Criticism has torn up the imaginary flowers from the chain not so that man shall wear the unadorned, bleak chain but so that he will shake off the chain and pluck the living flower.
Sunday, March 7, 2021
Các Phiên Bản Người Đẹp Ngủ Trong Rừng
Tuesday, August 25, 2020
Giáo dục và sự nghiệp thu tiền
Dẫn nhập
Việt Nam trước đây theo chế độ bao cấp dịch vụ công ích. Ví dụ điển hình là hai ngành y tế và giáo dục. Nhà nước dùng tiền ngân sách để chi trả cho y tế và giáo dục, do vậy người dân đi khám chữa bệnh và đi học đều không phải đóng tiền, hoặc có phải nộp phí thì chỉ nộp một phần rất nhỏ. Thế nên nói rằng phí dịch vụ thấp vừa đúng vừa sai, đúng ở chỗ người dân đóng phí thấp, nhưng sai ở chỗ phí đó không phải là toàn bộ khoản tiền mà ngành dịch vụ công nhận được.
Nhờ có quỹ bảo hiểm y tế mà ngành y tế tăng giá dịch vụ thành công, thế là hàng sa số các dịch vụ y tế ra đời nhằm tối đa hóa các khoản thu từ quỹ bảo hiểm y tế. Các bệnh viện đua nhau mời người dân đến khám chữa bệnh, tất nhiên không ai trả phí nhiều, phần lớn nguồn thu là từ quỹ bảo hiểm y tế và thế là không thấy bệnh viện kêu rằng phí dịch vụ thấp nên chất lượng thấp nữa.
Giáo dục thì chưa có cái quỹ bảo hiểm giáo dục nào nên vẫn chưa đâu với đâu cả. Ngành giáo dục vẫn đang đòi thu tiền, càng nhiều càng tốt, lý do chủ yếu là những ưu đãi nhà nước cấp cho họ không phải là tiền mặt, họ cần biến cái đó thành tiền mặt. Do đó, câu chuyện lại quay về vấn đề học phí và chất lượng.
Vào năm 2006, nước Đức vốn có truyền thống bao cấp giáo dục cũng thông qua luật thu học phí đại học, lý do y hệt Việt Nam bây giờ, cũng là thu học phí cao để đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục và giảm thiểu tình trạng đi học đại học bừa bãi do không mất tiền. Chỉ sau hai năm, chính sách tân tự do của nước Đức bị bãi bỏ một cách lặng lẽ,
Việc thu học phí cao có những tác động gì?
1. Chất lượng giáo dục hỗn loạn:
Chỉ cần nhìn sang nước Mỹ là thấy, tự do thu học phí nên bên cạnh những trường chất lượng tốt thì cũng có hàng sa số những xưởng bán bằng cấp, các trung tâm giáo dục chẳng ra gì với mức phí hợp túi tiền để đáp ứng nhu cầu của người học. Do vậy, nước Mỹ buộc phải dựa vào một hệ thống kiểm định giáo dục phức tạp để xác định xem trường nào cấp bằng thật, trường nào là bằng dỏm. Việc thu học phí cao trong nền kinh tế thị trường không tạo ra một hệ thống giáo dục chất lượng cao, ngược lại còn tạo điều kiện để những dạng kinh doanh giáo dục chất lượng thấp sinh sôi nảy nở. Tất nhiên các nhà kinh doanh thích điều đó, họ kiếm tiền đầy túi từ sự bát nháo ấy.
2. Suy giảm số lượng người đi học:
Do rào cản chi phí cao nên một số lượng lớn người đi học sẽ từ bỏ việc học và tham gia vào thị trường lao động. Số lượng sinh viên có khả năng chi trả học phí cao không phải là vô hạn. Việc thu học phí đại học ở nước Đức vào năm 2006 đã cho thấy điều đó. Các trường đại học kinh hãi trước điều này, sinh viên là nguồn thu nhập của họ, nhưng giờ nguồn thu nhập đó suy giảm nhanh chóng. Các trường đại học buộc phải cạnh tranh khốc liệt để thu hút sinh viên đủ khả năng chi trả học phí cao. Bài toán trở nên luẩn quẩn, cơ sở giáo dục muốn có tiền thì phải đầu tư thu hút sinh viên, nhưng muốn đầu tư thì lại phải có tiền. Cơ sở giáo dục tư nhân hoàn toàn có thể làm được điều này khi kêu gọi các nhà tư bản đầu tư, còn cơ sở giáo dục công thì tình hình tồi tệ hơn nhiều do ngân sách nhà nước ít có khả năng đáp ứng. Hệ quả của việc này là một số lượng lớn các cơ sở giáo dục công sẽ buộc phải tư nhân hóa để tồn tại.
3. Gia tăng sử dụng lao động giá rẻ và suy giảm nhu cầu về lao động có kỹ năng:
Học phí cao dẫn đến hệ quả là một phần lớn lực lượng lao động từ bỏ việc học sớm hơn và chấp nhận tham gia vào thị trường lao động có kỹ năng thấp. Tiền lương của người lao động là do chi phí tạo ra sức lao động quyết định. Chi phí tạo ra sức lao động giờ thấp hơn nên tiền lương của người lao động cũng sẽ thấp hơn. Doanh nghiệp nhanh chóng tận dụng điều này bằng cách chuyển sang các công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều nhân công giá rẻ để gia tăng tỷ suất lợi nhuận. Làn sóng này sẽ khiến cho các lao động có tri thức và kỹ năng bị thất nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến nhu cầu về giáo dục và buộc các cơ sở giáo dục phải cơ cấu lại tổ chức để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Xu hướng đào tạo nghề thay cho giáo dục đại học là biểu hiện cụ thể của việc cho thấy người học giảm việc học và tham gia thị trường lao động sớm hơn. Tất cả những điều này có nghĩa là tri thức phải quy phục thị trường, giới trí thức trong lĩnh vực công bị đẩy vào tình trạng bấp bênh, nhất là khi họ không có truyền thống sống nhờ việc kinh doanh giáo dục.
Đây chính là chỗ tiết lộ bí mật của nước Đức, giới tinh hoa lãnh đạo ngành giáo dục ở Đức cảm thấy việc thu học phí cao mặc dù đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư tư nhân, song lại lại đe dọa đến đặc quyền, lợi ích và sự tôn kính của xã hội đối với ngành giáo dục. Do đó, họ nhanh chóng tìm cách loại bỏ chính sách thu học phí cao. Nước Đức lặng lẽ quay lại với truyền thống cổ xưa.
Kết luận
Thực ra không có kết luận nào cả. Học phí vốn không do người học quyết định. Đó là sự xung đột giữa lợi nhuận và đặc quyền. Do đó, học phí đi theo hướng nào là do sức mạnh của các thế lực tham gia vào sự xung đột ấy quyết định. Hôm nay, người ta nói thu học phí cao để nâng cao chất lượng giáo dục, ngày mai người ta sẽ nói phải miễn học phí để ai cũng được đi học. Ngày kia, người ta có thể nói phải mở trường học ở sao Hỏa để khai hóa văn minh cho các tộc man di ngoài vũ trụ. Mọi thứ đều có thể diễn ra, song bản chất của vấn đề thì không bao giờ thay đổi.
Tuesday, August 4, 2020
"Khai hoá văn minh"
Thursday, July 23, 2020
Tâm sự của một cô hoa hậu bán dâm
Wednesday, December 18, 2019
Thịt chó
Ảnh minh họa lấy trên mạng |
Tuesday, November 5, 2019
Công nhân, chủ doanh nghiệp và nhà nước
Saturday, November 2, 2019
Sức lao động và lao động
Bản chất vấn đề
Sunday, September 8, 2019
Lao động và tự do
- Nếu năng suất lao động của dân Nhật hay Singapore cao gấp mấy chục lần Việt Nam thì sao mức sống của người lao động bình thường ở đó không gấp mấy chục lần Việt Nam vậy? Thực tế mức sống của một người công nhân ở Nhật hay ở Việt Nam không chênh lệch nhiều. Cái năng suất lao động cao hơn mấy chục lần ấy đã chui vào túi ai?
- Nếu một quốc gia thực sự giàu có và an sinh xã hội tốt thì những người già sẽ được nghỉ hưu sớm, nhường chỗ cho những người trẻ khỏe hơn. Thực tế là an sinh xã hội của Nhật hay Singapore đều không đủ tốt, người lao động phải làm việc lâu năm mà lương hưu không vẫn không đủ sống nên họ buộc phải đi làm để kiếm thêm. Tại sao một sự thất bại của xã hội tư bản lại được coi là nguyên nhân thành công của họ?
(P/s: Bài này được viết theo yêu cầu của Linh bí thư DLV.)
Saturday, May 4, 2019
Tại sao những thứ bạn tưởng là chính trị nhưng lại không phải là chính trị?
Tuesday, February 19, 2019
Đầu năm nói chuyện ăn Tết theo dương lịch
"Nhật Bản đã bỏ âm lịch để sử dụng dương lịch vì những đòi hỏi của nền kinh tế khi đó. Nhưng như tôi đã nói, Nhật Bản lẽ ra vẫn có thể giữ Tết Nguyên đán như một nét văn hóa cổ truyền và là sợi dây liên kết cộng đồng. Chúng ta đang sống trong một xã hội toàn cầu hóa. Điều đó tạo ra một xã hội mở, nhưng mặt khác nó khiến con người mất đi bản sắc, sự nhận diện "chúng ta là ai?".Đây là một vấn đề lớn, thậm chí về khía cạnh an ninh quốc gia. Một quốc gia có thể có trong tay những máy bay chiến đấu hiện đại nhất, tinh xảo nhất, nhưng nếu những người điều khiển máy bay không có ý chí mạnh mẽ để bảo vệ chủ quyền quốc gia thì các máy bay hiện đại ấy chẳng có tác dụng gì.Bên cạnh đó, con người chỉ có sức mạnh khi họ đoàn kết và cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng để đoàn kết mọi người. Đây là lý do nhiều người Nhật Bản muốn khôi phục lễ hội đón năm mới cổ truyền, với mong muốn giúp làm tăng sức mạnh cộng đồng".
Thursday, September 27, 2018
Bàn về chuyện kinh doanh sách giáo khoa
Đánh giá của ủy ban Quốc Hội |
1. 90 nhà in sách ở các tỉnh thầu in sách cho NXB Giáo Dục
2. 3 cấp đại lý: đại lý khu vực, đại lý địa phương, đại lý bán lẻ
Về mặt logistic: Việc đặt in tại 90 nhà in ở các tỉnh cho thấy quy mô của các nhà in là nhỏ so với sản lượng sách giáo khoa. Việc gom sách về kho trung tâm rồi sau đó phân phối cho các cấp đại lý là cách làm bình thường. Đây là mô hình mạng lưới tập trung, theo mô hình này không ai lại đi chuyển trực tiếp từ nhà in tới các cấp đại lý phân phối cả, điều đó sẽ phát sinh chi phí vận chuyển lớn hơn nhiều do sản lượng vận chuyển không được tối ưu ở các tuyến vận chuyển. Muốn chuyển sang mô hình phân tán, tức là sản lượng phát hành tại các địa phương sẽ phải cực nhỏ hoặc cực lớn, song điều đó cũng có nghĩa là phải thay đổi chiến lược sản phẩm để khai thác tối đa thị trường địa phương.
Về mặt chiết khấu cho đại lý: Tỷ lệ chiết khấu 40% trông có vẻ cao, nhưng nếu chia theo 3 cấp đại lý thì không nhiều. Phần chiết khấu cũng không phải là lợi nhuận mà các đại lý được hưởng, chúng dùng để bù đắp chi phí kinh doanh của các đại lý nữa, sau khi trừ chi phí mới là lợi nhuận. Ở đây, doanh thu bán sách giáo khoa lên đến 1.000 tỷ đồng, các đại lý được chiết khấu 250 tỷ đồng, có nghĩa là doanh thu thực của các đại lý chỉ là 250 tỷ. Sau khi trừ đi chi phí kinh doanh thì phần lợi nhuận của họ ít hơn 250 tỷ đồng nhiều.
Kết quả kinh doanh SGK của NXB Giáo Dục |
NXB Giáo Dục độc quyền phát hành sách giáo khoa thì họ cũng độc quyền gánh vác nghĩa vụ công ích. Điều này thể hiện ở chỗ hệ thống đại lý của họ sẽ phải cung cấp cho các địa phương ngay cả khi sản lượng thấp, họ cũng phải chấp nhận giá bán thống nhất không được quyền điều chỉnh trên toàn quốc do Bộ Tài Chính quy định cho dù giá này không đủ bù chi phí tại nhiều địa phương. Sản lượng và giá cả ở đây không phụ thuộc vào thị trường mà sẽ phụ thuộc vào nhu cầu phổ cập giáo dục của nhà nước.
Các công ty phát hành sách địa phương đã nhanh chóng tìm cách bù đắp thiệt hại từ việc cung cấp sách giáo khoa bằng cách liên kết với các nhà xuất bản khác và nhà trường để đưa thêm sách tham khảo đủ loại vào bộ sách giáo khoa bán cho học sinh. Như vậy, NXB Giáo Dục trên thực tế không kiểm soát được bộ sách giáo khoa mà họ cung cấp cho học sinh. NXB Giáo Dục biết rõ điều này nhưng họ không thể can thiệp, vì thứ nhất là họ không có quyền và thứ hai là nếu họ có thể can thiệp thì cũng sẽ phải đối đầu với vấn đề chi phí phát hành.
Vậy làm thế nào để các đại lý có lãi?
Câu trả lời: Tư nhân hóa việc cung cấp sách giáo khoa bằng cách cho phép doanh nghiệp tư nhân tự do in nhiều bộ khác nhau để các địa phương tùy ý lựa chọn, các đại lý sẽ được giải phóng khỏi nghĩa vụ buộc phải cung cấp sách giáo khoa theo cấp hành chính. Họ sẽ lựa chọn cung cấp sách giáo khoa ở những khu vực nào có mức sản lượng đủ để mang lại lợi nhuận. Khu vực nào sản lượng thấp, không có đại lý nào muốn cung cấp thì nhà nước sẽ phải dùng ngân sách để bù đắp phần thâm hụt nhằm đảm bảo trẻ em đi học có sách giáo khoa để dùng. Điều này trên thực tế chỉ là một bước hợp thức hóa sự kiểm soát việc cung cấp sách giáo khoa của các đại lý.
Việc tư nhân hóa thị trường sách giáo khoa sẽ giúp các doanh nghiệp phát hành sách giáo khoa giành được thế độc quyền ở địa phương và phát hành sách theo cách mà họ thu được lợi nhuận. Địa phương chỉ có thể lựa chọn bộ sách mà doanh nghiệp cung cấp.
Ý nghĩa: Tất cả những chuyện ồn ào này chỉ nhằm một mục đích duy nhất: Tách vai trò kinh doanh ra khỏi nghĩa vụ công ích trong việc cung cấp sách giáo khoa. Lợi nhuận để doanh nghiệp hưởng, còn phần lỗ thì nhà nước bù đắp. Đấy là bản chất của kinh tế thị trường. Mọi triết lý cao đẹp về giáo dục đều sẽ phải phục tùng triết lý của tiền bạc.
Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, khi người ta nói "vì người dân" thì nên hiểu là vì doanh nghiệp và lợi nhuận. Ngay cả đối với NXB Giáo Dục, mặc dù họ độc quyền kinh doanh sách giáo khoa, nhưng khi được giải phóng khỏi những ràng buộc chính trị và chỉ còn phải theo đuổi lợi nhuận thì họ cũng sẽ rất vui mừng.
Mọi thứ có thể đảo ngược không?
Lợi nhuận sẽ quyết định điều đó, hiện giờ lợi nhuận đòi hỏi phải tư nhân hóa việc cung cấp sách giáo khoa, nên điều này không có nghĩa là không thể đảo ngược. Đến một lúc nào đó lợi nhuận từ việc cung cấp sách giáo khoa không đủ hấp dẫn tư nhân kinh doanh nữa thì lĩnh vực này sẽ quay trở lại độc quyền nhà nước. Tất cả những điều đó tất nhiên sẽ luôn được biện minh bằng quyền lợi của người dân.
Vụ ồn ào về sách giáo khoa công nghệ giáo dục:
Có phải ngẫu nhiên mà một bộ sách giáo khoa được sử dụng từ lâu bất ngờ gây tranh cãi bất tận trên truyền thông? Không, nếu người ta biết rằng thành phố Hồ Chí Minh được phép sử dụng bộ sách giáo khoa riêng. Đó là thị trường lớn nhất ở Việt Nam và có điều kiện kinh doanh thuận lợi nhất nhờ cơ sở hạ tầng phát triển. Doanh nghiệp nào nhanh chân thâu tóm được thị trường sách giáo khoa ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ có lợi nhuận lớn. Vậy nên ông giáo sư công nghệ giáo dục khi đi trả lời phỏng vấn báo chí mới lăm lăm trong tay cuốn "Gạc Ma-Vòng tròn bất tử". Ngay cả ông trưởng ban tuyên giáo cũng không bỏ qua cơ hội cho bàn dân thiên hạ thấy cuốn sách ấy trên tay mình. Đằng sau cuốn sách ấy là một công ty phát hành sách mà kẻ đứng đầu vốn lọc lõi về kinh doanh. Những sự tình cờ nhưng không hề tình cờ, nhất là khi nó đều hướng về thị trường sách giáo khoa ở thành phố Hồ Chí Minh.
Sunday, August 26, 2018
Tin tức về một tay giặc lái
Ảnh: Bia John McCain ở hồ Trúc Bạch Nguồn: Internet |
-Tôi có tin tốt lành cho các vị đây: McCain đang được bay lên thiên đường với đức Chúa Trời.
- Ông ấy đã tới nơi chưa, thưa cha? Một người hỏi.
Mục sư nói tiếp:
- Còn đây là tin xấu: Tụi Việt Cộng đã bắn rơi máy bay của ông ấy.
(Chuyện bịa, nhưng không nhất thiết phải khác với sự thật)
P/s: Nhiều năm nữa người ta sẽ quên John McCain, như đã quên Bill Clinton, nhưng tấm bia hồ Trúc Bạch sẽ luôn còn đó, nhắc nhở người Việt Nam về những gì họ đã phải làm để giành lấy độc lập, tự do và phẩm giá.
Friday, August 24, 2018
Chuyện thành phố được gọi theo tên người
Chuyện thành phố được đặt tên theo một nhân vật nào đó, hoặc là trong huyền thoại hoặc là có thật trong lịch sử, chẳng phải là hiếm có trên thế giới. Người ta chỉ cần tra mạng internet thôi cũng đã ra hàng sa số, ví dụ như nước Úc hoặc Hoa Kỳ đều từng là thuộc địa của nước Anh nên phải gánh cái vinh dự có rất nhiều thành phố mang tên mấy ông quý tộc hay chính khách cha căng chú kiết người Anh, những người chả có tí gì công trạng với địa phương và giờ cũng chả còn ai nhớ đến nữa. Những cái tên nổi tiếng như Sydney (một chính khách người Anh), Melbourne (một thủ tướng Anh) ở Australia, hoặc New York (đặt theo tên James of York and Albany, vua James II của Anh, công tước xứ York và Albany), bây giờ chỉ còn là những cái tên văn minh phương Tây, chẳng phải tên người nào hết.
Ở Việt Nam lắm kẻ đòi bỏ tên thành phố Hồ Chí Minh vì lý do phải văn minh như Tây, không nên lấy tên người đặt tên cho thành phố nào hết. Thật là cái gì vừa ý người ta thì người ta lấy Tây ra để dọa, còn Tây làm gì trái ý thì người ta lờ đi. Văn minh như Hoa Kỳ lẽ ra không lấy tên ông tổng thống Washington để đặt tên cho thủ đô.
Lại có đám khác tán nhảm ra rằng sở dĩ Việt Nam đặt tên là thành phố Hồ Chí Minh ấy là học theo Liên Xô, lấy tên lãnh tụ đặt tên cho thành phố này thành phố kia để thỏa cái bệnh sùng bái cá nhân. Điều này cũng nhảm nhí nốt, Liên Xô không phải nước hay đặt tên thành phố theo tên người, các nước theo truyền thống quý tộc phong kiến lâu đời của châu Âu như Anh, Pháp, Bỉ, Đức, Tây Ban Nha mới làm việc đó, sau này còn có các nước Nam Mỹ chịu ảnh hưởng từ văn hóa của thực dân Tây Ban Nha/Bồ Đào Nha cũng hay làm vậy. Philippines, cái tên của một quốc gia Đông Nam Á, hẳn là người văn minh đã quên mất là tên của một ông vua Tây Ban Nha. Ở Việt Nam người ta thường hay nhắc đến thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cũng lại hay quên mất rằng đó không phải là thành phố đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam mang tên một con người. Tấm ảnh và bài thơ ở trên nhắc đến nguồn gốc cái tên của một thành phố ở miền Tây Nam Bộ, đó là thành phố Cao Lãnh, trung tâm của tỉnh Đồng Tháp. Cái tên đó đã có từ hồi đầu thế kỷ 19, vốn ghép từ chức vụ và tên tục của người lập ra chợ vườn quít và sau này trở thành thành phố Cao Lãnh.
Suốt từ thời phong kiến cho đến Pháp thuộc rồi sau này được giải phóng, không ai có ý định hay dám đổi cái tên ấy cả. Trong thành phố Cao Lãnh hiện nay còn có một tấm bia đá ghi rõ sự tích cái tên ấy. Cái tên đó không phải là tâm điểm chính trị để người ta bày tỏ sự thù địch với chế độ cộng sản nên cũng không bị coi là xuất phát từ một truyền thống lạc hậu kém văn minh hay do chế độ cộng sản áp đặt. Điều đáng chú ý nữa là thành phố Cao Lãnh có khu di tích Nguyễn Sinh Sắc, trong đó có mộ phần của cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã sinh sống ở vùng này sau khi bị bãi chức quan. Vậy là "long mạch" của chế độ cộng sản Việt Nam chẳng phải nằm ở miền Bắc mà lại nằm ở miền Tây Nam Bộ, được bao bọc bởi truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn trọng người biết xả thân vì nước vì dân, đã có từ lâu đời.