng lộc trong chính quyền. Để thích nghi với sự tranh cử theo phong cách quảng cáo, các đảng phái chi một số tiền lớn cho quảng cáo trên báo chí, pamphlet và sách tranh cử. Đồng thời, một khuynh hướng rắc rối cũng xuất hiện. Sự tham gia của cử tri bắt đầu suy giảm trong chính trị Hoa Kỳ vào thế kỷ 20.

Vào đỉnh điểm của thời kỳ bổng lộc ở Hoa Kỳ, các đảng phái chính trị được củng cố bằng một hệ thống tham nhũng đã khuyến khích tỷ lệ cử tri đi bầu cao – tỷ lệ trên những người có quyền bỏ phiếu. “Bổng lộc” dưới dạng bổ nhiệm bảo trợ, hợp đồng cho các doanh nghiệp ủng hộ chính trị và chính sách phân phối như trợ cấp, hướng vào cử tri đảng viên, đã tạo ra các phần thưởng mạnh mẽ cho tổ chức đảng để gia tăng số lượng cử tri đi bầu như là phương tiện để thắng cử và tiếp tục kiểm soát bổng lộc. Đồng thời các tổ chức đảng lớn được đảm bảo bằng bổng lộc cũng cung cấp các đạo quân đảng viên có năng lực về hoạt động quần chúng để tổ chức cho cử tri đi bầu cử. Tuy vậy, sự suy giảm của bổng lộc do cải cách chính quyền đã đe dọa mối quan hệ giữa tham nhũng và tỷ lệ người bỏ phiếu. Bảng 1 cho thấy khuynh hướng của số cử tri bỏ phiếu ở các bang không phải miền bắc trong thế kỷ sau nội chiến
Bảng 1
Tỷ Lệ Bỏ Phiếu Ở Các Bang Không Phải Miền Nam Trong Các Kỳ Bầu Cử Tổng Thống, 1868-1948
(Dữ Liệu Của Burnham, p. 30)


Tỷ lệ bỏ phiếu
1868-1880
82.6
1884-1896
85.4
1900
84.1
1904-1916
73.6
1920-1948
60.6

Sự suy giảm tỷ lệ cử tri bỏ phiếu ở Hoa Kỳ trong thế kỷ 20 là một hiện tượng phức tạp (xem Burnham, chap. 1). Không có lời giải thích đơn lẻ nào có thể giải thích được cho toàn bộ sự suy giảm nhưng tương quan nhất thời của sự suy giảm với sự gia tăng của việc chống lại bổng lộc, phong trào cải cách hành chính công là rõ ràng. Nói một cách khái quát về mối liên hệ nhân quả, chúng ta có thể thấy sự tương đối phù hợp giữa giả định và phương pháp của phong trào cải cách với những thay đổi hệ quả trong đảng phái, điều đã giải thích hợp lý sự suy giảm của tỷ lệ người đi bầu cử. Khi khiến cho chính quyền phục vụ nhân dân tốt hơn, các nhà cải cách đã tạo ra một chính quyền – và quy trình chính trị - hoàn toàn xa cách cử tri, so với quy trình chính trị định hướng bằng bổng lộc cũ. Khi sự bảo trợ chính trị quan trọng là “bổng lộc” của người thắng cử, các đảng phái có phần thưởng mạnh mẽ để thúc đẩy số lượng cử tri đi bầu. Tuy vậy, khi sự bảo trợ suy thoái và sự phục vụ của chính quyền được chuyên nghiệp hóa theo như sự cải cách, phần thưởng của các đảng phái trong việc thúc đẩy bầu cử cũng giảm đi.

Dĩ nhiên, lợi ích của phong trào cải các đối với hành chính công là rất lớn. Viên chức hành chính của chính quyền trở thành người làm nghề chuyên môn thay vì các công dân tích cực chính trị “luân chuyển vị trí”. Chính quyền, như đã mở rộng vào thế kỷ 20, đòi hỏi ngày càng nhiều sự phục vụ của những người được giáo dục và chuyên môn hóa. Hệ thống công vụ mà cải cách đã tạo ra đã thích nghi nhanh chóng với những đòi hỏi thay đổi của công việc nhà nước. Sự bảo trợ là hệ thống nhân sự dựa trên giả định rằng công dân bình thường cũng phù hợp với công việc nhà nước. Những yêu cầu của chính quyền thế kỷ 20 đã khiến cho giả định đó trở thành lỗi thời. Tuy vậy, đồng thời, chúng ta cũng nhận thấy rằng những thay đổi trong hành chính công của Hoa Kỳ, nhấn mạnh vào tài năng và chấm dứt thực tiễn tham nhũng, cũng xóa bỏ vai trò tích cực của công dân trong chính quyền ngay cả khi chúng mở rộng chất lượng sự phục vụ của chính quyền cho công dân.

Song song với những sự thay đổi của hành chính công từ bảo trợ sang chuyên nghiệp, các đảng phái chính trị Hoa Kỳ và sự tranh cử của họ cũng thay đổi từ thúc đẩy cử tri quần chúng đi bầu cử sang quảng cáo chính trị dựa trên truyền thông. Khi chính trị đảng phái Hoa Kỳ trở nên phụ thuộc vào việc thuyết phục các cử tri theo cùng một cách như quảng cáo thương mại, cử tri trở nên ít có liên hệ gần gũi với đảng phái, tuyển cử và bỏ phiếu.

5. Kết Luận

Liệu tham nhũng có nhất thiết là kẻ thù của dân chủ? Con đường phát triển của những xã hội công nghiệp phát triển nhất cho thấy rằng sự tham nhũng phổ biến suy giảm khi trách nhiệm của chính quyền gia tăng và sự tham gia cũng nhưng tranh cử được mở rộng. Tuy vậy, trường hợp Hoa Kỳ là một ngoại lệ đáng chú ý so với kịch bản chung đó. Bài báo này lập luận rằng sự phát triển chính trị ở Hoa Kỳ thể hiện mối quan hệ hệ thống giữa tham nhũng chính trị, đảng phái quốc gia và tham gia dân chủ.

Định nghĩa truyền thống về tham nhũng chính trị là sự lạm dụng niềm tin của công chúng để thu lợi riêng. Tuy vậy, vào thế kỷ 19 ở nước Mỹ, tham nhũng có vai trò phức tạp hơn nhiều. Ở Hoa Kỳ, điều đó dẫn đến việc chiếm dụng các nguồn lực của chính quyền để phục vụ cho các đảng phái quần chúng, ngược lại các đảng phái này lại sử dụng nguồn lực đó để mở rộng sự tham gia chính trị và cung cấp một số chức năng cộng cộng, cùng với sự làm giàu cá nhân. Bên cạnh đó, chính trị Hoa Kỳ vào thế kỷ 19 chính thức gắn kết tham nhũng với dân chủ. Các chính khách hàng đầu như tổng thống Andrew Jackson và Martin Van Buren đã lập luận rằng bản thân chính quyền là lĩnh vực chính trị và tình cảm quần chúng và chức vụ cũng như sự bảo trợ nên được phân phối cho công dân vì lợi ích của họ. Do vậy, các đảng phái nhận được khái niệm chính thể dân chủ, mà nghịch lý là hợp pháp hóa tham nhũng.

Thực tế, cuộc chiến cải cách đã phá hủy tính hợp pháp của tham nhũng trong chính trị Hoa Kỳ. Sự thúc đẩy này đã tạo ra một nền hành chính công chuyên nghiệp cho chính quyền Hoa Kỳ. Nhưng song song với sự phát triển đó, bản thân các đảng phái đã thay đổi tổ chức và chức năng của họ. Vai trò là tổ chức quần chúng để thúc đẩy sự tham gia bầu cử của họ đã suy giảm, họ bị biến thành một tổ chức đặc biệt để thu gom tiền từ các lợi ích có tổ chức và quản lý các chiến dịch chính trị dựa trên truyền thông.

Song song với những thay đổi của đảng phái và tham gia chính trị, chính quyền trở thành lĩnh vực chuyên nghiệp đã mở rộng chức năng đối với kinh tế và xã hội. Sự tiếp cận của công dân với chính quyền đã suy giảm khi chính quyền mở rộng và gia tăng gánh vác đời sống của xã hội. Chính quyền Hoa Kỳ, trước những năm 1930, là lớn, phức tạp, kỹ thuật và hầu như sạch tham nhũng. Đó là sản phẩm của cải cách và chuyên nghiệp hóa chính quyền được khởi sự trong những năm cuối của thế kỷ 19 để chấm dứt sự tham nhũng và gia tăng hiệu quả. Tham nhũng hệ thống đã chấm dứt, nhưng cùng với sự biến mất của tham nhũng thì Hoa Kỳ cũng nhận thấy những sự thay đổi chính trị và thể chế đã làm suy giảm sự tham gia của công dân vào chính trị và chính quyền.


*Peri Arnold, Giáo Sư, Khoa Khọc Chính Trị, Đại Học Notre Dame, Notre Dame, Indiana, USA.

Tài liệu tham khảo

Abbott Richard H, "The Republican Party Press in Reconstruction Georgia, 1867- 1874.", The Journal of Southern History, Vol. 2 (November 1995), 725-760.

Anechiarico Frank and Jacobs James B., The Pursuit of Absolute Integrity, Chicago, University of Chicago Press, 1996.

Aronson Sidney H., Status and Kinship in the Higher Civil Service, Cambridge, MA, Harvard University Press, 1964.
Bureau of the Census, Statistical History of the United States, Stanford, CT, Fairfield Publishers, 1965.

Burnham Walter Dean, The Current Crisis in American Politics, New York, Oxford University Press. 1982.

Ceaser James, Presidential Selection, Princeton, NJ, Princeton University Press, 1979.

Jensen Richard, Winning of the Midwest, Chicago, University of Chicago Press, 1971.

Kernell Samuel and McDonald Michael P., "Congress and America's Political Development: The Transformation of the Post Office from Patronage to Service.", American Journal of Politics, Vol. 43 (1998), 792-811.

Keller Morton, Affairs of State, Cambridge, MA, Harvard University Press, 1977.

Lowi, Theodore, The Personal President. Ithaca, NY, Cornell University Press, 1975.

Martin, Ralph., The Bosses, New York, G.P. Putnam, 1964.

McCormick, Richard C., The Party Period and Public Policy, New York, Oxford University Press, 1986.

Morone, James A., The Democratic Wish, New York, Basic Books, 1990.

Mosher, Frederick C. (ed.), Basic Documents of American Public Administration, 1776-1950, New York, Holmes & Meier, 1976.

Mosher, Frederick C., Democracy in the Public Service, 2nd ed., New York, Oxford University Press, 1982.

Orloff, Ann Shola and Theda Skocpol, "Why Not Equal Protection? Explaining the Politics of Public Social Spending in Britain, 1900-11, and the United States, nSQs-1920.", American Sociological Review, Vol. 49, (1984), 726-750.

Ostrogorski, Moise, Democracy and the Organization of Political Parties, Vol. I, Garden City, NY, 1964 (Published originally in 1902).

Rosenbloom, David, Public Administration, 4th ed., New York, McGraw-Hill, 1998.

Scott, James C., "Corruption, Machine Politics, and Political Change." American Political Science Review. Vol. 63 (1969), 1142-1158.

Skowronek, Stephen, The Politics Presidents Make, Cambridge, Harvard University Press, 1993.

Summers, Mark, The Era of Good Stealings, New York, Oxford University Press, 1993.

White, Leonard D., The Jacksonians, New York, The Free Press, 1965.

White, Leonard D., The Republican Era, New York, Macmillan, 1958.

Wilson, Woodrow, "The Study of Administration", Political Science Quarterly, 61 (December, 1941, reprinting original of 1887).

Wednesday, August 24, 2016

Bàn về bản chất của tham nhũng

Từ khi nhà nước hình thành thì một bộ phận dân cư đã tách ra, chuyên làm công việc hành chính. Những người này ban đầu đều là nô lệ hoặc gia nhân của vua chúa, từ “civil servant” (công chức) bắt nguồn từ hiện thực đó. Trước kia, vua chúa đều dùng nô lệ hoặc gia nhân của họ để thực thi các chức năng hành chính thay cho họ mà không dùng quý tộc hay người tự do vì những người đó độc lập và là đối tượng thường có xung đột quyền lợi với vua chúa.

Do vậy, công chức mang trong mình một mâu thuẫn sâu sắc. Một mặt, họ là nô lệ hay gia nhân, tức là mang địa vị thấp kém hơn thường dân hay quý tộc, nói theo ngôn ngữ hiện đại thì họ là đầy tớ của nhân dân. Mặt khác, họ đảm nhiệm chức năng hành chính, được vua chúa trao quyền lực, do vậy họ có quyền lực rất lớn đối với cả thường dân lẫn quý tộc. Địa vị thấp kém khiến họ không được coi trọng song quyền lực của họ lại bao trùm lợi ích của dân thường, điều này tạo ra thái độ thù ghét công chức của thường dân.

Tuy công chức đảm nhiệm chức năng hành chính nhưng những chức năng này hình thành từ việc được vua chúa trao quyền, do vậy vua chúa cũng đặt ra các cơ chế để kiểm soát quyền lực được trao cho công chức. Công chức chịu trách nhiệm về quyền lực trước vua chúa, người đứng đầu nhà nước, cũng như các nguyên tắc nhà nước đã được xác định chứ không chịu trách nhiệm về quyền lực đó trước dân thường. Dân thường không trực tiếp trao quyền lực cho công chức. Điều đó cũng đúng với nhà nước hiện đại, cho dù là nhiều vị trí công chức cấp cao cũng được bầu cử như chức vụ chính trị thì việc đó cũng không thay đổi nhiều. Điều này tạo ra cho công chức một sự độc lập tương đối trong việc thực thi pháp luật đối với dân thường. Sự độc lập đó là cơ sở cho sự quan liêu cũng như sự thân thiện đối với dân thường của công chức tồn tại. Ví dụ, công chức cần phải tuân thủ một thủ tục hành chính xác định thì họ sẽ phải thực thi đúng như vậy, bất kể là điều đó có khả thi đối với dân thường hay không. Ngược lại, nếu thủ tục hành chính đó chưa bao quát hết các lợi ích của thường dân thì họ cũng có thể lựa chọn những điều có lợi cho thường dân mà không bị coi là vi phạm luật.

Sự độc lập của giới công chức đối với dân thường là cơ sở để duy trì quyền lực nhà nước và do đó cũng tạo ra những khoảng trống để giới công chức làm giàu và có mức sống khá hơn người lao động nói chung. Đây cũng chính là cơ sở để nạn tham nhũng của công chức tồn tại. Phạm vi và nội dung của tham nhũng nói chung rộng hơn khái niệm ăn cắp của công hạn hẹp theo cách nhìn thông thường, nó bao gồm các hành vi như tham ô, hối lộ, hối lộ chính trị, mua bán chức quyền hay bổ nhiệm người thân… và nhìn chung không phải khi nào cũng là ăn cắp của công hoặc làm thiệt hại đến tài sản công nhằm mục đích tư lợi. Trong chế độ tư hữu thì ăn cắp bị coi là hành vi tội ác xấu xa nhưng tội ác xấu xa đó không mâu thuẫn với chế độ tư hữu, ngược lại nó lại đòi hỏi rằng chế độ tư hữu phải tồn tại, hành vi ăn cắp chỉ là thay đổi chủ sở hữu nhưng không phủ nhận hay tạo ra chế độ tư hữu. Quan điểm coi tham nhũng chỉ là hành vi ăn cắp của công đơn thuần chính là thể hiện lập trường tư sản hạn hẹp, thay vì thực sự đặt hành vi tham nhũng vào bối cảnh lịch sử cụ thể và giải quyết nó thì quan điểm tư sản hẹp hòi lại quy kết nó thành một tội lỗi của chế độ tư hữu, thực chất là ngầm thỏa hiệp với hành vi đó. Sự thỏa hiệp đó thể hiện thành quan điểm phổ thông đầy nực cười: Quan chức nào cũng ăn nhưng ở Tây thì quan chức ăn ít hơn ở ta hoặc ở Tây quan chức cũng ăn nhưng làm được việc còn quan chức ở ta ăn nhưng chỉ phá. 

Theo quan điểm nêu trên thì tham nhũng là hành vi ăn cắp của công, hay trấn lột bằng quyền lực và do đó làm nghèo đất nước. Hành vi ăn cắp không làm của cải biến mất hay tăng thêm, nó chỉ làm số của cải đó đổi chủ, số lượng của cải vẫn như vậy. Công chức ăn cắp của công sẽ làm nhà nước nghèo đi nhưng tổng số tài sản quốc gia thì vẫn không thay đổi vì của cải chỉ chuyển từ túi nhà nước sang túi tư nhân. Một phiên bản khác của lập luận này là việc ăn hối lộ (giống như phân phối thu nhập) sẽ cản trở doanh nghiệp phát triển vì làm tăng chi phí hoặc làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Song trong nền kinh tế thị trường thì lợi nhuận là thứ được tạo ra trước và sẽ quyết định mức độ phân phối lợi nhuận, người ta không thể phân phối một thứ chưa được tạo ra. Trên thực tế, tham nhũng giống như một rào cản lợi nhuận khiến cho những doanh nghiệp có lợi nhuận thấp không thể gia nhập thị trường, như vậy là đảm bảo sự độc quyền cho những doanh nghiệp có mức lợi nhuận cao. Tham nhũng do đó giả định là hoạt động đầu tư tư nhân mang lại lợi nhuận cao và lợi nhuận cao đó nuôi dưỡng tham nhũng. Quan điểm coi tham nhũng là ăn chặn hay trấn lột bằng quyền lực lại vô hình chung khẳng định rằng tham nhũng sẽ nuôi dưỡng những nguồn tạo ra lợi nhuận cao. Từ đó, quan điểm này phải bố sung thêm lập luận về sự không công bằng hoặc thiếu hiệu quả, cho rằng việc tham nhũng trong cấu kết với doanh nghiệp sẽ dẫn đến các dịch vụ công hay cơ sở hạ tầng kém chất lượng hoặc sự bất bình đẳng về thu nhập. Câu chuyện được kể đơn giản là quan chức ăn hối lộ của doanh nghiệp và doanh nghiệp ăn bớt tiền xây dựng công trình công cộng khiến công trình này chóng hư hỏng. Việc này có thể diễn ra một cách đơn lẻ nhưng nếu nó diễn ra phổ biến thì chính công chức nhà nước và doanh nghiệp gặp rắc rối lớn, họ sẽ phải tốn tiền sửa chữa các công trình đó vì chính công trình công cộng là một phần trong quyền lực của giới công chức. 

Nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước không phải là đặc trưng của chế độ đa đảng hay độc đảng, cũng như bất kỳ hình thái chính trị nào, chừng nào mà vẫn còn một bộ phận dân cư chỉ chuyên làm công việc nhà nước. Lập luận tư sản phổ biến cho rằng nếu có nhiều đảng phái giám sát lẫn nhau thì công chức nhà nước sẽ phải cẩn trọng, không dám tham nhũng. Luận điểm này ngầm giả định rằng các đảng phải sẽ cạnh tranh nhau để giành quyền lực do đó sẽ kiểm soát công chức chặt chẽ hơn và sẽ giảm được tham nhũng. Song điều đó không có nghĩa là sự kiểm soát ấy sẽ phù hợp với lợi ích của toàn bộ dân chúng, trên thực tế nó không bao giờ phù hợp vì trong một xã hội có các giai cấp mâu thuẫn nhau thì những điều kiện để hình thành nguyên tắc quản lý nhà nước bao giờ cũng là lợi ích của giai cấp thống trị và do vậy nó luôn trái ngược với lợi ích của giai cấp bị thống trị. Cuối thời kỳ trung cổ, bất chấp những nỗ lực kiểm soát chặt chẽ của giới quý tộc nắm chính quyền, giới công chức đã bị giai cấp tư sản đang lên mua chuộc. Điều này một phần ảnh hưởng trở lại giới quý tộc, khi thất bại trong việc kiểm soát bằng luật pháp hay vũ lực thì họ cũng cố gắng dùng tiền để gây ảnh hưởng với giới công chức. Do vậy vào thời kỳ bình minh của chế độ tư bản, người ta được chứng kiến một thời kỳ mà giới công chức tham nhũng kinh khủng, trong khi các đảng phái mải mê đấu đá tranh giành quyền lực ở nghị viện. Họ thường xuyên lên án nhau về tham nhũng nhưng cũng không hề đỏ mặt khi phải dùng tiền để mua chuộc các công chức cũng như các nghị sĩ đảng phái khác. Chế độ đa nguyên đa đảng đã bắt đầu bằng sự tham nhũng kinh hoàng như vậy, nó chỉ giảm bớt đi khi mà giai cấp quý tộc hoàn toàn thất bại và biến mất khỏi lịch sử. 

Lập luận phổ biến thứ hai về tham nhũng là tiền lương thấp nên công chức buộc phải tham nhũng để sống. Lập luận này giả định rằng nếu có tiền lương đủ cao thì công chức sẽ không có động cơ tham nhũng hoặc nói theo kiểu hiện đại hơn thì tiền lương cao sẽ khiến cho chi phí mất việc của công chức cao hơn lợi ích thu được từ tham nhũng. Lập luận này là một câu chuyện khôi hài khó tin. Bạn ra đường gặp một kẻ trấn lột và trả tiền cho hắn để khỏi bị trấn lột? Tức là đằng nào bạn cũng sẽ bị trấn lột, hoặc là bí mật hoặc là công khai. Lập luận này bắt nguồn từ thực tế là tại một số quốc gia như Pháp và Singapore thì một bộ phận của giai cấp tư sản trực tiếp nắm lấy các vị trí hành chính và chính trị, thu nhập của họ được phân chia thông qua hệ thống lương bổng thay vì dựa vào lợi nhuận từ kinh doanh của bản thân, do vậy các hành vi tham nhũng để tư lợi cá nhân được hạn chế. Song tại chính những quốc gia đó thì nạn mua quan bán chức và bổ nhiệm người thân quen vào các chức vụ béo bở lại không có cách nào giải quyết được. Quan điểm này lảng tránh nguồn gốc của sự tham nhũng là quyền lực độc lập tương đối của công chức, do vậy thực chất quan điểm này bảo vệ cho tầng lớp công chức, gia tăng các đặc quyền đặc lợi của họ. 

Một phiên bản phụ của lập luận tiền lương là lập luận về nạn mua quan bán chức quyền. Quan điểm này cho rằng do nạn mua quan bán chức hoành hành nên những người mua chức quyền phải tham ô hay ăn hối lộ để kiếm tiền bù đắp lại chi phí mua chức quyền. Dưới chế độ phong kiến ở phương Đông, các gia đình thường dân giàu có thường hay mua những chức quan nhỏ để tránh phải làm các công việc phu phen tạp dịch của thường dân. Một ví dụ khác trong thời cận đại là vua Pháp bán các chức quan cho giới tư sản để lấy tiền chi tiêu cho chiến tranh với giới quý tộc. Song điều đó không có nghĩa là những người đó sẽ kiếm được tiền từ chức vụ của mình, ngược lại chức vụ đó chỉ như là sự bảo đảm cho nguồn thu nhập sẵn có của họ. Việc mua bán chức quyền thể hiện rằng những đặc quyền của giới công chức không còn có ích gì để giúp cho cuộc sống của họ khá hơn nhưng những đặc quyền đó lại cần thiết đối với những người giàu có mới nổi và có địa vị xã hội thấp kém. Lập luận này cũng đảo ngược quan hệ nhân quả giữa việc mua bán chức quyền và tham nhũng. Sở dĩ có mua bán chức quyền là vì tham nhũng đã tồn tại và hứa hẹn sẽ đem lại lợi nhuận, tức tham nhũng quyết định việc mua bán chức quyền chứ không phải ngược lại. 

Lập luận phổ biến thứ ba là vô đạo đức dẫn đến tham nhũng. Người ta cho rằng tham nhũng là do công chức vô đạo đức. Đạo đức là một lĩnh vực đầy mâu thuẫn. Một người cha tốt, nuôi dạy con cái chu đáo, chăm lo cha mẹ tử tế, có tình nghĩa với anh em bạn bè không có nghĩa là ông ta không tham nhũng. Một công chức thanh liêm có thể không nhận hối lộ nhưng sẽ lại luôn sẵn sàng đưa hối lộ để làm được việc. Như đã nói ở trên về việc ăn cắp của công, việc ăn cắp là một hành vi vô đạo đức đối với chế độ tư hữu song nó giả định là chế độ tư hữu phải tồn tại, do vậy đạo đức luôn là đạo đức của một chế độ kinh tế nhất định chứ không phải là phổ quát, khi một chế độ kinh tế khác nảy sinh thì tất yếu sẽ nảy sinh những đạo đức phù hợp với nó. Dưới chế độ phong kiến, khi mà quyền lợi của giai cấp quý tộc là duy trì các đảm phụ phong kiến đối nông dân thì đạo đức là phải duy trì những đảm phụ đó một cách ôn hòa, nhưng khi chế độ tư bản xuất hiện, đồng tiền là thước đo của mọi giá trị thì đạo đức của giai cấp quý tộc buộc họ phải tìm mọi cách bóp nặn nông dân đến đồng xu cuối cùng. Sự vô đạo đức không phá hoại chế độ kinh tế sinh ra nó mà ngược lại là một phần của chế độ đó. Sự độc lập tương đối của tầng lớp công chức khiến họ có thể ngả theo những giai cấp mạnh hơn trong xã hội và do đó có thể áp dụng các tiêu chuẩn về đạo đức khác nhau cho cùng một hành vi. Một phiên bản của lập luận về đạo đức là công tác cán bộ. Lập luận này cho rằng tham nhũng là do công tác tuyển chọn công chức yếu kém, tức là để cho những người vô đạo đức lọt vào bộ máy công chức. 

Vấn đề tham nhũng bao giờ cũng được giới công chức quan tâm hàng đầu vì nó gắn liền với sự độc lập của họ. Thông thường dân chúng theo dõi vấn đề này vì mang sẵn thái độ không mấy thiện cảm với giới công chức hơn là về những hệ quả của nó. Nhà nước Việt Nam vốn là nhà nước của giai cấp lao động, giai cấp tư sản không được tham gia nắm quyền chính trị, song giai cấp tư sản đang dần dần mạnh lên về kinh tế. Trước tình hình đó tầng lớp công chức bắt đầu lung lay, một phần đã ngả theo giai cấp tư sản. Sự chia rẽ của tầng lớp công chức đến từ nhiều nguồn khác nhau. Việc bắt tay với giai cấp tư sản để kinh doanh đã giúp một bộ phận công chức, thường là cấp cao, trở nên giàu có và trở thành tư sản. Chế độ thi tuyển công chức cũng mở đường cho con cái của các gia đình giàu có (với đặc quyền tiếp cận giáo dục nhờ vào tiền bạc) trở thành công chức nhà nước. Mâu thuẫn giữa tầng lớp công chức cũ xuất thân từ các tầng lớp lao động và tầng lớp công chức mới dần dần trở nên gay gắt. Một trong những biểu hiện của mâu thuẫn đó chính là vấn đề tham nhũng.

Thành phần cực đoan nhất trong vấn đề tham nhũng thường là tầng lớp công chức bậc trung và thấp có xuất thân tiểu tư sản hoặc trí thức không mấy giàu có. Địa vị xã hội của những người này vốn chủ yếu vào các đặc quyền của giới công chức, song các đặc quyền này dần dần mất giá trị trước sự biến đổi của chế độ kinh tế, họ cũng không thể cạnh tranh được trong việc thăng tiến với tầng lớp công chức mới có xuất thân từ các gia đình giàu có (có mối quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp và được hưởng giáo dục tốt hơn). Sự giàu có và quyền lực của bộ phận công chức mới cũng như sự suy yếu của bản thân được gán cho tham nhũng và cuộc chiến chống lại tham nhũng trở thành biện pháp cốt yếu để củng cố địa vị công chức của họ. Việc chống tham nhũng của họ không thể không dựa trên đạo đức và các giá trị truyền thống. Ngược lại, đối với bộ phận công chức mới thì các tiêu chuẩn đạo đức của họ hoàn toàn khác, họ chống lại những thứ đặc quyền đặc lợi nhỏ nhặt, những thứ thủ tục phân tán chồng chất cản trở việc kinh doanh và tìm cách mở cửa những vị trí công chức cấp cao cho bản thân.

Friday, June 17, 2016

Chủ nghĩa tư bản và đặc trưng đồng tính

Trong bài viết “Capitalism and Gay Identity” của cuốn sách “Powers of Desire” (Những Sức Mạnh của Ham Muốn) do nhà xuất bản Monthly Review phát hành năm 1983, John D’Emilio cho rằng đặc trưng đồng tính là một sản phẩm lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản phá vỡ gia đình hạt nhân truyền thống và giải phóng các cá nhân, giúp cho những tiềm năng đồng tính của họ được giải phóng, nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn luôn cần duy trì gia đình truyền thống để sinh sản và nuôi dưỡng các thế hệ công nhân mới. Do vậy, sự áp bức đối với người đồng tính là biểu hiện mâu thuẫn căn bản giữa chủ nghĩa tư bản và gia đình. Tuy nhận thức rõ sự áp bức người đồng tính là một mâu thuẫn không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản nhưng giải pháp chính trị của John D’Emilio lại mang tính cải lương, chỉ hướng tới biện pháp hỗ trợ cho cuộc sống độc lập bên ngoài gia đình để giải phóng người đồng tính. Nếu như chủ nghĩa tư bản là nguồn gốc sinh ra đồng tính với tư cách là một đặc tính xã hội thì khi chủ nghĩa tư bản kết thúc, sự tha hóa ấy cũng sẽ kết thúc, đồng tính không còn là một đặc trưng xã hội mà quay trở lại thành một hành vi cá nhân. 

Chủ Nghĩa Tư Bản và Đặc Trưng Đồng Tính 

John D’Emilio

Đâu đó trong cuốn sách này, Adrienne Rich lập luận một cách sâu sắc về đặc trưng đồng tính nữ, một người được rèn rũa trong những ràng buộc của thời thơ ấu; cô ta tách “sự tồn tại đồng tính nữ” này ra khỏi sự tiến hóa đời sống của một người đồng tính mà cô ta cho là vô tổ chức và rất phi tự nhiên. John D’Emilio sẽ không đồng ý với khẳng định về sự tách biệt lịch sử giữa đồng tính nam và đồng tính nữ, do ông, cũng giống như Allan Bérubé trong tiểu luận trước đây, coi sự hình thành của “tình dục đồng giới” ở cả hai giới là một hiện tượng cá biệt và hiện đại. Ông cho rằng, đồng tính nữ hiếm khi có mặt trong “không gian nam tính” của đường phố, công viên và quán bar bởi vì phụ nữ tiếp tục phụ thuộc vào đàn ông về mặt kinh tế: Đó là sự áp bức kinh tế, không phải là một sự tiếp nối tự nhiên, ông cũng khẳng định rằng điều đó khiến họ thầm lặng hơn ở nhà.

Cơ hội cho một cuộc sống bên ngoài gia đình, được tạo thành bởi lao động làm thuê, tạo ra một hệ quả to lớn cho cả hai giới tính. D’Emilio nhấn mạnh vai trò của người đồng tính trong việc khai phá đời sống tình dục không liên quan đến sinh đẻ thông qua sự đoạn tuyệt ngày càng lớn giữa giới tính và sự sinh đẻ, điều đó đã thay đổi ý nghĩa của tình dục đối với tất cả mọi người và trên hết là đối với phụ nữ.

Đối người đồng tính, những năm 1970 là những năm có thành tựu quan trọng. Sự giải phóng người đồng tính và giải phóng phụ nữ đã thay đổi bối cảnh tình dục của quốc gia. Hàng trăm ngàn nam và nữ đồng tính đã xuất hiện và công khai khẳng định tình dục đồng giới. Chúng ta đã bãi bỏ luật tình dục đồng giới ở một nửa số bang, bãi bỏ một phần việc cấm tuyển dụng người đồng tính cho các công việc liên bang, bảo vệ quyền công dân ở vài tá thành phố, đưa quyền đồng tính vào cương lĩnh của Đảng Dân Chủ và xóa bỏ tình dục đồng giới khói danh mục bệnh tâm lý của ngành tâm lý học. Văn hóa thứ cấp của người đồng tính được mở rộng và hiện diện ở một số thành phố lớn, các nhà nữ quyền đồng tính đi tiên phong trong việc tạo dựng những thể chế thay thế và văn hóa thay thế nhằm triển khai một viễn cảnh giải phóng tương lai.

Tuy vậy, vào những năm 1980, với sự tái nổi dậy của cánh hữu tích cực, người đồng tính phải thận trọng đối mặt với tương lai. Chiến thắng của chúng ta dường như nhỏ bé và mong manh; sự tự do tương đối của vài năm qua dường như quá ngắn ngủi để có thể trở thành vĩnh viễn. Tại một số phần của cộng đồng người đồng tính, cảm giác định mệnh đang lớn dần: tương tự với nước Mỹ của McCarthy, khi  “những kẻ đồi trụy tình dục” là mục tiêu đặc biệt của cánh hữu và Đức Quốc Xã, nơi mà người đồng tính bị đưa đến các trại tập trung, đã xuất hiện thường xuyên. Khắp mọi nơi đều có cảm giác rằng chúng ta cần có chiến lược mới để bảo vệ thành quả và tiếp tục tiến về phía trước.

Tôi tin rằng một lý thuyết mới, chính xác hơn, về lịch sử đồng tính phải là một phần của công việc chính trị này. Khi phong trào giải phóng người đồng tính bắt đầu vào cuối những năm 1960, người đồng tính không có lịch sử mà chúng ta có thể sử dụng để minh họa cho mục tiêu và chiến lược của chúng ta. Vào những năm tiếp đó, trong quá trình xây dựng phong trào trong sự thiếu kiến thức về lịch sử, chúng ta đã tạo ra một huyền thoại. Lịch sử huyền thoại này bắt nguồn từ kinh nghiệm cá nhân, mà chúng ta hồi tưởng lại vào theo thời gian. Ví dụ, hầu hết người đồng tính vào những năm 1960 khám phá ra khát vọng tình dục của họ lần đầu tiên trong sự cô lập, không được những người khác biết đến và không có nguồn nào nhắc đến cũng như hiểu được cảm giác của họ. Từ kinh nghiệm này, chúng ta tạo ra huyền thoại về sự câm lặng, vô hình và cô lập, như là đặc tính cơ bản của cuộc sống đồng tính trong quá khứ cũng như hiện tại. Hơn nữa, do chúng ta đối mặt với rất nhiều luật lệ, chính sách công và niềm tin văn hóa đầy áp bức nên chúng ta đã đưa những điều đó vào hình dung về quá khứ sâu thẳm: trước khi người đồng tính được giải phóng, người đồng tính luôn là nạn nhân của sự áp bức có hệ thống, không phân biệt và khủng khiếp.

Những huyền thoại đó đã giới hạn triển vọng chính trị của chúng ta. Ví dụ, chúng đã đóng góp vào việc quá lệ thuộc vào chiến lược công khai – nếu tất cả người đồng tính ở Mỹ công khai, sự áp bức đối với người đồng tính sẽ chấm dứt – và cho phép chúng ta bỏ qua các phương thức được thể chế hóa mà theo đó tình dục đồng giới và tình dục khác giới được tái tạo. Vào lúc đó, chúng đã tạo một sự tuyệt vọng hoàn toàn, nhất là vào những thời điểm như hiện tại: Làm sao chúng ta có thể giải thích được sự áp bức phổ biến và không thay đổi đối với người đồng tính?

Có một huyền thoại lịch sử khác gần như được chấp nhận một cách phổ biến trong phong trào đồng tính, đó là huyền thoại và “tình dục đồng giới vĩnh cửu”. Lập luận này diễn ra như sau: người đồng tính luôn tồn tại và sẽ luôn tồn tại. Chúng ta có mặt ở mọi nơi; không chỉ hiện tại mà còn khắp trong lịch sử, trong mọi xã hội và mọi thời đại. Huyền thoại này có vai trò là một chức năng chính trị tích cực vào những năm đầu của phong trào giải phóng người đồng tính. Vào đầu những năm 1970, khi chúng ta chống lại một lý tưởng hoặc phủ nhận sự tồn tại của chúng ta hoặc coi chúng ta là những kẻ bị bệnh tâm thần trái hay phản tự nhiên, điều đó đã thúc đẩy sự khẳng định rằng “chúng ta ở khắp mọi nơi.” Nhưng những năm gần đây, điều đó đã giam hãm chúng ta cũng giống như nhiều lý thuyết y khoa về tình dục đồng giới và trói chặt phong trào của chúng ta vào một vị trí.

Ở đây, tôi muốn bác bỏ huyền thoại này. Tôi muốn khẳng định rằng người đồng tính đã không luôn luôn tồn tại. Trái lại, họ là sản phẩm của lịch sử và xuất hiện trong một thời đại lịch sử nhất định. Sự trỗi dậy của họ gắn liền với những quan hệ của chủ nghĩa tư bản; đó là sự phát triển lịch sử của chủ nghĩa tư bản – cụ thể hơn nữa là hệ thống lao động tự do – thứ đã cho phép một số lượng lớn đàn ông và đàn bà vào cuối thế kỷ 20 tự gọi mình là đồng tính, tự coi bản thân là một phần của cộng đồng có những đàn ông và phụ nữ tương tự và tổ chức về chính trị dựa trên đặc tính đó1. Cuối cùng, tôi muốn gợi ý một số bài học chính trị mà chúng ta có thể rút ra được từ quan điểm lịch sử này.

Mối quan hệ giữa hệ thống lao động tự do của chủ nghĩa tư bản và tình dục đồng giới là gì? Trước hết, hãy để tôi tái hiện lại một số đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, công nhân là người lao động “tự do” theo hai nghĩa. Chúng ta tự do tìm kiếm công việc. Chúng ta có năng lực lao động và có tự do bán sức lao động cho bất cứ ai sẵn lòng mua để nhận lương. Chúng ta cũng được giải phóng khỏi việc sở hữu mọi thứ, ngoại trừ sức lao động của bản thân. Hầu hết chúng ta không sở hữu đất đai hay công cụ để sản xuất ra những gì mà chúng ta cần, trái lại phải làm việc để kiếm sống. Nếu chúng ta tự do bán sức lao động theo nghĩa tích cực, chúng ta cũng giải phóng, theo nghĩa tiêu cực, khỏi mọi sự lựa chọn khác. Sự biện chứng này – sự tác động qua lại thường xuyên giữa bóc lột và một mức độ độc lập nhất định – đã tiết lộ toàn bộ lịch sử của những người sống dưới chủ nghĩa tư bản.

Khi tư bản – tiền được sử dụng để tạo ra nhiều tiền hơn – mở rộng thì hệ thống lao động tự do cũng được mở rộng. Tư bản mở rộng theo nhiều cách. Thông thường, nó mở rộng tại cùng một nơi, chuyển hóa các hãng nhỏ thành hãng lớn hơn, nhưng nó cũng mở rộng bằng cách chiếm lấy những lĩnh vực sản xuất mới: ví dụ như may quần áo hay nướng bánh mỳ. Cuối cùng, tư bản mở rộng về mặt địa lý. Ở Hoa Kỳ, chủ nghĩa tư bản ban đầu bắt nguồn ở vùng Đông Bắc, vào thời mà chế độ chiếm hữu nô lệ còn là hệ thống thống trị ở miền Nam và khi xã hội phi tư bản của người bản địa vẫn còn chiếm giữ nửa phía tây của lục địa. Vào thế kỷ 19, tư bản mở rộng từ Đại Tây Dương tới Thái Bình Dương và vào thế kỷ 20, tư bản Hoa Kỳ đã xâm chiếm hầu như mọi nơi trên thế giới.

Sự bành trướng của tư bản và sự phổ biến của lao động làm thuê đã tạo ra một sự chuyển hóa sâu sắc trong cấu trúc và chức năng của gia đình hạt nhân, lý tưởng về đời sống gia đình và ý nghĩa của quan hệ tình dục khác giới. Chính những sự thay đổi trong gia đình đó đã gắn liền với sự xuất hiện của sự chung sống đồng tính.

Thực dân da trắng vào thế kỷ 17 ở New England đã xây dựng các làng xoay quanh kinh tế hộ gia đình, được tạo thành từ các đơn vị gia đình chủ yếu dựa trên sự tự cấp tự túc, độc lập và gia trưởng. Đàn ông, đàn bà và trẻ em canh tác trên mảnh đất mà người đàn ông chủ gia đình sở hữu. Mặc dù có sự phân công lao động giữa đàn ông và đàn bà song gia đình thực sự là một đơn vị sản xuất có sự phụ thuộc lẫn nhau: sự sống còn của mỗi thành viên phụ thuộc vào sự hợp tác của tất cả mọi người. Nhà là nơi làm việc, tức là nơi phụ nữ chế biến các nông sản thô thành thực phẩm cho sự tiêu dùng hàng ngày, là nơi họ tạo ra vải, xà phòng và nến, cũng là nơi chồng, vợ và con cái làm việc cùng nhau để sản xuất ra sản phẩm mà họ tiêu dùng.

Vào thế kỷ 19, hệ thống sản xuất theo hộ gia đình suy tàn. Ở vùng Đông Bắc, khi tư bản thương nhân đầu tư tiền tích lũy được bằng việc buôn bán vào việc sản xuất hàng hóa, lao động làm thuê bắt đầu trở nên phổ biến hơn. Đàn ông và đàn bà bị kéo ra khỏi nền kinh tế gia đình tự cấp tự tục của thời thuộc địa và ném vào hệ thống lao động tự do của tư bản. Đối với phụ nữ vào thế kỷ 19, việc làm thuê hiếm khi kéo dài đến sau khi kết hôn; đối với đàn ông thì điều đó trở thành tình cảnh vĩnh viễn.

Gia đình không còn là đơn vị sản xuất độc lập. Tuy không còn độc lập nhưng thành viên của gia đình vẫn tiếp tục phụ thuộc qua lại lẫn nhau. Do chủ nghĩa tư bản vẫn chưa mở rộng quá nhiều, do nó vẫn chưa chiếm lấy – hay xã hội hóa – việc sản xuất các vật phẩm tiêu dùng, phụ nữ vẫn thực hiện lao động sản xuất thiết yếu tại nhà. Nhiều gia đình không còn sản xuất lúa mì nhưng người vợ vẫn tiếp tục làm bánh mỳ từ bột mà họ mua bằng tiền lương của chồng; hoặc, khi họ mua sợi hay vải, họ vẫn tiếp tục may quần áo cho gia đình. Vào giữa những năm 1800, chủ nghĩa tư bản đã phá hủy nền kinh tế tự cấp tự túc của nhiều gia đình nhưng không phá hủy sự phụ thuộc lẫn nhau của các thành viên trong gia đình.

Sự chuyển hóa từ kinh tế hộ gia đình thành một nền kinh tế lao động tự do của chủ nghĩa tư bản trưởng thành diễn ra rất chậm chạp, kéo dài hơn hai thế kỷ. Cuối cùng vào năm 1920, 50% dân Mỹ sống trong các cộng đồng có ít hơn 2.500 dân. Đại đa số người da màu vào đầu thế kỷ 20 đều sống bên ngoài nền kinh tế lao động tự do, trong một hệ thống cấy rẽ và lĩnh canh dựa trên gia đình. Đối với hàng triệu người Mỹ, không chỉ có canh tác độc lập là sinh kế mà ngay cả ở những thành phố nhỏ thì phụ nữ vẫn tiếp tục nuôi và chế biến thực phẩm, may quần áo và tham gia vào những loại hình sản xuất gia đình khác.

Nhưng đối với những người cảm thấy sức nặng của sự thay đổi đó, gia đình có ý nghĩa mới, giống như là một đơn vị tình cảm, một thể chế không sản xuất ra vật phẩm mà tạo ra sự thỏa mãn về tình cảm và hạnh phúc. Vào những năm 1920, trong tầng lớp trung lưu da trắng, gia đình được coi là một phương tiện để đàn ông và đàn bà tạo ra sự thỏa mãn, cùng nhau cải thiện các mối quan hệ và tạo ra môi trường nuôi dưỡng con cái. Gia đình trở thành một môi trường cho “đời sống cá nhân”, khác biệt hoàn toàn và tách biệt khỏi thế giới công cộng của việc làm và sản xuất2.

Ý nghĩa của quan hệ tình dục dị giới cũng thay đổi. Ở thuộc địa New England, tỷ lệ sinh trung bình là 7 trẻ em trên một phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ. Đàn ông và đàn bà cần lao động của trẻ em. Sản xuất ra thế hệ kế cận là cần thiết để sinh tồn cũng giống như sản xuất lúa mì. Tình dục bị khai thác cho việc sinh đẻ. Thanh giáo không hoan nghênh tình dục dị giới mà không kết hôn; họ lên án mọi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân và không phân biệt giữa gian dâm đồng giới và khác giới.

Tuy vậy, vào những năm 1970, tỷ lệ sinh đẻ đã giảm xuống còn 2. Với ngoại lệ là sự bùng nổ trẻ em sau Thế Chiến II, sự suy giảm đã diễn ra liên tục trong hai thế kỷ, cùng với sự mở rộng của quan hệ sản xuất tư bản. Điều đó diễn ra ngay cả khi các biện pháp tránh thai và phá thai bị ngăn cản một cách có hệ thống. Sự suy giảm đã diễn ra trong mọi bộ phận của dân cư – các gia đình thành thị cũng như nông thôn, da trắng cũng như da màu, các sắc tộc và người Anglo-Saxon Tin Lành, tầng lớp trung lưu và giai cấp công nhân.

Khi lao động làm thuê phổ biến và sản xuất được xã hội hóa thì việc giải phóng tình dục khỏi sự “bắt buộc” để sinh đẻ trở thành khả thi. Về mặt lý tưởng, sự biểu lộ tình dục khác giới trở thành phương tiện để tạo ra sự gần gũi, thúc đẩy sự hạnh phúc và trải nghiệm sự thỏa mãn. Khi tước đoạt kinh tế độc lập của hộ gia đình và thúc đẩy sự tách rời giữa tình dục với sinh đẻ, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những điều kiện cho phép một số đàn ông và đàn bà tổ chức đời sống cá nhân xoay quanh sự hấp dẫn tình dục/cảm xúc đối với giới tính của bản thân. Điều đó khiến cho việc hình thành các cộng đồng người đồng tính, gần đây hơn là chính trị dựa trên đặc tính tình dục, trở nên khả thi.

Bằng chứng từ các hồ sơ tòa án và các bài giảng đạo nhà thờ của New England thời thuộc địa đã cho thấy hành vi tình dục đồng giới của nam giới và nữ giới đã xuất hiện từ thế kỷ 17. Tuy vậy, hành vi tình dục đồng giới khác với đặc trưng tình dục đồng giới. Đơn giản là không có “không gian xã hội” trong hệ thống sản xuất thuộc địa để đàn ông và đàn bà trở thành đồng tính. Sự sinh tồn được xây dựng xoay quanh sự tham gia vào một gia đình hạt nhân. Có một số hành động tình dục đồng giới nhất định – tình dục đồng giới của nam, “tình dục” giữa nữ giới với nhau – trong đó các cá nhân tham gia, nhưng gia đình phổ biến đến mức xã hội thuộc địa thiếu cả khái niệm về tình dục đồng giới nam hay đồng tính nữ để mô tả một cá nhân. Cũng có khả năng là một số đàn ông và đàn bà cảm thấy sự hấp dẫn của người cùng giới tính mạnh hơn là người khác giới – trên thực tế, một số vụ án thời thuộc địa đã nhắc đến những người đàn ông chìm đắm trong sự hấp dẫn “trái tự nhiên” của họ - nhưng người ta không thể thể hiện điều đó như là một lối sống. Thuộc địa Massachusetts thậm chí còn có luật cấm những người trưởng thành chưa kết hôn sống bên ngoài gia đình3.

Vào nửa sau của thế kỷ 19, tình hình đã thay đổi một cách đáng kể khi hệ thống lao động tự do của tư bản đã chiếm ưu thế. Chỉ khi các cá thể bắt đầu sống bằng lao động làm thuê, thay vì là một thành viên trong gia đình phụ thuộc lẫn nhau, khát vọng tình dục đồng giới mới có khả năng đồng nhất với đặc trưng cá nhân – một đặc trưng dựa trên khả năng sống bên ngoài gia đình với tình dục khác giới và tạo ra một đời sống cá nhân dựa trên sự hấp dẫn giới tính của người đồng giới. Vào cuối thế kỷ, một tầng lớp nam và nữ giới thừa nhận sự quan tâm tình dục đồng giới đã xuất hiện, họ coi đó là đặc điểm khiến họ tách khỏi đa số và tìm kiếm những người giống như họ. Những người đồng tính ban đầu xuất thân từ một phạm xã hội rộng: viên chức và người kinh doanh, nhân viên của hàng bách hóa và giáo sư trường đại học, người điều hành nhà máy, bộ trưởng, luật sư, đầu bếp, nội trợ, những người lang thang và những người giàu có về hưu: nam giới và phụ nữ, da màu và da trắng, dân nhập cư và dân bản địa.

Trong thời kỳ này, người đồng tính đã bắt đầu sáng tạo ra nhiều cách gặp gỡ nhau và xây dựng một cuộc sống nhóm. Vào đầu thế kỷ 20, các thành phố lớn đã có các quán bar đồng tính. Người đồng tính tụ tập ở các thành phố gần sông hay biển, như Riverside Drive ở thành phố New York và Lafayette Park ở Washington. Ở St. Louis và thủ đô quốc gia, chợ tình thường niên đã thu hút một số lượng lớn đồng tính da màu. Nhà tắm công cộng và YMCA trở thành điểm tụ tập cho giới đồng tính nam. Giới đồng tính nữ thành lập những hiệp hội văn chương và các câu lạc bộ cá nhân. Một số phụ nữ thuộc giai cấp công nhân “đóng vai” như nam giới để nhận được công việc có lương cao hơn và sống cùng với những phụ nữ khác – cặp đồng tính nữ thường xuất hiện bên ngoài như là chồng và vợ. Trong số các khoa của trường đại học nữ, tại các khu nhà ký túc xá cũng như tại các hiệp hội và câu lạc bộ nghề nghiệp mà phụ nữ lập ra, người ta có thể tìm thấy những mối quan hệ thân mật suốt đời được một mạng lưới các bạn đồng tính nữ hỗ trợ. Vào những năm 1920 và 1930, các thành phố lớn như New York và Chicago đã có các quán bar cho đồng tính nữ. Hình mẫu sinh tồn đó này có thể phát triển là do chủ nghĩa tư bản cho phép các cá thể sinh tồn bên ngoài phạm vi gia đình4.

Đồng thời, những định nghĩa lý thuyết về hành vi tình dục đồng giới cũng thay đổi. Các bác sĩ phát triển nhiều lý thuyết về tình dục đồng giới, coi nó như là một điều kiện, một thứ gì đó có sẵn trong cá nhân, một phần trong “bản chất tự nhiên” của anh ta hay cô ta. Những lý thuyết này không phản ánh sự đột phá khoa học, làm sáng tỏ những lĩnh vực chưa từng được khám phá của kiến thức; trái lại, chúng là một phản ứng mang tính hệ tự tưởng đối với phương thức tổ chức đời sống cá nhân mới. Sau đó, sự phổ biến của các mô hình y khoa lại ảnh hưởng đến nhận thức của nữ giới và nam giới có ham muốn tình dục đồng giới, do vậy họ xác định bản thân bằng đời sống tình dục của họ5.

Những loại hình đặc trưng đồng tính mới và hình mẫu về đời sống nhóm cũng phản án sự khác biệt giữa những người đó theo khía cạnh giới tính, chủng tộc và giai cấp, vốn đã rất phổ biến trong các xã hội tư bản. Ví dụ, đối với người da trắng, đồng tính nam có truyền thống thể hiện công khai hơn đồng tính nữ. Điều này bắt nguồn từ sự phân tách giữa phạm vi nam giới công khai và phạm vi nữ giới riêng tư. Đường phố, công viên và quán bar, đặc biệt là ban đêm, đều là “không gian nam giới”. Mặc dù vậy sự hiện diện rõ ràng hơn của nam đồng tính da trắng cũng phản ánh số lượng lớn của họ. Nghiên cứu của Kinsey vào những năm 1940, 1950 đã cho thấy có nhiều nam giới đồng tính hơn nữ giới đồng tính, như tôi đã khẳng định, một tình hình bắt nguồn từ sự thật là chủ nghĩa tư bản đã lôi kéo nhiều nam giới vào lực lượng lao động hơn nữ và với mức lương cũng cao hơn. Đàn ông có thể dễ dàng tạo dựng đời sống cá nhân độc lập với sự ràng buộc của giới tính khác, trong khi phụ nữ có vẻ như vẫn phụ thuộc vào đàn ông về mặt kinh tế. Kinsey cũng phát hiện ra sự tương quan mạnh giữa số năm đi học và hành vi đồng tính nữ. Phụ nữ da trắng tốt nghiệp đại học có khả năng tự chủ hơn nhiều so với những chị em thuộc giai cấp công nhân nên có khả năng sinh tồn dễ dàng hơn mà không cần mối quan hệ thân mật với nam giới6.

Đối với công nhân nhập cư vào đầu thế kỷ 20, mạng lưới huyết thống chặt chẽ và sự trung thành với gia đình về mặt đạo đức đã giới hạn chủ quyền cá nhân khiến cho họ khó có thể theo đuổi sự đồng tính. Trái lại, vì những lý do chưa rõ ràng, các cộng đồng da màu thành thị dường như lại tương đối khoan dung đối với sự đồng tính. Sự phổ biến của những bài hát với bối cảnh người đồng tính vào những năm 1920, 1930 – “B. D. Woman”, “Prove It on Me”, Sissy Man”, “Fairey Blues” – đã cho thấy sự cởi mở về sự biểu hiện đồng tính cùng với số lượng da trắng lớn hơn. Đối với nam giới ở nông thông miền Tây vào những năm 1940, Kinsey phát hiện ra ảnh hưởng rộng rãi của hành vi tình dục đồng giới nhưng trái với đàn ông ở các thành phố lớn, có rất ít ý thức về đặc tính đồng tính. Ngay cả khi chủ nghĩa tư bản tạo ra sự ảnh hưởng thống trị bằng cách chuyển hóa hoàn toàn các cá thể thành lao động làm thuê và tách họ ra khỏi các cộng đồng truyền thống thì các nhóm người khác nhau cũng chịu ảnh hưởng theo các cách khác nhau7.

Quyết định của những người đàn ông và đàn bà cụ thể hành động theo sự ưa thích tình dục/cảm xúc về đồng tính, cũng với nhận thức mới về việc sự ưa thích mới khiến họ khác biệt, đã dẫn tới sự hình thành của văn hóa thứ cấp đô thị của người đồng tính. Tuy vậy, ít nhất vào những năm 1930, văn hóa thứ cấp này vẫn chỉ là sơ khai, thiếu ổn định và khó thấy. Làm sao cộng đồng đồng tính phức tạp và được tổ chức tốt lại xuất hiện vào thời phong trào giải phóng đồng tính nổ ra? Câu trả lời được tìm thấy trong Thế Chiến II, vào thời gian mà sự thay đổi tích lũy của nhiều thập kỷ đã hợp nhất thành một trạng thới về mặt chất.

Chiến tranh đã phá vỡ các hình mẫu truyền thống về quan hệ giới tính và tình dục, cũng như tạm thời tạo ra một tình trạng tình dục mới thuận lợi cho sự thể hiện tình dục đồng giới. Chiến tranh đã tách hành triệu thanh thiếu nữ, những người mà đặc tính tình dục chỉ vừa mới hình thành, ra khỏi gia đình, khỏi thị trấn và thành phố nhỏ, khỏi môi trường tình dục khác giới của gia đình và ném họ vào hoàn cảnh thuần nhất về giới tính – như là lính, nữ binh và nữ tình nguyện viên hải quân, trong những căn nhà đồng giới cho nữ công nhân, những người ở lại đó để tìm việc làm. Chiến tranh đã giải phóng hàng triệu đàn ông và phụ nữ khỏi những thể chế coi tình dục đồng giới là bình thường. Đối với những nam giới và phụ nữ vốn đồng tính sẵn thì đây là cơ hội để gặp được những người giống như họ. Những người khác trở thành đồng tính do chiến tranh đã mang lại cho họ sự tự do tạm thời trong việc khám phá tình dục.

Ví dụ, Lisa Ben đã công khai trong chiến tranh. Cô rời khỏi thị trấn nhỏ ở California, nơi cô đã lớn lên, đến Los Angeles để tìm việc làm và sống trong một căn nhà trọ dành cho phụ nữ. Tại đây, lần đầu tiên cô gặp các nữ đồng tính, họ đưa cô tới quán bar dành cho người đồng tính và giới thiệu cô với những phụ nữ đồng tính khác. Donald Vining là một thanh niên có nhiều ham muốn tình dục và một ít trải nghiệm đồng giới. Anh ta chuyển đến thành phố New York trong thời kỳ chiến tranh và làm việc tại một cơ sở lớn của Hiệp Hội Thanh Niên Thiên Chúa Giáo (YMCA). Nhật ký của anh ta cho thấy nhiều cuộc phiêu lưu tình dục với binh lính, thủy thủ, lính thủy và công dân tại nơi mà anh làm việc, cũng như tại các câu lạc bộ dành cho nam giới ở nơi mà anh sống, ở công viên, quán bar và rạp chiếu phim. Nhiều binh lính đóng quân ở các thành phố cảng như New York, tại các YMCA giống như nơi Vining làm việc. Trong các câu chuyện truyền miệng của anh ta về đàn ông đồng tính ở San Francisco, quãng những năm 1940, Allan Bérubé đã phát hiện ra rằng những năm chiến tranh rất quan trọng đối với sự hình thành của cộng đồng đồng tính nam tại thành phố. Những nơi khác như San Jose, Denver và thành phố Kansas đều có quán bar đồng tính đầu tiên vào những năm 1940. Ngay cả một số áp bức nặng nề cũng có thể những tác dụng phụ tích cực. Pat Bond, một nữ đồng tính đến từ Davenport Iowa tham gia nữ binh vào những năm 1940. Sau khi bị bắt trong một cuộc thanh trừng loại ngũ hàng trăm nữ đồng tính ở Thái Bình Dương, cô đã không trở lại Iowa. Cô ở lại San Francisco và trở thành một người thuộc cộng đồng đồng tính nữ. Có bao nhiêu nam giới và phụ nữ đã có kinh nghiệm tương tự? Có bao nhiêu thành phố chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của cộng đồng người đồng tính?9

Những người đồng tính nam và nữ vào những năm 1940 là những người tiên phong. Quyết định hành động theo ham muốn của họ đã tạo thành nền móng cho văn hóa thứ cấp đô thị của giới đồng tính nam và nữ. Suốt những năm 1950 và 1960, văn hóa thứ cấp của giới đồng tính đã phát triển và ổn định nên nhiều người công khai và sau đó có thể dễ dàng thấy những người đồng hơn so với quá khứ. Báo chí và tạp chí xuất bản các bài báo mô tả đời sống của đồng tính nam. Hàng trăm tiểu thuyết về đồng tính nữ đã được xuất bản10. Các nhà phân tâm học phàn nàn về sự giải tỏa mới, tức là những bệnh nhân đồng tính nam của họ tìm được bạn tình. Văn hóa thứ cấp của người đồng tính không chỉ được thấy ở những thành phố lớn nhất. Các quán bar đồng tính cũng xuất hiện ở những nơi như Worcester, Massachusetts và Buffalo, New York; ở Columbia, Nam Carolina và Des Moines, Iowa. Đời sống đồng tính trong những năm 1950 và 1960 trở thành hiện tượng khắp quốc gia. Vào thời cuộc bạo loạn Stonewall ở thành phố New York vào năm 1969 – sự kiện châm ngòi cho phong trào giải phóng đồng tính – hoàn cảnh của chúng ta khó có thể giữ im lặng, vô hình và cô lập. Một phong trào giải phóng quần chúng quy mô lớn có thể được hình thành chỉ trong một đêm là bởi vì các cộng đồng đồng tính nam và nữ đã tồn tại.

Mặc dù các cộng đồng đồng tính là tiền đề cho phong trào quy mô lớn song sự áp bức đối với người đồng tính nam và đồng tính nữ là sức mạnh khiến cho phong trào tồn tại. Khi văn hóa thứ cấp mở rộng và phát triển rõ ràng hơn vào cuối thời kỳ Thế Chiến II, sự áp bức của nhà nước được gia tốc, trở thành hệ thống và bao quát hơn. Cánh hữu lên án “những kẻ sa đọa tình dục” dưới thời McCarthy. Eisenhower ban hành lệnh cấm tuyển dụng người đồng tính trong chính quyền liên bang và nhà thầu của chính quyền. Các vụ thanh trừng nhằm loại bỏ người đồng tính ra khỏi quân đội được tiến hành dữ dội. FBI thiết lập một hệ thống giám sát rộng rãi đối với các nơi tụ họp của giới đồng tính cũng như các tổ chức đồng tính, như Con Gái Của Bilitis và Hiệp Hội Mattachine. Bưu điện theo dõi thư tín của người đồng tính và chuyển các bằng chứng về hoạt động đồng tính cho chủ lao động. Các đội cảnh sát đạo đức xông vào nhà riêng, càn quét các quán bar của người đồng tính, cài bẫy người đồng tính nam ở nơi công cộng và tổ chức các cuộc khủng bố ở địa phương. Sự nguy hiểm của việc trở thành người đồng tính tăng lên ngay khi khả năng trở thành đồng tính rộng mở hơn. Sự giải phóng người đồng tính là một sự phản ứng lại mâu thuẫn này.  

Mặc dù người đồng tính đã giành được thắng lợi quan trọng vào những năm 1970 và mở ra một không gian xã hội an toàn cho sự tồn tại của người đồng tính song chúng ta khó có thể khẳng định rằng đã đánh một đòn chí mạng vào tình dục dị giới và sự thù ghét đối với tình dục đồng giới. Người ta vẫn còn có thể khẳng định rằng sự áp bức đối với người đồng tính chỉ thay đổi vị trí, chuyển từ phạm vi nhà nước sang một lãnh địa bạo lực ngoài pháp luật dưới dạng bạo hành công khai đối với người đồng tính. Khi phong trào của chúng ta phát triển, chúng ta đã tạo ra một phản lực có nguy cơ xóa sạch mọi thành quả. Đáng chú ý là phe đối lập Cánh Hữu Mới đã thay đổi bề ngoài thành một phong trào “ủng hộ gia đình”. Tại sao chủ nghĩa tư bản, có cấu trúc khiến cho sự xuất hiện của đặc tính đồng tính và sự hình thành của cộng đồng đồng tính đô thị trở nên khả thi, dường như lại không thể chấp nhận người đồng tính trong lòng nó? Tại sao tình dục đồng giới và sự thù ghét người đồng tính lại có thể kháng cự là cuộc tấn công?

Tôi cho rằng câu trả lời có thể tìm thấy trong quan hệ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và gia đình. Một mặt, như tôi đã khẳng định trước đây, chủ nghĩa tư bản phá hủy hoàn toàn cơ sở vật chất của gia đình hạt nhân bằng cách tước bỏ các chức năng kinh tế đã tạo thành mối liên hệ giữa các thành viên gia đình. Khi những người trưởng thành bị lôi cuốn vào hệ thống lao động tự do nhiều hơn và tư bản mở rộng phạm vi của nó cho tới khi nó biến hầu hết sản phẩm và dịch vụ mà chúng ta cần cho sự sinh tồn thành hàng hóa, những sức mạnh đã kết hợp nam giới và nữ giới thành gia đình và giữ họ ở đó đã bị suy yếu. Mặt khác, hệ tư tưởng của xã hội tư bản trân trọng gia đình như là nguồn của tình yêu, tình thương và sự an toàn cảm xúc, là nơi mà nhu cầu về mối quan hệ nhân bản gần gũi, ổn định của chúng ta được thỏa mãn.

Việc gia đình hạt nhân trở thành thứ vượt trội trong phạm vi đời sống cá nhân không phải là ngẫu nhiên. Mọi xã hội cần các cấu trúc tái sản xuất và nuôi dưỡng trẻ em, nhưng khả năng đó không giới hạn trong gia đình hạt nhân. Mặc dù vậy, gia đình tư nhân hóa phù hợp với các quan hệ sản xuất tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã xã hội hóa sản xuất đồng thời vẫn đảm bảo rằng việc sản phẩm của lao động được xã hội hóa thuộc về chủ sở hữu tư nhân. Theo nhiều cách, việc nuôi dưỡng trẻ em cũng đã được xã hội hóa một cách tiến bộ trong hai thế kỷ qua, với trường học, truyền thông, các nhóm đồng đẳng và nhân viên làm thuê đảm nhiệm những chức năng trước đây thuộc về cha mẹ. Tuy vậy, xã hội tư bản đảm bảo rằng tái sản xuất và nuôi dưỡng trẻ em là công việc riêng tư, trẻ em “thuộc về” cha mẹ, những người thực thi quyền chủ sở hữu. Về mặt lý tưởng, chủ nghĩa tư bản đưa con người tới gia đình dị tính: mỗi thế hệ đến tuổi trưởng thành đều mang trong mình mô hình quan hệ cá nhân và thân mật dị tính. Về mặt vật chất, chủ nghĩa tư bản làm suy yếu các mối quan hệ giữ cho gia đình cố kết khiến cho thành viên của gia đình cảm thấy sự thiếu ổng định gia tăng tại nơi mà họ kỳ vọng sẽ có hạnh phúc và an toàn về cảm xúc.

Do vậy, khi chủ nghĩa tư bản phá vỡ nền tảng vật chất của đời sống gia đình, người đồng tính và những nhà nữ quyền dị tính trở thành kẻ chịu nạn cho sự bất ổn xã hội của hệ thống.

Phân tích này, nếu thuyết phục, có nhiều tác động đối với chúng ta hiện nay. Nó có thể tác động đến nhận thức của chúng ta về đặc trưng, sự định hình các mục tiêu chính trị cũng quyết định của chúng ta về chiến lược.

Tôi đã khẳng định rằng đặc trưng đồng tính và các cộng đồng hình thành một cách lịch sử, kết quả của quá trình phát triển trải dài qua nhiều thế hệ của chủ nghĩa tư bản. Hệ quả tất yếu của khẳng định này, chúng ta không phải là một thiểu số xã hội cố định cấu thành một phần nhất định của dân cư trong mọi thời đại. Có nhiều người như chúng ta hơn một trăm năm trước đây, có nhiều người như chúng ta hơn bốn mươi năm trước đây. Có thể là sẽ có nhiều người đồng tính hơn trong tương lai. Những khẳng định của người đồng tính và không đồng tính về sự cố định của thiên hướng tình dục được đưa ra trong thời đại gần đây, hay khẳng định rằng số lượng lớn người đồng tính công khai trong xã hội, truyền thông và trường học sẽ không có ảnh hưởng tới đặc tính tình dục của giới trẻ, tất cả đều là sai. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra các điều kiện vật chất cho tình ham muốn tình dục đồng giới để thể hiện bản thân của con người như là thành phần cốt lõi trong đời sống của một số cá thể; giờ đây, các phong trào chính trị của chúng ta đang thay đổi nhận thức, xây dựng các điều kiện tư tưởng khiến cho người dân dễ dàng đưa ra lựa chọn đó.

Khẳng định này xác nhận nỗi sợ hãi tồi tệ nhất và phát ngôn điên dại nhất của những đối thủ chính trị của chúng ta. Nhưng phản ứng của chúng ta phải là chống lại niềm tin ẩn giấu phía sau việc cho rằng quan hệ đồng tính là xấu, một sự lựa chọn thứ hai nghèo nàn. Chúng ta phải không rơi vào sự phòng ngự mang tính cơ hội cho rằng xã hội không cần lo lắng về việc khoan dung chúng ta, do chỉ có người đồng tính trở thành đồng tính. Tốt nhất, một phân tích nhóm thiểu số và một chiến lược về quyền công dân đặt ra cho những người đã đồng tính sẵn. Hãy để cho thanh niên hiện nay – người đồng tính ngày mai – mang những mô hình dị tính mà họ có thể cần cả đời để đoạn tuyệt.

Tôi cũng khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến sự tách biệt tình dục khỏi sinh đẻ. Ham muốn tình dục của con người không còn bị thúc ép để tái tạo một cách cưỡng bách, để sinh đẻ. Người đồng tính mang trong mình tiềm năng của sự phân tách đó, từ khi quan hệ đồng tính của chúng ta hoàn toàn nằm ngoài khuôn khổ của sự sinh đẻ. Sự chấp nhận lựa chọn tình dục của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ xã hội sẵn sàng công nhận sự thể hiện tình dục là một dạng vui chơi, tích cực và nâng cao đời sống. Phong trào của chúng ta có thể bắt đầu như là nỗ lực của một “thiểu số”, nhưng điều mà chúng ta cố gắng “giải phóng” là một khía cạnh của đời sống cá nhân của tất cả mọi người – sự thể hiện tình dục11.

Cuối cùng, tôi cho rằng mối quan hệ giữa chủ nghĩa tư bản và gia đình là mâu thuẫn căn bản. Một mặt, chủ nghĩa tư bản thường xuyên làm suy yếu nền tảng vật chất của đời sống gia đình, khiến cho các cá thể có thể sống bên ngoài gia đình và đặc trưng đồng tính có thể phát triển. Mặt khác, nó lại cần phải dồn nam giới và nữ giới vào gia đình, ít nhất là đủ lâu để tái tạo ra thế hệ công nhân mới. Việc gia đình trở thành sự nổi bật về tư tưởng đảm bảo rằng xã hội tư bản sẽ tái sản xuất ra không chỉ trẻ em mà cả tình dục khác giới và sự thù ghét tình dục đồng giới. Theo nghĩa nổi bật nhất, chủ nghĩa tư bản là vấn đề12.

Làm sao chúng ta, nạn nhân chính trị của sự bất ổn do chủ nghĩa tư bản tạo ra, tránh được sự đổ lỗi? Làm sao chúng ta có thể nắm lấy mối quan hệ mâu thuẫn này và sử dụng nó để thúc đẩy sự giải phóng?

Người đồng tính tồn tại trên lãnh địa xã hội nằm bên ngoài những ràng buộc của gia đình hạt nhân dị tính. Các cộng đồng của chúng ta đã hình thành trong không gian xã hội đó. Sự sinh tồn cũng như sự giải phóng của chúng ta phụ thuộc vào khả năng bảo vệ và mở rộng lãnh địa của chúng ta, không chỉ cho bản thân chúng ta mà cho tất cả mọi người. Điều đó có nghĩa là ủng hộ những chủ đề mở rộng cơ hội sống bên ngoài đơn vị gia đình hạt nhân dị tính truyền thống: những chủ đề như sự phá thai hợp pháp và phê chuẩn Tu Chính Án Quyền Bình Đẳng, hoạt động ủng hộ người da màu và phụ nữ, nhà trẻ công và các dịch vụ xã hội thiết yếu khác, trợ cấp đủ sống, có việc làm, quyền của thanh niên – hay nói các khác, những chương trình và chủ đề mang lại một cơ sở vật chất cho sự độc lập cá nhân.

Quyền của thanh niên đặc biệt quan trọng. Sự chấp nhận trẻ em là người phụ thuộc, như thuộc về cha mẹ, đã ăn sâu đến mức chúng ta khó có thể hình dung điều gì diễn ra khi đối xử với chúng như là những người độc lập, cụ thể là về lĩnh vực biểu lộ và lựa chọn tình dục. Tuy vậy, khi điều đó diễn chưa diễn ra, sự giải phóng người đồng tính vẫn nằm ngoài tầm tay của chúng ta.

Nhưng sự độc lập cá nhân chỉ là một nửa câu chuyện. Sự bất ổn của gia đình và cảm giác tạm thời cũng như thiếu an toàn mà mọi người đang trải qua trong mối quan hệ cá nhân là vấn đề xã hội thực sự cần phải được mô tả. Chúng ta cần các giải pháp chính trị cho những khó khăn của đời sống cá nhân. Những giải pháp đó không thể đến dưới dạng phiên bản cấp tiến của lập trường ủng hộ gia đình, của một số đề xuất cánh tả về việc củng cố gia đình. Những người xã hội chủ nghĩa nói chung không phản ứng lại sự bóc lột và bất bình đẳng kinh tế của chủ nghĩa tư bản công nghiệp bằng cách kêu gọi sự quay trở lại với gia đình nông thôn và sản xuất thủ công. Chúng ta công nhận rằng năng suất to lớn mà chủ nghĩa tư bản tạo ra đã khiến cho sự xã hội hóa sản xuất trở thành một đặc trưng tiến bộ. Tương tự, chúng ta không nên cố gắng quay ngược đồng hồ để trở về với thời đại huyền bí của gia đình hạnh phúc.

Tuy vậy, chúng ta cũng cần các cấu trúc và chương trình để phá vỡ các ràng buộc và cô lập gia đình, đặc biệt là sự tư nhân hóa việc nuôi dưỡng trẻ em. Chúng ta cần nhà trẻ do cộng đồng – hay công nhân kiểm soát, đặt tại nơi mà sự riêng tư và tính cộng đồng cùng tồn tại, các thiết chế cộng đồng – từ bệnh viện cho tới các trung tâm nghệ thuật – để mở rộng đơn vị xã hội mà mỗi chúng ta đều có một nơi an toàn. Khi chúng ta tạo ra các cấu trúc vượt qua gia đình hạt nhân để cung cấp một cảm giác phụ thuộc, gia đình sẽ suy tàn một cách đáng kể. Chúng sẽ sẽ ngày càng ít tạo ra hoặc phá vỡ sự an toàn cảm xúc của chúng ta.

Theo khía cạnh này, người đồng tính đã được xếp một vai trò đặc biệt. Hầu hết chúng ta đã bị loại khỏi gia đình, để sinh tồn chúng ta cần phải tạo ra một mạng lưới hỗ trợ không phụ thuộc vào các quan hệ huyết thống hay giấy phép của nhà nước, mà được tự do lựa chọn và nuôi dưỡng. Việc xây dựng một “cộng đồng tình thương” phải là một phần của phong trào chính trị, cũng giống như các chiến dịch đòi quyền công dân. Theo cách này, chúng ta có thể định hình các mối quan hệ cá nhân trong một xã hội dựa trên sự bình đẳng và công bằng thay vì bóc lột và áp bức, trong xã hội đó thì sự độc lập và an toàn không loại trừ lẫn nhau mà cùng tồn tại.